Lời nói đầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Những năm qua, đất nước ta đã và đang trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng đa thành phần, môi trường pháp lý được mở rộng tạo điều kiện cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Chính vì vậy, sau hơn 10 năm đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có bước phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định rõ vị trí và vai trò của mình tr
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong nền kinh tế.
Tuy nhiên nhìn một cách toàn diện thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chủ yếu là sản xuất nhỏ, chưa phát triển mạnh, chưa tương xứng với tiềm năng. Sự tăng trưởng cũng như khối lượng sản phẩm chưa tương xứng với khả năng mà khu vực kinh tế năng động này có thể đạt được.
Bên cạnh đó, nhu cầu đầu tư, nhất là đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, thay đổi qui trình sản xuất và công nghệ là vấn đề cấp thiết đối với nền kinh tế, đặc biệt đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chính vì vậy để giải quyết các vấn đề này cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và Ngân hàng thương mại. Thông qua nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng thương mại đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với khu vực này trong việc phát triển công nghệ, tăng cường vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá máy móc, nâng cao hiệu quả sản xuất, phục vụ cho quá trình CNH - HĐH.
Ngân hàng Công thương Hà Tây là một trong ba ngân hàng thương mại hoạt động trên địa bàn. Hoạt động của Ngân hàng Công thương Hà Tây góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Tuy nhiên, hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của Ngân hàng công thương Hà Tây còn nhiều vấn đề vướng mắc. Do vậy, việc đánh giá những kết quả đạt được, tìm ra nguyên nhân, các giải pháp khắc phục là vấn đề cần thiết trong tình hình hiện nay.
Bởi vậy, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Hà Tây, vấn đề "Mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây" đã được tôi chọn làm đề tài nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hà Tây.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây để đáp ứng yêu cầu, mục tiêu chính sách tiền tệ tín dụng, mục tiêu của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Hà Tây.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề liên quan đến hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây trong thời gian từ 1999 đến 2001.
Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng; duy vật lịch sử; phương pháp hệ thống, thống kê; phân tích kinh tế để nghiên cứu các vấn đề đặt ra.
Kết cấu chuyên đề:
- Tên đề tài: “Mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây". Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, nội dung chuyên đề được trình bày theo ba chương:
Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương II: Thực trạng về qui mô và hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây.
Chương III: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Hà Tây.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
Đây là một đề tài tương đối rộng và phức tạp, do nhận thức còn hạn chế và thời gian nghiên cứu học hỏi còn ngắn, em không thể không có những thiếu sót. Em mong được sự góp ý phê bình sửa chữa của các thầy cô giáo và cán bộ hướng dẫn nhằm giúp em nhận thức tốt hơn vấn đề nghiên cứu trên. Em xin chân trọng cám ơn sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của ông Giám đốc NHCT Hà Tây Nguyễn Đức Thắng, các thầy cô trong khoa Tài Chính-Ngân Hàng trong quá trình học tập tại trường, thầy hướng dẫn trực tiếp Lê Đức Lữ và ban lãnh đạo cùng các cô chú, anh chị trong Phòng kinh doanh chi nhánh Sông Nhuệ thuộc NHCT Hà Tây và phòng kinh doanh của chi nhánh NHCT Hà Tây đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
chương I:
tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh.
Đặc điểm của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một trong hai khu vực kinh tế lớn của nền kinh tế. Nó góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy để nghiên cứu vấn đề tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chúng ta cần xem xét những đặc điểm của khu vực kinh tế này.
Thứ nhất: Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có tính tư hữu cao. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế này gắn liền với quyền lợi, lợi ích cá nhân của người sản xuất. Chính vì đặc điểm này mà họ luôn tập trung tối đa sức lực, tài sản, trí tuệ... để có thể đạt được lợi nhuận cao nhất.
Thứ hai: Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không có yếu tố sở hữu của Nhà nước, nghĩa là người chủ sở hữu có toàn quyền lựa chọn và quyết định những vấn đề liên quan đến quá trình kinh doanh của mình (theo pháp luật) và tự chịu trách nhiệm về những quyết định đó. Các thành phần kinh tế này bên cạnh nguồn vốn sẵn có, nếu họ muốn tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường thì họ phải tự tìm kiếm các nguồn vốn khác để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất của mình. Hơn nữa đại đa số các chủ thể kinh tế thuộc thành phần này khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều nhằm mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm lợi nhuận. Họ luôn mong muốn đạt được mục tiêu này bằng bất kỳ giá nào, bằng mọi thủ đoạn trong sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ đặc điểm này mà thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có những phương án kinh doanh táo bạo nhưng rất mạo hiểm và chứa nhiều rủi ro. Đôi khi vì mục tiêu lợi nhuận mà các thành phần kinh tế này có thể xem thường pháp luật, mang lại những hiệu quả xấu cho xã hội. Như hiện tượng làm ăn thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người, tình hình an ninh xã hội.
Thứ ba: ở nước ta thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn là các đơn vị trẻ với bộ máy sản xuất kinh doanh năng động, gọn nhẹ, ngành nghề kinh doanh phong phú. Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này nhanh chóng tiếp cận được với nhiều tiến bộ của khoa học kỹ thuật mới. Do đó kinh tế ngoài quốc doanh đã trở thành một kênh trung gian trong quá trình chuyển giao công nghệ của thế giới với nước ta, nhất là trong điều kiện hiện nay trình độ về khoa học kỹ thuật của nước ta còn lạc hậu so với sự phát triển của thế giới. Một trong các yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống của con người chính là khoa học kỹ thuật.
Thứ tư: Quy mô sản xuất của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thường nhỏ bé nên nó rất rễ ràng thích ứng với sự biến động không ngừng của nhu cầu thị trường và cơ chế chính sách của Nhà nước.
Thứ năm: Với một thị trường lao động lớn, giá nhân công rẻ mạt, là một thành phần kinh tế năng động, lợi ích của người sản xuất được chú trọng nên các thành phần kinh tế này rất dễ dàng tận dụng được kinh nghiệm làm ăn, truyền thống sản xuất của người lao động. Hơn nữa nó được thừa hưởng thành quả và phù hợp với xu thế phát triển của các đơn vị kinh tế trên thế giới thông qua hoạt động liên doanh, liên kết đầu tư với nước ngoài. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ.
Đây là một số những đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nó phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Để khu vực kinh tế này có thể phát huy được mọi tiềm năng vốn có của mình, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển toàn diện của xã hội thì đòi hỏi Nhà nước phải có một chính sách và tạo một môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển.
2.Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh.
Sự ra đời của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, nó tạo ra một môi trường kinh tế năng động hơn, làm việc có tính công nghiệp hơn. Vì thế mỗi con người đều có thể phát huy năng lực của mình và phải vươn lên để tồn tại, tự khẳng định mình trong cơ chế kinh tế mới. Đây là một động lực lớn thúc đẩy xã hội phát triển trên cơ sở pháp lý của các mối quan hệ kinh tế bình đăng tự chủ, tìm tòi các nguồn lực để mục đích mang lại quyền lợi lớn cho mình. Do vậy có thể khăng định sự tồn tại của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế và phù hợp với nhu cầu của con người. Có thể nói kinh tế ngoài quốc doanh giữa một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế :
Một là: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tập trung vốn của xã hội tạo cơ sở vật chất ban đầu cho nền kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá, thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH theo chủ ở trương của Đảng và Nhà nước.
Nền kinh tế nước ta vốn là nền kinh tế nông nghiệp nhỏ bé, lạc hậu, cơ sở vật chất ban đầu lại yếu kém. Muốn đổi mới và phát triển toàn diện thì cần phải có vốn. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, kinh tế ngoài quốc doanh không được chú trọng, số liệu thống kê về đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân, hợp tác xã và gia đình nhìn chung là rất nhỏ bé. Từ khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, quy mô đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng mạnh, đóng góp một phần nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Hơn nữa thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng rất năng động nên dễ dàng đón đầu và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, việc đầu tư mở rộng sản xuất cũng như đổi mới trang thiết bị, quy trình sản xuất kinh doanh là vấn đề sống còn đối với khu vực quốc doanh nói chung và đối với khu vực ngoài quốc doanh nói riêng. Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động tích tụ tập trung vốn, tái đầu tư vào sản xuất, kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và tạo điều kiện thực hiện phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc.
Hai là: Kinh tế ngoài quốc doanh giải phóng mọi năng lực sản xuất và là đối tác cạnh tranh của các thành phần kinh tế quốc doanh.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, kinh tế ngoài quốc doanh luôn tập trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình cả về trí thức và vật lực để đem lại hiệu quả sản xuất cao nhất. Vì hiệu quả hoạt động của khu vực này gắn liền với quyền lợi của chính bản thân mình. Chính đặc điểm tư hữu cao đó mà khu vực kinh tế ngoài quốc doanh rất năng động và linh hoạt trong sản xuất, tìm kiếm bạn hàng mới, tìm hướng sản xuất kịp thời phù hợp với nhu cầu của thị trường. Đồng thời khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế quốc doanh không còn giữ vai trò độc quyền như thời bao cấp. Nếu các doanh nghiệp kinh tế quốc doanh không năng động, mạnh dạn đổi mới thì sẽ tự đào thải trong nền kinh tế thị trường. Do đó kinh tế ngoài quốc doanh trở thành một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với khu vực kinh tế quốc doanh trên chiến trường kinh tế.
Ba là: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần quan trọng trong việc tăng GDP. Kinh tế ngoài quốc doanh có mặt hầu hết trong các lĩnh vực, ngành nghề. Trong lĩnh vực công nghiệp khối lượng sản phẩm do các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, khu vực tư nhân, liên doanh, hợp tác xã sản xuất đạt tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp và được tăng đều qua các năm. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng vận tải ngoài quốc doanh trong những năm gần đây đã góp phần thúc đẩy việc giao lưu kinh tế sang các vùng một cách thuận lợi. Trong lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp 90%.
Trong những năm qua kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ đáp ứng ngày một nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước, góp phần tạo thế cân đối quỹ hàng hoá trong các địa phương, trong cả nước mà còn là nguồn lực chính tạo ra sản phẩm xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu ở nước ta chiếm tỷ trọng khá cao trong GDP. Với chiến lược từ nay đến năm 2010 dự báo kim ngạch xuất khẩu còn tăng nhưng trước mắt để tăng xuất khẩu chủ yếu chúng ta vẫn cần thiết khai thác mọi tiềm năng về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tài nguyên khoáng sản và dịch vụ, mà chủ thể quan trọng nhất để thực hiện quá trình này là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Bốn là: Kinh tế ngoài quốc doanh tăng cường thu cho Ngân sách Nhà nước. Thuế là nguồn thu chính của Ngân sách Nhà nước, nguồn thu này được dùng để đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc giúp đỡ, hỗ trợ một số ngành yếu kém. Hàng năm tỷ trọng của các khoản thuế thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng thu Ngân sách Nhà nước.
Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của mọi người về sinh hoạt tăng lên, trình độ dân trí cũng được nâng cao, mà mục đích cuối cùng của các thành phần kinh tế này là thoả mãn nhu cầu của con người, phục vụ lợi ích cho con người, kiếm được lợi nhuận tối đa. Do vậy mà mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều được mở rộng và phát triển dẫn đến khả năng đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cho Ngân sách Nhà nước sẽ ngày một tăng. Hiện nay khu vực này đóng góp vào nguồn thu cho Ngân sách nhà nước khoảng 50%. Từ đó góp phần giảm bớt sự mất cân đối trong thu chi Ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện cho Nhà nước có vốn để đầu tư hơn nữa vào sản xuất cũng như các công trình phúc lợi, nâng cao đời sống của các tổ chức dân cư, phát huy vai trò quản lý vĩ mô của mình trong cơ chế thị trường.
Năm là: Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang giải quyết một vấn đề nan giải đó là các vấn đề công ăn việc làm trong lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế thay đổi bộ mặt của nông thôn Việt Nam.
Hiện nay, một vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và mọi ngành mọi cấp quan tâm đó là vấn đề thất nghiệp. Nước ta có một thị trường lao động rộng lớn, số lượng đông đảo, trong năm có khoảng 1,5 triệu người đến tuổi lao động vẫn không có việc làm, đó là chưa kể đến những người không có việc trong các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, rồi nhiều lĩnh vực khác đã làm tăng thêm lượng dư thừa trong xã hội. Nhưng với sự phát triển không ngừng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã giải quyết một lực lượng lao động rất lớn cho xã hội cụ thể năm 1999 thu hút hơn 66.000 lao động. Thông qua việc đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh, kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tổ chức lại cơ cấu lao động, nâng cao hiệu quả lao động của xã hội. Từ đó cũng góp một phần cho xã hội ổn định và văn minh hơn.
Sáu là: Kinh tế ngoài quốc doanh trở thành một thị trường vốn tín dụng rộng lớn và đầy tiềm năng cho sự phát triển của ngành Ngân hàng.
Kinh tế ngoài quốc doanh là một khu vực kinh tế rộng lớn, là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Nó trở thành một thị trường đầy tiềm năng cần được khai thác của các ngành Ngân hàng. Vì theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam và nước ngoài nếu tốc độ tăng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nhanh hơn khu vực kinh tế quốc doanh bình quân 1%/ năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩm nước ta trong 15 đến 20 năm tới sẽ như sau: Kinh tế quốc doanh chiếm 10%, còn kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 90%.
Tóm lại: Định hướng phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có điều kiện tồn tại, hoạt động và phát triển. Sau hơn 10 năm đổi mới, khu vực kinh tế này đã thể hiện rõ vị trí của mình và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó tồn tại và phát triển tốt là dựa trên những điều kiện khá thuận lợi như: cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước...Nhà nước cũng luôn cố gắng tạo ra một môi trường pháp lý bình đăng tự chủ trong kinh doanh để các doanh nghiệp có điều kiện vươn lên. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng phải đương đầu với những khó khăn rất lớn là các thành phần kinh tế này mới được hình thành và phát triển nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu, quy mô còn nhỏ, hành lang pháp lý còn chưa hoàn thiện. Hơn nữa trình độ quản lý tổ chức của các thành viên trong khu vực này còn chưa cao. Do vậy, để có thể đứng vững và phát huy được vai trò của mình, kinh tế ngoài quốc doanh cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về nhiều mặt như cơ chế chính sách, thuế, công nghệ ...đặc biệt là vốn và pháp luật. Nhìn chung tình trạnh phổ biến ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là thiếu vốn sản xuất kinh doanh do vốn tự có còn quá nhỏ bé, họ phải tự tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài với một chi phí lớn và không ổn định. Nguồn vốn chính mà kinh tế ngoài quốc doanh nên tiếp cận là nguồn vay từ Ngân hàng.
Vai trò tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1. Sự ra đời của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất thế giới, nó được thành lập đầu tiên vào năm 1782 tại Hoa Kỳ.
Do sự biến động của nền kinh tế, trong xã hội xuất hiện tầng lớp có của ăn của để, mà họ cần có một nơi gửi tiền an toàn. Đáp ứng được nhu cầu của tầng lớp dân cư này, những người thợ kim hoàn đã nghĩ ra một công việc mới vì vậy ngân hàng sơ khai ra đời. Giai đoạn đầu, người chủ chỉ nhận giữ tiền vàng và họ được hưởng một khoản tiền gọi là chi phí giữ tiền hộ. Nhưng trong quá trình nhận giữ tiền như vậy họ nhận ra rằng không chỉ có những người có tiền cần gửi mà còn có nhiều người cần vay tiền. Do vậy họ đã thay đổi cách kinh doanh của mình. Họ không chỉ nhận gửi tiền mà họ còn cho vay. Toàn bộ khoản tiền mà khách hàng gửi vào, người chủ chỉ giữ lại một phần nhất định còn lại họ đem cho vay. Từ đó họ thu được một khoản lãi từ người đến vay tiền. Mặt khác người chủ sẽ trả cho người gửi tiền một khoản tiền nhất định (đây chính là tiền lãi). Hoạt động của ngân hàng sơ khai đã thay đổi. Các nghiệp vụ, các hoạt động của Ngân hàng được phát triển dần từng bước theo đà phát triển của kinh tế. Ngân hàng đã mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh vực khác như thanh toán, chuyển tiền, kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài sản... Ngân hàng thời hiện đại ra đời, nó mang tính chất kinh doanh về lĩnh vực tiền tệ và tài sản. Ngày nay hệ thống Ngân hàng thương mại được phát triển rộng khắp các nước trên thế giới, đồng thời nó cũng mở rộng các lĩnh vực hoạt động thêm như: nghiệp vụ thuê mua, nghiệp vụ chiết khấu ... các nghiệp vụ này luôn cải tiến và hoàn thiện nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng để từ đó thoả mãn những nhu cầu của chính mình.
ở Việt Nam, thời kì Pháp thuộc chưa có ngân hàng riêng của mình. Pháp chỉ xây dựng một nhà băng riêng (nhà băng Đông Dương) để phục vụ cho quân Pháp. Năm 1947, Hồ Chủ Tịch mới ký sắc lệnh thành lập nha tín dụng sản xuất để phục vụ cho hoạt động mang tính chất tín dụng. Đến năm 1951, Hồ Chủ Tịch mới ký sắc lệnh số 15 thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam để phục vụ nhu cầu khôi phục đời sống phía bắc. Còn phía Nam thì vẫn do lính ngụy thành lập và cũng mang tên Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Do đó Ngân hàng quốc gia Việt Nam phía Bắc phải đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý toàn bộ các vấn đề liên quan đến tiền tệ, ngân sách nhà nước. Đến năm 1976, chúng ta duy trì ngân hàng một cấp và đến năm 1988, nhà nước chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng chuyển từ một cấp sang thành hai cấp. Toàn bộ nền kinh tế có sự chuyển biến lớn. Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta không ngừng phát triển, mở rộng. Nó đã khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại:
* Nghiệp vụ huy động vốn: Huy động vốn là việc Ngân hàng tập trung các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức khác nhau. Các hình thức huy động vốn bao gồm:
- Vốn tiền gửi: Là số tiền khách hàng gửi Ngân hàng dưới các hình thức khác nhau.
+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: gồm các khoản tiền gửi vào Ngân hàng có thời hạn và không có thời hạn.
Tiền gửi không kỳ hạn là số tiền mà người gửi có thể gửi vào và rút ra một cách linh hoạt không có cam kết trước về kỳ hạn. Nhưng cần phải phân biệt tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tạm thời. Tiền gửi tạm thời là số tiền gửi "qua đêm hay trong một ngày". Loại tiền gửi không kỳ hạn thường được tính lãi suất rất thấp. Đặc trưng của nguồn vốn này là biến động thường xuyên và đây là nguồn vốn quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có nguyên tắc, người gửi chỉ được rút ra khi đến kỳ hạn thanh toán đã thoả thuận (trừ trường hợp đặc biệt). Đây là nguồn vốn tương đối ổn định, phù hợp với yêu cầu cho vay có kỳ hạn của Ngân hàng thương mại.
+Tiền gửi dân cư: Gồm tiền gửi tiết kiệm (có kỳ hạn, không kỳ hạn).
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Trái phiếu Ngân hàng, kỳ phiếu, chứng từ có giá là nguồn vốn Ngân hàng nhận được bằng việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi.
Vay Ngân hàng Trung ương hoặc các Ngân hàng khác: Đây là khoản vốn Ngân hàng tìm kiếm trên thị trường liên Ngân hàng từ Ngân hàng Trung ương hoặc các tổ chức tín dụng khác. Họ có thể vay bằng tiền hoặc bằng cách thuê tài sản. Nó được sử dụng chủ yếu để hỗ trợ cho khả năng thanh toán và bổ sung vốn tín dụng ngắn hạn.
Nguồn vốn huy động bằng cách phát hành chứng chỉ và đi vay các ngân hàng mang tính chất chủ động, vì ngân hàng lúc nào cần mới đi vay.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh nguồn vốn này thường do nhà nước cấp phát từ ngân sách nhà nước. Ngân hàng thương mại cổ phần thì nguồn vốn này được tạo thành từ việc phát hành cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh thì nguồn vốn chủ sở hữu là do góp vốn liên doanh. Ngoài ra các loại ngân hàng này còn có thể bổ sung vào nguồn vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận ngân hàng hàng năm.
- Ngoài ra các Ngân hàng còn có các nguồn khác: Nguồn vốn tiếp nhận qua uỷ thác đầu tư. Nguồn này nảy sinh khi tổ chức nào đó nhờ Ngân hàng quản lý giúp, đầu tư tài chính, nguốn vốn này không có thường xuyên và không phải Ngân hàng nào cũng có.
* Nghiệp vụ cho vay:
Cho vay là hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh. Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại, hoạt động này phản ánh đúng tính chất của ngân hàng thương mại là huy động vốn để cho vay. Bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay truyền thống, có vị trí cơ bản trong hoạt động sử dụng và khai thác các nguồn của Ngân hàng thương mại với thời gian quy định dưới một năm. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thường mại (NHTM) có thể cho vay ngắn hạn dưới các hình thức sau:
+ Cho vay bổ sung vốn lưu động thiếu.
+ Bảo lãnh: gồm ngân hàng bảo lãnh và đồng bảo lãnh.
+ Cho vay chiết khấu chứng từ có giá.
+ Nghiệp vụ thấu chi.
- Cho vay trung và dài hạn: Là loại cho vay được thực hiện đối với những chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, mở mang ngành nghề sản xuất kinh doanh cũng như xây dựng cơ bản. Đây là việc ngân hàng thương mại hỗ trợ các khách hàng có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện các dự án có thời gian thu hồi vốn trên 12 tháng. Cho vay trung hạn thường từ 2 đến 5 năm, còn cho vay dài hạn khoảng trên 5 năm.
Đối với mỗi khách hàng, Ngân hàng có thể sử dụng những phương thức cho vay khác nhau, chẳng hạn như:
+ Cho vay dự án đầu tư là một dạng cho vay trung và dài hạn chủ yếu nhất của các ngân hàng thương mại. Đây là loại tín dụng trung và dài hạn mà Ngân hàng thực hiện nhằm tài trợ vốn cho khách hàng thực hiện các dự án đầu tư trong đó có hai loại cho vay đối với dự án phát triển sản xuất theo chiều sâu, đầu tư xây dựng cơ bản mới.
+ Đồng tài trợ dự án đầu tư. Đối với các dự án đầu tư xin vay cỡ vừa và lớn, đôi khi vượt quá khả năng tài trợ của một NHTM, mặt khác để phân tán rủi ro thì các NHTM cùng cho vay một dự án. Đồng tài trợ được áp dụng trong những trường hợp sau:
Nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa cho phép cho vay của một ngân hàng thương mại.
Nhu cầu phân tán rủi ro của các NHTM.
Khả năng nguồn vốn của một NHTM không đấp ứng được nhu cầu vốn của dự án.
+ Cho thuê tài chính do các NHTM hoặc do các công ty cho thuê tài chính trực thuộc chúng thực hiện. Cho thuê tài chính là nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội sử dụng máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh của họ trong khi họ chưa đủ tài lực mua sắm chúng ngay một lúc. Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng trong đó Ngân hàng (người cho thuê) chuyển giao tài sản cho người thuê sử dụng trong một thời gian nhất định, đổi lại người thuê phải trả cho Ngân hàng một khoản tiền tương đương với quyền sử dụng tài sản .
+ Cho vay thông thường là phương pháp cho vay mà Ngân hàng căn cứ vào từng kế hoạch, từng phương án sản xuất kinh doanh hoặc từng khâu từng loại vật tư cụ thể để phát tiền vay. Đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất hiện nay bao gồm: cho vay theo hạn mức và cho vay từng lần, tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm của khách hàng mà Ngân hàng có thể áp dụng.
+ Cho vay luân chuyển là phương pháp cho vay mà việc phát hành tiền vay và thu nợ căn cứ vào tình hình nhập và xuất vật tư, hàng hoá cho các đơn vị vay. Đây là phương pháp cho vay cá biệt chỉ sử dụng cho vay vốn lưu động, đối với những đơn vị thường xuyên phát sinh quan hệ tín dụng với Ngân hàng, có tốc độ lưu chuyển vốn nhanh. Việc cho vay được thực hiện trong phạm vi hạn mức tín dụng do khách hàng và tổ chức tín dụng thoả thuận.
+ Cho vay tiêu dùng
Cho vay công dân
Cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng vay tiền.
* Ngoài hai nghiệp vụ huy động vốn và cho vay Ngân hàng thương mại còn thực hiện một số nghiệp vụ khác:
- Nghiệp vụ trung gian thanh toán: Là những nghiệp vụ Ngân hàng thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng và được nhận một khoản thu nhập về việc làm trung gian đó. Nghiệp vụ này bao gồm: Thanh toán hộ, chuyển tiền hộ, uỷ thác tài sản. Trên cơ sở khách hàng gửi tiền cho Ngân hàng, uỷ thác Ngân hàng thanh toán hộ và trả hộ.
- Nghiệp vụ đầu tư: Là loại hoạt động trong đó Ngân hàng bỏ vốn để năm giữ các chứng khoán có giá với mục đích trợ giúp cho khả năng thanh toán, đa dạng hoá việc sử dụng vốn và tăng thêm lãi cho Ngân hàng.
- Nghiệp vụ bảo lãnh: Là nghiệp vụ mà Ngân hàng cam kết trả tiền thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ đã thoả thuận với người yêu cầu bảo lãnh.
- Các nghiệp vụ khác...
Đây là một số nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của hệ thống Ngân hàng thương mại hiện nay. Có thể nói nó chỉ phát triển đầy đủ trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường phát triển. Hiệu quả hoạt động của các nghiệp vụ này quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
2. Vai trò tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh
2.1. Tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Cho đến nay chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về tín dụng.
Tuỳ theo cách tiếp cận, tuỳ theo mức độ quan tâm của từng đối tượng mà có cách hiểu khác nhau về tín dụng. Chẳng hạn theo quan niệm truyền thống, tín dụng là một ngành kinh tế trong đó một người là tổ chức kinh tế chuyển cho người khác hoặc tổ chức khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc vật giá trị nào đó với điều kiện được hai bên thoả thuận trước. Còn đứng về phương diện nghiệp vụ thì tín dụng là một hoạt động, trong đó một người đưa vốn hoặc hứa đưa vốn cho người khác sử dụng hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này nhưng bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền.... Dù đứng trên phương diện nào thì chúng ta đều hiểu tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau qua các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá.
Quan hệ tín dụng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội. Qua mỗi thời kỳ lại có những quan hệ tín dụng phù hợp với nó và ngày càng đa dạng hoá.
Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hoá, nhu cầu vốn của xã hội ngày càng tăng thì tín dụng Ngân hàng đã ra đời. Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng một bên là Ngân hàng còn bên kia là các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng là các hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời. Thông thường quá trình vận động của tín dụng Ngân hàng trải qua 3 giai đoạn:
- Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: ở giai đoạn này vốn tiền tệ được chuyển từ Ngân hàng sang người đi vay. Đây là đặc điểm khác với mua bán hàng hoá thông thường bởi vì trong quan hệ mua bán hàng hoá thì giá trị chỉ thay đổi khi hình thái tồn tại.
- Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất: Sau khi đã nhận được khoản vay từ Ngân hàng, người đi vay có quyền sử dụng lượng giá trị đó để thoả mãn một mục đích nhất định. ở giai đoạn này vốn đựơc sử dụng vào trong quá trình mua bán hàng hoá, vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... để phục vụ cho sản xuất. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu lượng giá trị này mà phải hoàn trả trong một thời gian nhất định.
- Hoàn trả tín dụng: Là giai đoạn kết thúc của chu kỳ tín dụng. Sau khi vốn được sử dụng vào việc thực hiện một chu kỳ sản xuất và về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho Ngân hàng. Các Mác viết: "Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang nhà tư bản hoạt động cho nên tiền không phải bỏ ra để tự thanh toán, cũng không phải tự đem bán đi mà cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với một số điều kiện là nó sẽ quay lại điểm xuất phát sau kỳ hạn nhất định".
Tín dụng Ngân hàng thể hiện những ưu thế hơn hẳn của mình so với các hình thức tín dụng khác dựa trên những đặc điểm của tín dụng Ngân hàng. Cụ thể:
- Huy động vốn và cho vay đều được thực hiện dưới hình thức t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34465.doc