Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm tạo ra một một xã hội tiên tiến hơn, văn minh hơn và phát triển hơn nữa. Để hoà chung vào dòng chảy đó, không còn cách nào khác là mỗi quốc gia phải tự tìm ra một hướng đi cho riêng mình, bảo đảm sự kế thừa và phát huy những tinh hoa của xã hội, trong đó đặc biệt quan tâm đến tốc độ phát triển kinh tế vì đây chính là yếu tố rất quan trọng để khẳng định uy
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa & nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Thanh Trì, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín và vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế, qua đó quá trình hội nhập cũng được thuận lợi hơn.
Trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia là những đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN. Lịch sử của các nước cho thấy DNVVN đã hình thành và phát triển rất sớm cả về số lượng và chất lượng, tạo điều kiện hoàn thiện nền kinh tế. Các nhà kinh tế học trên thế giới thừa nhận rằng: DNVVN giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân về nhiều mặt như: tạo ra của cải vật chất, phân phối lưu thông và dịch vụ đồng thời giải quyết việc làm cho số đông người lao động…Thực tế ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức cho thấy DNVVN tạo nên khoảng 56% giá trị gia tăng, 51% kim ngạch xuất khẩu, số người lao động chiếm khoảng 75% tổng số lao động ở tất cả các doanh nghiệp.
ở Việt Nam, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, các DNVVN ngày càng có vai trò quan trọng việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, chính đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước càng tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp phát triển trong đó có các DNVVN.
Hơn 10 năm đổi mới, vai trò của các DNVVN ngày được đánh giá cao thể hiện qua sự quan tâm, hỗ trợ của các cơ quan chức năng có liên quan. Tuy nhiên trong thực tế, các DNVVN còn vướng phải rất nhiều khó khăn cần được tháo gỡ như năng lực quản lý, trình độ công nhân viên, máy móc, thiết bị lạc hậu…và khó khăn lớn nhất là thiếu vốn để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của sự bất cập trên một phần do thị trường chứng khoán của ta chưa thực sự phát triển, một phần do uy tín của các DNVVN chưa đủ để đặt quan hệ TD với các tổ chức TD và chính sách hỗ trợ của nhà nước còn nhiều hạn chế vì vậy tốc độ phát triển của các DNVVN cũng chưa đạt hiệu quả tối ưu.
Một trong những nguồn cung cấp vốn cho các DNVVN là hệ thống NHTM nhưng hiện nay, dư nợ của khối doanh nghiệp này còn rất khiêm tốn mà hầu hết tập trung vào các doanh nghiệp, tổng công ty lớn hay những khoản vay có quy mô nhỏ hẳn như cho vay nông dân, hộ sản xuất…, bên cạnh đó thì có những DNVVN vay vốn nhưng sử dụng không hiệu quả gây mất niềm tin ở ngân hàng, ảnh hưởng đến sự e ngại khi cấp TD cho các DNVVN khác.
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, nguồn vốn huy động của ngân hàng luôn dư thừa trong khi vốn để sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lại luôn thiếu, để giải quyết mâu thuẫn này thì một mặt cần có sự quan tâm về phía Chính phủ nhằm đưa ra những chính sách hỗ trợ phù hợp và kịp thời cho các DNVVN , mặt khác cần có những giải pháp về phía các tổ chức TD, cụ thể là các NHTM trong việc cung cấp nguồn vốn TD đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho các DNVVN, tạo điều kiện cho sự phát triển của các DNVVN nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung.
Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các DNVVN hiện nay, qua một thời gian thực tập tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, Hà Nội, sau khi nghiên cứu lý luận kết hợp với tình hình thực tế, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với các DNVVN tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về các DNVVN, về hoạt động TD của ngân hàng, từ đó thấy được vai trò của việc cấp TD cho các DNVVN trong nền kinh tế.
Xen xét một cách thống nhất và tổng quát thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN và việc đầu tư TD của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì cho các doanh nghiệp này, qua đó phát hiện những tồn tại, nguyên nhân của tồn tại và tìm ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần phát triển các DNVVN trên địa bàn huyện Thanh Trì.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là hoạt động cấp TD của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì đối với các DNVVN trên địa bàn huyện Thanh Trì, tập trung vào giai đoạn những năm 2000- 2002.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đi từ nhận thức các quan điểm, lý luận và thực tiễn của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường, từ đó tìm biện pháp mở rộng TD đối với khối doanh nghiệp này cụ thể là ở NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Khoá luận sử dụng một số phương pháp: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích diễn giải kết hợp với phương pháp tổng hợp thống kê, ngoài ra, khoá luận còn sử dụng các bảng biểu để minh hoạ.
5. Kết cấu của khoá luận
Khoá luận gồm 3 phần: lời mở đầu, phần nội dung và kết luận, trong phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự cần thiết của tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2: Thực trạng hoạt động TD đối với các DNVVN tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động TD đối với các DNVVN tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Chương 1
Doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự cần thiết của tín dụng
ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1 DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1 Khái niệm DNVVN.
Kể từ khi đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế theo hướng đa thành phần và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng đã và đang từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình. Theo đường lối của Đảng và Nhà nước thì mọi thành phần kinh tế đều là những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế và các DNVVN cũng không là một ngoại lệ.
Tuy vậy, khó có được một khái niệm chung, duy nhất về DNVVN cho tất cả các quốc gia mà điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm DNVVN giữa các nước là việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp và lượng hoá các tiêu thức ấy thông qua các tiêu chuẩn cụ thể ở từng nơi. Ví dụ:
Đài Loan: theo quy định hiện nay thì trong ngành xây dựng các doanh nghiệp có vốn dưới 1,4 triệu USD, lao động dưới 300 người; trong công nghiệp khai khoáng các doanh nghiệp có vốn dưới 1,4 triệu USD, 500 lao động và trong thương mại dịch vụ có doanh số dưới 1,4 tỷ USD và dưới 50 lao động là những DNVVN.
Hàn Quốc: trong công nghiệp, xây dựng các doanh nghiệp có số lao động nhỏ hơn 300 người và vốn dưới 0,6 triệu USD, trong thương mại dịch vụ doanh nghiệp có số lao động dưới 20 người và số vốn dưới 0,25 triệu USD là những DNVVN.
EU: DNVVN là những doanh nghiệp có số lao động dưới 250 người, vốn dưới 27 triệu ECU và doanh thu đạt khoảng 40.000 ECU.
Qua việc xem xét, xác định quy mô DNVVN của một số nước trên thế giới thì tiêu thức lao động và tiêu thức vốn đầu tư là hai tiêu thức thường được nhiều nước lựa chọn, sử dụng để xác định quy mô doanh nghiệp.
ở Việt Nam, khái niệm DNVVN được đưa ra với những điều kiện cụ thể, đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh nhiều thành phần và các chính sách, quy định phát triển kinh tế của nước ta, với nội dung:
DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thoả mãn các quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Trước năm 1998, do chưa có quy định chính thức của Chính phủ nên nước ta chủ yếu sử dụng 2 tiêu thức là lao động và vốn, tuỳ theo quy định của từng cơ quan như: NHCT Việt Nam quy định các DNVVN là doanh nghiệp có vốn từ 5-10 tỷ đồng với số lao động từ 500-1000 người. Trong khi Hội đồng liên minh các HTX lại quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ 100-300 triệu đồng và số lao động từ 5-10 người là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số vốn sản xuất kinh doanh trên 300 triệu và lao động trên 50 người. Thành phố Hồ Chí Minh quy định các doanh nghiệp có vốn trên 1 tỷ đồng, lao động trên 1000 người và doanh thu trên 10 tỷ đồng/năm là doanh nghiệp vừa và dưới các quy định trên là doanh nghiệp nhỏ.
Ngày 20/6/1998 Thủ tướng chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KTN xác định tiêu thức DNVVN tạm thời quy định trong giai đoạn hiện nay là những doanh nghiệp có vốn điêù lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh như: các doanh nghiệp nhà nước đăng ký theo luật doanh nghiệp nhà nước; các công ty cổ phần, công ty TNHH và các doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt động theo luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật doanh nghiệp và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các HTX đăng ký hoạt động theo luật HTX; các cá nhân và nhóm sản xuất- kinh doanh đăng ký theo nghị định 66-HĐBT, đồng thời các doanh nghiệp này thoả mãn hai tiêu thức về vốn và lao động theo công văn 681/CP-KTN đều được coi là DNVVN. Với cách phân loại này, ở Việt Nam số DNVVN chiếm khoảng 93% tổng số doanh nghiệp hiện có.
Tuy nhiên, cùng với tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế khi bước vào kỷ nguyên mới, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các DNVVN, các chỉ tiêu đánh giá DNVVN cũng được nâng lên một bậc nhằm khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành nghị định 90/NĐ-CP/2001 về “Trợ giúp phát triển DNVVN”. Theo nghị định này thì DNVVN được hiểu: “DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu về vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu.”
1.1.2 Đặc điểm DNVVN và DNVVN trong nông thôn.
Là một doanh nghiệp nhưng với quy mô vừa và nhỏ nên bên cạnh những đặc điểm cơ bản của một doanh nghiệp thông thường, DNVVN còn một số đặc điểm sau:
Đây là loại hình doanh nghiệp có thể được tạo lập dễ dàng vì để thành lập chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, với một mặt bằng sản xuất hàng hoá nhỏ, quy mô nhà xưởng không lớn nên doanh nghiệp có thể giảm được chi phí cố định, tận dụng được lao động thay thế cho vốn với giá công lao động thấp, hơn nữa khả năng thu hồi vốn của loại hình này khá nhanh, tăng tốc độ vòng quay vốn, bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế nên việc quan hệ TD với loại hình doanh nghiệp này sẽ đem lại kết quả tốt cho cả hai bên.
Với quy mô thuận lợi của mình là một DNVVN, bộ máy quản lý gọn nhẹ, các mối quan hệ dễ điều chỉnh nên tính linh hoạt cao, có khả năng quan hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu thụ nên dễ dàng tìm kiếm và đáp ứng các nhu cầu, thị hiếu trong thị trường chuyên môn hoá. Đồng thời, mô hình quản lý gọn nhẹ, ít trung gian đầu mối sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, tận dụng được các cơ hội kinh doanh khi thời cơ đến. Mặt khác, khi gặp những biến cố của môi trường kinh doanh, loại hình doanh nghiệp này dễ xoay chuyển bằng cách chuyển đổi hoặc thu hẹp quy mô sản xuất của mình vì vậy tổn thất giảm đi rất nhiều.
Không chỉ thuận lợi trong việc tạo lập và dễ thích nghi mà DNVVN còn có thể phát triển rộng khắp các vùng của đất nước, tham gia vào nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế, tạo ra những sản phẩm phù hợp với những nhu cầu ở những vùng mang tính chất nội bộ, cần số lượng sản phẩm ít, hoặc tạo ra một số mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu để phù hợp với sức mua của dân. Việc mở rộng TD với loại hình doanh nghiệp này sẽ giúp ngân hàng tham gia vào nhiều ngành nghề trong nhiều lĩnh vực nhằm phân tán rủi ro cho ngân hàng.
Khả năng tài chính của DNVVN rất hạn chế, trước hết là do nguồn vốn tự có thấp dẫn đến khả năng vay vốn ngân hàng cũng như huy động vốn trên thị trường bị hạn chế, những khoản tiền dự định vay của DNVVN thường gặp khó khăn vì thiếu tài sản thế chấp. Do vậy các DNVVN thường rơi vào tình trạng thiếu vốn cộng với khả năng tích luỹ thấp nên nguồn vốn bổ sung cho sản xuất kinh doanh bị giới hạn, khiến cho khả năng thu lợi nhuận không tối đa ngay cả khi có cơ hội để kinh doanh.
Cũng do quy mô loại hình doanh nghiệp, năng lực tài chính hạn hẹp, nên doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hầu hết là công nghệ, máy móc cũ kỹ, lạc hậu vì vậy việc tiếp cận những thông tin, áp dụng công nghệ mới còn hạn chế nên nhiều doanh nghiệp phải tìm đến con đường liên doanh, liên kết nhằm đổi mới công nghệ, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu của sản xuất kinh doanh. Bên cạnh khó khăn về máy móc, trang thiết bị doanh nghiệp còn bị bất lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm và khả năng thu hút nhà quản lý và công nhân tốt. Do nguồn tài chính hạn hẹp nên doanh nghiệp khó có thể thực hiện chiến lược Marketing giới thiệu sản phẩm của mình. Một loạt các chính sách trong chiến lược Marketing như: chiến lược sản phẩm, chiến lược về giá, chiến lược phân phối và cả chiến lược khuyếch trương đều cần đến một lượng tài chính đầy đủ. Chính vì vậy, khả năng tiếp cận thị trường thế giới của DNVVN bị hạn chế.
Chính những hạn chế về vốn, về trình độ công nghệ, về phương thức quản lý mà khả năng cạnh tranh, tiếp cận thị trường của doanh nghiệp thấp. Đây chính là những yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho ngân hàng khi cho vay vì vậy để quan hệ TD được thiết lập, doanh nghiệp cần khắc phục những hạn chế đó và ngân hàng cần thẩm định kỹ khách hàng trước khi phát tiền vay.
Đặc điểm của DNVVN trong nông thôn
Một phần trong hệ thống DNVVN ở mỗi quốc gia có sự góp mặt của các DNVVN trong nông nghiệp, đặc biệt ở một nước nông nghiệp như nước ta, điều đó càng rõ ràng. ở Việt Nam, những thay đổi về chính sách đất đai sau Đại hội Đảng lần thứ VI và luật đất đai được Quốc hội thông qua đã đánh dấu một bước phát triển của các DNVVN khu vực nông thôn, đưa khu vực này nhanh chóng tiến lên trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Vốn của các DNVVN ở nông thôn
Vốn bình quân ban đầu của các DNVVN ở nông thôn rất thấp cả về số tương đối và số tuyệt đối so với các DNVVN khác. Với các doanh nghiệp hộ gia đình, vốn bình quân là 921 USD, với các doanh nghiệp tư nhân là 2153 USD. Theo khảo sát, trên 80% số doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vốn tự có và vốn vay không lãi của bạn bè, họ hàng khi lập doanh nghiệp, với doanh nghiệp hộ gia đình, con số này là 87% và với doanh nghiệp tư nhân, con số này là 75%. Vốn tự có và vốn vay không phải trả lãi của chung DNVVN khu vực nông thôn chiếm 90% số vốn ban đầu. Nguồn vốn vay ngoài chủ yếu là vay tư nhân có trả lãi, TD nhà nước hầu như không có vai trò gì, chỉ khoảng 3% DNVVN được vay vốn ngân hàng hoặc HTX TD hoặc của chính quyền địa phương. Hiện nay, con số này có cao hơn do những nỗ lực của hệ thống NHTM nhà nước theo quan điểm thúc đẩy sự phát triển khu vực tư nhân của Chính phủ, nhưng tỷ trọng nguồn vốn vay ngân hàng trong tổng nguồn vốn của các DNVVN khu vực nông thôn chưa cao.
Tình trạng thiếu nguồn vốn TD vay chính thức khiến cho vốn ban đầu của một DNVVN hoàn toàn dựa vào khả năng, quy mô của các nguồn vốn tự có, có thể đầu tư mà không trông mong gì vào các khoản dự kiến thu hồi hoặc mục tiêu yêu cầu vốn. Đối với nền kinh tế nói chung, điều đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng, hơn nữa còn làm tăng chứ không giảm sự khác biệt về thu nhập và phân phối ở trong vùng cũng như trong từng hộ gia đình và toàn bộ cộng đồng nông thôn. Điều đó dẫn đến hậu quả là các ngành công nghiệp nông thôn phát triển chậm hơn.
Cũng như các DNVVN ở các ngành khác, thiếu vốn làm cho DNVVN khu vực nông thôn tồn tại ở trình độ công nghệ thấp kém, phương pháp sản xuất lạc hậu, năng suất thấp, đồng thời giảm khả năng cạnh tranh. Nó sẽ làm khác biệt về phát triển kinh tế cũng như những chênh lệch ngay giữa các DNVVN trong khu vực nông thôn. Các DNVVN sẽ phát triển ở những nơi nào mà nhân dân có nguồn đầu tư đáng kể chứ không phải là nơi nào có nhu cầu lớn nhất về việc làm và thu nhập hoặc ở những nơi có điều kiện tốt nhất để phát triển những loại hình hoạt động phi nông nghiệp. Thực tế là các DNVVN mạnh về mặt kinh tế thường phát triển chủ yếu ở những vùng nông nghiệp trù phú, nơi mà lợi nhuận từ nông nghiệp có thể đầu tư vào công nghiệp còn những doanh nghiệp ở vùng nghèo nàn thì dù có đánh giá là nhìn chung có phát triển song cũng chỉ nhỏ bé, năng suất thấp, dễ đi đến phá sản khi phải đương đầu với cạnh tranh bên ngoài.
Lao động ở các DNVVN khu vực nông thôn.
Sự phát triển của các DNVVN khu vực nông thôn có tác dụng chính trong việc tạo thêm cơ hội việc làm cho các hộ gia đình vì các doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào lao động hộ gia đình. Trong số các DNVVN nông thôn thì có hơn 1/3 số lao động là lao động làm công ăn lương. Các doanh nghiệp hộ gia đình nông thôn hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào lao động hộ gia đình. Chỉ có 8,1% số doanh nghiệp thuê lao động có trả lương và trung bình số lao động làm thuê chỉ chiếm 6,1% tổng lực lượng lao động. Doanh nghiệp tư nhân ở khu vực nông thôn cũng vậy, phụ thuộc phần lớn vào lao động hộ gia đình, chiếm 43,6% tổng lực lượng lao động. Tỷ lệ lao động làm công ăn lương lớn nhất trong các doanh nghiệp sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp.
Trình độ học vấn của lao động ở các DNVVN khu vực nông thôn tương đối thấp, 26,5% số lao động trong các doanh nghiệp hộ gia đình có trình độ lớp 6 phổ thông trở nên, con số này là 21% trong các doanh nghiệp tư nhân. Chỉ có 16,6% số lao động trong các doanh nghiệp hộ gia đình có trình độ lớp 10 trở nên, con số này là 39,6% ở các doanh nghiệp tư nhân.
Hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNVVN khu vực nông thôn.
Sự khuyến khích của chính quyền địa phương hoặc sự hỗ trợ tài chính cũng có vai trò quan trọng trong việc định hướng cho sự phát triển của các doanh nghiệp khu vực nông thôn. Qua khảo sát, có 56% số doanh nghiệp nhận được sự giúp đỡ về một số mặt khi mới thành lập trong đó hỗ trợ về TD chiếm 2,9%, một con số còn quá kiêm tốn, chưa thúc đẩy khu vực này phát triển hiệu quả, chưa khai thác hết những khả năng và thế mạnh của nó.
Thị trường và tiêu thụ sản phẩm
Các DNVVN khu vực nông thôn có hai loại thị trường chính: một loại chủ yếu bán cho thị trường địa phương, một loại để bán trên thị trường thành phố lớn. Khoảng 1/3 các doanh nghiệp chỉ bán sản phẩm của mình ở thị trường địa phương, còn lại được tiêu thụ tại các thành phố lớn.
Mối quan hệ giữa các DNVVN khu vực nông thôn với khách hàng dường như ít mật thiết hơn so với hệ thống các DNVVN trong nền kinh tế nói chung. Các doanh nghiệp nông thôn dường như có nhiều khách hàng hơn, ít khi sản xuất theo đơn đặt hàng trước và hiếm có các hợp đồng phụ. Sự khác nhau giữa DNVVN nông thôn với khu vực khác ở chỗ DNVVN nông thôn có mối quan hệ không được chặt chẽ với khu vực nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước chỉ cung ứng dưới 10% đầu vào cho doanh nghiệp nông thôn và mua sản phẩm với tỷ lệ ít hơn 10%.
Đối với các DNVVN khu vực nông thôn, khó khăn về thị trường là một trong những vấn đề được đề cập nhiều nhất đối với sự phát triển của doanh nghiệp bên cạnh khó khăn về vốn. Sự khó khăn thể hiện trên hai mặt: Thứ nhất, do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dẫn đến tình trạng các DNVVN khu vực nông thôn bị cạnh tranh mạnh mẽ từ phía các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực này. Sự hạn chế về vốn cũng như kỹ năng quản lý, kinh nghiệm và trình độ quản lý kinh doanh đã làm các DNVVN khu vực nông thôn khó có thể cạnh tranh hữu hiệu. Thứ hai, sự chia cắt nền kinh tế qua nhiều thị trường tại địa phương làm hạn chế việc doanh nghiệp mở rộng ra các thị trường bên ngoài khu vực của mình, điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu hậu quả khi sản xuất ra sản phẩm vượt quá nhu cầu của thị trường địa phương.
Thông qua những đặc điểm của DNVVN trong nông thôn, chúng ta cũng thấy được những khó khăn mà họ gặp phải trong đó vẫn đặc biệt là thiếu vốn. Vì vậy mở rộng hoạt động TD đối với các DNVVN trong nông thôn là cần thiết và tất yếu nhằm hoàn thiện một nền kinh tế nặng về nông nghiệp.
1.1.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
Cùng với tốc độ phát triển nhanh, hiệu quả của nền kinh tế thế giới chúng ta càng thấy rõ hơn vị trí và vai trò của loại hình DNVVN. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, DNVVN đã và đang tham gia hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế với nhiều hình thức đa dạng, phong phú nên ngày càng nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của các Bộ, Ban ngành liên quan nhằm huy động tối đa các nguồn lực trợ giúp cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.
Tại các nước công nghiệp phát triển cao như Đức, Nhật bản, Mỹ… mặc dầu có nhiều công ty lớn nhưng DNVVN vẫn có vai trò rất quan trọng. ở Nhật Bản người ta coi DNVVN là một nguồn lực đảm bảo cho sức sống của nền kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các doanh nghiệp và số DNVVN chiếm tới 99% trong tổng số các doanh nghiệp trong nước.
Đối với các nước phát triển và chậm phát triển thì ngoài vai trò là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế, DNVVN còn có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xoá đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề xã hội.
Đối với các nước ở Châu á như Philippines, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, DNVVN còn có vai trò tích cực trong việc chống đỡ các tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ, góp phần đáng kể vào sự ổn định kinh tế- xã hội và từng bước khôi phục nền kinh tế.
ở Việt Nam, do đặc điểm, tình hình và bối cảnh phát triển kinh tế của nước ta quy định nên sự có mặt các DNVVN là rất cần thiết để phát triển kinh tế. Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho đất nước chúng ta lạc hậu, kém phát triển trong một thời gian dài, nhưng những năm gần đây do đường lối đúng đắn của Đảng và Chính Phủ về phát triển kinh tế nên nhiều thành phần kinh tế có cơ hội phát triển trong đó có DNVVN. Là một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới cộng với cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý còn nhiều hạn chế nên việc phát triển loại hình DNVVN là phù hợp nhất, việc “tích tiểu thành đại” sẽ giúp chúng ta đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sự phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế- xã hội ở một số mặt:
Một là, các DNVVN đóng góp phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế.
Theo tính toán của các nước thì DNVVN đóng góp rất lớn vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP ở mỗi nước. ở Mỹ các DNVVN đóng góp hơn một nửa GDP năm 1994, Đức:50%, Indonesia:38,9%, Malaysia:50,5% GDP trong công nghiệp. ở một số nước và lãnh thổ, DNVVN tham gia hoạt động xuất khẩu và chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu, từ 25- 40%. Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý TW Việt Nam thì hiện nay khu vực DNVVN của cả nước chiếm khoảng 24%-25% GDP.
Hai là, DNVVN tham gia cung cấp một khối lượng hàng hoá đáng kể cho xã hội.
Từ lợi thế về quy mô vừa và nhỏ, DNVVN hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề kể cả các loại hàng hoá mang tính chất vùng, địa phương. Với nguồn lực sẵn có của địa phương cùng với đội ngũ nhân công lành nghề của doanh nghiệp, rất nhiều sản phẩm được ra đời đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài.
Ba là, sự có mặt của các DNVVN đã tham gia giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói, giảm nghèo.
Mặc dù số lượng lao động của từng DNVVN không nhiều, nhưng lại chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số các doanh nghiệp, nên DNVVN thu hút lượng lao động lớn của toàn xã hội, khoảng 50- 80%. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, khi các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì sự phát triển của các DNVVN lại thu hút thêm nhiều công nhân đang thất nghiệp. Cũng theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW thì số lao động của các DNVVN ở Việt Nam trong các lĩnh vực phi nông nghiệp hiện có khoảng 7,8 triệu người, chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước.
ổn định được việc làm cũng có nghĩa ổn định nguồn thu nhập cho người lao động, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng của đất nước và cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
Bốn là, DNVVN có khả năng khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính trong dân.
Do tính chất nhỏ lẻ, quy mô vốn ban đầu không cần nhiều quá nên DNVVN có thể được thành lập ở tất cả các địa phương, tận dụng được những lợi thế ngay tại chỗ, giảm chi phí sản xuất, tránh gây lãng phí nguồn lực sẵn có.
Khu vực DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân tham gia vào sản xuất kinh doanh, góp phần làm tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở các nước đang phát triển.
Năm là, hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động.
Cùng với việc phát triển các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh doanh sáng lập. Đây sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà kinh doanh làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý quy mô vừa và nhỏ, một số nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn, tài ba, biết đưa doanh nghiệp mình nhanh chóng phát triển. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở những nước đang trong giai đoạn phát triển, trong đó có Việt Nam.
Sáu là, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có hiệu quả hơn.
Sự tham gia của rất nhiều các DNVVN vào sản xuất kinh doanh làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới, để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại và phát triển. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn.
Bẩy là, các DNVVN có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn.
Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNVVN ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Tám là, các DNVVN góp phần đáng kể vào việc thực hiện đô thị hoá phi tập trung.
Hệ thống DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút những người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút số lượng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực lượng lao động làm nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ, nhưng vẫn sống ngay tại quê hương, bản quán, không phải đi xa. Đồng thời hình thành các khu cơ sở sản xuất ngay tại nông thôn, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê, thực hiện quá trình đô thị hoá phi tập trung.
1.2 Sự cần thiết của TD ngân hàng đối với các DNVVN.
1.2.1 TD ngân hàng.
1.2.1.1 Khái niệm TD ngân hàng
Để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tiến hành liên tục, mỗi doanh nghiệp cần có nguồn vốn ổn định. Tuy nhiên không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có sẵn vốn nên họ thường xuyên có nhu cầu huy động các nguồn vốn có thể, trong khi đó một số doanh nghiệp, cá nhân khác lại đang dư thừa một lượng tiền tệ, chính vì vậy ngân hàng đã ra đời cùng với các hoạt động của nó, kết quả là nguồn lực của xã hội được sử dụng một cách có hiệu quả.
Thông qua các hoạt động của ngân hàng, vốn được chuyển từ tay người này sang tay người khác và ngân hàng sẽ được trả công cho vai trò “người dẫn vốn” bằng phần chênh lệch giữa lãi suất của nghiệp vụ huy động và lãi suất của nghiệp vụ cho vay- hai nghiệp vụ chủ yếu, truyền thống của ngân hàng, trong đó phần lợi nhuận mà ngân hàng tạo ra nằm hầu hết ở nghiệp vụ cho vay hay còn gọi là nghiệp vụ TD. Có thể nói rằng, TD là nghiệp vụ quan trọng nhất trong các hoạt động của ngân hàng, chỉ khi ngân hàng thực hiện tốt nghiệp vụ này thì hoạt động ngân hàng mới tiếp tục tồn tại và góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
TD ra đời, tồn tại song song và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá. TD nói một cách khái quát là quan hệ vay mượn, nói cụ thể hơn là quá trình mà chủ nợ chuyển nhượng tạm thời một số tài sản trực tiếp dưới hình thái vật chất hoặc hình thái hàng hoá được tách thành tiền hoặc trực tiếp dưới hình thái tiền tệ cho con nợ sử dụng trong một thời hạn đã thoả thuận. Hết thời hạn, khoản vay đó được trả lại cho chủ nợ kèm theo một khoản lợi tức.
Một trong những loại TD quan trọng trong nền kinh tế hiện nay là TD ngân hàng, đó là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay và bên đi vay trong đó ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay, theo đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Các chủ thể tham gia vào TD ngân hàng rất phong phú và đa dạng với một bên là ngân hàng, một bên là các TCKT, cá nhân, HTX….Các quan hệ TD giữa các chủ thể TD được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Từ bản chất là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả, TD ngân hàng có các đặc trưng:
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả về thời gian và giá trị, vì vậy quan hệ TD được xây dựng trên cơ sở lòng tin giữa người đi vay và người cho vay. Đây là điều rất cơ bản trong quản trị TD, tuy nhiên không phải bất kỳ cán bộ TD nào cũng nhận thức rõ về điều này mà hiện nay hầu như khi xét duyệt cho vay các cán bộ TD không dựa vào tín nhiệm mà lại chú trọng đến các đảm bảo, đó cũng là nguyên nhân chính tại sao dư nợ TD với các DNVVN, đối tượng khách hàng chủ yếu hiện của các ngân hàng vẫn còn hạn chế.
TD là quan hệ chuyển nhượng giá trị mang tính chất tạm._. thời. Chỉ sau một thời hạn nhất định, giá trị chuyển nhượng đó sẽ quay lại với chủ sở hữu của nó cộng thêm một khoản lợi nhuận đã thoả thuận.
Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
Trong quan hệ TD ngân hàng, tài sản giao dịch bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trước đây, chỉ là cho vay bằng tiền nên cho vay và TD được coi là đồng nghĩa nhưng do sự phát triển của nền kinh tế vì vậy các sản phẩm của ngân hàng cũng theo đó mà đa dạng và phong phú hơn và hình thức cho thuê đã ra đời nhằm đáp ứng các nhu cầu của xã hội.
Cùng với tốc độ phát triển của nền kinh tế thị trường với trình độ khoa học ngày càng cao, đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, do đó TD ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hình thức TD này khắc phục được hết những nhược điểm của các hình thức trước đó, đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế. Do đó có thể nói, đây là hình thức TD chủ yếu và quan trọng ở mỗi quốc gia hiện nay.
1.2.1.2 Các hình thức của TD ngân hàng
Nhằm thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng, TD ngân hàng được phân loại theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định như: thời hạn cho vay, mục đích cho vay, mức độ tín nhiệm với khách hàng, phương pháp hoàn trả, và xuất xứ của TD.
Căn cứ vào thời hạn cho vay có:
Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn không quá 12 tháng nhằm đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn như bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp hoặc nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Cho vay trung hạn: Thời hạn quy định của loại cho vay này là từ 12 tháng đến 5 năm để mua sắm tài sản cố định hoặc trong nông nghiệp là để đầu tư vào máy cày, máy bơm nước, xây dựng vườn cây công nghiệp…
Cho vay dài hạn: Các khoản vay trên 5 năm được gọi là TD dài hạn, có thể thời hạn lên tới vài chục năm. Loại TD này được sử dụng để thực hiện quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc theo chiều sâu, kết quả là tăng mức sản xuất và của cải xã hội.
Căn cứ vào mục đích cho vay có:
Cho vay công nghiệp và thương mại: loại vay này cung cấp cho các doanh nghiệp thương mại và công nghiệp nguồn vốn để bổ sung vốn lưu động.
Cho vay nông nghiệp là cho lĩnh vực nông nghiệp vay vốn đảm bảo hoạt đông nông nghiệp của mình như: mua giống cây trồng, phân bón, thuốc trừ sâu…
Cho vay cá nhân là loại cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, các chi phí của đời sống thường nhật chủ yếu qua thẻ TD.
Cho thuê bao gồm cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê là bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng có:
Cho vay không bảo đảm: Theo loại cho vay này, uy tín của người đi vay được đặt lên hàng đầu, loại cho vay này không có tài sản thế chấp, cầm cố hay có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng chỉ dựa vào uy tín của họ để cho vay vì vậy đối tượng khách hàng phải là những chủ thể tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì mới có thể tạo lòng tin ở ngân hàng.
Đối với những khách hàng muốn vay theo loại này thì phải hội tụ đủ một số điều kiện như: có tín nhiệm với ngân hàng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi; có phương án sản xuất kinh doanh khả thi; có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ; cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Cho vay có đảm bảo: Ngược với cho vay không bảo đảm, để được ngân hàng cấp TD thì người đi vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Đây là loại hình TD mà khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, nên khi vay vốn cần có sự đảm bảo. Đó là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả có:
Cho vay có thời hạn là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng, bao gồm các loại: cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ là thanh toán một lần theo thời hạn; cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ tức là khách hàng trả nợ cả vốn và lãi theo kỳ; cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay.
Cho vay không có thời hạn cụ thể: Đối với loại cho vay này thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
Căn cứ vào xuất xứ TD có:
Cho vay trực tiếp: Theo loại hình này thì ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay cũng trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Như vậy trong quan hệ TD này chỉ có hai chủ thể tham gia là ngân hàng và người đi vay.
Cho vay gián tiếp: Là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước, các chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Để thực hiện việc vay vốn theo hình thức này thì người đi vay phải có các giấy tờ có giá và còn thời hạn thanh toán, đem đến ngân hàng, nếu ngân hàng chấp nhận thì họ sẽ cấp vốn cho khách hàng và đến thời hạn thanh toán giấy tờ có giá thì ngân hàng sẽ đòi nợ chủ thể phát hành giấy tờ có giá đó.
Cho vay gián tiếp có thể theo các loại như: chiết khấu thương phiếu (discount), mua các phiếu bán hàng (dealer paper) tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp, nghiệp vụ thanh tín (factoring), nghiệp vụ bảo lãnh (TD bằng chữ ký).
Việc cho vay theo hình thức nào, loại hình TD nào là phụ thuộc vào sự đánh giá, thẩm định của ngân hàng cũng như sự thoả thuận của hai bên.
Cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu hoá, hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và của DNVVN nói riêng không ngừng được phát triển cả về lượng cũng như về chất, nên nguồn vốn bổ sung cho sản xuất kinh doanh cũng không thể bị ngưng trệ. Chính vì vậy, đối tượng khách hàng trong giao dịch TD với ngân hàng hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp, việc cấp vốn thông qua một số hình thức như: TD ngắn hạn; TD trung, dài hạn; và một số hình thức tài trợ TD chuyên biệt.
Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp, TD ngắn hạn được thực hiện thông qua bốn hình thức :
TD ứng trước: là một nghiệp vụ TD thực hiện trên cơ sở hợp đồng TD, trong đó khách hàng được sử dụng một khoản mức cho vay trong một thời gian nhất định. TD ứng trước bao gồm hai loại là:
Một là, cho vay từng lần. Theo phương thức cho vay này ngân hàng sẽ xem xét giải quyết cho vay theo từng nhu cầu vốn phát sinh của từng đối tượng vay cụ thể. Mỗi lần có nhu cầu vay khách hàng và ngân hàng làm thủ tục vay vốn và ký hợp đồng TD.
Hai là, cho vay theo hạn mức TD. Là phương thức cho vay mà trong đó ngân hàng và khách hàng khi ký hợp đồng TD đã thoả thuận với nhau một hạn mức TD tức là mức dự nợ tối đa trên tài khoản cho vay và được duy trì suốt trong kỳ kế hoạch.
Nghiệp vụ chiết khấu: là nghiệp vụ TD ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức chiết khấu và phí hoa hồng (nếu có).
Thông qua nghiệp vụ này, ngân hàng thực hiện tốt kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Có thể phòng tránh được rủi ro do không hoàn trả, vì lập trên cơ sở thương mại nên ngân hàng có thể truy đòi khách hàng đã chuyển nhượng thương phiếu hoặc đòi người đã mua hàng hoá và ngân hàng sẽ được pháp luật bảo vệ. Hơn nữa, chiết khấu thương phiếu làm cho vốn của ngân hàng luôn được luân chuyển một cách tuần hoàn.
Còn đối với người đi vay thì thương phiếu chiết khấu tại ngân hàng sẽ giúp họ đáp ứng ngay được nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất của mình.
TD thấu chi: Thấu chi là hình thức cấp TD đặc biệt được thực hiện dựa trên cơ sở hợp đồng TD, trong đó khách hàng được phép có số dư nợ tài khoản vãng lai theo một hạn mức thấu chi nhất định, trong một thời gian nhất định, giúp cho khách hàng sử dụng vốn vay chủ động và tiện lợi. Chính vì những thuận lợi đó mà chỉ có những khách hàng có khả năng tài chính cao và có uy tín thì ngân hàng sẽ xem xét để cho vay theo hình thức này.
TD factoring: Là một nghiệp vụ TD mà theo đó một tổ chức tín dụng mua đứt toàn bộ các trái quyền (các phiếu nợ, các hoá đơn thu tiền) mà doanh nghiệp là người bán hàng nắm giữ.
Tuy nhiên để đáp ứng các nhu cầu vốn cố định, thì ngân hàng phải đưa ra các hình thức của TD trung và dài, bao gồm:
TD theo dự án: Ngân hàng sẽ cấp TD dựa trên cơ sở dự án sau khi đã được xem xét và khẳng định tính hiệu quả, tính khả thi của dự án.
TD tuần hoàn: loại TD này được coi là TD trung và dài hạn khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài từ một năm đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và được trả nợ khi có nguồn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
TD đồng tài trợ (TD hợp vốn) là hình thức nhiều tổ chức tín dụng cùng tập hợp vốn để cho vay các doanh nghiệp.
Ngoài hai loại hình TD chủ yếu trên, ngân hàng còn thực hiện một số loại hình TD chuyên biệt khác:
Nghiệp vụ bảo lãnh (TD bằng chữ ký): là nghiệp vụ mà ngân hàng đứng ra cam kết trong khuôn khổ một hợp đồng bảo lãnh là sẽ thi hành nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) với bên thụ hưởng bảo lãnh khi khách hàng của ngân hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy, khi thực hiện loại hình TD này ngân hàng không phải xuất quỹ để cho khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định mà chỉ đưa ra một cam kết thanh toán có điều kiện, chỉ khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình thì lúc đó ngân hàng mới xuất quỹ để thanh toán thay cho khách hàng của mình.
TD thuê mua: là hình thức cho vay tài sản thông qua một hợp đồng TD thuê mua theo đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng và người thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê, được quyền mua tài sản thuê hoặc được quyền tiếp tục thuê theo các điều kiện hai bên đã thoả thuận.
Tài sản cho thuê bao gồm cả bất động sản và động sản. Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc sở hữu của người cho thuê, còn người đi thuê chỉ có quyền sử dụng. Vì vậy người đi thuê không được bán, thế chấp, cầm cố hoặc chuyển nhượng cho người khác. Song họ được hưởng những lợi ích do việc sử dụng tài sản đó đem lại, đồng thời phải chịu phần vốn rủi ro có liên quan đến tài sản.
1.2.2 Sự cần thiết của TD ngân hàng đối với các DNVVN.
Trong cơ chế cạnh tranh hiện nay, khi mà tất cả các loại hình doanh nghiệp đang phát huy hiệu quả kinh doanh ở mức cao nhất thì các DNVVN lại càng phải nỗ lực hơn để đáp ứng những yêu cầu mới, sản phẩm cần tốt hơn, đa dạng hơn, thiết bị cần hiện đại hơn, máy móc, công nghệ cần tiên tiến hơn và tất yếu vốn phải cần nhiều hơn. Như vậy, suy cho cùng thì vốn vẫn là điều kiện tiên quyết quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, nên TD ngân hàng ngày càng quan trọng hơn, cần thiết hơn đặc biệt với các DNVVN và được thể hiện trên một số mặt:
1.2.2.1 TD ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển của các DNVVN.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, bất cứ ai cũng muốn đồng vốn của mình sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để kiếm lãi, còn những nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lợi của vốn mà cần vay thêm tiền để mở rộng sản xuất. Với tư cách là trung gian dẫn vốn, ngân hàng đã giải quyết mâu thuẫn đó. Với hoạt động đi vay để cho vay, ngân hàng đã tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp muốn thành lập công ty hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện.
TD ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN, TD ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó TD ngân hàng làm thay đổi quan hệ về cung- cầu hàng hoá và thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế.
1.2.2.2 TD ngân hàng góp phần tăng nguồn vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNVVN.
Một trong những quy luật khách quan của cơ chế thị trường là cạnh tranh và quy luật này ngày càng quan trọng, quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong đó có DNVVN. Tuy nhiên do những đặc điểm, tính chất của mình DNVVN gặp không ít những khó khăn trong việc phát triển tạo thị phần, tạo niềm tin, tạo hình ảnh trong khi vị thế của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đã ổn định và có chỗ đứng trên thị trường vì vậy xu hướng hiện nay của các DNVVN là tìm cách liên doanh, liên kết với nhau nhằm bổ sung và hoàn thiện những hạn chế của mình, đặc biệt là hạn chế về vốn.
Mặc dù vậy, để đầu tư phát triển lớn, liên doanh, liên kết thôi chưa đủ vì vốn tự có thường hạn hẹp, khả năng tích tụ thấp cần mất nhiều năm mới có thể có được đủ vốn nhưng khi đó cơ hội làm ăn lại không còn do đó các DNVVN thường xuyên tìm cách huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, trong đó chủ yếu là nguồn TD ngân hàng. Khi vốn được giải ngân, sức mạnh tài chính của doanh nghiệp tăng lên thì các DNVVN cũng có cơ hội thực hiện được mục đích của mình, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường, tạo thế cạnh tranh.
1.2.2.3 TD ngân hàng tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận vốn nước ngoài.
Bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ, TD ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các doanh nghiệp mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C… Như vậy quan hệ quốc tế của các doanh nghiệp đã được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Thông qua nguồn vốn vay này, DNVVN xác lập một cơ cấu vốn tối ưu đảm bảo kết hợp hiệu quả giữa nguồn đi vay cũng như nguồn tự có nhằm sản phẩm sản xuất tại giá vốn bình quân rẻ nhất, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng hàng hoá và được thị trường chấp nhận. Có như vậy thì doanh nghiệp mới đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
1.2.2.4 TD ngân hàng góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống thị trường các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNVVN.
Các DNVVN có vốn lưu động tự có rất ít so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh (kể cả trong nước và nhập khẩu) chủ yếu được bù đắp bằng vốn TD ngân hàng. Mặt khác TD ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng TD tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh tốt, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới theo hướng hiện đại.
1.2.2.5 TD ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN.
TD ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “vay để cho vay”; “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn và lãi”; nếu quá hạn phải chịu lãi suất cao, đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong đó có các DNVVN nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn.
Để có tiền cho các doanh nghiệp vay, ngân hàng phải tiến hành huy động vốn và có quy định thời hạn trả rõ ràng, như vậy ngân hàng cũng phải cân đối giữa nguồn huy động và nguồn cho vay sao cho phù hợp, đảm bảo thời hạn khớp giữa các nguồn. Vì vậy khi ký kết hợp đồng TD, ngân hàng đã cân nhắc nguồn có khả năng giải ngân, và thời hạn cần thiết để thu hồi vốn. Cho nên đến thời hạn trả nợ, dù doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không cũng phải thực hiện nhiệm vụ trả nợ của mình. Do đó bắt buộc hoạt động của doanh nghiệp phải sinh lời.
Thêm vào đó, khi cho vay ngân hàng cần kiểm tra tình hình kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp và họ chỉ cho vay những khách hàng có kết quả kinh doanh cao, tài chính lành mạnh, đảm bảo có khả năng trả nợ ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay vốn tạo điều kiện nâng cao khả năng tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp.
Mặt khác, thông qua cho vay, vốn TD được cung cấp kịp thời tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn của doanh nghiệp. Việc quản lý vốn thông qua quá trình hạch toán kinh tế góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong doanh nghiệp thêm vững chắc.
Khi quan hệ TD giữa ngân hàng và khách hàng được thiết lập thì cũng là lúc họ cùng bước trên một con đường. Vốn đã đưa vào kinh doanh thì cả ngân hàng và doanh nghiệp đều muốn nó quay lại với một lượng giá trị lớn hơn khi bỏ ra nên họ cùng nhau hợp tác để đồng vốn có lãi. Do đó, trước, trong và sau khi giải ngân, ngân hàng luôn quan tâm đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để có thể góp ý, tham gia trên những lĩnh vực mà ngân hàng biết, cũng bởi ngân hàng có quan hệ với rất nhiều các chủ thể kinh tế khác, vậy nên thông tin mà họ nắm bắt được cũng rất nhanh, chính xác giúp doanh nghiệp chủ động trước thời cơ cũng như thách thức, từ đó tìm ra các biện pháp tốt nhất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Qua một vài khía cạnh, ta thâý được vai trò to lớn của TD ngân hàng đối với các DNVVN, và sẽ là quan trọng hơn đối với các DNVVN trong lĩnh vực nông thôn vì vậy việc mở rộng TD đối với DNVVN là thực sự cần thiết để hoàn thiện một nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đang phát triển như nước ta.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng TD đối với các DNVVN.
Để bắt kịp với nhịp độ phát triển kinh tế thế giới, các DNVVN phải không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và bổ sung nguồn vốn sản xuất của mình vì vậy nhu cầu về vốn của các DNVVN không ngừng tăng do đó việc mở rộng TD để cung cấp vốn cho DNVVN là rất cần thiết, nhằm tối ưu hoá các nguồn lực xã hội. Nhưng để thực hiện mở rộng TD đối với các DNVVN thì cán bộ ngân hàng cần hiểu rõ những yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc mở rộng TD bao gồm các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài có liên quan đến hoạt động ngân hàng.
Yếu tố bên ngoài
Về cơ bản có thể chia thành 3 nhóm yếu tố chính là: yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội và yếu tố pháp lý
Yếu tố kinh tế
Nhìn chung, thực trạng nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các chủ thể kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động TD. Không những vậy, nền kinh tế ổn định còn giúp hoạt động của các doanh nghiệp diễn ra bình thường, không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế như khủng hoảng, lạm phát nên khả năng trả nợ đúng hạn, đúng kế hoạch do đó tiến hành mở rộng TD cũng đơn giản hơn.
Nếu hoạt động TD được mở rộng thì hiệu quả hoạt động kinh doanh của cả ngân hàng và cả doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Do đó mỗi biểu hiện tốt hay xấu trong hoạt động của doanh nghiệp sẽ có những ảnh hưởng tương ứng với hoạt động TD bởi cơ chế tác động của mối quan hệ TD. Với những khách hàng sản xuất kinh doanh có lãi, có xu thế phát triển, có khả năng chiếm lĩnh thị trường và có quan hệ TD tốt, cầu nối giữa vay và cho vay thông suốt, tạo điều kiện tăng vòng quay TD, mở rộng quy mô vốn đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng cũng như đảm bảo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Không những thế, mở rộng hoạt động TD ngân hàng tới các DNVVN còn bị ảnh hưởng bởi từng giai đoạn kinh tế. Nếu trong giai đoạn suy thoái kinh tế, sản xuất kinh doanh đình trệ, hoạt động TD gặp khó khăn trên tất cả các mặt, chất lượng cho vay không bảo đảm, vốn sử dụng không hiệu quả hoặc việc trả nợ bị chây ỳ thì việc mở rộng TD là không cần thiết. Hơn nữa, sản xuất dừng lại thì nhu cầu về vốn giảm, dẫn đến quan hệ TD cũng giảm theo nên ngân hàng không thể thực hiện được nghiệp vụ này, không nói gì đến mở rộng quy mô hoạt động của nó. Ngược lại, ở thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu vốn TD cao, chất lượng TD đảm bảo, nền kinh tế có tích luỹ thì hoạt động TD là rất cần thiết nên chính sách mở rộng phạm vi hoạt động của nghiệp vụ này của các ngân hàng là tất yếu nhằm tối đa các nguồn lực trong xã hội.
Sự cân đối giữa phần lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra và lợi tức cho vay của NHTM cũng ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng TD. Trong trường hợp lợi nhuận của doanh nghiệp không đủ để trả nợ ngân hàng sẽ kéo theo một loạt các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Do đó sẽ không có cơ hội để mở rộng hoạt động TD.
Yếu tố xã hội
Nói đến các yếu tố xã hội, người ta đề cập đến trình độ dân trí, tư cách đạo đức của người vay, sự ổn định xã hội quyết định có nên mở rộng TD đối với các DNVVN nữa hay không.
Đặc trưng được đề cập đầu tiên trong quan hệ TD là trên cơ sở lòng tin. Điều đó cũng có nghĩa quan hệ TD là sự kết hợp của cả ba yếu tố: ngân hàng, khách hàng và sự tín nhiệm lẫn nhau vì vậy để có thể mở rộng TD đối với các DNVVN cũng cần thiết có sự kết hợp của cả ba yếu tố này, trong đó sự tín nhiệm là cầu nối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, là điều kiện để TD tiếp tục tồn tại và mở rộng. Doanh nghiệp tin ngân hàng sẽ cấp TD với thủ tục đơn giản, điều kiện ưu đãi, thái độ niềm nở nhất còn ngân hàng lại tin doanh nghiệp sẽ thực hiện đúng theo hợp đồng, trả nợ gốc và lãi đúng hạn, tạo điều kiện để hoạt động TD diễn ra được thuận lợi, tốt đẹp. Điều đó khẳng định rằng tín nhiệm là tiền đề, là cơ sở để mở rộng hoạt động TD.
Trình độ dân trí thể hiện trình độ phát triển của xã hội, nếu trình độ dân trí cao, sự hiểu biết xã hội nhiều thì việc tiếp cận vốn cũng như thấy được những thuận lợi của TD ngân hàng cũng dễ dàng hơn vì vậy cơ hội mở rộng TD cũng sẽ mở hơn ngược lại khi trình độ văn hoá, trình độ hiểu biết của người dân còn hạn chế thì không chỉ TD ngân hàng khó phát triển mà nền kinh tế quốc gia sẽ khó mà vững mạnh.
Yếu tố xã hội còn bị tác động bởi tư cách đạo đức của người đi vay, mặc dù cho vay trên cơ sở tín nhiệm nhau nhưng cũng không loại trừ những trường hợp khách hàng vay không hoàn toàn ủng hộ quan điểm đó. Khi đến xin vay và nhận tiền vay thì khách hàng đồng ý với những điều khoản trong hợp đồng nhưng sau đó thì họ lại chây ỳ không thực hiện những gì đã cam kết, cố tình gian lận, lừa đảo…, dẫn đến rủi ro TD cho ngân hàng. Thực tế cho thấy hầu hết các vụ đổ bể đều do lừa đảo gây ra, điều đó làm cho cán bộ TD cầm chừng trong cho vay nên chủ trương mở rộng TD cũng gặp khó khăn hơn.
Có thể nói, môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định cho vay và mở rộng TD đối với các DNVVN. Một môi trường lành mạnh, trong sạch giúp người ta tự tin hơn vào các quyết định của mình, không lo sợ rủi ro sẽ xảy ra tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, xã hội văn minh.
Yếu tố pháp lý
Đó là tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật, gắn liền với quá trình thực hiên nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Thực tế nền kinh tế thị trường những năm qua đã cho thấy: pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Chính vì vậy, một hành lang pháp lý đầy đủ, vững chắc thì hoạt động trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động TD nói riêng sẽ diễn ra trôi chảy.
Yếu tố bên trong
Không chỉ bị các yếu tố khách quan tác động mà TD ngân hàng đối với các DNVVN còn bị các yếu tố chủ quan, những hành động của chính ngân hàng tác động.
Chính sách TD.
Trong hoạt động TD, để có được bước đi và lối đi đúng hướng thì xây dựng một chính sách TD hoàn hảo là vô cùng quan trọng. Chính sách TD chính là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động TD đi đúng quỹ đạo của nó, có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại của ngân hàng. Chính sách cho vay đúng đắn, đầy đủ, đồng bộ sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ TD khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động TD. Ngược lại một chính sách TD không đầy đủ đúng đắn và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động TD dẫn đến việc cấp TD không đúng đối tượng, tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn, gây rủi ro TD.
Chính sách TD bao gồm những định hướng chung về hoạt động cho vay như quy trình TD, các quy định đảm bảo tiền vay của từng ngân hàng, về lãi suất TD…Những định hướng này sẽ giúp TD hoạt động có hiệu quả, góp phần nâng cao khả năng mở rộng loại nghiệp vụ này.
Quy trình TD
Quy trình nghiệp vụ TD là tập hợp những nội dung kỹ thuật hướng dẫn về trình tự tổ chức thực hiện nghiệp vụ cho vay của ngân hàng từ khi phát sinh đến khi kết thúc một khoản vay, bao gồm các bước:
Thẩm định trước khi cho vay: Để quyết định có cho vay hay không, ngân hàng cần tiến hành thẩm định. Khi đó ngân hàng cần xem xét khách hàng là ai, thuộc đối tượng nào, vay để làm gì, phương án sản xuất kinh doanh có khả thi không, có khả năng tài chính để trả nợ không… sau các khâu thẩm định qua cán bộ TD, trưởng phòng TD người có thẩm quyền quyết định cho vay, nếu món vay được chấp thuận thì tiền sẽ được giải ngân.
Theo dõi trong quá trình cho vay: Khi tiền vay được phát ra, nhiệm vụ của cán bộ TD là tiếp tục theo dõi diễn biến của khoản vay TD, phát hiện kịp thời khi thấy có những biểu hiện rủi ro TD có thể xảy ra để có biện pháp phòng ngừa, kiểm tra khoản vay có sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng không là cơ sở để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và khả năng thu hồi vốn.
Đánh giá sau khi kết thúc khoản vay: Sau khi thu hồi vốn cả gốc lẫn lãi, ngân hàng cần kiểm tra việc sử dụng vốn và đánh giá hiệu quả của khoản vay, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong hoạt động cấp TD nhằm thúc đẩy hoạt động TD được mở rộng.
Lãi suất TD
Lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Thông thường chính sách lãi suất được quy định theo xu hướng là lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất tiền vay và lãi suất tiền vay nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp, đồng thời lãi suất tiền gửi phải lớn hơn tỉ lệ lạm phát. Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiết kiệm, lợi nhuận cho cơ quan TD và thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, chính sách lãi suất còn tuỳ thuộc vào chính sách TD của từng ngân hàng ở mỗi quốc gia, sao cho vừa đảm bảo lợi nhuận ngân hàng mà vừa đảm bảo các chỉ tiêu của chính sách quốc gia.
Trình độ, năng lực, chất lượng của cán bộ TD.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bên cạnh những máy móc, những thiết bị tiên tiến, con người đóng góp rất lớn đến thành công của ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động TD. Lựa chọn một phương hướng đúng phù hợp với khả năng và thực tiễn sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển mà sự lựa chọn lại phụ thuộc vào ban lãnh đạo và các cán bộ TD vì vậy đây phải là những người có trình độ, có năng lực về TD và có tâm huyết với nghề. Kinh doanh đã khó, kinh doanh tiền tệ lại càng khó hơn đòi hỏi cán bộ TD phải có trình độ tổng quát, có cái nhìn biện chứng cho mọi vấn đề, có khả năng phát hiện và phân tích vấn đề một cách thấu đáo. Vì vậy, thực hiện hoạt động này không chỉ là một nghiệp vụ đơn thuần mà nói đúng hơn, đó là nghệ thuật trong kinh doanh.
Đối với cán bộ TD, nếu quá nguyên tắc khi làm việc cũng không được mà quá tín nhiệm khách hàng cũng sẽ gây ra tổn thất. Khi cán bộ TD làm việc một cách cứng nhắc thì sẽ không có khả năng thu hút khách hàng hoặc gây nên cảm giác ngân hàng không tin tưởng khách hàng trong khi có rất nhiều các ngân hàng khác sẵn sàng cho họ vay, vì thế ngân hàng sẽ mất khả năng cạnh tranh và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, nếu cán bộ TD quá tín nhiệm khách hàng của mình, dẫn đến dễ dãi trong khi thẩm định gây rủi ro lớn trong hoạt động TD.
Kiểm soát nội bộ
Yếu tố này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động TD. Trong quá trình cho vay, kiểm soát TD là hoạt động thường xuyên, cần thiết đối với các NHTM bởi lẽ, công tác kiểm tra, kiểm soát càng thường xuyên, chặt chẽ đảm bảo cho hoạt động TD đi đúng hướng, thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình TD. Không những vậy, thông qua kiểm tra, kiểm soát nội bộ ngân hàng sẽ phát hiện ra những sai phạm, yếu kém trong hoạt động TD từ đó có các biện pháp xử lý, chỉnh sửa, uốn nắn kịp thời tạo điều kiện nâng cao chất lượng TD cũng như mở rộng hoạt động của nghiệp vụ này.
Công tác kiểm soát nội bộ được thực hiện bởi các cán bộ kiểm soát vì vậy đòi hỏi cán bộ kiểm soát phải là người giỏi chuyên môn, trung thực, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thường xuyên có chương trình kiểm tra và kiến nghị nhằm đưa lại cho hoạt động TD kết quả tốt nhất.
Để mở rộng TD tới các DNVVN, ngân hàng luôn quan tâm đến các nhân tố có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động TD, từ đó thúc đẩy quá trình vay và cho vay, đảm bảo lợi ích của cả hai phía, nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội.
1.3 kinh nghiệm của Một số nước trên thế giới về hỗ trợ TD cho DNVVN.
1.3.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
ở nhiều nước, kể cả ở những nước có nền kinh tế phát triển, DNVVN vẫn gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn. Do đó, bên cạnh hệ thống TD thương mại, nhiều nước đã xây dựng hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển DNVVN dưới nhiều hình thức thông qua hệ thống NHTM.
Tại Indonesia bắt đầu từ năm 1974, việc hỗ trợ TD cho các DNVVN chủ yếu bằng các chương trình TD trợ cấp và theo chỉ định của Chính phủ thông qua các NHTM. Các DNVVN thuộc nhóm mục tiêu của từng chương trình được vay vốn với lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường trong đó 23% số TD được cấp là cho doanh nghiệp nhỏ. Đã có 2,5 triệu doanh nghiệp được vay TD với tổng số tiền lên tới 5,7 tỷ rupia. Do việc hỗ trợ TD thông qua các NHTM nên phần lớn các khoản cho được dành cho các hoạt động thương mại ngắn hạn mà chưa chú trọng tới các hoạt động sản xuất dài hạn.
Những năm gần đây, Chính phủ đã giảm bớt các chương trình TD và các chương trình này đã điều chỉnh theo hướng cho vay theo lãi suất thị trường. Đồng thời, Chính phủ nước này quy định tất cả các ngân hàng trong nước phải cung cấp 20% số TD của họ cho các doanh nghiệp nhỏ. Điều quan trọng trong chính sách hỗ trợ TD cho các doanh nghiệp nhỏ là Chính phủ tạo điều kiện c._. quả đã đạt được cũng như những tồn tại cần hạn chế. Đồng thời, ngân hàng cần định kỳ đánh giá thực trạng dư nợ, rà soát các món vay để kịp thời phát hiện các khoản vay có vấn đề, chủ động đề ra các biện pháp ngăn chặn, xử lý thích hợp. Tập trung thu nợ các doanh nghiệp có biểu hiện sa sút về năng lực sản xuất và năng lực quản lý. Việc kiểm tra này sẽ phòng ngừa được tình trạng doanh nghiệp vay vốn ngân hàng này để trả nợ ngân hàng khác vì hiện nay một doanh nghiệp không chỉ có quan hệ TD với một ngân hàng đồng thời rút kinh nghiệm cho những khoản vay sau.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ ngân hàng nhằm thanh lọc những cán bộ TD mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của ngân hàng.
Như vậy, tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát sẽ đảm bảo sự an toàn về vốn và tài sản cho ngân hàng, góp phần làm tăng chất lượng TD cũng như khả năng mở rộng TD, là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của NHNoTT . Vì vậy, các thành viên trong NHNoTT cần phải nhận thức đầy đủ và quan tâm đến công tác này thì hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ được nâng cao.
3.2.7. Thực hiện tốt các tài sản đảm bảo.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bảo toàn và phát triển vốn luôn là nhiệm vụ cơ bản, được đặt lên hàng đầu. Để bảo toàn vốn thì một biện pháp không thể thiếu trong hoạt động TD là việc bảo đảm tiền vay, đó là cơ sở pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất. Có hai phương thức đảm bảo chính là đảm bảo đối nhân và đảm bảo đối vật, điều đó phụ thuộc vào quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Cho nên vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là phải tìm ra những hình thức bảo đảm tốt nhất cho từng khách hàng ở mỗi loại TD nhất định, nghĩa là sử dụng các phương thức đảm bảo tiền vay vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, không chỉ thực hiện kỹ lưỡng và chính xác theo quy định pháp lý khi đặt ra bảo đảm mà trong đó cũng phải giám sát chi tiết các bảo đảm trong thời hạn TD. Muốn vậy trong quá trình lập hồ sơ và thẩm định yếu tố bảo đảm tiền vay cần thực hiện một cách chính xác, khách quan và trung thực nhằm giảm thiểu rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải.
Đối với những bảo đảm bằng tài sản, cần có đầy đủ giấy tờ sở hữu hay hiện vật đảm bảo. Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp có quan hệ TD với nhiều ngân hàng vì vậy cũng không loại trừ khả năng một tài sản của họ lại dùng để đảm bảo ở nhiều nơi và họ dùng bản sao công chứng để làm thủ tục vay vốn, do đó ngân hàng cần kiểm tra tính chính xác của các giấy tờ này một cách cẩn trọng, thiết lập mối liên hệ thường xuyên với phòng công chứng nhà nước để có những thông tin chính xác về giấy tờ công chứng của các doanh nghiệp. Với những tài sản là động sản thì người vay phải giao nộp hiện vật hoặc hợp đồng thuê kho bảo đảm, có hợp đồng giữa hai bên về chế độ quản lý, bảo hiểm hàng hoá trong kho, đồng thời cán bộ TD cần giám sát chặt chẽ tài sản để nắm bắt được thực trạng tài sản đó, với bất động sản là phương tiện kinh doanh, ngân hàng cần kiểm tra, nắm giữ giấy tờ sở hữu đồng thời phải kiểm tra, giám sát thường xuyên tình hình sử dụng các tài sản trên để có biện pháp xử lý kịp thời khi xảy ra rủi ro đối với doanh nghiệp vay vốn.
Không chỉ nắm giữ giấy tờ hay hiện vật của tài sản đảm bảo mà trước đó khi thẩm định giá trị của tài sản, ngân hàng cần đánh giá đúng mức, chuẩn xác, có tỷ lệ dự phòng giảm giá khi xác định mức độ cho vay và phải tuân thủ đúng theo chế độ quy định. Cán bộ TD cần nắm chắc được giá cả thị trường, tránh gây ra những tình trạng khi khách hàng không trả được nợ mới phát hiện giá trị thực thấp hơn giá trị đánh giá nhiều, điều đó sẽ gây thất thoát vốn của ngân hàng.
Tuy nhiên, ngân hàng không nên coi tài sản thế chấp là chỗ dựa cho số tiền vay, không nên tuyệt đối hoá vai trò của tài sản thế chấp cho dù tài sản thế chấp là cơ sở giúp ngân hàng có khả năng thu nợ vay khi khách hàng không có khả năng trả nợ. Bởi vì mục đích của ngân hàng cho vay là giúp khách hàng có vốn duy trì hoạt động sản xuất, hơn nữa không phải tài sản nào cũng dễ dàng bán được để thu nợ một cách kịp thời mà điều quan trọng để quyết định cho vay vẫn là uy tín, năng lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Đối với các DNVVN, một khó khăn lớn nhất để họ có thể tiếp cận vốn TD ngân hàng là thiếu tài sản thế chấp trong khi uy tín của các doanh nghiệp này cũng không đủ điều kiện để vay vốn bằng tín chấp. Do đó, để mở rộng TD đối với khối TD này, cũng theo chủ trương của NHNo & PTNT Việt Nam thì tài sản đảm bảo chỉ là một phần quyết định đến hoạt động cho vay mà cái chính vẫn là tính khả thi của dự án đầu tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2.8. Thiết lập chiến lược Marketing, trong đó chú trọng vào chính sách khách hàng.
Với tốc độ phát triển của cơ chế thị trường, khi mà cung luôn luôn lớn hơn cầu thì công tác Marketing đã trở nên rất quan trọng trong chiến lược của mỗi đơn vị kinh doanh. Vì vậy không chỉ có các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mới quan tâm đến lĩnh vực này mà ngay cả ngành ngân hàng, một ngành kinh doanh đặc biệt, rất nhạy cảm với những biến động môi trường xung quanh cũng đang tập trung xây dựng một chiến lược Marketing hoàn hảo nhằm tối đa hoá được hiệu quả kinh doanh ngân hàng.
Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức và quản lý của ngân hàng từ việc phát hiện ra nhu cầu của khách đến việc thoả mãn nhu cầu đó về nguồn vốn cũng như các dịch vụ ngân hàng khác thông qua các chính sách, các giải pháp cụ thể, linh hoạt thích ứng với môi trường, với thị trường để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Hiện nay, NHNoTT đã phải cạnh tranh rất găy gắt với các ngân hàng khác trên địa bàn để thu hút khách hàng nhưng kết quả vẫn chưa như mong đợi, số DNVVN có quan hệ TD với NHNoTT còn quá ít ỏi. Trước tình hình này, để cải thiện số lượng cũng như mức dư nợ theo đúng tiềm năng của các DNVVN thì NHNoTT cần quan tâm đến hoạt động Marketing mà chủ yếu tập trung vào chính sách khách hàng. Trên thực tế, NHNoTT chưa chú trọng vào hoạt động này, chưa có bộ phận chuyên trách làm Marketing, chưa đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để cho các DNVVN hiểu hết cơ chế TD của NHNoTT, hiểu được những quyền lợi và trách nhiệm khi có quan hệ với ngân hàng. Vì vậy, để mở rộng TD đối với khối DNVVN, nhằm tối đa hoá nguồn vốn huy động, nhân viên NHNoTT, đặc biệt là cán bộ TD bên cạnh hoàn thành nghiệp vụ TD thông thường còn phải coi mình như một nhân viên Marketing thực thụ, trực tiếp tìm hiểu nhu cầu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất.
Cũng chính vì cơ chế thị trường, vì cạnh tranh nên không ít các tổ chức TD tham gia cung cấp dịch vụ TD cho các DNVVN trên địa bàn huyện Thanh Trì nên NHNoTT cần đổi mới phương thức kinh doanh từ bị động sang chủ động vì hiện nay rất nhiều doanh nghiệp đã không tự tìm đến với ngân hàng vay vốn mà ngân hàng muốn mở rộng TD thì phải chủ động tìm kiếm, tiếp cận các khả năng cho vay, tìm hiểu thị trường, khai thác tối đa nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó phối hợp với ban lãnh đạo đưa ra những chiến thuật Marketing phù hợp với chiến lược kinh doanh tổng thể của ngân hàng.
Để thực hiện điều này đòi hỏi các ngân hàng phải tiếp tục tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có phẩm chất tốt, đặc biệt là có tâm huyết với nghề, sẵn sàng đi sâu đi sát cơ sở để tìm kiếm cơ hội đầu tư và đưa ra những quyết định nhanh, chính xác trong mỗi khoản vay để không bỏ lỡ bất kỳ một cơ hội đầu tư nào. Luôn chủ động về nguồn vốn để đầu tư cho các dự án có vị trí chiến lược, đáp ứng tối đa nhu cầu và mang lại hiệu quả cao nhất cho khách hàng.
Với mục đích tiếp cận khách hàng ngày càng rộng hơn, ngân hàng cũng cần quan tâm cải tiến các hình thức đầu tư, các hình thức giải ngân, đối tượng vay vốn, triển khai việc giới thiệu các loại hình TD, các dịch vụ ngân hàng trên mạng kết hợp với cả việc giải đáp thắc mắc cho khách hàng về những vấn đề liên quan đến thể lệ TD…Ngoài ra, ngân hàng không chỉ cho vay chuyển thẳng cho nhà cung cấp mà có thể cho vay để bù đắp phần vốn mà doanh nghiệp đã huy động để đầu tư trung, dài hạn, hay ngân hàng không chỉ cho vay theo dự án mà có thể tham gia vào từng công đoạn của dự án.
Ngân hàng cũng cần tổ chức tốt hơn việc xây dựng mạng lưới thông tin, xử lý thông tin từ phía khách hàng, nhất là những thông tin về tình hình tài chính, năng lực quản lý, quan hệ thanh toán, và những thông tin liên quan đến khoản TD nhằm nắm bắt được nhu cầu của khách hàng cũng như khả năng của ngân hàng, hiểu được thực chất họ cần gì. Đồng thời, ngân hàng có thể đánh giá được năng lực của đối thủ cạnh tranh, từ đó đưa ra những giải pháp tối ưu để có thể thắng lợi trong cạnh tranh…Để có được nguồn thông tin đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực của ngân hàng trong việc tiếp cận với khách hàng, với thị trường. Ngoài ra, cũng cần sự hỗ trợ từ một cơ sở hạ tầng tài chính- tiền tệ phát triển của nền kinh tế, đó là vấn đề kiện toàn hệ thống thông tin tài chính- tiền tệ trên mạng. Giải quyết được vấn đề nêu trên thật sự là một bước đột phá trong quá trình mở rộng tăng cường TD của NHNoTT đến với các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực DNVVN. Bởi lẽ nó cho phép ngân hàng có niềm tin vào doanh nghiệp, hiểu đúng khách hàng của mình hơn và mạnh dạn khi đáp ứng nhu cầu vốn cho các DNVVN.
Nghiên cứu xây dựng mục tiêu kế hoạch đầu tư trung, dài hạn theo chiến lược khách hàng. Tăng cường công tác tiếp thị, tìm hiểu các tổ chức kinh tế, cá nhân trên địa bàn để chủ động khai thác, nắm bắt kịp thời nhu cầu của họ. Thực hiện theo phương châm: “bám sát mục tiêu, thực hiện phù hợp, mềm dẻo, đa dạng, linh hoạt- hiệu quả”, không nên có thái độ vồ vập hay coi nhẹ mà luôn có thái độ đúng mực trong giao dịch với khách hàng.
Không chỉ có tìm hiểu thị trường, nghiên cứu nhu cầu khách hàng mà ngân hàng còn thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư đối với các DNVVN. Cho đến nay, hầu hết các DNVVN đều có hiểu biết ít về lĩnh vực đầu tư và việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh còn hạn chế vì vậy đầu tư vào các công trình chưa thu được hiệu quả như mong muốn, rủi ro còn nhiều. Nhằm giúp cho nguồn vốn được sử dụng một cách hiệu quả, NHNoTT nên có phòng hoặc tổ tư vấn đầu tư cho các doanh nghiệp, phòng hoặc tổ này sẽ tư vấn để soạn thảo dự án, tính toán hiệu quả kinh tế, lựa chọn phương án đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có như vậy doanh nghiệp càng thêm tin tưởng và ngày càng có nhiều doanh nghiệp mở rộng quan hệ TD với ngân hàng.
Để tìm hiểu những phản ánh và mong muốn của các DNVVN, NHNoTT cũng nên tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị khách hàng. Những lần tổ chức này sẽ giúp hai bên trao đổi một cách cởi mở, thẳng thắn để hiểu nhau hơn, thông cảm với nhau hơn, đồng thời để hiểu những thiếu sót của mình, từ đó sẽ có những biện pháp giải quyết nhằm đưa hoạt động của cả ngân hàng và doanh nghiệp hiệu quả hơn. Cũng trong các buổi hội thảo, các DNVVN có cơ hội gặp gỡ nhau, trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh và nếu phù hợp thì các mối quan hệ mới, mối quan hệ bạn hàng sẽ xuất phát từ những lần gặp gỡ này.
Có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức, cơ quan chức năng có liên quan với các DNVVN như hiệp hội hỗ trợ các DNVVN, quỹ bảo lãnh TD cho các DNVVN…nhằm tạo thêm nhiều cơ hội mở rộng khách hàng cũng như tạo cho các DNVVN dễ dàng tiếp cận được vốn TD ngân hàng, đồng thời giúp các DNVVN có quan hệ TD với NHNoTT phản ánh những kiến nghị, đề nghị của họ lên các cơ quan chính quyền Nhà nước để bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện phát triển cho các DNVVN.
3.2.9. Củng cố và nâng cao trình độ của cán bộ TD ngân hàng.
Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và trong hoạt động cho vay nói riêng, yếu tố này cũng không nằm ngoài quy luật đó. Toàn bộ những quyết định cho vay, tiến trình thực hiện cho vay, thu hồi nợ không có một máy móc hay một công cụ nào khác ngoài cán bộ TD đảm nhiệm. Vì vậy, kết quả hoạt động cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ TD.
Trong thực tế, do tính chất phức tạp của kinh tế thị trường, sự khó khăn trong công tác cho vay thì đòi hỏi cán bộ TD có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn giỏi và cả những kiến thức khác một cách thường xuyên, để có được điều này thì NHNoTT cần tổ chức thi tuyển nhân viên đầu vào một cách công bằng, lựa chọn những người thực sự có năng lực, có trình độ, ưu tiên những người đã từng làm công tác TD. Đối với những cán bộ TD lâu năm phải có kinh nghiệm nắm bắt nhanh các chủ trương chính sách của NHNoTT, NHNo & PTNT Việt Nam cũng như của Đảng, Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt các chủ trương trong từng thời kỳ.
Bên cạnh đó, NHNoTT cần có kế hoạch tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ thường xuyên, tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nhằm không ngừng trau dồi kiến thức nghiệp vụ chuyên môn cũng như kiến thức kinh tế thị trường, đáp ứng tính cập nhật của những vấn đề kinh tế hiện đại. Nhưng khả năng của mỗi người có hạn nên không thể một lúc tiếp thu được tất cả các kiến thức tổng hợp nên ngân hàng cần có kế hoạch đào tạo từng bước mang tính chuyên sâu.
Đối với những cán bộ quản lý kinh doanh thì không chỉ nâng cao trình độ nghiệp vụ TD mà cần nắm chắc tất cả các nghiệp vụ khác của ngân hàng, có khả năng phân tích, đánh giá các hiện tượng kinh tế một cách tổng hợp, sắc bén, có kinh nghiệm thực tế từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn, thêm vào đó công tác quản lý đòi hỏi cần có nghệ thuật quản lý, công tác tổ chức cán bộ cần có tính chuyên sâu trong công việc, mỗi người phụ trách một công việc cụ thể và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả công việc của mình, mọi nhân viên kinh doanh nghiêm túc thực hiện đúng theo đường lối, chủ trương của ngân hàng với một tinh thần trách nhiệm và đạt hiệu quả cao.
Ngoài việc nâng cao trình độ của cán bộ quản lý thì bộ phận cán bộ TD trực tiếp giao dịch với khách hàng cần được chú trọng một cách đặc biệt vì đây là những người có ảnh hưởng lớn đến khả năng mở rộng cho vay. Đội ngũ này tham gia giao tiếp với khách hàng, thẩm định dự án đầu tư và đề xuất với cán bộ lãnh đạo ra các quyết định nhưng những quyết định này lại phụ thuộc rất nhiều vào cán bộ TD này, do đó ngoài những tiêu chuẩn về nghiệp vụ chung đòi hỏi đội ngũ cán bộ này phải là người có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật cao, có lập trường tư tưởng vững vàng, không bị cám dỗ bởi những lợi ích cá nhân mà gây thiệt hại cho ngân hàng để những đánh giá, thẩm định của cán bộ TD mang tính khách quan, thẳng thắn. Là những người trực tiếp phụ trách các khoản vay nên các cán bộ TD phải sâu sát thực tế, có hiểu biết nhất định về pháp luật, thị trường, kỹ thuật…tinh tế trong việc kiểm tra, phát hiện những hành vi lừa đảo của khách hàng hoặc những biểu hiện thiếu trung thực bằng cách trắc nghiệm, thăm dò…Trước những khó khăn của các DNVVN, nếu có thể giúp được, cán bộ ngân hàng phải nhiệt tình, không ngại vất vả, kiên trì giúp đỡ hết mình, tạo mối quan hệ thiện cảm, lâu dài giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
Ngân hàng cần có chế độ thưởng phạt xứng đáng đối với người làm công tác TD, gắn lợi ích của cán bộ TD với hiệu quả đầu tư TD nhằm nâng cao trách nhiệm và tinh thần hào hứng của cán bộ chuyên trách trong việc tìm kiếm khách hàng mới, mở rộng TD cũng như nâng cao chất lượng TD. Quy chế thưởng phạt phải gắn liền với hiệu quả làm việc đồng thời phải có quy định cụ thể và xử lý nghiêm minh đối với cán bộ TD để xảy ra thất thoát vốn, hoặc làm trái những quy tắc trong cho vay của NHNoTT gây ảnh hưởng đến lòng tin của các DNVVN, làm mất uy tín của ngân hàng. Ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, tổ chức các cuộc thi đua cán bộ có tay nghề giỏi nhằm khuyến khích không khí làm việc hiệu quả trong ngân hàng.
3.3 Một số kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ.
Trong tương lại, xu hướng hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, đặt các DNVVN trước những thách thức mới, nếu không có sự hỗ trợ của Chính phủ thì các DNVVN khó đứng vững ở thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài. Vì vậy, nhiều NHTM mong muốn Chính phủ tạo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, hỗ trợ các DNVVN về tài chính, trình độ quản lý, thông tin thị trường, công nghệ và hợp tác quốc tế.
Do thị trường tài chính trong nước còn nhỏ bé và non trẻ, tài trợ thông qua hệ thống ngân hàng vẫn là kênh đầu tư chủ yếu cho các thành phần kinh tế, trong đó có các DNVVN. Vì vậy, Nhà nước cần hỗ trợ hơn nữa về mặt chính sách cho các ngân hàng và các DNVVN nhằm tiếp thêm vốn cho loại hình doanh nghiệp này.
Đại đa số các DNVVN có quy mô vốn khá khiêm tốn, tài sản đảm bảo khá nhỏ so với nhu cầu TD và quy mô phát triển dự án. Mặc dù, Nhà nước đã cho phép các ngân hàng được nhận thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, việc cho vay đối với các doanh nghiệp có đất thuê ngoài khu công nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn do thủ tục cấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu bất động sản còn rất phức tạp trong khi cho vay tín chấp còn nhiều trở ngại đối với các DNVVN. Vì vậy, Chính phủ nên nới rộng và cụ thể hoá các quy định về cho vay tín chấp với các DNVVN, quy định này hiện nay bắt buộc các doanh nghiệp phải hoạt động có lãi 2 năm liên tục, trong khi các DNVVN đầu tư mới hoặc mở rộng sản xuất, gây khó khăn cho ngân hàng khi ra quyết định cho vay. Thiết nghĩ, quy định về cho vay tín chấp nên cởi mở hơn theo hướng các NHTM được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay tín chấp trên cơ sở xem xét đánh giá thời gian quan hệ, uy tín của DNVVN trong giao dịch với ngân hàng, có chú trọng đúng mức đến thương hiệu của DNVVN. Việt Nam đã công nhận thương hiệu là tài sản vô hình, có gía trị bằng tiền, vì vậy pháp luật cần có quy định rõ ràng, cụ thể về giá trị thương hiệu nhằm hỗ trợ cho ngân hàng an tâm đầu tư vào các DNVVN, nâng cao mức đóng góp của doanh nghiệp này cho nền kinh tế nước nhà.
Bên cạnh đó, không ngừng hoàn thiện đề án nghiên cứu cải tiến cách định giá tài sản đảm bảo bằng việc xem xét khung giá đối với quyền sử dụng đất sao cho phản ánh được giá cả thị trường và xây dựng đội ngũ chuyên trách trong việc đánh giá bất động sản. Sớm ban hành luật sở hữu tài sản để thống nhất các chuẩn mực về giấy tờ sở hữu tài sản của tất cả các thành phần kinh tế. Thông qua đó thúc đẩy việc chuyển quyền sở hữu tài sản nhanh chóng, dễ dàng tạo điều kiện cho các NHTM trong việc nhận tài sản đảm bảo và phát mại tài sản đảm bảo.
Thúc đẩy nhanh sự hình thành và hoạt động của các quỹ bảo lãnh cho các DNVVN. Đó là một trong những công cụ tài chính phối hợp thực hiện việc tiếp cận TD của các DNVVN có uy tín hoặc những dự án khả thi mà không đủ tài sản thế chấp, đồng thời chia sẻ rủi ro với các NHTM cho vay các DNVVN. Để hỗ trợ tổ chức bảo lãnh TD DNVVN hoạt động có hiệu quả thì cần lập các quỹ hỗ trợ phát triển DNVVN thuộc các bộ, ngành, địa phương và lập các hiệp hội DNVVN tạo ra sự phối hợp thống nhất vận hành hệ thống tổ chức bảo lãnh TD DNVVN đạt hiệu quả.
Lành mạnh hoá các quan hệ tài chính- TD, nâng cao trình độ quản trị về các báo cáo quyết toán của các DNVVN, bên cạnh đó, trình độ và năng lực quản lý của các DNVVN còn yếu kém, không tương xứng với quy mô hoạt động kinh doanh của mình. Để khai thông các kênh đầu tư vốn cho DNVVN, nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý và đưa ra các chính sách nhất quán và cụ thể nhằm khuyến khích các doanh nghiệp này tự giác thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật, chủ yếu thông qua chế độ quyết toán và vấn đề nộp thuế.
Để thực hiện chính sách đào tạo và chuyển giao công nghệ, nhà nước cần có các chương trình, các lớp đào tạo trình độ chuyên môn quản lý cho các chủ doanh nghiệp, các cán bộ quản lý và đào tạo nâng cao tay nghề cho người công nhân đảm bảo chất lượng, kỹ thuật của sản phẩm.
Với mức độ rủi ro TD cao khi đầu tư cho các DNVVN, nhà nước cần có chính sách rõ ràng, cụ thể nhằm bảo vệ cho quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của ngành ngân hàng, hạn chế hình sự hoá các vụ tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và doanh nghiệp khi có rủi ro xảy ra. Những rủi ro nếu có nên xử lý theo hướng doanh nghiệp chịu trách nhiệm vì chính doanh nghiệp mới biết rõ hành động của họ trừ trường hợp do thiên tai gây ra.
Xây dựng hệ thống quản lý ISO 9000 nhằm hỗ trợ các DNVVN, bồi dưỡng các kiến thức pháp luật, thương mại cho các doanh nghiệp tham gia AFTA, chương trình liên kết xuất khẩu, chương trình kích cầu cho doanh nghiệp, tổ chức các hội chợ thương mại nội địa và quốc tế để các doanh nghiệp giới thiệu năng lực sản xuất kinh doanh của mình và chào hàng.
Nếu các chính sách vĩ mô nêu trên được bổ sung, việc đầu tư vào các lĩnh vực DNVVN sẽ được mở rộng hơn và tạo được động lực phát triển cho nền kinh tế, đúng với chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, chú ý đến các ngành nghề truyền thống có quy mô nhỏ, chú ý đến các doanh nghiệp dễ quản lý, dễ đầu tư thay đổi thiết bị tạo thế cạnh tranh trong khu vực.
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
Để tạo điều kiện cho NHNo & PTNT Việt Nam nói chung và NHNo & PTNT huyện Thanh Trì nói riêng thực hiện được các giải pháp nhằm mở rộng TD đối với các DNVVN, Ngân hàng Nhà nước cần có những quan tâm:
NHNN cần bổ sung cơ chế, biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành thể lệ, quy trình TD, nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ. Cần nghiên cứu quy trình cho vay thực sự đơn giản, hợp lý, chặt chẽ tạo điều kiện cho các DNVVN vay vốn được thuận lợi, đảm bảo cho vay có hiệu quả.
NHNN sớm đề nghị Chính phủ quyết định thành lập công ty chuyên mua, bán giải quyết các khoản nợ khó đòi, tồn đọng vì mục đích làm lành mạnh hoá các hoạt động của ngân hàng theo chương trình cải cách kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Nghiên cứu hoàn thiện khung pháp lý về đảm bảo tiền vay, trong đó có quy định đảm bảo tiền vay với các DNVVN, tạo điều kiện cho các ngân hàng có đủ cơ sở khi cấp TD.
Ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật thương phiếu, tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho các ngân hàng có thể cho vay dựa trên cơ sở đảm bảo là các giấy tờ có giá, gắn liền với sự vận động của hàng hoá tiền tệ giúp cho việc giám sát món vay được tốt hơn.
Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin TD (CIC) bằng cách tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị lao động để nhằm làm cho chất lượng và giá trị của nguồn thông tin CIC cung cấp ngày càng tăng, mang lại hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động TD của các ngân hàng nói riêng.
3.3.3 Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam.
Bám sát quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, từng địa phương để giúp NHNoTT đầu tư đúng hướng và an toàn, mang lại hiệu quả cao. Từ đó cùng với chi nhánh tích cực tìm kiếm khai thác khách hàng để mở rộng hoạt động TD, đặc biệt là hoạt động TD với các DNVVN, giúp ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu, chiến lược kinh doanh của mình.
Ban hành, hoàn thiện đồng bộ hoá các văn bản về hoạt động kinh doanh TD của các chi nhánh trong hệ thống, thiết lập thủ tục cho vay đơn giản, phù hợp với pháp luật hiện hành, đảm bảo mục tiêu an toàn trong kinh doanh, thích ứng với từng nhóm khách hàng, từng loại cho vay, xoá bỏ cơ chế "một cửa, một dấu nhưng nhiều chữ ký" nhằm tiết kiệm thời gian, tránh gây phiền hà cho khách hàng.
Tổ chức thường xuyên và hiệu quả các buổi hội thảo trao đổi tình hình, kinh nghiệm hoạt động giữa các chi nhánh, các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ, từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ trong hệ thống nhằm nâng cao trình độ quản lý và trình độ thẩm định khách hàng cũng như dự án đầu tư theo tiêu chuẩn quốc tế.
Khai thác các nguồn TD ưu đãi uỷ thác, tạo điều kiện cho các DNVVN có cơ hội nhiều nhất trong việc tiếp cận vốn TD, thành lập riêng một quỹ cho vay DNVVN và phân bổ cho các chi nhánh để các doanh nghiệp này dễ dàng tiếp cận được các nguồn TD.
Phối hợp chặt chẽ với NHNoTT để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin TD, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp các chi nhánh có được những thông tin đúng, chính xác và kịp thời nhất.
3.3.4 Kiến nghị với các DNVVN.
Thực trạng các DNVVN ở Việt Nam nói chung và ở huyện Thanh Trì nói riêng rất bất cập so với yêu cầu của sự phát triển và trong quan hệ TD với các NHTM. Vì vậy, bên cạnh sự hỗ trợ của Chính phủ, ban, ngành liên quan thì các doanh nghiệp này phải nỗ lực tìm được hướng đi cho chính mình.
- Các DNVVN phải khai thác tối đa nguòn vốn tự lực của mình và huy động các ngồn vốn khác phục vụ cho các phương án sản xuất kinh doanh với yêu cầu tiết kiệm đúng mục đích, đúng đối tượng và có hiệu quả.
- DNVVN cần tạo lập một khả năng tín chấp của mình khi tiếp cận với các nhà tài trợ, cụ thể như:
Tranh thủ sự hỗ trợ từ các tổ chức của Chính phủ, đặc biệt là mạng lưới hỗ trợ DNVVN, phát huy vai trò hỗ trợ DNVVN trên các mặt: quảng bá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo nâng cao tay nghề, kiến thức quản trị doanh nghiệp…, những hoạt động này sẽ nâng cao khả năng tín chấp của doanh nghiệp vì chúng sẽ tạo nên những nguồn thông tin phản hồi đến các nhà tài trợ nhằm nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, hình ảnh của doanh nghiệp sẽ được hoàn thiện hơn dưới con mắt nhà tài trợ.
Tranh thủ các dịch vụ tư vấn hoặc sự hỗ trợ từ các chuyên gia để có thể xây dựng những phương án kinh doanh mang tính thuyết phục cao.
Đối với nhà tài trợ, một phương án được coi là khả thi khi hội đủ những điều kiện về khả năng thực hiện hiệu quả như: vị trí thuận lợi theo quy hoạch của nhà nước, tận dụng nhiều nguồn lực tại chỗ về vốn, nhà xưởng, thiết bị, nguyên liệu.., giải quyết việc làm cho nhiều lao động, có biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường, tính toán rõ ràng về chi phí, sản phẩm có khả năng chiếm lĩnh thị trường…Ngoài ra, khi tiếp cận với cán bộ TD, doanh nghiệp cần tránh những sơ suất có thể làm cho đề nghị vay vốn bị bác bỏ như thiếu sự chuẩn bị chu đaó, thiếu thông tin, sự diễn đạt mơ hồ gây ra sự thiếu tin tưởng.
- Hiệp hội các DNVVN cần sớm có các biện pháp nhằm giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi của các thành viên, đồng thời là nơi để trao đổi kinh nghiệm quản lý, xúc tiến các giao lưu thương mại. Ngoài ra, hiệp hội DNVVN còn có thể phát huy vai trò cầu nối giữa các hội viên với tổ chức hỗ trợ DNVVN trong và ngoài nước một cách hiệu quả nhất.
Vai trò của các DNVVN đối với nền kinh tế đã và đang được khẳng định, hoạt động ngân hàng cũng có những chuyển biến tích cực trong quan hệ TD với khu vực này. Những khó khăn do cơ chế, chính sách chỉ là tạm thời. Cùng với sự nỗ lực gải quyết những vấn đề vướng mắc trong quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp hy vọng sẽ tạo điều kiện để cơ chế hỗ trợ tài chính của NHNoTT với các DNVVN được mở rộng, đáp ứng ngày càng kịp thời hơn nhu cầu vốn của các DNVVN trong xu thế hội nhập quốc tế.
Kết luận
Trong quá trình phát triển kinh tế từ một nước nông nghiệp sản xuất hàng hóa nhỏ đang phấn đấu xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì phát triển các DNVVN ở nước ta là hướng đi phù hợp nhất. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế đang đặt các DNVVN trước những thách thức mới, cần có sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Chính phủ cũng như hệ thống NHTM, trong đó có NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Thông qua số liệu thực tế của NHTT trong việc cấp TD đối với các DNVVN trên địa bàn ta thấy rõ là NHTT và các DNVVN chưa tìm được những biện pháp chung nhằm phát triển mối quan hệ hợp tác cùng nhau có lợi này.
Với mong muốn đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn huy động cũng như tạo điều kiện để các DNVVN có đủ vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, khoá luận đã tập trung vào một số nội dung cơ bản:
Hệ thống hoá và bổ sung những lý luận cơ bản về các DNVVN, về hoạt động TD của ngân hàng qua đó thấy được vai trò to lớn của TD ngân hàng trong việc bổ sung nguồn vốn cho các DNVVN, phân tích những nhân tố có khả năng ảnh hưởng đến quy mô TD của ngân hàng, đồng thời nêu lên một kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc hỗ trợ tài chính cho các DNVVN thông qua hệ thống NHTM, từ đó rút ra những bài học bổ ích cho Việt Nam.
Từ cơ sở lý luận đó, ở chương 2 khoá luận đã đi sâu vào nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động TD của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì đối với các DNVVN trên địa bàn mà chủ yếu dựa vào thực trạng của các doanh nghiệp đó. Qua đó, đánh giá được những kết quả đạt được đối với cả DNVVN và NHTT, rút một số mặt còn tồn tại và tìm ra nguyên nhân của tồn tại đó.
Thông qua việc phân tích thực trạng TD đối với các DNVVN cũng như chủ trương, phương hướng đầu tư TD cho các DNVVN ở NHNo & PTNT huyện Thanh Trì, khoá luận đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ TD đối với các DNVVN, đảm bảo lợi ích chung của cả hai bên, chương 3 cũng nêu lên một số kiến nghị với Chính phủ, với Ngân hàng Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam và các DNVVN. Để có thể nâng cao hơn nữa khả năng mở rộng TD đối với các DNVVN thì cần tất cả các bên liên quan có sự quan tâm nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận vốn TD của ngân hàng hơn nữa, nếu thực hiện được điều này thì nguồn vốn của xã hội sẽ được sử dụng một cách tối đa.
Đây là một đề tài phức tạp nên những ý kiến đề xuất trong khoá luận chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các biện pháp nhằm mở rộng TD đối với các DNVVN. Tuy vậy nó vẫn phát huy hiệu quả khi có sự kết hợp đồng bộ giữa các Bộ, các ngành có liên quan trong quá trình thực hiện.
Mặc dù với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân nhưng do lĩnh vực nghiên cứu của đề tài là một vấn đề rất rộng và tương đối phức tạp, do còn hạn chế về mặt thời gian và kiến thức lý luận cũng như thực tiễn nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp, cơ quan thực tập và những bạn đọc quan tâm để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình hình thành khoá luận em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của Nhà giáo, Tiến sĩ Tô Ngọc Hưng và toàn thể các thầy cô giáo trong khoa cùng các cô chú, anh chị trong phòng kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Thanh Trì. Em xin bày tỏ òng biết ơn chân thành đối với sự giúp đỡ quý báu đó.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0344.doc