Mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với cá nhân tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương (60tr)

Lời mở đầu Kết luận Lời mở đầu Hiện nay Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt, không ngừng. Cùng với xu thế chung đó sự cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng cũng diễn ra khốc liệt. Cạnh tranh là một yếu tố khách quan, quan trọng để thúc đẩy phát triển nền kinh tế ,cạnh tranh vừa là một yếu tố thách thức của sự phát triển, và cũng là một nhân tố thúc đẩy phát triển dịch vụ của ngân hàng, ngân hàng nào có dịch vụ tiện ích cao, tiện lợi sẽ thu hút được khách

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với cá nhân tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương (60tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng đến với mình. Do đó để phát triển nền kinh tế thì cần phát triển hệ thống ngân hàng nhất là phát triển hệ thống hiện đại hoá, phát triển các phương thức huy động vốn cũng như cho vay mới. Mặt khác trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng chiếm một vai trò hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của ngân hàng cũng như ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, sự lớn mạnh của ngân hàng, hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng. Từ trước đến nay khách hàng của ngân hàng chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức kinh tế, các ngân hàng chưa chú trọng đến loại hình khách hàng cá nhân nhiều, điều đó thể hiện ở doanh số cho vay của các ngân hàng. Trong những năm trở lại đây các ngân hàng đã chú trọng đến loại hình khách hàng này trong đó có Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương. Xuất phát từ lý do đó có thể thấy việc đẩy mạnh cho vay đối với cá nhân của Sở giao dịch I là một bước đi táo bạo và đúng đắn, rất cần thiết đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam khi kinh tế tư nhân cũng như hộ gia đình ngày càng phát triển và khẳng định được chỗ đứng của mình trong nền kinh tế. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với cá nhân tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương “ làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp. Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của chuyên đề được chia làm 3 chương: Chương I: Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. Chương II Thực trạng chất lượng tín dụng đối với khách hàng cá nhân tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với khách hàng cá nhân tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Do thời gian và trình độ có hạn, phần trình bày của em không tránh khỏi sai sót cũng như hạn chế trong phương pháp trình bày. Em rất mong được sự góp ý của thầy giáo TS. Đặng Ngọc Đức cùng với các thầy cô giáo và cán bộ ngân hàng nơi em thực tập để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Chương I: Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. 1.1. Tổng quan về tín dụng của ngân hàng thương mại. 1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng. Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thức xã hội khác nhau. Theo quan niệm truyền thống, tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó một người chuyển cho người khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hiện vật nào đó trong những điều kiện nhất định mà hai bên thoả thuận. Những điều kiện đó thường là số lượng, chất lượng tiền tệ, khối lượng cho vay và khối lượng phải trả thêm. Đứng trên phương diện nghiệp vụ, tín dụng là bất cứ một động tác nào một người đưa vốn hoặc hứa đưa vốn cho người khác sử dụng, cam kết bằng chữ cho người này là các đảm bảo, bảo chứng hay bảo lãnh ngân hàng có thu tiền. Sự phát triển của nền kinh tế xã hội là tiền đề làm nảy sinh các hình thức khác nhau của quan hệ tín dụng: tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại, tín dụng quốc tế, tín dụng thuê mua, tín dụng đầu tư, tín dụng ngân hàng... Tín dụng ngân hàng ra đời từ thế kỷ XVI, đó là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, đã và đang thể hiện ngày càng rõ nét những đặc tính ưu việt của mình, đóng góp một vai trò tích cực và to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, các doanh nghiệp và các cá nhân thông qua việc ngân hàng huy động vốn từ các nguồn nhàn rỗi và cung cấp cho nơi cần trong một thời gian nhất định. Đến thời hạn do hai bên quy định ngân hàng sẽ nhận lại vốn và phần tăng thêm gọi là phần lời và được tính theo lãi suất ( lãi suất này lớn hơn so với lãi suất trả cho người gửi tiền ). Như ta đã biết tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng gây ra rủi ro lớn nhất cho ngân hàng thương mại. 1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng 1.1.2.1. Phân loại theo thời gian. Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành: Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng dài hạn: trên 5 năm. Tài sản lưu động thường có vòng quay trên 1 vòng trong một năm. Do vậy, ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời hạn 1 năm trở xuống: Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu được tài trợ trên 1 năm tới 5 năm. Công trình xây dựng như nhà ở, sân bay, cầu...có giá trị lớn ,thường có thời hạn sử dụng lâu dài có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể 10 năm hay lâu hơn nữa. Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể ( ngày,tháng,năm ) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Có khoản cho vay không xác định được thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại của thương phiếu. Thời hạn bảo lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh, được thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo lãnh. Nếu là cho thuê, thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách hàng đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê. 1.1.2.2. Phân loại theo hình thức. Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ ). Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu một khoản lợi nhuận trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi là hoạt động tín dụng. ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng 1.1.2.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ. Tín dụng có thể được phân thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của chính phủ mà chính phủ yêu cầu, không cần tài sản thế chấp. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các côngty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. Tín dụng dựa trên sự cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo ( quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán...). 1.1.2.4. Phân loại theo rủi ro. Để phân loại theo phương thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh ,chứng khoán. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá được tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ kế hoạch chậm.. Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn... Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp kém hoặc giảm giá trị... 1.1.2.5. Phân loại khác. Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp...) Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định...) Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng...) Các phân loại trên cho ta thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. 1.1.3. Vai trò tín dụng ngân hàng 1.1.3.1. Đối với nền kinh tế. Có thể nói hoạt động tín dụng của ngân hàng giữ một vai trò hết sức quan trọng, là một kênh cung cấp vốn tin cậy cho mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Ngân hàng cho vay mọi thành phần kinh tế từ những hộ dân, những người buôn bán nhỏ đến các doanh nghiệp ,những tập đoàn kinh tế lớn, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn hình thành vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp, giúp họ khởi đầu, duy trì hay mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ...nhờ vậy quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, từ đó góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh hàng hoá phát triển. Còn đối với người tiêu dùng một bộ phận quan trọng chiếm đa số trong nền kinh tế, tín dụng ngân hàng giúp họ cải thiện mức sống, xử lý những nhu cầu cấp thiết trong cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó các tổ chức chính quyền tìm đến ngân hàng như một địa chỉ tin cậy khi nguồn thu từ thuế không đủ để thực hiện các khoản chi tiêu, lúc này ngân hàng thực hiện nhiệm vụ tài trợ thâm hụt cho ngân sách. Ngay cả khi chính phủ muốn đầu tư vào một dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thực hiện các công trình công cộng... ngân hàng là người đầu tiên cùng chính phủ chia sẻ ý tưởng đó. Trên thực tế luôn luôn xảy ra hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời : tại một thời điểm nhất định có những doanh nghiệp, tổ chức xã hội và dân cư có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, trong khi đó một số doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và các cá nhân khác lại đang tạm thời thiếu vốn. Hiện tượng mang tính chất tạm thời này xảy ra thường xuyên và phổ biến tròn bất kỳ một nền kinh tế nào, làm nảy sinh một vấn đề phải điều hoà vốn. Ngân hàng thương mại với vai trò là một trung gian tài chính tiền tệ, đứng ra tập trung và phân lại vốn tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn trong nền kinh tế, góp phần điều tiết các nguồn vốn, đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế. Theo cách đó ,nền kinh tế trở nên năng động và hoạt động có hiệu quả hơn. Đối với lưu thông tiền tệ, tín dụng ngân hàng là hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ và có vai trò quyết định – là con đường tốt nhất đưa tiền vào lưu thông. Thông qua việc cung cấp các khoản vay ngắn hạn ,ngân hàng có thể kiểm soát lượng tiền lưu thông và đảm bảo sự phù hợp giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá. Đồng thời tín dụng ngân hàng cũng là khâu trung gian để ngân hàng thương mại kiểm soát lượng tiền cung ứng thông qua việc thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ. Những công cụ này tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, kéo theo sự biến động trong lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Thêm vào đó, những biến động trong các khoản cho vay của ngân hàng có tác động mạnh mẽ lên lạm phát vì tiền gửi ngân hàng là một trong những thành phần lớn nhất của cung tiền tệ được sử dụng bởi công chúng. Mà những biến động về cung tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với sự biến động của giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế. Khi các khoản cho vay đối với các ngành kinh tế khan hiếm và chi phí cao thì chi tiêu trong nền kinh tế chậm lại và nạn thất nghiệp thường gia tăng. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn mang lại nhiều tiện ích khác cho người sử dụng, giảm thiểu những chi phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế. 1.1.3.2. Đối với ngân hàng. Nếu đối với nền kinh tế, cho vay giữ một vai trò quan trọng thì đối với ngân hàng cho vay là hoạt động có tính sống còn, là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận. Nhìn vào bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại, hẳn ai cũng thấy rằng hầu hết tài sản có của ngân hàng là các khoản nợ về tài chính, chứ không phải là một cái gì khác. Chính vì sự khác biệt này là lý do tồn tại của ngân hàng. Các doanh nghiệp phi tài chính, khi tiến hành sản xuất kinh doanh, phần lớn lợi nhuận của họ thu được từ việc bán hàng hoá hay dịch vụ. Buôn bán yêu cầu phải tồn tại pho chứa sản phẩm, sản xuất đòi hỏi phải có nguyên liệu, vật tư, nhưng không phải bất cứ một ai khi kinh doanh cũng luôn có sẵn được khoản vốn như mình mong muốn. Trong khi đó, yếu tố đầu tiên và chủ yếu của ngân hàng là tiền, lợi nhuận của ngân hàng chỉ có thể có được nếu đầu vào đó được sử dụng một cách có hiệu quả. Một trong những con đường truyền thống và phổ biến nhất của ngân hàng đến với mục tiêu lợi nhuận là cho vay. Thông qua hoạt động này, ngân hàng sẽ kiếm được lợi nhuận từ khoản chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Chỉ có lãi suất thu được từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí trôi nổi, chi phí về thuế và chi phỉ rủi ro đầu tư. Cùng với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư của ngân hàng cúng mang lại một khoản lợi nhuận đáng kể, góp phần tăng cường mức độ đa dạng hoá, hạn chế rủi ro. Nhưng trong lịch sử ra đời và phát triển của hoạt động đầu tư ngân hàng đã chỉ ra rằng, đầu tư chỉ là hoạt động có tính hỗ trợ chức không thể thay thế được vai trò của hoạt động cho vay đối với ngân hàng Tóm lại, nguồn thu từ hoạt động cho vay luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ của ngân hàng. Đặc biệt là ở Việt Nam chúng ta điều này càng thể hiện rõ, còn đối với các ngân hàng lâu đời trên thế giới nguồn thu chủ yếu của họ là từ các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng đem lại cho khách hàng. 1.1.4. Các hình thức tín dụng. trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại có các hình thức khác nhau, mục đích là đa dạnh hoá các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của từng đối tượng khách hàng của ngân hàng. Sau đây là các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại: 1.1.4.1. Chiết khấu thương phiếu. Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán ( hoặc người thụ hưởng ) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua ( hoặc người phải trả ) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu thương phiếu trước thời hạn. Số tiền mà ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và lệ phí chiết khấu. Bên cạnh áp dụng lãi suất chiết khấu ( thường chung cho các loại thương phiếu ), ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm phần lệ phí chiết khấu đối với những trường hợp cụ thể có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền. Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Để thuận lợi cho khách hàng, ngân hàng thường ký với khách hợp đồng chiết khấu thương phiếu. Khi cần thiết chiết khấu, khách hàng chỉ cần gửi yêu cầu lên ngân hàng xin chiết khẩu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao. Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu tại ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp. 1.1.4.2. Cho vay. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có thể chia ra làm các dạng như: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp. Thấu chi là hình thức mà qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội vượt số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản ,phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng... Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng thương mại đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt mới vay ngân hàng ,tức là vốn vay ngân hàng chỉ tác động vào một số công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Theo từng thời kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu hồi gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm tra mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng ,ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Cho vay theo hạn mức là hình thức nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính Trong kỳ khách hàng thực hiện vay, trả làm nhiều lần, song dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức, tuy nhiên, đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Cho vay luân chuyển là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc cuối quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung câp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá nên ngân hàng lân doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, trong đó ngân hàng cho phép khách hàng trả nợ gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ ( thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập từng kỳ của người tiêu thụ ). Cho vay trả góp thường có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người đi vay, do đó khi thu nhập này bị giảm sút hoặc mất ngân hàng có thể không thu hồi được vốn do khách hàng mất khả năng trả nợ. Cho vay gián tiếp là hình thức cho vay qua các tổ chức trung gian ,ngân hàng sẽ cho khách hàng vay qua các tổ đội, hội, nhóm sản xuất ,...Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho nhau. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, xa cách ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay. Cho vay trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ các khuyết điểm, một số trung gian đã nâng lãi suất cho vay lại do ngân hàng không kiểm soát hết được. 1.1.4.3. Cho thuê tài sản. Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ ( hoặc thu đủ ) giá trị tài sản cho thuê cộng với lãi. Hết thời hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Cho thuê giống một khoản cho vay ở chỗ ngân hàng xuất ra một khoản vốn và kỳ vọng trong một thời gian nhất định sẽ thu hồi được vốn cộng với một khoản lãi, khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kỳ. Đối với hình thức này ngân hàng cũng đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không hiệu quả không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, cho thuê tài sản vẫn có một số khác biệt như tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng, ngân hàng có quyền thu hồi tài sản đó nếu thấy rằng khách hàng thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời ngân hàng cũng phải cung cấp đúng loại tài sản mà khách hàng yêu cầu và đảm bảo chất lượng của tài sản đó. 1.1.4.4. Bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng là hình thức cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có các hình thức như sau: bảo lãnh tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo thanh toán. Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng ,qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy, bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết ,ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho bên thức ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản xấu trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như các khoản cho vay khác và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay. Bảo lãnh ngân hàng tạo ra mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp khi ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện cam kết. Bảo lãnh cũng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. 1.2. Hoạt động cho vay cá nhân của ngân hàng thương mại. 1.2.1. Cho vay cá nhân. Như chúng ta đã biết hoạt động tín dụng của ngân hàng gồm rất nhiều khoản mục trong đó có hoạt động cho vay. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng cũng có rất nhiều đối tượng khách hàng trong đó có loại hình khách hàng cá nhân. Như vậy cho vay cá nhân là hoạt động mà qua đó ngân hàng tiến hành hoạt động cho vay với đối tượng khách hàng là cá nhân. Hiện nay đời sống của người dân ngày càng được cải thiện do mức sống ngày càng được nâng cao, tiếp đến nhu cầu về mọi mặt của họ cũng tăng lên. Trong một thời gian nhất định họ có nhu cầu về vốn để tiến hành dự định của mình, khi đó ngân hàng sẽ là nơi có thể biến những ý tưởng của họ trở thành hiện thực. Từ trước đây khi Nhà nước ta chưa chuyển sang nền kinh tế thị trường, đối tượng khách hàng của ngân hàng chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước, ngân hàng chỉ thực thi một nhiệm vụ giống như phân phối do đó đỗi tượng khách hàng cá nhân chưa được phát triển. Hiện nay khi mà Nhà nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống dân cư ngày càng cao thì việc phát triển cho vay cá nhân là một tất yếu. Trong thời đại mới khi nhu cầu về nhà ở, xe cộ, nhu cầu du lịch...ngày càng tăng trong khi đó thu nhập của hầu hết bộ phận dân cư lại cố định trong một thời gian. Để có được các nhu cầu đó các cá nhân có thể đến ngân hàng vay tiền trong một thời gian nhất định bằng các hình thức khác nhau như cầm cố,bảo lãnh, thế chấp, tín chấp... Hiện nay nhằm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, ngân hàng ngày càng phát triển các nghiệp vụ khác nhau để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của hàng triệu khách hàng, từ nhu cầu của quốc gia,của tổ chức tín dụng, tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, các doanh nghiệp, hộ gia đình cho đến các cá nhân. Các nghiệp vụ tín dụng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện theo hướng mang lại tiện ích cho người sử dụng vốn đồng thời đảm bảo lợi ích cho ngân hàng. 1.2.2. Các hình thức cho vay cá nhân. Đối với cho vay cá nhân có các hình thức phổ biến như: cho vay theo dự án của khách hàng, cho vay tuần hoàn, cho vay tiêu dùng. .. Đối với hình thức cho vay cá nhân có một số đặc điểm khác biệt so với các hình thức cho vay khác do đặc điểm đối tượng khách hàng là cá nhân đó là: các khoản vay thường trong thời hạn ngắn, khối lượng cho vay nhỏ, đảm bảo thường bằng tài sản thế chấp. Do khối lượng cho vay nhỏ do đó việc quản lý tiền cho vay tương đối đơn giản, việc đánh giá tài sản thế chấp cũng thuận lợi hơn các khoản cho vay khác. tuy nhiên rủi ro tín dụng có thể xảy ra do đối tượng khách hàng 1.3. Chất lượng cho vay cá nhân và nâng cao chất lượng cho vay cá nhân. Trong các hình thức cho vay ngân hàng đều đánh giá và xem xét đến chất lượng cho vay. Chất lượng cho vay cá nhân là việc đánh giá xem việc cho vay với một cá nhân có hiệu quả hay không, hiệu quả ở đây là việc đảm bảo được lợi ích của người vay trên cơ sở đảm bảo lợi ích của ngân hàng. Như chúng ta thấy, một khoản vay có vấn đề khi xảy ra rủi ro tín dụng, đó là những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn. Khi thực hiện một khoản cho vay, ngân hàng không chắc chắn là khoản vay đó có thực sự hiệu quả hay không. Để đánh giá được hiệu quả của khoản vay người ta phải xem xét qua thời gian và thực tế. Để đánh giá chất lượng cho vay với cá nhân người ta thường dùng các chỉ tiêu để đánh giá. Do đặc điểm của cho vay cá nhân thường sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn, do đó chỉ tiêu tỷ lệ giữa vốn huy động ngắn hạn trên tổng nguồn vốn huy động thường được xem xét đầu tiên . Chi tiêu này cho ta thấy cơ cấu vốn ngắn hạn của ngân hàng và khả năng cho vay ngắn hạn của ngân hàng trong đó có cho vay cá nhân. Nhóm chỉ tiêu này tạo điều kiện cho ngân hàng cơ cấu lại nguồn vốn, tỷ lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng có được các khoản vốn ngắn hạn lớn và khả năng cho vay ngắn hạn cũng lớn, tuy nhiên nếu lấy các khoản huy động ngắn hạn mà tài trợ cho các khoản cho vay ngắn hạn thường gặp rủi ro trong khả năng chi trả do việc thu hồi nợ không chức chắn. Bên cạnh đó ngân hàng còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như doanh số cho vay cá nhân, doanh số thu nợ cá nhân, dư nợ cá nhân, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng số nợ, tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng số nợ. Chương II Thực trạng chất lượng tín dụng đối với khách hàng cá nhân tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương 2.1. Khái quát về Sở giao dịch I ngân hàng Công thương việt nam 2.1.1. Ngân hàng Công thương việt nam Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế do Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12 - 1986) khởi xướng,trong đó có chủ trương xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp,thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong lĩnh vực tiền tệ,lưu thông tiền tệ,tín dụng và Ngân hàng,Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ "Bên cạnh nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước,cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng,hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế..." Thực hiện chủ trương trên,Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 về tổ chức bộ máy ngân hàng Nhà nước Việt Nam phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các doanh nghiệp ngân hàng. Vì vậy từ 1/7/1988 Ngân hàng Công Thương Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cùng với quá trình đổi mới của đất nước,của toàn ngành ngân hàng,hơn 15 năm xây dựng và trưởng thành,Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam đã khẳng định được vai trò,vị trí là một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam, không ngừng đổi mới bộ máy tổ chức và mạng lưới kinh doanh,góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, thực thi chính sách tiền tệ, kiềm chế đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. 2.1.2. Sở giao dịch I Ngân hàng công thương việt nam Sự ra đời của Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngân hàng Công Thương. Trong thời gian hoạt động của mình Sở giao dịch I đã khẳng định được chính mình,vai trò quan trọng của mình trong hệ thống hoạt động của NHCT và sự đóng góp vào sự phát triển của đất nước với bao biến động thăng trầm của nền kinh tế,hoạt động ngân hàng luôn đối mặt với những khó khăn,thử thách; khắc phục đi lên. Hiện nay,trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Sở giao dịch I đã và đang chuyển mình để thay đổi phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế thế giới nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng. Việc ra đời của Sở giao dịch I ngân hàng Công thương Việt Nam là sự sát nhập vụ tín dụng thương nghiệp và vụ tín dụng công nghiệp của ngân hàng nhà nước Việt Nam; theo quyết định ra ngày 29/6/1988,Tổng giám đốc ngân._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH387.doc
Tài liệu liên quan