HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
KHOA TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
Giáo viên hướng dẫn : Bùi Nguyệt Dung
Sinh viên thực hiện :Đỗ Quang Hợp
Lớp :K42/08.01
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm vừa qua nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế XHCN.Đi cùng với đó là quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nề
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới. Sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam ngày càng trở nên phổ biến cùng với hoạt động xuất nhập khẩu luôn diễn ra rất sôi động đã làm cho nhu cầu về trao đổi ngoại hối ngày càng trở nên cấp bách và cần thiết. Các ngân hàng chính là đầu mối của mọi hoạt động trao đổi mua bán ngoại tệ trên thị trường. Tại ngân hàng TMCP Quân đội hoạt động kinh doanh ngoại hối cũng đã và đang phát triển rất nhanh và mạnh trong từng năm .
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những vấn đề mang tính khách quan và chủ quan chung. Trước thực trạng đó đề tài “Mở rộng và nâng cao chất lượng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối tại NHTM CP Quân đội” đã ra đời hi vọng sẽ đóng góp được những ý kiến hữu ích nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các NHTM nói chung và NHTM CP Quân đội nói riêng.
CHƯƠNG I:THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ NGHIỆP VỤ KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về thị trường ngoại hối
1.1.1.Sự hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối
1.1.1.1.Khái niệm thị trường ngoại hối
Một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa thương mại quốc tế và thương mại nội địa là:
-Thương mại quốc tế thường liên quan tới việc chuyển đổi các đồng tiền khác nhau của các quốc gia khác nhau
-Trong khi đó thương mại nội địa thường chỉ liên quan đến nội tệ
Một nhà nhập khẩu Mỹ thường được yêu cầu thanh toán cho nhà xuất khẩu Nhật bằng đồng Yên Nhật,cho nhà xuất khẩu Đức bằng đồng Euro,cho nhà xuất khẩu Anh bằng đồng bảng Anh…với lý do này,để thanh toán tiền hàng nhập khẩu,nhà nhập khẩu Mỹ phải mua các ngoại tệ thích hợp,tức bán ra nội tệ trên thị trường.Nghĩa là một trong hai bên mua hoặc bán phải liên quan đến mua bán đồng ngoại tệ.
Giống như thương mại quốc tế,đầu tư quốc tế,du lịch quốc tế,quan hệ tín dụng quốc tế và các quan hệ tài chính quốc tế khác đều làm phát sinh nhu cầu mua bác các đồng tiền khác nhau trên thị trường.
Hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau được diễn ra trên thị trường và thị trường này được gọi là thị trường ngoại hối.Một cách tổng quát:Thị trường ngoại hối là bất cứ đâu diễn ra việc mua,bán các đồng tiền khác nhau.
Trong thực tế,các hoạt động mua bán diễn ra chủ yếu giữa các ngân hàng với nhau(chiếm khoảng 85% tổng doanh số giao dịch),chính vì vậy,theo nghĩa hẹp,thị trường ngoại hối là nơi mua bán các đồng tiền khác nhau giữa các ngân hàng,tức thị trường liên ngân hàng(Interbank)
1.1.1.2.Quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối
-Thời kì sơ khai
Cách đây chừng 4000 năm đã diễn ra bước ngoặt trong phương thức thanh toán quốc tế,đó là việc xuất hiện sử dụng những đồng xu có dán tem của ngân hàng,của nhà buôn,của nhà vua..Việc sử dụng tiền kim loại dần dần trở nên phổ thông trong thương mại quốc tế.với sự phát triển ở dạng sơ khai này,đánh dấu sự ra đời của kinh doanh ngoại hối và thị trường ngoại hối.
Sau khi đế quốc Roma sụp đổ và trong suốt thời gian đầu thời kì trung cổ,các giao dịch kinh doanh ngoại hối bị giảm sút đáng kể,bởi do các điều kiện về tài chính và chính trị không ổn định và khối lượng thương mại quốc tế giảm đáng kể.Vào thế kỉ XI,việc kinh doanh ngoại hối bắt đầu thịnh vượng trở lại.
Để đáp ứng cho nhu cầu thương mại quốc tế ngày càng tăng đã tạo điều kiện cho hình thức ngân hàng quốc tế ra đời và phát triển.Các ngân hàng này mở chi nhánh và phát triển mối quan hệ với các ngân hàng đại lý ở các nước bạn là đối tác .Các hối phiếu ra đời và trở thành công cụ chuyển nhượng được.Khi người hưởng lợi hối phiếu chuyển nhượng cho bên thứ ba,thì một hình thức tiền tệ mới đã được tạo ra.Sự phát triển này đã giúp cho thị trường phát triển hơn và tăng khối lượng kinh doanh ngoại hối(mua đi bán lại nhiều lần).Khi các giao dịch chuyển khoản giữa các ngân hàng trở nên nhanh hơn đã trở thành điều kiện thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển.Thị trường ngoại hối đã chuyển từ hệ thống tiền mặt hữu hình sang thị trường dưới dạng hỗn hợp giữa tiền mặt và tín dụng.
Nói một cách tổng quát,trong quá trình của thiên niên kỉ thứ hai,sự phát triển của thị trường ngoại hối,ngoài vấn đề tốc độ phát triển chậm,những khó khăn trong truyền thông và đi lại,còn rất nhiều vấn đề cần phải vượt qua,ví dụ:trong nhiều năm,các tôn giáo đã không tán thành các hoạt động kinh doanh ngoại hối(họ cho rằng các hoạt động này mang tính chất buôn tiền,kinh doanh tiền,có tính chất đầu cơ không lành mạnh),thậm chí một số chính phủ đã coi đây là hoạt động bất lương và bị cấm.Trong những năm 1800,các tuyến cáp được nối qua Atlantic,tạo ra cuộc cách mạng truyền thông giữa châu Âu và Bắc Mỹ,khời điểm cho sự hình thành và phát triển thị trường ngoại hối có tính chất toàn cầu như hiện nay.
-Đại chiến thế giới lần thứ nhất và cuộc đại suy thoái
Trong khoảng thời gian đầu thế kỉ XX,hai cuộc đại chiến thế giới đã làm gián đoạn sự phát triển của thị trường ngoại hối giữa các quốc gia thù địch,thị trường ngoại hối vỡ ra từng mảnh nhỏ.Trong những năm đầu sau đại chiến thế giới lần thứ nhất,thị trường ngoại hối trở nên vô cùng biến động và trở thành đối tượng đầu cơ trên quy mô lớn.Các giao dịch thương mại quốc tế kéo theo việc mua bán ngoại tệ trờ nên vô cùng rủi ro và biện pháp tự bảo vệ bằng hợp đồng kì hạn trở nên phổ biến.Trong thực tế,biện pháp tự bảo vệ bằng hợp đồng kì hạn trở nên phổ biến tới mức,trong một số lĩnh vực,nó đã trở thành một bộ phận cấu thành bắt buộc trong hợp đồng thương mại,hay nói cách khác,các hợp đồng thương mại phải có kèm theo các hợp đồng ngoại hối kì hạn thì mới có giá tri.Tuy nhiên,nhiều ngân hàng,các nhà hoạch định chính sách cho rằng các hợp đồng kì hạn bản chất là hoạt động đầu cơ,do đó đã không ủng hộ để cho thị trường kì hạn phát triển.Mặc dù không được sự ủng hộ từ nhiều phía nhưng đứng trước nhu cầu thương mại quốc tế thì hợp đồng kì hạn vẫn tồn tại và phát triển.
Sự đình chỉ chế độ bản vị vàng vào năm 1931,cùng sự sụp đổ của các ngân hàng và các vấn đề khó khăn trong thanh toán đối với một số đồng tiền đã trở thành trở ngại đáng kể cho sự phát triển của thị trường ngoại hối.Thật khó khăn khi giao dịch ngoại hối trong những năm đầu 1930,nhưng cũng giống như các thị trường khác ,những điều kiện giao dịch dần trở lại bình thường vào giữa những năn 1930.London đã trở thành trung tâm ngoại hối lớn nhất thế giới trong thời kì giữa hai cuộc đại chiến thế giới,bên cạnh đó các trung tâm khác như New York,Paris,Zurich cũng phát triển mạnh mẽ.
-Thời kì sau đại chiến thế giới lần thứ hai
Vị thế trung tâm tài chính của Anh bị giảm sút rõ rệt trong khoảng thời gian đại chiến thế giới lần 2.Sau đại chiến,đồng tiền USD đã trở thành một trong những đồng tiền chính mang tính quốc tế.Đồng bảnh Anh vẫn là đồng tiền manh tính chủ đạo bởi vì do USD khan hiếm và dù sao thì vai trò nòng cốt của London trên thị trường tài chính quốc tế.Sự tham gia của chính phủ ngày càng trở nên rõ rệt vào các năm 1930 và càng trở nên thường xuyên hơn sau đại chiến thế giới lần 2 và được duy trì cho đến ngày nay.Không giống như thời kì hậu đại chiến thế giới lần thứ nhất,khi phải chứng kiến những biến động vô lối của thị trường ngoại hối ,thì thời gian sau đại chiến thế giới lần 2 được đánh giá là thị trường mang tính ổn định và được kiểm soát một cách chặt chẽ,tỷ giác các đồng tiền được neo lại và biến đổi trong biên độ hẹp.
Thỏa thuận Bretton Woods vào năm 1944 đã mang lại sự ổn định như mong muốn và một trật tự mới trên thị trường ngoại hối,tỷ giá các đồng tiền chính được neo đậu cố định với USD và giá trị của USD được neo đậu cố định với vàng với tỷ lệ 35USD=1ounce.USD được các nước chọn làm đồng tiền dự trữ bở vì nước Mỹ cam kết với NHTW rằng sẽ đổi USD thành vàng không hạn chế theo tỷ giá cố định 35USD=1ounce.
Hệ thống tỷ giá cố định bị sụp đổ vào năm 1971,nguyên nhân chính là so sự mất cân đối nghiêm trọng cán cân thanh toán quốc tế giữa các quốc gia và càng ngày người nước ngoài nắm giữ USD càng nhiều.Sau nỗ lực hồi phục hệ thống này vào năm 1973 không thành đã mở đầu cho thời kì chế độ thả nổi và được duy trì cho đến ngày nay.Những đồng tiền chính giao dịch trên thị trường ngoại hối được thả nổi dưới sự giám sát của các NHTW phát hành.Các NHTW tham gia trên thị trường mở thường xuyên nhằm duy trì hoạt động trên thị trường ngoại hối có trật tự hơn,hoặc tham nha nhằm mục đích điều chỉnh theo hướng biến động tỷ giá có lợi cho họ.Các đồng tiền của các nước nhỏ hơn được neo cố định vào một số đồng tiền chính,chủ yếu vẫn là USD,hoặc với đồng tiền của nước bạn hàng lớn nhất.Hệ thống tỷ giá thả nổi rõ ràng đã làm cho công tác dự báo trong tương lai trở nên cực kì khó khăn,nhưng nó lại linh hoat hơn nhiều so với tỷ giá cố định trong việc xử lý các áp lực thị trường và những cú sốc trê thị trường ngoại hối như đã xảy ra trong suốt thời kì có hiệu lực của hiệp ước Bretton Woods.
-Sự biến động vô lối của tỷ giá ngày nay
Trong những năm 1970,1980 và những năm đầu 1990,chúng ta đã được chứng kiến sự biến động của thị trường ngoại hối tăng lên không ngừng và thị trường trở nên không thể dự đoán được.Một trong những lý do chính khiến cho thị trường trở nên biến động mạnh là do sự gia tăng đáng kể của các thành viên tham gia thị trường nhằm mục đích tìm kiếm các cơ hội sinh lời khi thị trường biến động.Ngoài ra các nguồn lực về kĩ thuật và công nghệ có sẵn có của các nhà kinh doanh,các nhà quản trị tài chính và các công ty bảo hiểm đã được cải tiến một cách cơ bản.
Trong những năm đầu 1990,ngân hàng và những nhà kinh doanh đầu tư chuyên nghiệp vẫn tiếp tục là những người đóng vai trò chủ đạo trên thị trường ngoại hối.Các công ty thường xuyên tích cực tham gia thị trường nhằm quản lý rủi ro ngoại hối và thường sử dụng các chương trình bảo hiểm rủi ro ngoại hối có chọn lọc và trực tiếp tham gia kinh doanh ngoại hối.Các quyết định kinh doanh ngoại hối của các công ty có thể ảnh hưởng đáng kể trên thị trường ngoại hối trong cả ngắn hạn và dài hạn,nhưng trên thực tế nó chưa được xem như một yếu tố ảnh hưởng thực thụ tới thị trường.Ngoài ra các nhân cũng trở thành các nhân tố tác động tới thị trường ngoại hối khi họ tiếp cận và sử dụng ngoại hối thông qua các cơ chế khác nhau,kể cả thị trường tương lai và việc mua bán các trái phiếu và cổ phiếu nước ngoài.
Một điều hiển nhiên cần phải thừa nhận rằng:các nhà kinh doanh chuyên nghiệp,các công ty,các nhà quản lý quỹ,các ngân hàng và các các nhân hoạt động trên thị trường ngoại hối kiếm tiền dựa trên sự biến động tỷ giá.Đối với các đối tượng này,thì thị trường biến động theo hướng nào không quan trọng,các chính là họ cần thị trường phải biến động,bởi vì khi tỷ giá biến động sẽ là cơ hội cho họ kiếm được tiền.
Lý do thứ hai khiến cho thị trường ngoại hối biến động mạnh là các luồng di chuyển nhằm thanh toán sự mất cân đối trong cán cân thanh toán giữa các quốc gia là rất lớn.Vốn tư bản ngày càng được chu chuyển tương đối tự do giữa các đồng tiền chính nhằm cân đối trạng thái dư thừa và thiếu hụt trong cán cân thương mại và cán cân dịch vụ,hơn nữa,các quỹ hưu trí và các quỹ đầu tư khác ngày càng tăng đã tạo nên nguồn tài chính sẵn sàng di chuyển đầu tư vào các đồng tiền khác nhau để tìm kiếm cơ hội lợi nhuận.Hơn nữa các nhà đi vay tư nhân và xã hội cũng có xu hướng tìm kiếm các nguồn vốn bằng các đồng tiền khác nhau nhằm làm cho chi phí đi vay giảm xuống,do đó,các luồng vốn di chuyển từ đồng tiền này tới các đồng tiền khác cũng ảnh hưởng đáng kể tới sự tác động tỷ giá.
Trong khi cả hai nhóm nhu cầu đầu tư và nhu cầu đi vay tăng lên,các thị trường toàn cầu đã trải qua sự biến động mạnh về mức lãi suất,khi lãi suất biến động làm tăng doanh số và mức độ thường xuyên chu chuyển các luồng vốn.Do giá dầu hỏa và các hàng hóa khác tăng lên rất mạnh,áp lực tăng lương,tăng tín dụng và tăng cung ứng tiền đã tạo áp lực lạm phát trong những năm 1970,nhưng thái độ của NHTW trong việc chống lạm phát là rất khác nhau,do vậy,mức độ lạm phát của mỗi đồng tiền là cũng khác nhau.Vốn tư bản thường xuyên di chuyển tới đồng tiền nào có mức lãi suất hấp dẫn,nghĩa là đồng tiền nào có mức dự tính lãi suất cao nhất.Khi các luồng tiền chảy vào đồng tiền có lãi suất thực cao,làm cho đồng tiền này lên giá rõ rệt.Một điều đáng chú ý là sự hấp dẫn về mức lãi suất thực cao chỉ là tương đối và chỉ tồn tại trong một thời gian cố định,do vậy khi lãi suất không còn hấp dẫn nữa sẽ làm cho luồng vốn chảy ra và làm cho đồng tiền xuống giá nhanh chóng.
Một nhân tố liên quan góp phần làm cho thị trường ngoại hối biến động là do người nước ngoài ngày càng giữ nhiều tài sản bằng đồng USD.Đồng USD là đồng tiền được ưa chuộng nhất do vậy sự biến động của nó sẽ ảnh hưởng tới sự biến động của các đồng tiền khác.Trong khi lượng tài sản USD do người nước ngoài nắm giữ đã góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán quốc tế,nhưng đồng thời nó cũng góp phần làm tăng các khối lượng chu chuyển vốn quốc tế khi xuất hiện các chênh lệch về lãi suất giữa các đồng tiền và sự tồn tại mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.
1.1.2.Đặc điểm và chức năng của thị trường ngoại hối
1.1.2.1. Những đặc điểm của thị trường ngoại hối(Forex)
-Forex không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý hữu hình nhất định,mà bất cứ đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau,do đó,nó còn được gọi là thị trường không gian(space market)
-Đây là thị trường toàn cầu hay thị trường không ngủ.Do sự chênh lệch về múi giờ giữa các khu vực trên thế giới,do đó các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm.Thị trường bắt đầu hoạt động từ Australia,Nhật,Singapore,Hongkong,châu Âu,Newyork…và cứ như vậy,khi thị trường khu vực châu Á đóng cửa thì thị trường châu Mỹ bắt đầu hoạt động theo một chu kì khép kín toàn cầu.
-Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng (Interbank)với các thành viên chủ yếu là các NHTM,các nhà môi giới ngoại hối và các NHTW.Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm 85%tổng doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.
-Các thành viên tham gia thị trường duy trì quan hệ với nhau liên tục thông qua mạng máy tính,điện thoại,Fax,telex.Do thông tin được truyền đi rất nhanh và hiệu quả,do vậy tuy các thành viên ở rất xa nhau,nhưng họ vẫn có cảm giác đang cùng hoạt động dưới một mái nhà chung.
-Do thị trường toàn cầu và hoạt động hiệu quả,do vậy các tỷ giá được niêm yết trên các thị trường khác nhau nhưng hầu hết là thống nhất với nhau(có độ chênh lệch không đáng kể).
-Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong giao dịch là đồng USD,chiếm tới 41.5% trong tổng số các đồng tiền tham gia(điều này cũng có nghĩa là 83% các giao dịch trên Forex là có mặt của USD)
-Đây là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện chính trị,kinh tế,xã hội,tâm lý…nhất là với các chính sách tiền tệ của các nước phát triển(đặc biệt là Mỹ)
-Doanh số mua bán ròng toàn cầu,tại thời điểm năm 2000 ước tính vào khoảng 1500 tỷ USD/ngày; thị trường hoạt động tích cực nhất là London,sau đó tới New York,Tokyo,Singapore,Frankfurt…Đây là các thị trường lớn nhất và có doanh số giao dịch cao nhất.
Thị trường ngoại hối toàn cầu có tốc độ phát triển rất nhanh trong mấy thập kỉ qua,đặc biệt từ cuối những năm 80 là do các nguyên nhân chính sau:
-Sau khi hệ thống tiền tệ Breetton woods bị sụp đổ vào năm 1973,tỷ giá các đồng tiền bị thả nổi và giao động mạnh đã buộc những nhà kinh doanh tiền tệ,xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế,phải tìm kiếm các biện pháp phòng chống rủi ro thông qua thị trường ngoại hối,mặt khác họ cũng tranh thủ sự biến động của tỷ giá để tiến hành các hoạt động đầu cơ kiếm lời.Điều đó làm tăng nhu vầu giao dịch mua bán ngoại tệ,góp phần thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển nhanh chóng.
-Xu thế tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế diễn ra mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,bao gồm cả các nước đang phát triển cũng đã và đang tham gia tiến trình hội nhập,là tiền đề để các nước tiến hành nới lỏnh quy chế ngoại hối nhằm tạo điều kiện cho chu chuyển hàng hóa,dịch vụ và vốn quốc tế được hiệu quả.Điều này tạo nên một thị trường ngoại hối quốc tế ngày càng lớn với doanh số giao dịch ngày một cao.
-Tiến bộ khoa học kĩ thuật,đặc biệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã góp phần làm giảm chi phí giao dịch,tăng tốc độ thanh toán,góp phần tích cực thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển như ngày nay.
Bên cạnh tăng nhanh doanh số giao dịch,thị trường ngoại hối quốc tế còn phát triển mạnh về chiều sâu,đó là tạo ra nhiều loại hình nghiệp vụ kinh doanh mới,phức tạp hơn,tinh vi hơn và cũng trở nên rủi ro hơn.
1.1.2.2. Các chức năng của thị trường ngoại hối
Chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối là kết quả phát triển tự nhiên của một trong các chức năng cơ bản của NHTM,đó là nhằm cung cấp dịch vụ cho khách hàng thực hiện các giao dịch quốc tế.Ví dụ:một khách hàng là công ty muốn nhập khẩu hàng hóa,dịch vụ từ nước ngoài sẽ có nhu cầu ngoại hối nếu như hóa đơn và dịch vụ được ghi bằng ngoại tệ,hoặc là nhà xuất khẩu có nhu cầu chuyển đổi ngoại hối thành nội tệ,nếu có hóa đơn xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ được ghi bằng ngoại tệ .Các giao dịch ngoại hối nhằm giúp khách hàng là nhà xuất khẩu hay nhập khẩu như trên là một trong những dịch vụ mà các NHTM luôn sẵn sàng xung cấp cho khách hàng,và đồng thời cũng là dịch vụ mà các khách hàng luôn mong đợi từ phía ngân hàng.
Ngoài dịch vụ cho khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế,thị trường ngoại hối còn có một chức năng khác như:
-Giúp luân chuyển các khoản đầu tư,tín dụng quốc tế,các giao dịch tài chính quốc tế khác cũng như các giao lưu giữa các quốc gia.
-Thông qua hoạt động của thị trường ngoại hối,mà sức mua đối ngoại của tiền tệ được xác định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường.
-Thị trường ngoại hối là nơi kinh doanh và cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng các hợp đồng như kì hạn,hoán đổi,quyền chọn và tương lai.
-Thị trường ngoại hối là nơi để NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
1.2.Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của NHTM
1.2.1.Nghiệp vụ kinh doanh giao ngay
1.2.1.1.Khái niệm và vị trí của giao dịch giao ngay
Giao dịch giao ngay là giao dịch mua bán một số lượng ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng 2 ngày làm việc kể từ ngày cam kết mua bán
Kinh doanh giao ngay được thống nhất trên thị trường quốc tế chỉ bao gồm việc mua bán các đồng tiền khác nhau có trên tài khoản ngân hàng và các bên mua bán tiến hành thanh toán ngay sau khi đã thỏa thuận.Khái niệm giao ngay ở đây thường là ngày thứ hai làm việc kể từ ngày kí hợp đồng.Đây là đặc trưng để phân biệt thị trường giao ngay với các thị trường khác.
Tỷ giá giao ngay được xác định theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối liên ngân hàng.Thị trường giao ngay được biết tới như là thị trường rất sôi động,giao dịch với tốc độ cực lớn và tốc độ giao dịch nhanh như tia chớp nhằm tận dụng những cơ hội chênh lệch tỷ giá dù là cực nhỏ.
Trên thị trường ngoại hối có tất cả 5 nghiệp vụ kinh doanh phổ biến đó là:giao ngay,kì hạn,hoán đổi,tương lai,và quyền chọn,trong đó nghiệp vụ giao ngay là nghiệp vụ gốc còn các nghiệp vụ khác là phái sinh,tức là bắt nguồn từ nghiệp vụ giao ngay.Nghiệp vụ này được gọi là nghiệp vụ gốc do tỷ giá áp dụng cho các hợp đồng giao ngay được hình thành trên cơ sở quan hện cung cầu của thị trường.Trong khi đó 4 nghiệp vụ còn lại được gọi là các nghiệp vụ phái sinh bởi vì tỷ giá được xác lập tại các nghiệp vụ này không được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường mà bắt nguồn từ tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền.
1.2.1.2.Tổ chức của thị trường giao ngay
Theo nghĩa rộng,thị trường giao ngay bao gồm thị trường bán buôn(INTERBANK) và thị trường bán lẻ,nhưng do doanh số giao dịch trên INTERBANK là chủ yếu,do vậy,theo nghĩa hẹp,người ta coi thị trường giao ngay chính là thị trường liên ngân hàng.
Thị trường liên ngân hàng giao ngay chính là thị trường tài chính lớn nhất toàn cầu.Chỉ tính doanh số mua bán một chiều thì trung bình mỗi ngày doanh số giao dịch lên tới 1000 tỷ USD.kể từ năm 1970 cho tới nay thì cứ hai năm doanh số giao dịch lại tăng lên gấp đôi.Thị trường ngoại hối lớn nhất là thị trường tại Anh,chiếm tới 27% doanh số giao dịch toàn cầu,tiếp sau đó là thị trường ngoại hối các nước Mỹ,Nhật,Singapore.
Bảng 5.1:Phân bố doanh số giao dịch trung bình hàng ngày,4/1992.
Tên nước
Doanh số giao dịch
(Tỷ US)
Tỷ lệ %
Anh
Mỹ
Nhật
Singapore
Thụy sỹ
Hong kong
Đức
Pháp
Úc
Các nước khác
300
192
126
76
68
61
57
36
30
185
27
17
11
7
6
5
5
3
3
16
Tổng cộng
1131
100
Nguồn: Centra Bank Survey of Foreign Exchange market Activity in April 1992,BIS,Basle,Switzeland,March 1993,p.14.
Thị trường ngoại hối giao ngay là thị trường phi tập trung(không giao dịch trên sở giao dịch) bao gồm các NHTM,các công ty tài chính lớn,những nhà môi giới ngoại hối và cả NHTW,trong đó các NHTM đóng vai trò chủ chốt.Các thành viên liên hệ với nhau thông qua điện thoại,telex,mạng vi tính và hệ thống SWIFT.Các ngân hàng và các nhà môi giới có mối liên hệ khăng khít,hoạt động của họ tại một số trung tâm tài chính lớn chiếm hầu như 24h/ngày nhằm bắt kịp mọi diễn biến của thị trường ngoại hối toàn cầu.
Do tốc độ thông tin ngày nay rất nhanh,cho nên sự kiện quan trọng diễn ra trên thế giới có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức đến thị trường ngoại hối toàn cầu cho dù nhà kinh doanh ở rất xa nhau.Điều này đã làm cho thị trường ngoại hối hoạt động trở nên hiệu quả,giống như toàn bộ các nhà kinh doanh đang hoạt động dưới một mái nhà chung.
Tính hiệu quả của thị trường giao ngay được thể hiện ở chỗ:
-Thứ nhất:chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán(spread) là rất hẹp,thông thường là nhỏ hơn 0.1% (trong khi đó spread trong giao dịch tiền mặt là 5% đến 6%)
-Thứ hai:do tốc độ truyền tin nhanh,do vậy các thay đổi của thị trường đã ảnh hưởng tức thời lên tỷ giá,hay nói cách khác,tỷ giá hối đoái luôn biến động để phản ánh những thay đổi của thị trường.
-Thứ ba:đây là thị trường có tính thanh khoản rất cao,vì:
.luôn sẵn có số tiền cần thiết(the right amount is available)
.Tại địa điểm cần có(at the right location)
.Tại thời điểm có nhu cầu(at the right time)
.Bằng đồng tiền cần có(in right currency)
.Với giá cả hợp lý(at the right price)
1.2.2.Nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn
1.2.2.1. Khái niệm và các vấn đề cơ bản
Giao dịch mua bán kỳ hạn là một giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một tỷ giá xác định tại một thời điểm sau đó hay sau một thời hạn xác định kể từ ngày ký kết giao dịch
Trong thực tế kinh doanh ngoại hối,ngày giá trị của giao dịch ngoại hối có thể là bất cứ khi nào kể từ ngày kí kết hợp đồng cho đến vài năm trong tương lai.Ví dụ,đó có thể là ngày giá trị hôm nay(today valued date),ngày mai(tomorrow valued date),ngày kia(spot valued date).hay kì hạn(forward valued date).Trong đó ngày giá trị giao ngay là ngày quan trọng nhất,nó được xem như ngày mốc để xác định các ngày giá trị khác.Căn cứ vào mốc là ngày giá trị giao ngay,ta định nghĩa:Những giao dịch ngoại hối có ngày giá trị xa hơn ngày giá trị giao ngay gọi là giao dịch ngoại hối kì hạn(forward transactions).
Tỷ giá áp dụng trong giao dịch kì hạn được gọi là tỷ giá kì hạn:Tỷ giá kì hạn là tỷ giá được thỏa thuận ngay từ ngày hôm nay để làm cơ sở cho việc trao đổi tiền tệ tại một ngày xác định xa hơn ngày giá trị giao ngay.Nếu gọi S là tỷ giá giao ngay,F là tỷ giá kỳ hạn và P là điểm kỳ hạn thì ta có thể viết:
F=S+P -> P=F-S
Như vậy,tỷ giá kỳ hạn bao gồm hai thành phần là:(i) tỷ giá giao ngay; (ii) điểm kỳ hạn.Do đó:điểm kỳ hạn là chênh lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay.
Hợp đồng kỳ hạn là một công cụ tài chính để mua hoặc để bán một số tiền nhất định,tại một tỷ giá nhất định,tại một thời điểm xác định trong tương lai.Các hợp đồng kỳ hạn được giao kết và giao dịch giữa các ngân hàng và khách hàng,hay giữa các ngân hàng với nhau.Giao dịch kỳ hạn không diễn ra trên sở giao dịch mà giống như giao dịch giao ngay,đây là thị trường phi tập trung của ngân hàng và các nhà môi giới được liên kết với nhau bằng điện thoại,telex,fax,hệ thống SWIFT.Bộ phận liên ngân hàng của thị trường hoạt động liên tục thông qua việc đấu giá mở hai chiều giữa các thành viên tham gia,nghĩa là mỗi ngân hàng yết tỷ giá kỳ hạn mua vào và bán ra liên tục cho các ngân hàng khác,và ngược lại,những nhà môi giới đóng vai trò tương tự như trên thị trường giao ngay,đó là đối chiếu các lệnh đặt mua và các lệnh đặt bán giữa các ngân hàng nhằm đưa ra “giá tay trong”tốt nhất cho các khách hàng.
1.2.2.2. Phương pháp xác định tỷ giá kỳ hạn
-Công thức tổng quát xác định tỷ giá kỳ hạn thường được áp dụng tại các NHTM hiện nay:
Chúng ta kí hiệu:
PV=giá trị hiện tại(Present Value)
FV=giá trị kì hạn(Forward Value)
PVT=giá trị hiện tại của đồng tiền định giá
(Present Value of Terms Currency)
PVC=giá trị hiện tại của đồng tiền yết giá
(Present Value of Commodity Currency)
FVT=giá trị kì hạn của đồng tiền định giá
(Forward Value of Terms Currency)
FVc=giá trị kì hạn của đồng tiền yết giá
(Forward Value of Commodity Currency)
RT=mức lãi suất/năm của đồng tiền định giá
Rc=mức lãi suất/năm của đồng tiền yết giá
t=thời hạn hợp đồng,tính theo năm
Giả sử tỷ lệ trao đổi giao ngay giữa đồng tiền định giá và đồng tiền yết giá là :
PVc=PVT
Chúng ta định nghĩa:Tỷ giá giao ngay là tỷ số giữa giá trị hiện tại của đồng tiền định giá chia cho giá trị hiện tại của đồng tiền yết giá,ta có:
S=
Giả sử tỷ lệ trao đổi kỳ hạn(tại một thời điểm nhất định trong tương lai)giữa đồn tiền định giá và đồng tiền yết giá là:
FVc=FVT
Chúng ta định nghĩa:Tỷ giá kỳ hạn là tỷ số giữa giá trị kỳ hạn của đồn tiền định giá chia cho giá trị kỳ hạn của đồng tiền yết giá,ta có:
F=
Áp dụng công thức giá trị thời gian của tiền tệ ta có:
FVT=PVT(1+RT.t)
FVc=PVc(1+Rc.t)
Chúng ta có thể biểu diễn tỷ giá kỳ hạn như sau:
F==
F=S.(*)
Công thức trên là công thức tổng quát để xác định tỷ giá kỳ hạn
Trên thực tế,tỷ giá kỳ hạn thường được biểu diễn dưới dạng phân tích bằng hai đại lượng là tỷ giá giao ngay và điểm kỳ hạn như sau:
F=S+P
Do đó chúng ta có thể biến đổi công thức tổng quát thành dạng phân tích phổ biến trong thực tế như sau:
Từ(*) ta có:
F=S.
=S+S.-S
=S+S.[ -1]
=S+S.
F=S+S.(**)
-Điểm kỳ hạn-Forward Points
*Công thức tính điểm kỳ hạn:
Tỷ giá kỳ hạn bằng tỷ giá giao ngay cộng với điểm kỳ hạn,do đó chúng ta có thể viết:
F=S+P => P=F-S
Trong đó:P là điểm kỳ hạn
Từ công thức tổng quát(**),điểm kỳ hạn được tính như sau:
P=S.
*Công thức tính điểm kỳ hạn mua vào:
Tỷ giá kỳ hạn mua vào được xác định theo công thức:
FB=SB+PB
Trong đó:PB là điểm kỳ hạn mua vào.
Do đó:
PB=FB-SB => PB=SB
*Công thức tính điểm kỳ hạn bán ra:
Tỷ giá kỳ hạn bán ra được tính theo công thức:
FO=SO+PO
Trong đó:PO là điểm kỳ hạn bán ra.
Do đó:
PO=FO-SO => PO=SO
*Các nhân tố tác động lên điểm kỳ hạn:
+Nếu tỷ giá giao ngay trong ngày biến đổi càng lớn thì điểm kỳ hạn thay đổi càng nhiều.
+Chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền(RT-Rc) càng lớn thì điểm kỳ hạn càng lớn.
+Kỳ hạn càng dài thì điểm kỳ hạn càng lớn.
1.2.3.Nghiệp vụ kinh doanh hoán đổi(Swap):
1.2.3.1. Khái niệm và những đặc điểm
Giao dịch hoán đổi ngoại hối(giao dịch hoán đổi) là việc đồng thời mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định,trong đó ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác nhau
Từ khái niệm trên chúng ta có thể thấy một hợp đồng hoán đổi có các đặc điểm sau:
-Hợp đồng mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định được ký kết đồng thời tại ngày hôm nay.Giống như trên thị trường giao ngay và giao kỳ hạn,nếu không có thỏa thuận khác,thì khi nói mua một đồng tiền có nghĩa là ngân hàng yết giá mua vào đồng tiền yết giá,và bán ra một đồng tiền có nghĩa là ngân hàng yết giá bán ra đồng tiền yết giá.
-Số lượng mua vào và bán ra đồng tiền này(đồng tiền yết giá)là bằng nhau trong cả hai vế(vế mua và vế bán)của hợp đồng hoán đổi.
-Ngày giá trị của hợp đồng mua vào và ngày giá trị của hợp đồng bán ra là khác nhau.
Từ khái niệm và đặc điểm trên ta có thể thấy giao dịch hoán đổi có thể gồm hai loại:
Thứ nhất,bao gồm một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn(spot-forward swap).Ví dụ,hợp đồng hoán đổi giao ngay-kỳ hạn giữa VND-USD như sau:
Mua(bán) USD Bán(mua) USD
Giao ngay kỳ hạn
|_______________________________|
t0 t1
Thứ hai,bao gồm hai giao dịch đều là giao dịch kỳ hạn được ký kết đồng thời tại ngày hôm nay,nhưng có ngày giá trị khác nhau(Forward-Forward Swap).Ví dụ:
Ký kết mua(bán) USD bán(mua) USD
hợp đồng kỳ hạn kỳ hạn
|_____________________|_______________________| t0 t1 t2
hôm nay hợp đồng F1 hợp đồng F2
1.2.3.2. Tỷ giá hoán đổi-Swap rates
Tỷ giá hoán đổi phản ánh điểm kỳ hạn(forward points)hay điểm hoán đổi(swap points),tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng hoán đổi hai đồng tiền nhất định thông qua giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn.Như vậy,xét về bản chất thì:
Swap Rates=Swap points=forward points
Tỷ giá hoán đổi(swap rates)chính là tỷ giá kỳ hạn nên có thể viết:
Swap Rates=Tỷ giá kỳ hạn-Tỷ giá giao ngay
Xét về bản chất thì tỷ giá hoán đổi không phải là tỷ giá thực mà nó là chênh lệch giữa các tỷ giá.Ví dụ:
Ta có tỷ giá(VND/USD) như sau:
Tỷ giá giao ngay =14.510
Tỷ giá kỳ hạn=14660
Tỷ giá hoán đổi 3 tháng= +150
Tỷ giá nghịch đảo của (USD/VND) như sau:
Tỷ giá giao ngay= 1:14.510=0.00068918
Tỷ giá kỳ hạn 3 tháng =1:14.660=0.00068213
Tỷ giá hoán đổi 3 tháng(đối ứng) = -0.00000705
Nghĩa là tỷ giá hoán đổi đối ứng không phải là số nghịch đảo của tỷ giá hoán đổi ban đầu.
1.2.4. Nghiệp vụ kinh doanh tương lai
1.2.4.1.Khái niệm và những đặc điểm
Hợp đồng tương lai là một thỏa thuận về mua bán một tài sản trong tương lai với một mức giá cố định.Nói một cách ngắn gọn,giá cả được thỏa thuận trong ngày giao dịch,còn việc giao nhận tài sản và thanh toán được xảy ra sau này.Những hợp đồng giao dịch như vậy được giao dịch trên nhiều sở giao dịch khác nhau trên phạm vi toàn thế giới.Sở giao dịch lớn nhất và nổi tiếng nhất là sở giao dịch Chicago,ngoài ra còn nhiều sở giao dịch được đặt ở nhiều thành phố khác nhau như:NewYork, London, Paris, Singapore,Tokyo,Osaka và Sydney.
Hợp đồng tương lai có các đặc điểm giống với hợp đồng k._.ỳ hạn,đó là,giá cả ghi trong hợp đồng được thỏa thuận trong ngày hôm nay và hàng hóa giao dịch cũng được xác định chi tiết trong ngày hôm nay,ngoài ra nó có một đặc điểm khác với hợp đồng kỳ hạn ở chỗ trách nhiệm giao hàng và thanh toán giá trị hàng hóa không bắt buộc,hai bên có thể chấm dứt hợp đồng tại bất cứ thời điểm nào.Một hợp đồng tương lai không phải là thỏa thuận man tính cá nhân,các hợp đồng tương lai được thỏa thuận qua sở giao dịch và do đó các bên có thể chấm dứt hợp đồng(tất toán hợp đồng) tại bất cứ thời điểm nào thông qua sở giao dịch.
Các đặc điểm cơ bản của hợp đồng tiền tệ tương lai:
-Các hợp đồng tiền tệ tương lai,là những hợp đồng được tiêu chuẩn hóa và được thực hiện tại các sàng giao dịch của sở giao dịch tiền tệ tương lai-furtures exchange.Các công ty,các các nhân và cả các ngân hàng tạo thị trường gửi các lệnh đặt mua hay đặt bán một số lượng cố định ngoại hối cho các nhà môi giới hay các thành viên của sở giao dịch.trên sở giao dịch,các lệnh đặt mua(go long) được đối chiếu với các lệnh đặt bán(go short).Một công ty thanh toán bù trừ (clearing corporation) của sở giao dịch đảm bảo cho cả bên mua và bán rằng các lệnh mua và bán sau khi đã được đối chiếu và khớp nhau chắc chắn sẽ được thực hiện.Cung cầu về các hợp đồng tương lai được thể hiện thông qua việc các đối tác sẵn sàng mua hay sẵn sàng bán các hợp đồng,điều này làm cho giá cả các hợp đồng biến đổi theo giá của các lệnh đặt mua hay giá của các lệnh đặt bán.Mặt khác,giá cả biến động làm cho các hợp đồng mua và các hợp đồng bán khớp khau.Trong những tình huống đặc biệt,các lệnh đặt mua và các lệnh đặt bán có khoảng cách xa nhau về giá cả,các giao dịch trên thị trường tạm thời không xảy ra
Để một thị trường trở thành một thị trường của các hợp đồng tương lai,thì cần thiết là chỉ tồn tại một số ngày giao dịch nhất định.Tại sở giao dịch CME(the Chicago Mercantile Exchange)chỉ có 4 ngày giao dịch,đó là thứ tư của tuần thứ ba trong trong các tháng ba,sau,chín và mười hai.Sau khi đã mua hay bán thì các hợp đồng tương lai ít khi duy trì cho đến ngày đáo hạn.
1.2.4.2. So sánh giữa thị trường kỳ hạn và thị trường tương lai
Tiêu chí
Các thị trường kỳ hạn
Các thị trường tương lai
Địa điểm
giao dịch
Phi tập trung,có mạng lưới toàn cầu,các thành viên giao dịch với nhau bằng điện thoại,telex hay hệ thống giao dịch điện tử
Tập trung trên sàn của sở giao dịch,các thành viên giao dịch với nhau theo phương thức mặt đối mặt
Giá trị một hợp đồng
Không được tiêu chuẩn hóa và là một giá trị tùy ý,giá trị giao dịch được thỏa thuận giữa người mua và người bán
Được tiêu chuẩn hóa,cố định và không thương lượng được.Các giao dịch có độ lớn bằng bội số của giá trị một hợp đồng
Các đồng tiền giao dịch
Tất cả các đồng tiền nếu có thể mua bán được
Hầu hết chỉ là các đồng tiền chính
Điều khoản biến động tỷ giá hàng ngày
Hàng ngày giá cả biến động theo cung cầu thị trường,không có giới hạn,trừ khi có sự can thiệp của NHTW
Mức độ biến động tỷ giá hàng ngày có thể được giới hạn bởi sở giao dịch
Những ngày đến hạn
Vào bẩt cứ ngày làm việc nào nếu có sự thỏa thuận giữa người mua và người bán
Những ngày đến hạn được tiêu chuẩn hóa
Thời hạn tối đa
Không hạn chế.Có những hợp đồng có kỳ hạn lên tới 20 năm
Tối đa là 12 tháng
Rủi ro tín dụng
Phụ thuộc vào bên đối tác.Rủi ro được phòng ngừa bằng các hạn mức tín dụng và ngày nay yêu cầu ký quỹ cũng đang được thịnh hành
Rủi ro tín dụng gắn với sở giao dịch.Rủi ro được phòng ngừa bằng biện pháp ký quỹ.Tài khoản ký quỹ được điều chỉnh hàng ngày theo mức lãi hay lỗ của hợp đồng
1.2.5. Nghiệp vụ kinh doanh quyền chọn
1.2.5.1.Khái niệm
Quyền chọn là công cụ tài chính mang lại cho người sở hữu nó quyền mua hoặc bán(nhưng không bắt buộc)một số lượng ngoại tệ nhất định với giá ấn định(giá thực hiện)vào hoặc tới một ngày ấn định.Người mua hợp đồng quyền chọn phải trả cho người bán hợp đồng một số tiền lệ phí nhất định.
Hợp đồng quyền chọn có hai loại:
-Hợp đồng quyền chọn mua tiền tệ:Là hợp đồng,trong đó người mua hợp đồng có quyền mua một đồng tiền nhất định.
-Hợp đồng quyền chọn bán tiền tệ:Là hợp đồng,trong đó người mua hợp đồng có quyền bán một đồng tiền nhất định.
*Các bên tham gia hợp đồng quyền chọn:Trong mỗi hợp đồng quyền chọn đều có hai đối tác tham gia:người bán hợp đồng và người mua hợp đồng
-Mua một hợp đồng quyền chọn có thể là:mua quyền chọn bán,hay mua quyền chọn mua.Người mua hợp đồng,sau khi trả phí mua quyền chọn,luôn quan tâm đến quyền tiến hành giao dịch,nếu thấy có lợi,hoặc là không tiến hành giao dịch,nếu như thấy bất lợi.
-Bán một hợp đồng quyền chọn có thể là:bán quyền chọn bán,hay bán quyền chọn mua.Người bán hợp đồng sau khi đã thu phí bán quyền chọn,có nghĩa vụ luôn sẵn sàng tiến hành giao dịch tại mức tỷ giá thỏa thuận,nếu người mua thực hiện quyền chọn của mình.
*Tỷ giá quyền chọn:trong giao dịch quyền chọn tiền tệ thì tỷ giá trong các hợp đồng quyền chọn được hình thành ngoài yếu tố cung cầu,còn phụ thuộc vào mức phí quyền chọn cao hay thấp,do đó nó có thể cao hơn hay thấp đáng kể so với các hợp đồng giao ngay hay hợp đồng kỳ hạn.
*Phí hợp đồng quyền chọn là khoản tiền mà người mua hợp đồng quyền chọn phải trả cho người bán.Phí hợp đồng quyền chọn phải là lượng tiền hợp lý,sao cho đủ để bù đắp rủi ro xét từ góc độ của người bán và không quá đắt xét từ góc độ của người mua.Nếu hợp đồng đáo hạn mà không xảy ra giao dịch,thì chỉ có một luồng tiền duy nhất xảy ra,đó là khoản phí quyền chọn mà người mua trả tiền cho người bán.Như vậy,thu nhập của người bán bị giới hạn và tối đa chỉ bằng khoản phí quyền chọn đã thu.
*Các nhân tố ảnh hưởng lên phí hợp đồng quyền chọn
-Giá trị nội tại của hợp đồng quyền chọn:là giá trị ở trạng thái”được giá quyền chọn”.Nói cách khác,giá trị nội tại là chênh lệch giữa tỷ giá quyền chọn và tỷ giá hiện hành của thị trường.Phí của hợp đồng sẽ là một số không nhỏ hơn giá trị nội tại của hợp đồng.
-Giá trị ngoại lai của hợp đồng quyền chọn:là giá trị còn lại của hợp đồng sau khi trừ đi giá trị nội tại của hợp đồng.
-Thời hạn đến hạn của hợp đồng quyền chọn:càng dài thì càng có khả năng tỷ giá thị trường biến động trên mức tỷ giá quyền chọn đối với hợp đồng quyền chọn mua và thấp hơn tỷ giá quyền chọn của hợp đồng quyền chọn bán.Do vậu,thời hạn hợp đồng càng dài thì người mua sẵn sàng trả phi hợp đồng quyền chọn càng lớn và người bán yêu cầu phí quyền chọn càng cao.
1.2.5.2.Những quy tắc ứng dụng quyền chọn tiền tệ
-Giao dịch quyền chọn tiền tệ thường là phương án tốt nhất thứ hai sau giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn.Do đó,nếu nhà kinh doanh có niềm tin chắc chắn vào xu hướng biến động của thị trường thì ưu tiên giao dịch giao ngay hay giao dịch kỳ hạn hơn là giao dịch quyền chọn.
-Nếu thị trường ngoại hối ổn định thì:
+Phương án bán quyền chọn tỏ ra hiệu quả,bởi vì người bán thu được phí bán quyền chọn.Do thu được phí,giao dịch quyền chọn sẽ tỏ ra có hiệu quả hơn giao dịch giao ngay và kỳ hạn
+Phương án mua quyền chọn tỏ ra kém hiệu quả nhất,bởi vì người mua phải trả chi phí quyền chọn mua,trong khi đó thị trường lại không biến động.
-Giao dịch quyền chọn chỉ là một phương án,chứ không phải là cứu cánh để thay thế giao dịch giao ngay hay kỳ hạn.
-Các hợp đồng quyền chọn mua thuộc tài sản có và các hợp đồng quyền chọn bán thuộc tài sản nợ.Do thị trường ngoại hối luôn luôn biến động,là xuất hiện các cơ hội hấp dẫn có thể bán lại hay mua lại(chuyển nhượng) hợp đồng quyền chọn nhằm đảm bảo lãi kinh doanh ngoại hối.Không nên thụ động chờ đến khi hợp đồng đáo hạn mà không làm bất cứ điều gì trước đó.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh ngoại hối tại NHTM
-Quan hệ kinh tế đối ngoại:Kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác trên thế giới và với các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế,trong đó quan hệ ngoại thương,dịch vụ đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ là những quan hệ kinh tế quan trọng,đó là những nhân tố thúc đây hoạt động ngoại hối phát triển.Thông qua các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế làm nảy sinh hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với các nhà xuất nhập khẩu và thúc đẩy ham muốn kiếm tiền của các nhà kinh doanh đầu cơ kinh doanh chênh lệch lãi suất có bảo hiểm rủi ro ngoại hối.
-Chính sách quản lý ngoại hối của các quốc gia:Chính sách quản lý ngoại hối là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường ngoại hối của mỗi quốc gia.Trên cơ sở các quan hệ mua bán chuyển nhượng,đầu tư ngoại hối…nó còn quyết định tính biệt lập hay thông suốt của thị trường này đối với thị trường khác.
Chế độ quản lý ngoại hối tự do tại các nước tư bản phát triển:Cho phép đồng tiền các quốc gia này tự do tham gia vào thị trường quốc tế,tự do chuyển đổi ra tiền tệ nước ngoài.Tại các nước này không có chế độ cấp phép kinh doanh ngoại tệ,tỷ giá hình thành theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường,nhà nước không khống chế và không kiểm soát tỷ giá.Sự vận hành và phát triển của thị trường ngoại hối hoàn toàn theo cơ chế điều tiết thị trường
Chế độ quản lý ngân hàng tại các nước kém phát triển và đang phát triển:Đó là nhà nước quản lý chặt chẽ các luồng vậ động của ngoại hối.Trong phạm vi quốc gia,việc lưu hành ngoại tệ bị giới hạn,những tổ chức kinh tế hay các nhân có hoạt động thương mại,dịch vụ hay đầu tư quốc tế mới được phép mua bán ngoại tệ.Mọi nguồn ngoại tệ có được đều phải bán cho NHTM.Chính cơ chế quản lý ngoại hối kiểu này đã kìm hãm sự phát triển của thị trường ngoại hối cũng như các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối cả về lượng lẫn về chất.
-Sự biến động của tỷ giá:Tỷ giá hối đoái là phạm trù bắt buộc từ trao đổi hàng hóa,dịch vụ dẫn đến trao đổi về tiền tệ.Tỷ giá biến động luôn là sự quan tâm của mọi chủ thể trong xã hội.Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và hội nhập trong từng khu vực,các hoạt động kinh tế không ngừng tác động trực tiếp lên tỷ giá hoặc ngược lại,tỷ giá cũng làm cho hoạt động trao đổi thương mại quốc tế phát triển mạnh lên hoặc kìm hãm nó.Trong chế độ tỷ giá thả nổi,sự biến động của các đồng tiền dẫn tới nhiều nghiệp vụ mới ra đời.Kể từ năm 1973 tới nay,các nghiệp vụ quyền chọn và tương lai đã xuất hiện và phát triển khá mạnh mẽ,đặc biệt được áp dụng nhiều tại Mỹ,Đức và một sối nước thuộc khu vực châu Á.Sự ra đời các nghiệp vụ này cộng với khối lượng mua bán ngày càng tăng lên đã đánh dấu bước phát triển mạnh của lãnh vực kinh doanh ngoại hối.
-Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của các NHTM:Đối với NHTM,ngoài các nghiệp vụ liên quan tới đồng nội tệ,còn có các nghiệp vụ liên quan tới ngoại tệ như huy động vốn,cho vay thanh toán quốc tế,bảo lãnh vay vốn nước ngoài bằng ngoại tệ.Giữa các nghiệp vụ này có mối quan hệ chặt chẽ,nghiệp vụ này sẽ làm cơ sở,tạo điều kiện để phát triển các nghiệp vụ khác.Trong đó nghiệp vụ thanh toán quốc tế và tài trợ xuất nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt độnh kinh doanh ngoại hối.
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI NHTMCPQD
2.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại cổ phần quân đội
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển
Qua 12 năm xây dựng và trưởng thành,ngân hàng thương mại cổ phần quân đội đã có những bước phát triển vững chắc và trờ thành địa chỉ tin cậy về hoạt động tài chính cho mọi đối tượng khách hàngtrong và ngoài nước.Với mục tiêu kinh doanh an toàn,tuân thủ,tiệm cận với thông lệ quốc tế về hoạt động tài chính ngân hàng đã tạo ra cho MB sự ổn định,minh bạch,hiệu quả và liên tục tăng trưởng
Tính đến ngày cuối năm 2006, vốn điều lệ của MB đã đạt 1.045 tỷ đồng, tăng hơn 50 lần so với ngày đầu thành lập, trong đó có hơn 4.000 cổ đông pháp nhân và thể nhân, thể hiện sự đa dạng hoá trong sở hữu của MB. Huy động vốn tính đến ngày 31/12/2006 đạt 11.200 tỷ đồng, trong đó vốn huy động từ dân cư ngày càng tăng, chiếm 50% tỷ lệ nguồn vốn huy động, vượt kế hoạch của cả năm là 20%. Lợi nhuận trước thuế đạt 252 tỷ đồng, vượt 25% kế hoạch. Tổng tài sản đạt 13.864 tỷ đồng, tăng 69% so với năm 2005, dư nợ đạt xấp xỉ 6.200 tỷ đồng. Tỷ lệ lợi tức trên vốn cổ phần của MB luôn dẫn đầu trong khối các ngân hàng TMCP. Đặc biệt, tỷ lệ chia cổ tức cho cổ đông năm 2006 là 60% trong đó 42% được chia bằng cổ phiếu và 18% được chia bằng tiền mặt.
Hiệu quả hoạt động của MB luôn được các cơ quan quản lý, đối tác cũng như khách hàng đánh giá cao. Liên tục được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A và trao tặng nhiều bằng khen cho những thành tích xuất sắc; nhiều năm liền nhận được các giải thưởng thanh toán quốc tế do các ngân hàng uy tín quốc tế trao tặng như HSBC, Standard Chatered Bank, UBOC; được người tiêu dùng bình chọn là Thương hiệu mạnh liên tục trong hai năm liền 2005 và 2006; đạt cúp vàng Top ten thương hiệu Việt, ngành hàng: Ngân hàng – tài chính năm 2006; …và nhiều giải thưởng có uy tín, giá trị khác.
2.1.2.Tổ chức bộ máy của NHTMCPQD
Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của Ngân hàng, hàng năm, hàng ngàn lượt cán bộ, nhân viên chủ chốt của MB đã được cử đi đào tạo trong và ngoài nước. Trong vòng từ năm 2005 đến đầu năm 2007, gần 600 cán bộ, nhân viên đã được MB tuyển dụng vào làm việc tại Ngân hàng. Bởi vậy, hiện nay hơn 1.000 cán bộ, nhân viên đang cống hiến và làm việc tại Ngân hàng với những chính sách, chế độ đãi ngộ thoả đáng. Dự kiến đến cuối năm 2007, con số này sẽ tăng lên 50-60%.
Cùng với số lượng nhân viên trẻ, dồi dào và có chuyên môn hoá cao, MB đang phát triển trở thành ngân hàng đa năng với việc thành lập các công ty chứng khoán Thăng Long, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty Quản lý quỹ đầu tư Hà nội, tham gia góp vốn đầu tư các công ty trực thuộc đã hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận và tạo lập được uy tín trên thị trường. Công tác quản trị rủi ro được đặt lên hàng đầu nhằm đưa ra các giải pháp tổng thể để giảm thiểu rủi ro không chỉ cho Ngân hàng mà cho cả khách hàng. MB luôn đảm bảo tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế và tỷ lệ nợ xấu ở mức hợp lý.
Mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng:
Kế thừa bản lĩnh và đạo đức của người lính, mỗi nhân viên thuộc đại gia đình Ngân hàng Quân Đội đang quyết tâm và đồng lòng hướng tới mục tiêu phát triển ngân hàng trở thành một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu tại Việt Nam, trở thành một đối tác tin cậy, an toàn và trung thực, đem lại lợi ích tối đa cho khách hàng thông qua việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng tiện ích và ưu việt, cung cấp các sản phẩm đa dạng, luôn cải tiến phù hợp theo xu thế thị trường và yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
2.1.3.Tổ chức hoạt động kinh doanh tại NHTMCPQD
2.1.3.1.Kinh doanh trong nước
*Mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh
-Phòng kinh doanh ngoại hối tại trụ sở chính của ngân hàng,phòng này có chức năng và nhiệm vụ cơ bản:
+Chịu sự quản lý trực tiếp của ban lãnh đạo ngân hàng,thực hiện chức năng hoạt động kinh doanh ngoại hối của toàn hệ thống
+Là đầu mối duy nhất của ngân hàng được quyền kinh doanh trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và trên thị trường quốc tế.
+Có chức năng chỉ đạo,kiểm tra hoạt động kinh doanh ngoại hối đối với các chi nhánh thuôc hệ thống ngân hàng
-Phòng kinh doanh ngoại hối tại các chi nhánh
Nhiệm vụ của phòng kinh doanh ngoại hối tại các chi nhánh bao gồm:
+Thực hiện mua bán với trụ sở chính và với các tổ chức kinh tế là pháp nhân của VN có nguồn ngoại tệ và nhu cầu ngoại tệ phù hợp với quy định quản lý ngoại hối hiện hành.
+Được phép mua ngoại tệ từ các tổ chức tín dụng,nhưng không được phép bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng(kể cả cho các chi nhánh trong hệ thống ngân hàng),nếu dư thừa ngoại tệ,chi nhánh phải bán lượng dư thừa đó cho trụ sở chính để cân đối ngoại tệ cho toàn hệ thống
+Chi nhánh được quyền ấn định tỷ giá VND với các ngoại tệ khác trên cơ sở tỷ giá do trụ sở chính thông báo,đồng thời đảm bảo tính cạnh tranh trên từng địa bàn
*Nội dung kinh doanh
Tại các chi nhánh:Mua bán giao ngay,kỳ hạn và hoán đổi có thể thực hiện với khách hàng là các nhân hay tổ chức kinh tế trên địa bàn của chi nhánh (thực hiện theo quyết định số 17/1998//QD/NHNN),ngoài các giao dịch nêu trên,các chi nhánh cũng được kinh doanh chênh lệch giá giữa khách hàng trong nước với thị trường nước ngoài thông qua trụ sở chính
Tại trụ sở chính:Nghiệp vụ kinh doanh giao ngay,kỳ hạn và hoán đổi có thể được thực hiện giữa trụ sở với các chi nhánh trong cùng hệ thống ngân hàng,với các khách hàng trên địa bàn,giao dịch với các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng,kinh doanh chênh lệch giá và thực hiện giao dịch Swaps với NHNN theo quyết định số 893 và 894/2001/QD/NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc NHNN
2.1.3.2.Kinh doanh trên thị trường quốc tế
Cùng với các hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường trong nước,thì NHTM còn tham gia trên thị trường quốc tế nhằm đa dạng hóa các loại ngoại tệ phục vụ cho khách hàng trong thanh toán và đầu tư quốc tế,đồng thời tạo điều kiện để tăng lợi nhuận cho ngân hàng của mình
Ngoài việc kinh doanh ngoại tệ phục vụ cho khách hàng,tại trụ sở chính cũng đã tiến hành ngiệp vụ đầu cơ trên thị trường ngoại hối quốc tế thông qua các ngân hàng nước ngoài trên các thị trường lớn như:London,Singapore.Nhờ có hoạt động trên thị trường ngoại hối quốc tế mà các nhu cầu về ngoại tệ cho khách hàng đã được đáp ứng,đồng thời qua hoạt động này,ngân hàng có thể khai thác được hoạt động đầu cơ kiếm lời.Đây là một trong những nghiệp vụ khó đòi hỏi các nhân viên cần phải có trình độ chuyên môn cao,có khả năng phân tích tình hình biến động của thị trường,các thông tin về kinh tế,chính trị xảy ra hàng ngày và ảnh hưởng của các thông tin đó đến các đồng tiền lớn trên thế giới,có như vậy mới nắm bắt được quy luật biến động của các đồng tiền đó.Đồng thời yếu tố quan trọng hiện nay đối vớic các NHTM VN là muốn mua bán được với nước ngoài thì trước hết phải thiết lập được các hạn ngạch gia dịch hối đoái với các ngân hàng đại lý.Các hạnn ngạch này phụ thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng với các ngân hàng đại lý như mức độ đánh giá tín nhiệm của họ đối với ngân hàng mình..
2.1.3.3.Cơ sở pháp lý để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh
Đối với các NHTM thì việc kinh doanh ngoại hối được xem như là sản phẩm mới,do đó bước đầu còn sơ khai về nghiệp vụ,trang thiết bị,quy mô hoạt động,nhận thức của đội ngũ khách hàng.Chính vì vậy,ngân hàng chỉ đơn thuần cung cấp dịch vụ mua bán cho khách hàng để hưởng phí.Hay nói cách khác,xét về mặt nghiệp vụ,trong thời gian đầu ngân hàng chưa triển khai thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh do tỷ giá biến động tạo ra để thu lợi nhuận trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế.Tuy nhiên,trước áp lực cạnh tranh của quy luật thị trường,ngân hàng buộc phải từng bước nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ,hiện đại hóa hệ thống thiết bị kinh doanh,mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối tới tận khách hàng.
Để tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh ngoại hối đang dần dần từng bước phát triển của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần quân đội nói riêng,thống đốc NHNN đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến hoạt động ngoại hối như quy chế giao dịch hối đoái,văn bản về việc xác định tỷ giá giao ngay,kỳ hạn,hoán đổi..đó là:
-Quyết định số 17/1998/QD-NHNN7 ngày 10/1/1998 của thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành quy chế hoạt động giao dịch hối đoái.
-Quyết định số 430-1997/QD/NH13 ngày 24/12 năm 1997 của thống đốc NHNN về việc thực hiện Swap giữa NHNN với các NHTM
-Quyết định số 16/1998/QD-NHNN7 ngày 10/1/1998 của thống đốc NHNN quy định việc ấn định mua bán tỷ giá ngoại tệ kỳ hạn,hoán đổi của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động giao dịch hối đoái kỳ hạn,hoán đổi.
-Quyết định số 18/1998/QD-NHNN7 ngày 10/1/1998 của thống đốc NHNN ban hành quy định về trạng thái ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối.
-Quyết định số 101/1999/QD/NHNN13 ngày 26/3/1999 của thống đốc NHNN ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
-Quyết định số 64/1999/QD/NHNN7 ngày 25/2/1999 của thống đốc NHNN công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ
-Quyết định số 65/1999/QD/NHNN7 ngày 25/2/1999 của thống đốc NHNN quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua vào và bán ra của ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ
Trên cơ sở các quyết định cụ thể nêu trên,NHTM đã triển khai cụ thể các quyết định này nhằm phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân hàng mình,trong quá trình triển khai,ngân hàng đã có những bước đi thận trọng,lúc đầu là dự thảo về quy chế,sau là quyết định chính thức
2.2.Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối tại NHTMCPQD
2.2.1.Nghiệp vụ kinh doanh giao ngay
Đối với các ngân hàng thương mại VN,nghiệp vụ ngoại hối giao ngay được coi là nghiệp vụ kinh doanh truyền thống của NH,có từ trước khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ra đời.Nghiệp vụ này áp dụng sớm nhất so với các nghiệp vụ khác là do nhu cầu thanh toán quốc tế và đầu tư nước ngoài đòi hỏi.Hiện nay nghiệp vụ kinh doanh giao ngay vẫn phát triển mạnh,có tỷ trọng cao trong tổng doanh số mua bán ngoại tệ trên thị trường.Thực trạng về hoạt động của nghiệp vụ kinh doanh giao ngay tại MB phản ánh qua một loạt các tiêu chí như:Cách niêm yết và thông báo tỷ giá tại trụ sở NH.quy trình giao dịch,doanh số giao dịch…
2.2.1.1.Xác định tỷ giá giao ngay
Hàng ngày vào đầu giờ làm việc,tại phòng kinh doanh ngoại hối của hội sở,tỷ giá giao ngay VND/USD được xác định.Tỷ giá này dựa trên cơ sở:Tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày hôm trước,tỷ giá tham khảo của các NH bạn..Sau khi trình lãnh đạo duyệt,tỷ giá được công bố ngay đầu giờ làm việc.Các giao dịch diễn ra sau đó dựa vào tỷ giá công bố của NH và có thể được sử đụng cho suốt ngày làm việc hôm đó.Tỷ giá của các đông tiền còn lại so với VND được xác định dựa vào phương pháp tỷ giá chéo.Yết tỷ giá bao gồm cả tỷ giá ,mua và tỷ giá bán,tỷ giá tiền mặt và tỷ giá chuyển khoản.
2.2.1.2.Xác định tỷ giá chéo VND với các ngoại tệ khác
Phần lớn trên thị trường,các đồng tiền được yết so với USD,vì vậy việc xác định tỷ giá của những đồng tiền đó với VND cũng không có gì khó khăn,bằng phương pháp tỷ giá chéo,chúng ta có thể xác định được tỷ giá VND với các ngoại tệ khác trên thị trường ngoại hối áp dụng từ ngày 21/4 đến 30/4/2008 như sau:
Tên ngoại tệ
Tỷ giá
Tên ngoại tệ
Tỷ giá
1 EUR
25.453,01
1 dola Singapore
11.820,61
1 yên Nhật
155,94
1 Bath Thai
507,84
1 Bảng Anh
31.865,34
1 Franc Thụy sĩ
15.870,13
1 dola Úc
14.983,91
1 dola Canada
15.887,51
1 Rup Nga
683,47
1 dola Hongkong
2.047,89
1 dola Taiwan
527,15
1 nd tệ TQ
2.281,13
1 Kíp Lào
1,83
1 Pataca Macao
1.989,97
Trong một ngày,ngoài giao dịch với USD còn có giao dịch với các ngoại tệ khác diễn ra.Vì vậy tỷ giá chéo sẽ giúp các nhà kinh doanh ngân hàng cũng như các doanh nghiệp có được đồng tiền theo nhu cầu của mình một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Việc xác định tỷ giá tại các chi nhánh ngân hàng là do giám đốc chi nhánh quyết định có tham khảo tỷ giá của trụ sở chính và không được phép vượt mức trần tỷ giá do NHNN cho phép
2.2.1.3.Thực trạng kinh doanh trên thị trường bán lẻ
Hoạt động ngoại hối trên thị trường bán lẻ thường diễn ra giữa một bên là ngân hàng và bên kia là khách hàng gồm:Các các nhân hay các tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh có thu và chi ngoại tệ thường xuyên.Đây là những thành viên tham gia tích cực trên thị trường ngoại hối giao ngay ở VN,bới vì họ là những người mua bán nhiều nhất,có tỷ trọng doanh số mua bán cao nhất so với các thành viên khác.Những khách hàng này giao dịch trực tiếp với các NHTM,một khi nhu cầu của họ chưa được đáp ứng ngay tại các NHTM thì các NHTM sẽ tìm cách đáp ứng.Quy trình giao dịch diễn ra như sau:
Hàng ngày,khi khách hàng có nhu cầu mua bán ngoại tệ thì liên hệ trực tiếp với ngân hàng bằng điện thoại,ngân hàng thông báo cho khách hàng tỷ giá mua,bán.Trường hợp khách hàng muốn mua ngoại tệ bằng VND thì khách hàng phải làm đơn,trong đơn nói rõ mục đích mua ngoại tệ,số lượng tiền,hợp đồng thương mại kèm theo,hóa đơn..Khi nhận được đơn và hồ sơ đầy đủ,ngân hàng tiến hành kiểm tra và duyệt bán ngoại tệ trên cơ sở tỷ giá bán và nguồn ngoại tệ của ngân hàng mình.
Ví dụ:Ngày 10/4/2008,công ty dược phẩm TW1 thuộc tổng công ty dươc phẩm VN làm đơn gửi sở giao dịch ngân hàng quân đội xin mua 10000 USD để thanh toán cho công ty dược Sanofi Singapore theo hợp đồng số 61 CPC No 1/07(Q4) ngày 12/12/2007.Ngoài đơn xin mua ngoại tệ còn có:
-Hợp đồng 061 CPC No.1/07 (Q4) ngày 12/12/2007
-Hóa đơn thương mại ngày 29/2/2008
-Tờ khai hải quan hàng hóa xuất nhập khẩu
Sau khi kiểm tra,xét thấy mọi thủ tục đều hợp lệ,ngân hàng đồng ý bán và ghi”duyệt bán với số tiền 10000USD” trên tờ đơn xin mua ngoại tệ với tỷ giá VND/USD=16.119,00.Số tiền VND mà khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng là 161190000VND.Số tiền này ghi nợ tài khoản của công ty dược phẩm TW 1 tại sở giao dịch ngân hàng quân đội (theo ủy nhiệm chi số 11 lập ra ngày 10/5/2008 của công ty dược phẩm TW1)
2.2.1.4.Thực trạng kinh doanh trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Sau khi có quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành quy chế giao dịch hối đoái,hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã trở nên sôi nổi hơn nhiều so với các năm trước đó
Hiện nay các thành viên tham gia hoạt động trên Interbank VN chủ yếu là các NHTM và NHNN.Nhu cầu mua bán trên Interbank chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của khách hàng không được các NHTM đáp ứng.Hoặc nhu cầu của khách hàng đã được đáp ứng,nhưng các NHTM không muốn bị rủi ro bởi trạng thái ngoại hối thì NHTM phải tìm cách cân bằng trạng thái ngoại hối thông qua nghiệp vụ giao ngay trên thị trường này.Như vậy,ở một góc độ nào đó về lĩnh vực dịch vụ thì NHTM là người cung cấp dịch vụ đắc lực cho khách hàng của mình,song đứng trên góc độ quản lý rủi ro thì NHTM cũng là người biết kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất,tránh được rủi ro trạng thái ngoại hối và thu được lợi nhuận cho ngân hàng.Trên thị trường Interbank,ngoài các NHTM,NHNN cũng tham gia mua bán với NHTM với vai trò là người mua bán cuối cùng.
Doanh số mua bán giao ngay của thị trường ngoại hối:
Đơn vị:1000 USD
Năm
Doanh số mua
Doanh số bán
Tổng doanh số mua bán
Tỷ lệ tăng(%)
2003
2004
2005
2006
2007
6541,2
6937,6
9141,4
10373,3
14372,6
6838,2
6974,5
9246,2
10398,5
14805,1
13379,4
13912,1
18387,7
20771,8
29177,7
100,0
103,98
137,43
155.25
218,07
Với số liệu tại bảng trên cho ta thấy,doanh số mua bán ngoại tệ giao ngay của thị trường VN đều tăng qua các năm.Lấy năm 2003 làm năm mốc,năm 2004 tăng 103.98%,năm 2005 tăng 137,43% năm 2006 tăng lên 155,25%,năm 2007 là 218,07%.Doanh số mua bán ngoại tệ tăng đều theo các năm cho thấy một tín hiệu khả quan tích cực về hoạt động kinh doanh ngoại hối trên thị trường VN
Doanh số mua bán tăng lên qua các năm,đặc biệt vào năm 2007,thị trường ngoại tệ khá ổn định,lượng cung ngoại tệ trên thị trường dồi dào,tỷ giá ổn định,tỷ lệ kết hối theo quy định là 80%,có doanh nghiệp xuất khẩu bán 100% ngoại tệ thu được cho ngân hàng.Lượng tiền gửi bằng ngoại tệ của một số khách hàng vào các ngân hàng thương mại ngày càng tăng,trong khi đó nhu cầu mua ngoại tệ của nhiều khách hàng khác lại không được đáp ứng.
Đối với ngân hàng quân đội,số lượng ngoại tệ giao dịch trong năm 2007 tăng 68% so với năm 2006,trong đó doanh số mua trong nước tăng 73% và doanh số bán tăng 70%.Doanh số mua bán với nước ngoài năm 2007 so với năm 2006 tăng 45%.Những kết quả đạt được nêu trên đã chứng minh cho một tiềm năng rất lớn trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối mà ngân hàng đã đang và sẽ tiếp tục phát huy.
2.2.2.Nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn
Khác với nghiệp vụ kinh doanh giao ngay,nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn sử dụng trên thị trường ngoại hối nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro đối với các nhà xuất nhập khẩu,ngoài ra nghiệp vụ này còn có thể được sử dụng trong kinh doanh chênh lệch lãi suất và đầu cơ đối với các NHTM.Để thực hiện được nghiệp vụ này thì điều quan trọng là phải xác định được tỷ giá kỳ hạn,đồng thời phải ký kết hợp đồng giữa khách hàng với ngân hàng và vấn đề thực hiện hợp đồng đã được thỏa thuận.Những vấn đề cơ bản của giao dịch kỳ hạn trong thời gian qua tại NHQD bao gồm những nội dung sau:
2.2.2.1.Xác định tỷ giá kỳ hạn
Thực tiễn cho thấy,các giao dịch kỳ hạn hầu như mới phát triển vào giữa năm 1998 tại VN tức là sau khi có quyết định số 16 và 17/1998/QD-NHNN7 ngày 10/1/1998 của thống đốc NHNN quy định về việc ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ kỳ hạn,hoán đổi của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động giao dịch hối đoái kỳ hạn,hoán đổi.Qua nhiều lần bổ sung và sửa đổi mang tính pháp lý,ngày 25/2/1999 thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 64/1999/QD-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hố đoái của đồng VN với các ngoại tệ.Quyết định số 65/1999/QD-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.Sự ra đời của hai quyết định này đánh dấu một bước biến chuyển về chất trong việc điều hành tỷ giá tại VN.Theo quyết định 65/1999,tỷ giá kỳ hạn tại điều 2 được xác định theo nguyên tắc sau:
a/ Đối với giao dịch giữa đồng VN và USD,tối đa không được vượt quá mức trần tỷ giá giao ngay(tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố cộng 0.1%)cộng với mức gia tăng cho phép(tỷ lệ phần trăm mức trần của tỷ giá giao ngay)quy định đối với kỳ hạn 30 ngày là 0.58% và kỳ hạn từ ngày thứ 165 đến dưới 180 là 3.5%
b/ Đối với giao dịch liên quan tới ngoại tệ khác:Do tổng giám đốc (giám đốc)các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định.Thời hạn giao dịch tối đa là 6 tháng.
Sau một thời gian áp dụng khoản 1 điều 2 quyết định 65/1999 được thay thế bằng điều 1 quyết định số 289/2000/QD-NHNN7,về việc thay đổi tỷ lệ gia tăng vào mức trần tỷ giá giao ngay,cụ thể là:
Đối với giao dịch giữa đồng VN và đô la Mỹ,mức tỷ lệ áp dụng cho từng kỳ hạn cụ thể tối đa không được vượt quá trần của tỷ giá giao ngay áp dụng tại thời điểm ký kết hợp đồng kỳ hạn,hoán đổi(tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố cộng 0.1%) cộng với mức gia tăng cho phép(tỷ lệ phần trăm của mức trần tỷ giá giao ngay(quy định tối thiểu 0.2% của trần tỷ giá giao ngay đối với kỳ hạn 30 ngày và tối đa 1.5% của trần tỷ giá giao ngay đối ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33028.doc