Lời nói đầu
- Một trong những bài học rút ra từ thành công của công cuộc đổi mới là thực hiện cơ chế thị trường với đa dạng hoá các thành phần kinh tế, chính việc phát huy tính tự điều tiết của cơ chế thi trường đã giúp Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tạo ra những cơ sở ban đầu cho sự phát triển. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh( DNNQD) tuy chưa thực sự được quan tâm và phát triển đúng mức nhưng cũng đã chứng tỏ sự năng động, khả năng khai thác tiềm năng trong nhân dân, đóng một vai
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trò không thể thiếu trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy cần phải phát triển thành phần doanh nhgiệp ngoài quốc doanh, trong tương quan củng cố thành phần kinh tế nhà nước,là một biện pháp quan trọng nhằm khai thác toàn diện và phát huy nội lực của nền kinh tế trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế đất nước.
- Trong quá trình phát triển của các DNNQD , ngành ngân hàng đã có một vai trò hết sức quan trọng và cần thiết trong mối tương quan giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và ngân hàng. Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần quan trọng trong việc tăng trưởng tín dụng, ngược lại tín dụng ngân hàng có tác động tích cực tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, giúp cho hoạt động của các doanh nghiệp này được liên tục cải thiện, đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Nhận thức được vấn đề này nên trong thời gian vừa qua, chi nhánh NHNN-PTNT Hà Nội đã đưa ra những giải pháp cho việc mở rộng tín dụng đối với các DNNQD. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện ngoài những kết quả đã đạt được còn bộc lộ những khó khăn vướng mắc. Trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNN-PTNT Hà Nội, em đã rất quan tâm tới vấn đề này và chọn làm chuyên đề thực tập. Em hi vọng với đề tài: “Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNN-PTNT Hà Nội” sẽ phần nào tháo gỡ được những khó khăn trong mối quan hệ tín dụng giữa chi nhánh và các doanh nghiệp ngoài quốc doang trên địa bàn.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương 1: Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNN-PTNT Hà Nội.
Chương3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNN-PTNT Hà Nội.
Do hạn chế về mặt lý luận và thực tiễn, nên chuyên đề thực tập không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cacá thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tiến sĩ Vũ Duy Hào đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Em xin cảm ơn các cán bộ chi nhánh NHNN-PTNT Hà Nội đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại cơ quan.
Chương1
tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1_tín dụng ngân hàng.
1.1.1_Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là Nợ, Có và Trung gian.Có nghĩa là ngân hàng thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để đầu tư thu lợi nhuận. Thông thường lượng vốn của ngân hàng thường rất nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của các khách hàng, do đó ngân hàng thương mại phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. Nguồn vốn mà ngân hàng có và huy động được là cơ sở để ngân hàng thương mại đầu tư lại cho nền kinh tế. Đây là nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Theo cách hiểu chung nhất, tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng và một bên là khách hàng của ngân hàng , trong đó ngân hàng chuyển giao tiền hay tài sản cho khách hàng sử dụng kèm theo thời gian hoàn trả lại cho ngân hàng toàn bộ số gốc và một phần lãi do hai bên thoả thuận.
1.1.2_Các hình thức tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Để đáp ứng được sự đa dạng và phong phú này thì đòi hỏi tín dụng ngân hàng cũng phải có những hình thức phong phú, đa dạng. Có nhiều hình thức phân loại tín dụng theo các tiêu thức khác nhau, theo điều 49 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng thì tín dụng ngân hàng được thể hiện dưới các hình thức sau:
1.1.2.1_Hình thức cho vay.
Quy chế cho vay của các tổ chức tín quy định: cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
1.1.2.2_Hình thức chiết khấu.
Trong nền kinh tế thị trường, các giấy tờ có giá được phát hành và lưu thông theo quy định của pháp luật. Người giữ các giấy tờ có giá này nếu cần tiền mặt khi các giấy tờ có giá chưa đến hạn thì có thể mang các giấy tờ có giá này đến ngân hàng thương mại để xin chiết khấu. “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiét khấuthương phiếu và các giấy tờ có giá ngán hạn khác. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền và lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ có giá đó cho tổ chức tín dụng”( điều 57 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng).
Như vậy về bản chất kinh tế, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác là tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng chuyển tiền cho người cho người chủ sở hưũ các giấy tờ có giá đó khi nó chưa đến hạn thanh toán. Khách hàng muốn bán thương phiếu cho ngân hàng phải lập đầy đủ thủ tục giống như vay vốn, làm đơn xin chiết khấu thương phiếu, ngân hàng kiểm tra khả năng thanh toán nợ khi đến hạn của người phát hành thương phiếu, nếu được chấp nhận và quyết định mức chiết khấu. Thông thường các ngân hàng chỉ chiết khấu các thương phiếu có thời gian đến hạn ngắn( từ 3 đến 6 tháng ) ưu điểm đặc biệt của hình thức tín dụng chiết khấu là nếu trong trường hợp khó khăn về khả năng thanh toán thì có thể đem các giấy tờ có giá đó đến ngân hàng Trung ương xin tái chiết khấu.
1.1.2.3_Hình thức nhận trả.
Là hình thức tín dụng mà ngan hàng nhận trả nợ thay cho người phát hành kì phiếu khi đến hạn thanh toán mà người phát hành kì phiếu không có khả năng thanh toán. Đây là sự đảm bảo chắc chắncho người sở hữu kì phiếu rằng họ sẽ nhận được tiền khi đến hạn thanh toán cũng như có thể dễ dàng đem kì phiếu đi chiết khấu.Để có được sự đảm bảo đó, doanh nghiệp phát hành kì phiếu sẽ phải trả cho ngân hàng một khoản hoa hồng. Trong hợp đồng tín dụng giữa người phát hành kì phiếu và ngân hàng có quy định người phát hành kì phiếu phải giao số tiền của kì phiếu chậm nhất trước ngày kì phiêú đến hạn.Ngân hàng phải thẩm định khả năng thanh toán của doanh nghiệp trước khi ngân hàng đảm bảo cho doanh nghiệp đó phát hành kì phiếu.
1.1.2.4_Tín dụng trả nhiều lần.
Là hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều thời hạn, mỗi lần trả nợ bao gồm một phần gốc và một phần lãi.Loại tín dụng này rất phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của doanh nghiệp là thu hồi vốn làm nhiều lần.
Tín dụng trả nhiều lần bao gồm các loại tín dụng ngắn, trung và dài hạn.Doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận mức cho vay, lãi xuất cho vay và kì hạn trả nợ cũng như số lãi và gốc cho mỗi lần trả nợ. Tín dụng trả nhiều lần có thị trường rộng lớn và phong phú, tuy nhiên càn có điều kiện đảm bảo để thực hiện loại cho vay này.
1.1.2.5_Hình thức bảo lãnh.
Đây là hình thức tín dụng phát sinh do ngân hàng nhận bảo lãnh dùng uy tín của mình để đảm bảo thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua hàng( người được bảo lãnh) không có khả năng thanh toán nợ.
Có hai loại bảo lãnh:
Bảo lãnh bằng thư: ngân hàng phát hành một thư bảo lãnh để khách hàng có thể mua vật tư hàng hoá, bao thầu…Trong thư bảo lãnh ngân hàng cam kết sẽ trả thay cho khách hàng khi khách hàng không trả tiền, nộp thuế…
Bảo lãnh bằng hình thức chấp nhận: ngân hàng có thể dùng cách kí chấp nhận vào một thương phiếu do nhà cung cấp lập khi bán chịu cho khách hàng hay do một ngân hàng lập cho người muốn vay tiền. Bảo lãnh vay tiền của một ngân hàng khác còn là cách san sẻ rủi ro cho nhiều ngân hàng.
1.1.2.6_Hình thức cầm cố bất động sản.
Đây là hình thức cho vay dài hạn trên cơ sở đảm bảo bằng bất động sản như nhà cửa , đất đai , xưởng máy…Tài sản cầm cố phải được chuyển cho người cho vay. Do đó người cho vay là người sở hữu trực tiếp, còn người vay chỉ còn là người sở hữu gián tiếp tài sản cầm cố.Trong hoạt động ngân hàng điều đó có nghĩa là tài sản cầm cố dễ vận chuyển có giá trị cao thì được đưa vào kho của ngân hàng, nếu là các hàng hoá đang trên đường đi hoặc các bất động sản, tài sản… có khối lượng lớn thì cầm cố có thể là các giấy tờ có giá chứng nhận quyền sở hữu các tài sản đó.
1.1.2.7_Hình thức cho thuê tài chính.
Đây là hình thức tín dụng trong đó người cho thuê tài sản theo yêu cầu của người đi thuê thực hiện việc cho thuê tài sản theo hợp đồng thuê mua. Tài sản cho thuê thường bao gồm động sản và bất dộng sản như nhà cửa, đất đai , máy móc thiết bị có giá trị lớn..Trong hợp đồng thuê mua phải có giá thuê, thời hạn thuê và cách thức sử lý tài sản khi hết thời hạn thuê, giá thuê bao gồm khấu hao tài sản cho thuê, lãi trên cơ sở lãi xuất của vốn bỏ ra mua tài sản và các chi phí khác. Hết hợp đồng thuê, người thuê có thể yêu cầu bán lại tài sản cho họ hoặc yêu cầu thuê tiếp hoặc trả lại tài sản cho người cho thuê. Trong thời gian cho thuê tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê nên thực chất đây là khoản cho vay có đảm bảo chắc chắn. Cho thuê tài chính không giống như hình thức cho vay trả góp, cũng không giống cho vay bình thường. Nó tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có khó khăn về tài chính hoặc các doanh nghiệp sản xuất có tính chất thời vụ.
1.1.3_Quy trình cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Qua nghiên cứu các hình thức tín dụng ngân hàng, chúng ta thấy các hình thức tín dụng chính là các sản phẩm hàng hoá trên thị trường kinh doanh tín dụng và cấp dịch vụ ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn đang trong quá trình phát triển, hoạt động của các ngân hàng chủ yếu và phần lớn vẫn là hoạt động huy động và cho vay vốn. Nền kinh tế càng phát triển thì nhuy cầu vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và của nền kinh tế nói chung càng phát triển. Do vậy việc đáp ứng nhu cầu vay vốn là nhiệm vụ quan trọng của các ngân hàng. Nó góp phần tạo ra sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế. Tuy nhiên để tránh rủi ro thất thoát trong hoạt động tín dụng của mình thì các ngân hàng phải cấp tín dụng theo một trình tự chặt chẽ. Tuỳ theo quy mô , tính chất, đặc điểm của từng món vay, từng khách hàng và điều kiện thực tế để thực hiện quy trình cho vay, nhưng nhìn chung theo các bước sau:
Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.
Khi khách hàng đề xuất yêu cầu vay vốn, cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng cụ thể và đầy đủ về các điều kiện vay vốn Ngân hàng theo cơ chế tín dụng hiện hành. Nếu khách hàng chấp thuận thì hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn để ngân hàng chính thức nghiên cứu thẩm định.
Tuỳ theo yêu cầu vay vốn cụ thể của khách hàng, cán bộ tín dụng căn cứ vào chế độ thể lệ tín dụng thuộc từng loại cho vay để hướng dẫn người vay lập hồ sơvay vốn. Về cơ bản hồ sơ vay vốn gồm:
Giấy tờ0 chứng nhận về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân.
Giấy đề nghị vay vốn.
Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch vay vốn, trả nợ.
Các báo cáo tài chính thời điểm gần nhất.
Bước 2: Điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng và phương án vay vốn.
Để quyết định cho vay hay từ chối khoản vay, cán bộ tín dụng phải điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn thông tin về khách hàng bao gồm:thông tin do khách hàng cung cấp và thông tin do cán bộ ngân hàng tự điều tra tư các nguồn thông tin ở các cơ quan có liên quan và thị trường. Một số nguồn thông tin quan trọng cần phải điều tra như sau:
Phỏng vấn người vay : nhằm kiểm tra, quan sát thái độ, phương pháp và nội dung trả lời của khách hàng, phát hiện những mâu thuẫn và trả lời không nhất quán, hoặc không trung thực giữa hồ sơ vay vốn và nội dung trả lời phỏng vấn.
Những thông tin từ các ngân hàng có quan hệ thanh toán, tiền gửi, tín dụng với khách hàng: loại thông tin nay lấy từ sổ sách, tài khoản kế toán của ngân hàng đối với các nghiệp vụ nói trên, qua tài khoản của ngân hàng hoặc từ số liệu thống kê, các nhận xét, đánh giá của các ngân hàng có quan hệ tín dụng với khách hàng.
Những thông tin do khách hàng cung cấp lấy từ hồ sơ vay vốn và sổ sách kế toán, báo cao tài chính: căn cứ vào các hồ sơ này cán bộ tín dụng phải tổng hợp đầy đủ nội dung các thông tin quan trọng như tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, vốn tự có, chất lượng tài sản nợ, tài sản có, hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán chung, khả năng trả nợ vay…
Các nguồn thông tin từ các tổ chức có liên quan và thông tin từ thị trường: cán bộ tín dụng phải điều tra, thu thập thêm các thông tin có liên quan đến các khoản vay tại các cơ sở như như trung tâm thông tin rủi ro của Ngân hàng nhà nước, các cơ quan kiểm toán thuế…
Ngoài ra, phải điều tra thực tế tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay: tiến hành kiểm tra, tham quan khảo sát thực tế tại nhà máy , phân xưởng hay văn phòng và gặp gỡ nhân viên ở đó để trực tiếp đánh giá khả năng và hiệu quả quản lý, trình độ kĩ thuật , uy tín và chất lượng sản phẩm. Các hình thái hiện vật và chất lượng của tài sản cố định, tài sản lưu động, sản phẩm hàng hoá, dịch vụ…
Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và khả năng vay vốn.
Nội dung cơ bản của phân tích và thẩm định tập trung vào hai vấn đề chủ yếu sau:
Phương án vay vốn phải đầy đủ các điều kiện cho vay, nguyên tắc cho vay theo thể lệ, chế độ quy định cụ thể đối với các loại cho vay đó, đảm bảo khả năng cho vay thu được gốc và lãi đúng hạn.
Hồ sơ, thủ tục vay vốn phải đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp theo chế độ quy định, nếu xảy ra tranh chấp tố tụng thì phải đảm bảo an toàn về pháp lý cho ngân hàng.
Tuỳ theo từng nhu cầu vay vốn cụ thể, cán bộ tín dụng cần xác định nội dung và phương pháp thẩm định thích hợp vừa đảm bảo chất lượng và thời gian thẩm định cho một món vay bình thường tối đa không quá 5 ngày làm việc. Các vấn đề trọng tâm cần tập trung thẩm định như sau:
*Năng lực pháp lý của các khách hàng.
*Tính cách và uy tín của khách hàng: nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro do chủ quan của khách hàng gây nên như rủi ro về đạo đức, rủi ro về thiếu năng lực, trình độ kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường. Đề phòng phát hiện những âm mưu lừa đảo của khách hàng ngay từ ban đầu.
*Năng lực tài chính của khách hàng: đánh giá chính xác năng lực tài chính của khách hàng nhằm xác định sức mạnh tài chính, khả năng độc lập tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của người vay. Ngoài ra còn phải xác định chính xác số vốn của người vay thực tế tham gia vào phương án xin vay ngân hàng theo quy dịnh của chế độ cho vay. Muốn phân tích được vấn đề này phải dựa vào các báo cáo tài chính: bảng tổng kết tài sản và bảng quyết toán lỗ lãi( ở thời điểm quyết toán gần nhất )
Một số chỉ tiêu quan trọng khi thẩm định và phân tích năng lực tài chính của khách hàng:
Thước đo tiền mặt: chỉ tiêu này xác định bằng tồn quỹ tiền mặt bình quân cộng với những tài sản có thể chuyển thành tiền dễ dàng và nhanh chóng. Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ thường xuyên, nếu bằng hoặc lớn hơn tổng số nợ phải thanh toán thường xuyên hàng tháng là tốt.
Tỷ lệ hiện hành: (khả năng thanh toán hiện hành)được phản ánh bằng tỷ lệ: Tài sản lưu động/Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này cho biếtkhách hàng có đủ tài sản lưu động để trả các khoản nợ ngắn hạn khi thua lỗ bất ngờ xảy ra. Tỷ lệ này lớn hơn 1 là tốt, nếu nhỏ hơn 1 cần phân tích nguyên nhân thiếu đảm bảo.
Khả năng thanh toán nhanh: thể hiện bằng tỷ lệ thanh toán nhanh. Đó là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Trong đó tài sản quay vòng nhanh là tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng , tiền đang chuyển, các khoản đầu tư ngắn hạn đến hạn, các khoản phải thu ngắn hạn có khả năng thu. Tỷ lệ này cho biết trong trường hợp không còn thu nhập từ nguồn bán hàng thì khả năng huy động các nguồn tiền có khả năng huy động nhanh và các chứng khoán có khả năng dễ dàng chuyển đổi thành tiền để trả nợ, tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng 1 là tốt, nếu nhỏ hơn 1 thì khả năng thanh toán có những vấn đề khó khăn.
Kỳ thu tiền bình quân: được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày.
Vòng quay hàng tồn kho( vòng quay hàng hoá ):đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này được xác định bằng doanh thu tiêu thụ theo giá vốn trên giá trị trung bình vật tư hàng tồn kho. Vòng quay này càng nhanh càng tốt. Tỷ lệ này dùng để nghiên cứu xác định thời hạn cho vay và các kì hạn trả nợ cụ thể.
Khả năng sinh lời của tài sản: tỷ lệ này được tính bằng thương số giữa tổng số lợi nhuận kinh doanh( lợi nhuận trước thuế ) trên tổng tài sản có. Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời tổng thể của tài sản có. Tỷ lệ này lớn thì hiệu quả sử dụng tài sản có cao và ngược lại.
Tỷ suất lợi nhuận của vốn sở hữu( lợi nhuận ròng chia cho vốn sở hữu ): tỷ suất này cho biết một đồng vốn của chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ chỉ tiêu này, cán bộ tín dụng có thể xác định được khả năng huy động lợi nhuận của khách hàng để trả các khoản nợ hoặc đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận ròng của doanh số bán hàng( lợi nhuận ròng chia cho doanh số bán hàng )tỷ lệ này có thể tính chung hoặc tính chung cho từng mặt hàng. Tỷ suất lợi nhuận càng cao thì hiệu quả càng lớn. Tỷ lệ này để so sánh hiệu quả đầu tư vốn đối với từng loại sản phẩm để có sự lựa chọn sản phẩm nào hiệu quả hơn hoặc so sánh với cùng loại sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường để thấy rõ mức độ cạnh tranh.
Tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư( lợi nhuận ròng chia cho tổng giá trị vốn đầu tư )tỷ lệ này còn gọi là hệ số hoàn vốn, là số đo khả năng sinh lợi của vốn đầu tư. Đây là chỉ tiêu quan trọng để xác định hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư càng cao và ngược lại.
Các hệ số an toàn về tài chính: các chỉ tiêu này dùng để do lường về mức độ rủi ro, có thể bù đắp được bằng nguồn vốn của chủ sở hữu.
Tổng tài sản nợ/Tổng tài sản có( tỷ lệ này càng nhỏ hơn 1 càng tốt)
Tổng tài sản nợ/Vốn chủ sở hữu( tỷ lệ này càng nhỏ hơn 1 cngf tốt)
*Phương án vay vốn và trả năng trả nợ gốc và lãi.
Thẩm định hiệu quả kinh tế vá khả năng thực thi của phương án vay vốn: đánh giá, kiểm tra kế hoạch sản xuất kinh doanh, phương án sử dụng vốn vay có phù hợp với thực tế thị trường không, các điều kiện cần thiết để thực hiện phương án, các số liệu thu nhập và chi phí, các định mức kinh tế kỹ thuạt, tỷ lệ lợi nhuận theo dự án…có hợp lý không.
Phương pháp tính toán khả năng trả nợ của khách hàng:
-Căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng cán bộ tín dụng phải lập bảng cân đối các nguồn thu chi tài chính tổng hợp của khách hàng trong một thời gian nhất định(phân theo từng tháng đối với cho vay ngắn hạn và từng năm đối với cho vay trung và dài hạn ). Báo cáothu chi là bản ghi chép toàn bộ chu chuyển tiền thu vào và chi ra của một pháp nhân hoặc thể nhân trong một thời kì.
-Tính ra số chênh lệch thu vào và chi ra.
-Căn cứ số chênh lệch nguồn thu nói trên để xác định nguồn trả nợ vay ngắn hạn và nguồn trả nợ vay trung và dài hạn theo từng thời gian phù hợp với nguồn thu.
Một số vấn đề cần thẩm định về khả năng trả nợ của khách hàng:
-Đánh giá khả năng hiện thực của kế hoạch và điều hành kế hoạch về tài chính, trả nợ của khách hàng.
-Xác định độ chính xác và hợp lý của các số liệu kế hoạch và số liệu dự báo, loại trừ các yếu tố bên trong và bên ngoài có ảnh hưởng.
-Đánh giá nguồn thu nhập và các chỉ số về khả năng trả nợ trong thời gian vay vốn.
-Xác định xem phương án trả nợ có khả thi hay không. Cân đối giữa các nguồn thu, phương án vay vốn với kế hoạch trả nợ. Trường hợp khách hàng có vay vốn nhiều ngân hàng hoặc có nhiều khoản nợ phải trả thì phải làm được cân đối tổng hợp về nguồn trả nợ và kế hoạch trả nợ.
Đánh giá các bảo đảm tiền vay(tài sản thế chấp , cầm cố, bảo lãnh ):
-Mục đích thẩm định là tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi phát mại phải dễ bán, giá trị thu được thực tế phải bù đắp đủ nợ vay gốc, lãi và các loại thuế theo quy định.
-Nội dung thẩm định phải kiểm tra thủ tục hồ sơ pháp lý , giấy tờ sở hữu, tiêu chuẩn tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, cơ sở định giá TSTC, cầm cố, bảo lãnh phải đúng với các quy định tài chính hiện hành. Ngoài ra phải kiểm tra thực tế tại hiện trường để xác định địa điểm, chất lượng thực tế, hình thức hiện vật , giá trị thực tế. Cán bộ tín dụng và tổ thẩm định phải lập biên bản kiểm định tài sản thế chấp theo chế độ quy định tại hiện trường.
Phân tích vàdự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn, trả nợ của khách hàng.
Bước 4: Quyết định cho vay.
Trong mọi trường hợp, phương án vay vốn sau khi được thẩm định và xét thấy thoả mãn đầy đủ các điều kiện và nguyên tắc cho vay theo thể lệ chế độ quy định mới được quyết định cho vay.
Bước 5: Kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
Trước khi phát tiền vay phải lập đầy đủ hồ sơ cho vay, hồ sơ thế chấp cầm cố, bảo lãnh.
Kiểm tra tính pháp lý của các hồ sơ:hình thức và nội dung của các hồ sơ, con dấu chữ kí và họ tên của những người liên quan phải ký…
Hồ sơ vay vốn, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố ngan hàng giữ phải là hồ sơ gốc không được tẩy xoá, sửa chữa. Cán bộ tín dụng phải lưu giữ đầy đủ một bộ hồ sơ cho vay, thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và các văn bản, giấy tờ bổ xung khác trong suốt quá trình theo dõi thu nợ, gia hạn nợ, hoặc xử lý rủi ro cho đến khi hết nợ.
Bước 6: Phát tiền vay.
Yêu cầu phát tiền vay sao cho khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả và hạn chế thấp nhất mọi rủi ro xảy ra trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Bước 7: Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro.
Cán bộ tín dụng phải có biện pháp để theo dõi, nắm bắt đầy đủ, kịp thời mọi diễn biến của quá trình sử dụng tiền vay và tình hình sản xuất kinh doanh chung của khách hàng. Các lĩnh vực phải xem xét và kiểm tra bao gồm;
-Kiểm tra tại cơ sở của khách hàng.
Theo dõi tình hình thị trường và ngành hàng sản xuất kinh doanh của người vay có ảnh hưởng đến vốn của ngân hàng.
-Đánh giá lại tài sản thế chấp theo giá hiện hành, nếu giảm so với lúc thế chấp thì phải bổ xung tài sản thế chấp hoặc giảm dư nợ tương ứng.
Bước 8: Thu hồi nợ, gia hạn nợ.
Tất cả mọi nguồn thu hình thành từ vốn đi vay của ngân hàng và các nguồn tài chính khác đã được khách hàng thoả thuận trong kế hoạch trả nợ ngân hàng khi có nguồn thu ngân hàng phải thu hồi ngay. Khách hàng không được sử dụng vốn dùng trả nợ ngân hàng để quay vòng, sử dụng cho mục đích khác.
Các khoản nợ có vấn đề, khách hàng đề nghị cho gia hạn nợ, giãn nợ cán bộ tín dụng phải thẩm định, kiểm tra thực tế và lập tờ trình cho giám đốc quyết định.
Nếu các khoản nợ không được trả nợ đúng hạn và không được gia hạn giãn nợ , khoanh nợ ..thì phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để thu nợ gốc và lãi, kể cả các biện phát phát mại tài sản, thu hồi tài sản, khởi kiện ra cơ quan pháp luật.
Bước 9: Xử lý rủi ro.
Đối với các món nợ đã dùng mọi biện pháp để giải quyết nhưng không thu hồi được phải xử lý rủi ro thì căn cứ vào chế độ, văn bản quy định, lập đầy đủ hồ sơ pháp lý, họp hội đồng tín dụng để xử lý theo thẩm quyền hoặc lập văn bản trình cấp trên giải quyết.
Bước 10: Thanh lý hợp đồng vay vốn.
Sau khi khách hàng trả hết nợ gốc và lãi, hoặc dư nợ đã được cấp có thẩm quyền cho phép xử lý rủi ro hoặc xoá nợ, cán bộ tín dụng và cán bộ kế toán đối chiếu, tất toán tài khoản cho vay của món nợ đó, chuyển toàn bộ hồ sơ liên quan đến khoản vay đó vào kho lưu trữ.
1.2- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
1.2.1-Vị trí của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và sản xuất nhỏ( hộ gia đình). Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị sản xuất kinh doanh có tính chất tư hữu( không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài) bao gồm các doanh ngiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã. Trong những năm gần đây, quan điểm phát triển nền kinh tế nước ta bằng con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, đòi hỏi sự khác nhau của các thành phần kinh tế, vì vậy ngoài thành phần kinh tế nhà nước còn có thành kinh tế khác tham gia vào công cuộc đổi mơí, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có những vai trò không thể phủ nhận đối với nền kinh tế, nhất là tình hình kinh tế nước ta hiện nay.
Thứ nhất; trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, trong khi đó tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn rất lớn nhưng khả năng khai thác còn hạn chế, sự độc chiếm của hình thức sở hữu nhà nước không cho phép khai thác hết những tiềm năng lớn của dất nước. Một lượng vốn khá lớn vẫn còn nằm teong nhân dân, do đó chỉ có phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới có khả năng khai thác được chúng. Vì thế không thể phát triển lực lượng sản xuấ nếu không cho phép thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển.
Thứ hai; trong tình hình nước ta hiện nay, cần phải mở cửa hoà nhập với khu vực và thế giới thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ là cầu nối quan trọng cho sự hoà nhập đó. Các nhà đầu tư nước ngoài cần có những người bạn đồng hành để họ an tâm đầu tư vào kĩ thuật , công nghệ…Chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngoài quốc doanh có thể thu hút vốn, công nghệ và là người bạn đồng hành tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba;trong quá trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước, đã nảy sinh một số vấn đề như thất nghiệp, sự bỏ ngỏ một số ngành và khu vực do nhà nước không đủ sức đảm trách hay không có tầm quan trọng sống còn. Chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ tạo ra công ăn việc làm , giải quyết vấn đề thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
Thứ tư; các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khả nưng tập trung vốn lớn , trí tuệ vào các nghành kinh tế phát triển hay những nghành kinh tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin…cũng nhu có khả năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi nhuân thấp mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm tới.
Thứ năm; các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường gắn liền với chủ sở hữu nên trong quyết định đầu tư có sự cân nhắc cẩn thận cũng như có sự ổn định trong nội bộ, ít xảy ra tình trạng tham nhũng. Nói chung loại hình doanh nghiệp này cũng góp phần thúc đẩy quá trình lành mạnh hoá trong hoạt động của các doanh nghiệp.
Thứ 6; doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt , vừa là đối tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp quốc doanh. Sự kết hợp sản xuất- tiêu thụ giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất lớn của xã hôị, giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra là hoàn thiện hơn với chất lượng cao hơn. Như vậy sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra giữa các thành phần kinh tế phải luôn đổi mới để tồn tại và phát triển.
Thứ 7; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển là một bộ phận cá đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, nguồn thu này sẽ được dùng vào việc đầu tư các nghành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, giúp đỡ hỗ trợ các thành phần kinh tế yếu kém. Do đó, sự tồn tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập đồng thời đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Từ sau khi quốc hội thông qua Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân( 12. 1990)khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có sự phát triển nhanh chóng và đạt được một số hiệu quả nhất định, phát huy tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc làm, tạo sự năng động trong kinh doanh và thoả mãn một phần nhu cầu của thị trường. Một kết quả nổi bật là số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhanh chóng, khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng mức nộp ngân sách và thu nhận lao động khá đông. nếu năm 1991 có 125 doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 69 tỷ đồng thì đến nưm 1996 đã có 26.091 doanh nghiệp với số vốn điều lệ 8.257 tỷ đồng, tương đương khoảng 14% tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp nhà nước, giải quyết tích cực vấn đề thất nghiệp, tạo ra công ăn việc làm cho xã hội, góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội trong những năn qua. Riêng năm 1999 đã có 3675 doanh nghiệp được đăng kí kinh doanh. Đạt được kết quả đó là nhờ những điều kiện khá thuận lợi như: cơ chế, chính sách của Nhà nước luôn luôn khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Hơn nữa, lực lượng lao động Việt Nam dồi dào, có tay nghề, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu về lao động cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng phải đối đầu với những khó khăn lớn: ra đời trong điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý chưa cao nếu như không muốn nói là yếu kém, thị trường của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhỏ hẹp . Gần đây, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã làm giảm đáng kể lượng khách hàng của các nước bị khủng hoảng gây ra những khó khăn trong kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Nhưng khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là tình trạng thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh. Một số doanh nghiệp do thiếu vốn để đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn đến kém khả năng cạnh tranh. Tình trạng trốn thuế, lậu thuế cũng xuất phát từ vấn đề thiếu vốn. Vậy vốn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang là vấn đề hết sức quan tâm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
1.2.2- Các nguồn vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Nguồn vốn c._.ủa mỗi doanh nghiệp không giống nhau do quá trình huy động và sử dụng vốn phụ thuộc vào một loạt các nhân tố khác nhau như: loại hình sở hữu doanh nghiệp, nghành nghề hay lĩnh vực kinh doanh, quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, trình độ quản lý, trình độ khoa học kĩ thuật, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung, vốn mà các doanh nghiệp có thể huy động được bắt nguồn từ hai nguồn chính sau:
1.2.2.1- Vốn tự có của doanh nghiệp.
nếu doanh nghiệp muốn thành lập và hoạt động được thì chủ doanh nghiệp phải đầu tư một số vốn nhất định. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, vốn ban đầu chính là vốn do ngân sách Nhà nước cấp, còn đối với các doanh nghiệp khác mức vốn được quy định cho từng ngành nghề kinh doanh gọi là vốn pháp định. Đây là mức vốn tối thiểu phải có để được thành lập và hoạt động theo quy định của Nhà nước. Tuy nhiên hiện nay khái niệm “ vốn pháp định” đã được thay thế bằng vốn điều lệ, ngoại trừ một số ngành nghề kinh doanh dặc biệtt như vàng bạc , xây dựng..
Trong thực tế, vốn tự có của doanh nghiệp tư nhân thường lớn hơn nhiều so với vốn pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp do nhiều nguyên nhân khác nhau nên nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp không còn đủ khả năng duy trì hoạt động của công ty.
Đối với công ty cổ phần, vốn đóng góp ban đầu của các cổ đông là nền tảng và là yếu tố quyết định để thành lập công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Số vốn mà mỗi công ty cổ phần huy động được khi thành lập công ty để dăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền gọi là vốn điều lệ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khi làm ăn có lãi các công ty cổ phần thường có nhu cầu tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh với hi vọng thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Một bộ phận khác của vốn tự có của doanh nghiệp là nguồn vốn từ lợi nhuận để lại. Một số doanh nghiệp coi trọng việc tái đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh. Mục đích là đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và lợi nhuận đem lai ngày càng cao.
Ngoài ra trong quá trình hoạt động khi cần mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, lắp đặt thêm hoặc đổi mới thiết bị công nghệ…công ty cũng có thể tăng vốn thông qua việc huy động từ các cổ đông. Song cũng có những trường hợp công ty tăng vốn bằng cách chuyển một phần quỹ dự trữ tài chính thành vốn điều lệ của công ty. Các hình thức tăng vốn này được thực hiện theo những quy định riêng biệt và chặt chẽ của pháp luật Nhà nứơc và các quy định của công ty.
Để thành lập doanh nghiệp , vốn tự có được coi là tạm đủ. Nhưng để duy trì và phát triển thì ngoài nguồn vốn tự có, doanh nghiệp cần phải đi vay.
1.2.2.2-Nguồn vốn đi vay.
Doanh nghiệp có thể vay vốn từ các đối tác thông qua hình thức tín dụng thương mại hay vay từ ngân hàng thông qua hình thức tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương mại.
Các doanh nghiệp thường khai thác nguồn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của nhà cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác qua quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt, nó tạo ra khả năng mở rộng quan hệ hợp tác làm ăn một cách lâu bền.
Tín dụng ngân hàng.
Các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn tức thời cho các doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày cho đến vài năm với lượng vốn theo nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn theo mức lãi xuất phải trả khác nhau. Do ở Việt Nam thị trường tài chính chưa phát triển nên tín dụng ngân hàng có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với cả ngân hàng và doanh nghiệp, đồng thời đối với nền kinh tế nói chung. Nó có những đặc điểm tiến bộ và có vai trò thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng.
1.2.3- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
*Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vì điều đó không những hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doang nghiệp mà còn làm tăng chi phí vốn. Hiện nay để thực hiện các quyết định dầu tư thường thích sử dụng vốn vay vì nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ từ tiền vaylớn hơn lãi phải trả thì lợi nhuận dành cho chủ doang nghiệp gia tăng đáng kể. Hơn nữa, lãi vay được tính trong chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập, từ đó công ty sẽ được hưởng một phần lợi từ thuế. Tuy nhiên nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp sẽ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Việc tăng sử dụng nợ làm tăng rủi ro của các luồng tiền vào của công ty. Nhưng tỷ lệ nợ cao thường dẫn đến mức lãi xuất mong đợi cao hơn. Vì vậy, rủi ro cao hơn cùng với nợ lớn hơn có khuynh hướng làm giảm giá cổ phiếu, nhưng lãi xuất mong đợi cao hơn. Do đó công ty phải xác định một cơ cấu vốn tối ưu, đó là một cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa lãi xuất và rủi ro và tối đa được giá cổ phiếu của công ty.Qua đó ta thấy rằng doanh nghiệp sử dụng vốn vay từ ngân hàng hay vay vốn tín dụng sẽ góp phần hình thành cơ câú vốn tối ưu cho doanh nghiệp.
*Tín dụng ngân hàng với dặc điểm là buộc người vay phải trả lãi và gốc trong một thời gian nhất định nào đó đã buộc người kinh doanh phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Người đi vay phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ quay vòng vốn để sao cho khi hết thời hạn vay có đủ vốn và lãi để trả ngân hàng và một phần lợi nhuận cho mình. Với điều kiện ràng buộc về lãi xuất, thời gian và mục đích khi vay, người vay hiểu rõ trách nhiệm của họ trong việc sử dụng vốn vay và phải thúc đẩy sản xuất kinh doanh của mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Như vậy tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
*Ngân hàng có thể cung cấp vốn cần thiết cho các doanh nghiệp để đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, tìm kiếm thị trường, nâng cao trình độ của nhân viên…do đó tạo cho doanh nghiệp khả năng cạnh tranh trên thị trường.
*Mối quan hệ rộng rãi của ngân hàng đối với các đơn vị kinh tế trong hầu hết các nghành, các lĩnh vực thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng đã tạo ra cho ngân hàng có được một hệ thống thông tin phong phú. Tư đó có thể cung cấp các thông tin về thị trường và tư vấn cho khách hàng của mình về kế hoạch sản xuất kinh doanh. Do đó có thể nói ngân hàng là một hệ thống có thể tham mưu tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh rủi ro trong kinh doanh.
*Tín dụng ngân hàng bảo đảm cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục. Tuy nhiên không phải ngân hàng cung cấp đều vốn cho tất cả các khách hàng mà ngân hàng tập trung vào những khách hàng làm ăn có hiệu quả, tránh rủi ro cho ngân hàng. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng luôn luôn cố gắng làm ăn có hiệu quả hơn.
1.3-Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra làm hai nhóm nhân tố. Đó là các nhân tố khách quan và chủ quan.
1.3.1- Các nhân tố mang tính khách quan.
Thứ nhất; nhân tố kinh tế.
Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện chứng, ràng buộc lẫn nhau. Bất kì sự biến động của một hoạt động kinh tế nào đó cũng đều ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vưc còn lại. Hơn nữa, hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định hay bất ổn, sự tăng trưởng nhanh hay chậm chạp của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động của các ngân hàng. Đặc biệt hoạt dộng tín dụng ngân hàng là hoạt động nhạy cảm nhất đối với những biến động của nền kinh tế, do đó sự biến động của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Khi nền kinh tế ở tình trạng hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, môi trường kinh doanh ít biến động hấp dẫn nhà đầu tư thì nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng lên, vì khi môi trường đầu tư hấp dẫn các doanh nghiệp làm ăn tốt thường có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm kiếm thêm lợi nhuận. Do vậy tín dụng ngân hàng có cơ hội phát triển. Ngược lại nếu nền kinh tế đang trong tình trạng đình trệ, các doanh nghiệp có xu hướng co cụm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì tín dụng ngân hàng sẽ bị thu hẹp.Đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có sự hỗ trợ của Nhà nước khi gặp khó khăn thì khi gặp phải môi trường kinh doanh bất ổn định , không kế hoạch hoá được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì xác xuất thất bại là rất lớn.Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang trong tình trạng khốn đốn vì môi trường kinh doanh không ổn định, thậm chí nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản và không trả nợ được ngân hàng và cũng không được ngân hàng cho vay tiền. Điều đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Hai là: nhân tố xã hội.
Các nhân tố xã hội: niềm tin tưởng lẫn nhau, tình hình trật tự an ninh và an toàn xã hội, trình độ dân trí…ảnh hưởng trực tiếp tới các tác nhân chínhtham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng đó là ngân hàng và khách hàng. Quan hệ tín dụng ngân hàng dựa vào cơ sở tín nhiệm lẫn nhau giữa khách hàng và ngân hàng, vì vậy uy tín là tiền đề quan trọng trong quan hệ này.Đối với khách hàng nào hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có uy tín với ngân hàng thì được ưu đãi trong quan hệ tín dụng. nếu ngân hàng nào hoạt động an toàn, hiệu quả, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì được khách hàng lựa chọn, tin cậy.Niềm tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ sẽ là cơ sở để mở rộng quan hệ của mình với những đối tượng khác trong nền kinh tế.
Ngoài ra, trật tự an ninh , an toàn xã hội, trình độ dân trí..có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ tín dụng ngân hàng. Thật vậy, nếu một nơi nào đó mà an ninh trật tự không đảm bảo, an toàn xã hội kém, có nhiều trộm cắp và các tệ nạn xã hội khác sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư, và các nhà đầu tư cũng sẽ không đầu tư vào nơi như vậy. Do đó nhu cầu vay vốn cũng hạn chế, ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, nơi nào có trật tự an ninh tốt, ít trộm cướp và các tệ nạn xã hội sẽ sn toàn cho hoạt động đầu tư. Điều đó sẽ khuyến khích các chủ đầu tư mở rộng quy mô hoạt động của mình. Như vậy nhu cầu tín dụng tăng lên và tín dụng ngân hàng có cơ hội phát triển.
Ba là: Nhân tố pháp lý.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, phải tuân theo quy định của ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật dân sự và các quy định khác. nếu nhữnh quy định của luật pháp không rõ ràng, không đồng bộ, không kịp thời , không ổn định và có nhiều kẽ hở thì rất khó khăn cho ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Bởi vì ngân hàngkhông có một căn cứ pháp lý rõ ràng, đầy đủ, kịp thời để hoạt động. Ngược lại, những văn bản pháp luật, những quy định rõ ràng đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ là một hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Và đó cũng là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu nại , tố cáo khi có tranh chấp xảy ra trong hoạt động tín dụng. Điều đó sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng tín dụng một cách có hiệu quả.
1.1.3.2. Các nhân tố khách quan.
Việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng không chỉ chịu tác động bởi các nhân tố khách quan mà còn bởi các nhân tố chủ quan như: chính sách và thể lệ tín dụng, thông tin tín dụng, chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị của ngân hàng, tình hình huy động vốn, công tác tổ chức của ngân hàng…và chính bản thân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Thứ nhất: Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố hạn mức cho vay đối với một khách hàng, kì hạn của khoản tín dụng, lãi xuất cho vay và mức lệ phí, các loại cho vay được thực hiện, sự đảm bảo và khả năng thanh toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết phần tín dụng vượt giới hạn, các khoản vay có vấn đề…Tất cả các yếu tố đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới việc mở rộng tín dụng của ngân hàng. nếu tất cả các yếu tố thuộc chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý và linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàngvề vốn thì ngân hàng đó sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu mở rông tín dụng và đảm bảo chất lượng tín dụng. Ngược lại, nếu như các yếu tố của chính sách đều cứng nhắc không hợp lý, không đáp ứng được những nhu cầu đa dạng về vốn của khách hàng thì ngân hàng không thể thực hiện được mục tiêu mở rộng quy mô tín dụng của mình. Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt xảy ra giữa ngân hàng trong việc thu hút các khách hàng thì chính sách tín dụng đúng đắn, linh hoạt là hết sức quan trọng. Ngân hàng càng đa dạng hoá các mức lãi xuất phù hợp với từng loại khách hàng, từng kì hạn cho vay và có cách sử lý đúng đắn các khoản nợ của khách hàng, có chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm hấp dẫn thì càng thu hút được khách hàng, thực hiện thành công mục tiêu mở rộng tín dụng.
Thứ 2: Quy trình cấp tín dụng.
Quy trình tín dụng quy định các bước cần thiết phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ, đảm bảo an toàn vốn tín dụng, được tiến hành từ khi bắt đầu phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi đủ cả vốn và lãi.
Quy trình cấp tín dụng là một yếu tố quan trọng để thực thi chính sách tín dung tại một tổ chức tín dụng. Có thể khái quát quá trình cấp tín dụng như sau:
Thẩm định tín dụng
Lập hồ sơ xin cấp tín dụng
Quản lý tín dụng được cấp
Quyết định cấp tín dụng
Để thiết lập quan hệ tín dụng với khách hàng, ngân hàng phải trả lời các câu hỏi sau:
-Người được cấp tín dụng có đủ tin tưởng trong quan hệ vay trả không
-Khoản cấp tín dụng nào được cấp sẽ được hoàn trả
-nếu tín dụng được cấp, ngân hàng có thiết lập các mối quan hệ kiểm soát được khoản tín dụng đã cấp trong suốt thời gian quan hệ không
Sự tôn trọng và kết hợp nhịp nhàng trong các bước sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng phát hiện kịp thời các khuyết điểm, nắm được biễn biến của khoản tín dụng để có biện pháp can thiệp kịp thời, sớm ngăn ngừa hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Nhưng không phải nhất thiết một cách cứng nhắc theo từng công đoạn đó. Phải linh hoạt trong từng trường hợp để bảo vệ lợi íhc của ngân hàng và cả khách hàng và xã hội. Điều đó sẽ gây được cảm tình với khách hàng và ngày càng thu hút được nhiều khách hàng quan hệ với ngân hàng.
Thứ 3: Về thông tin tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xác, kịp thời hơn sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng đầu tư chủ yếu dựa vào lòng tin. Lòng tin có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng thông tin có được. Để hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng với chất lượng tín dụng ngày càng cao, hiệu quả lớn , ngân hàng phải nắm bắt được chính xác thông tin về khách hàng vay vốn như:
-Thông tin phi tài chính, gồm có: tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội…
-Thông tin gián tiếp như: tình hình kinh tế xã hội, thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề.
-Thông tin tài chính của khách hàng: khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh của phương án, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp.
Yêu cầu thông tin tín dụng phải chính xác, kịp thời, đầy đủ. Do đó ngân hàng cần phải có nhiều thông tin khác nhau. Thực tế ở Việt Nam chúng ta rất khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin một cách chính xác, kịp thời. Đã có nhiều khoản tín dụng bị rủi ro, thất thoát do thiếu thông tin như: khách hàng dùng một tài sản , thậm chí một dự án để đi vay nhiều ngân hàng, khách hàng sử dụng giấy tờ giả, hợp đồng giả, phương án giả để xin vay,khách hàng đảo nợ, thành lập công ty con để có danh nghĩa lừa vay vốn của ngân hàng, cuối cùng không trả được nợ, ngân hàng rơi vào tình trạng khốn đốn vì gặp phải nhiều rủi ro. Điều đó làm mất lòng tin vào các khách hàng làm ăn có hiệu quả khác và có thể ngân hàng bị mất khách hàng. Hoặc một số ngân hàngdo không nắm bắt được thông tin kịp thời nên đã không đáp ứng được nhu cầu về vốn vay cho khách hàng, do vậy hạn chế việc mở rộng tín dụng của ngân hàng.
Thứ 4: Tình hình huy động vốn.
Ngân hàng là một ngành dặc biệt trong nền kinh tế, hoạt động chủ yếu theo phương châm “ đi vay để cho vay”. Bởi vậy, nếu không đi vay được tức là không huy động được vốn thì không thể có hoạt động “ cho vay”. Nguồn vốn huy động được càng lớn và đa dạng thì càng tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển.
Thứ 5: Công tác tổ chức của ngân hàng.
nếu công tác tổ chức của ngân hàng được cụ thể hoá và được sắp xếp một cánh khoa học, không bị chồng chéo, có mối liên hệ chặt chẽ giữa các phòng ban trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng thì sẽ là cơ sở để phát triển hoạt động tín dụng một cách lành mạnh, có hiệu quả.
Thứ 6: Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị.
Phải khẳng định rằng việc mở rộng tín dụng có thành công hay không phải kể đến chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất kĩ thuật. Chất lượng nhân sự chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, maketing, trình độ ngoại ngữ, vi tính sự nhiệt tình trong công việc của người cán bộ. Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ tín dụng ngân hàng chính là hình ảnh của ngân hàng. nếu như khách hàng giao tiếp với cán bộ ngân hàng mà họ cảm thấy yên tâm về trình độ nghiệp vụ của cán bộ, an toàn trong quan hệ với ngân hàng và hài lòng với phong cách giao tiếp của cán bộ ngân hàng thì chắc chắn họ sẽ tìm đến ngân hàng đó. Còn đối với cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tín dụng cũng có ảnh hưởng sâu sắc tới việc thu hút khách hàng cũng như với mục tiêu mở rộng tín dụng. Việc trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù hợp với phạm vi và quy mô hoạt động, phục vụ kịp thời các yêu cầu của khách hàng với chi phí mà hai bên có thể chấp nhận được, sẽ giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và ngày ccàng thu hút được nhiều khách hàng.
Thứ 7: Hoạt động kiểm soát nội bộ.
Đây là biện pháp hữu hiệu giúp ban lãnh đạo ngân hàng có được các thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến phù hợp với các chính sách, thực hiện thành công mục tiêu đã định.
Thứ 8: Tình trạng của chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn thua lỗ, phá sản, khốn đốn về tài chính, dẫn đến không trả được nợ ngân hàng, và ngân hàng cũng không thể tiếp tục cho các doanh nghiệp này vay và mục tiêu mở rộng tín dụng là không thực hiện được.
Sau khi đã tìm hiểu về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh , về tín dụng ngân hàng, chúng ta thấy rằng nếu như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một thành phần vô cùng quan trọng trong cơ cấu các thành phần kinh tế của một nền kinh tế, có vai trò thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế thì tín dụng ngân hàng lại là một điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển và chứng tỏ vai trò to lớn của mình đối với nền kinh tế. Chính vì vậy việc thúc đẩy mối quan hệ tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là trách nhiệm lớn lao của Nhà nước, của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đặc biệt là của các ngân hàng. Trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNN-PTNT Hà Nội, em nhận thấy ngân hàng cũng đã và đang cố gắng thúc đẩy mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh , nhưng kết quả đạt được còn phụ thuộc vào những nhân tố khách quan và chủ quan khác. Để có thể hiểu được toàn diện về tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh, ta cần đi vào thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNN-PTNT Hà Nội.
Chương II
Thực trạng hoạt động đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNN & PTNT Hà Nội
Sơ lược về Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Nội
1.Sự hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNN & PTNT Hà Nội
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, có trụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo quyết định số 56 và 59 tháng 8 năm 1988 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sự ra đời của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam theo yêu cầu cấp bách của nền kinh tế với mục đích chủ yếu là góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, kiềm chế làm phát, ổn định tiền tệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết nâng cao đời sống của nông dân. NHNN&PTNT Việt Nam có vai trò là Ngân hàng quản lý TW, có hệ thống chi nhánh rộng khắp trong cả nước từ tỉnh đến huyện, xã gồm hơn 2500 chi nhánh.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động theo mô hình Tổng công ty Nhà nước, theo quyết định số 90/TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ Tướng Chính phủ, thời gian hoạt động là 99 năm , trụ sở tại Hà Nội , Ngân hàng có con dấu riêng và có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngoài ra, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam còn mở tài khoản tại các Ngân hàng khác cả trong nước và ngoài nước để phục vụ thêm cho việc giao dịch và kinh doanh. Ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và có quyền tự chủ về mặt tài chính.
Ngày 15 tháng 10 năm 1996, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam theo quyết định số 280/QĐ-NH5 do Thống đốc Ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cao Sỹ Khiêm ký.
Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và P hát triển nông thôn Việt Nam
Tên giao dịch quốc tế: Vietnam Bank for agriculture and Rural Development.
Tên viết tắt: VBARD
Trụ sở chính : Số 2 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội là một trong số hơn 2500 chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Nó có vai trò trong việc tạo lập nguồn vốn, đáp ứng các nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội, cung cấp các hình thức dịch vụ Ngân hàng... góp phần thực hiện các chương trình,mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của hệ thống Ngân hàng Thương mại Quốc doanh do Thống đốc Ngân hàng đề ra và đồng thời góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội.
Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội .
Tên giao dich quốc tế: Vietnam Bank for agriculture and Rural Development Hanoi Branch.
Trụ sở chính : Số 77 Phố Lạc Trung – QuậnHai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội.
Ngày 26 tháng 03 năm 1998, Ngân hàng Nông thôn Hà Nội ( tiền thân của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ) được thành lập theo nghị định số 55/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Ngân hàng có trách nhiệm là Ngân hàng cấp II quản lý trực tiếp đối với các Ngân hàng cấp huyện gồm 12 Ngân hàng huyện : Gia Lâm, Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm, Thanh Trì, Ba Vì, Phúc Thọ, Hà Tây, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức, Mê Linh.
Tháng 9 năm 1991, Quốc hội Nhà nước Việt Nam có quy định tách tỉnh và quy hoạch 7 huyện của Hà Nội về cấp tỉnh . Các Ngân hàng chi nhánh cấp huyện trước đây trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội, sau khi tách tỉnh được thiết lập và xây dựng Ngân hàng Nông nghiệp cấp tỉnh . Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội giờ đây chỉ quản lý 5 huyện còn lại là: Gia Lâm, Sóc Sơn, Đông Anh , Thanh Trì. Vai trò quản lý và địa bàn hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã bị thu hẹp làm ảnh hưởng đến nguồn vốn và đội ngũ cán bộ của Ngân hàng.
Năm 1995 Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành đổi mới hoạt động quản lý theo Ngân hàng 2 cấp nhằm giảm những thủ tục phiền hà, kém hiệu quả và tăng quyền tự chủ, năng lực tài chính của Ngân hàng chi nhánh. Hoạt động này được tiến hành thí nghiệm tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Từ nay các Ngân hàng cấp huyện không chịu sự quản lý của các Ngân hàng thành phố mà chịu sự quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội một lần nữa lại bị thu hẹp về nguồn vốn và phạm vi hoạt động. Ngân hàng chỉ còn quản lý các chi nhánh Ngân hàng cấp IV là chi nhánh các Ngân hàng nhỏ ở các quận nội thành như : Cầu Giấy, Đồng Xuân, Chợ Hôm, Giảng Võ, Tây Hồ và Thanh Xuân. Các chi nhánh Ngân hàng cấp IV là chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp. Như vậy , Ngân hàng đã chuyển hoạt động của mình chủ yếu trên địa bàn ngoại thành sang địa bàn nội thành.
Ngày 15 tháng 10 năm 1996, Ngân hàng Nông nghiệp đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội cũng được đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội .
Cơ cấu tổ chức và các phòng ban điều hành của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội như sau:
1.1 BanGiám đốc:
Giám đốc : Đặng Văn Mão – Phụ trách tình hình hoạt động kinh doanh của toàn bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội .
Phó Giám đốc : Nguyễn Quốc Hùng – Phụ trách lĩnh vực kinh doanh, kế hoach , thanh toán Quốc tế.
Phó Giám đốc : Nguyễn Thị Phồn Lan – Phụ trách lĩnh vực kế toán.
Bộ máy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng gồm có 7 phòng ban chính gồm: Phòng kinh doanh , kế toán, kho quỹ, kiểm soát, hành chính, thanh toán Quốc tế, kế hoạch và 08 chi nhánh Ngân hàng cấp quận:
NHNN- PTNT quận Hai Bà Trưng
NHNN- PTNT quận Hoàn Kiếm
NHNN- PTNT quận Cầu Giấy
NHNN- PTNT quận Ba Đình
NHNN- PTNT quận Tây Hồ
NHNN- PTNT quận Đống Đa
NHNN- PTNT quận Thanh Xuân
NHNN- PTNT quận khu vực Tam Trinh.
1.2. Phòng kinh doanh
Quan hệ tín dụng nông thôn
Nghiệp vụ tín dụng
Kinh doanh dịch vụ tổng hợp
Kinh doanh mua bán ngoại tệ
Tham mưu cho Ban Giám đốc...
1.3. Phòng kế toán
- Chuyên sâu về nghiệp vụ hạch toán kinh doanh mọ mặt hoạt động của Ngân hàng cả bằng đồng nội tệ và ngoại tệ.
- Hạch toán các nghiệp vụ kinh doanh: cho vay, tài khoản, thanh toán, chỉ tiêu, kế toán nội bộ...
- Thông báo các khoản nợ đến hạn
- Thanh toán bù trừ liên hàng, xét duyệt các khoản Ngân hàng mới mở tài khoản giao dịch.
1.4. Phòng thanh toán Quốc tế
Thực hiệnthanh toán quốc tế thông qua mạng SWIFT bằng tất cả các loạitiền như: USD, DM, SGD, GBP theo yêu cầu của khách hàng.
Mở L/C thanh toán với nước ngoàithông qua vay vốn hoặc vốn tự có
Thanh toán thỉ trường (Telegraphic Transfer)
Thanh toán nhờ thu
Mở L/C trả chậm
Vay vốn nước ngoài
1.5. Phòng kho quỹ
Có chức năng thu, phát tiền cho khách hàng, Ngân hàng có áp dụng thu nhận trực tiếp tại địa chỉ của khach hàng như là một loại hình dịch vụ của Ngân hàng.
1.6. Phòng kiểm soát
Là một bộ phận độc lập, tách riêng đối với Ngân hàng, các phòng kiểm soát là người của Ngân hàng Nông nghiệp, có chức năng như thanh tra viên trong Ngân hàng
Có quyền kiến nghị và can thiệp vào các hoạt động của Ngân hàng khi cần thiết.
1.7. Phòng hành chính nhân sự
Đây là phòng được kết hợp từ phòng hành chính pháp chế và phòng tổ chức đào tạo cán bộ , với những nhiệm vụ sau:
Hành chính , văn thư, tiếp tân
Quản trị, quản lý kho tàng, vật tư, ấn chỉ...
Pháp chế, thư ký, tổng hợp cho Giám đốc, tổ chức họp, lưu trữ hồ sơ pháp lý, tổng hợp các báo cáo chỉ đạo
Tổ chức cán bộ: Mô hình, quy chế và hoạt động, quy chế nhân viên, sắp xếp, bố trí cán bộ.
Đào tạo, chính sách, lao động tiền lương...
1.8. Phòng kế hoạch
Đề ra kế hoach tổng hợp, phân phối, điều hoà vốn.
Thống kê, đề xuất chiến lươc kinh doanh, phân tích thông tin đề xuất huy động vốn
Các chi nhánh cấp quận (Chi nhánh Ngân hàng cấp IV) trên địa bàn Hà Nội của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội về thực chất là giống như phòng giao dịch của Ngân hàng. ở đây bao gồm một ban Giám đốc có một Giám đốc, một Phó giám đốc kiêm kế toán trưởng và các nhân viên phụ trách vấn đề huy động vốn, cho vay, kế toán, thủ quỹ.
Các chi nhánh cấp quận vừa kinh doanh, vừa thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, thực hiện các nghiệp vụ mà Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội cho phép như:
Nhận tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế.
Cho vay đối với các tổ chức kinh tế hộ gia đình, cá nhân theo mức do Giám đốc Chi nhánh quy định.
Cho vay hộ nghèo thông qua nguồn vốn từ Ngân hàng người nghèo.
2.Các hoạt động chính của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
Hoạt động huy động vốn: Bao gồm cả huy động vốn nội tệ và ngoại tệ với các hình thức chủ yếu là gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh tế huy động qua bán kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng . Ngoài ra Ngân hàng còn huy động các nguồn khác như: đi vay từ các tổ chức tài chính , Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng thương mại khác, nhận vốn uỷ thác, tài trợ cho vay của các tổ chức quốc tế...
Hoạt động cho vay: Với mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp bao gồm cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cả bằng đồng nội tệ và ngoại tệ...
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế
Hoạt động bảo lãnh
Trước đây khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước và Phát triển Nông thôn Hà Nội là các đơn vị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến và công nghiệp thực phẩm. Hiện nay trong quá trình tổ chức, phân cấp địa bàn hoạt động kinh d._.iến lược Marketing ngân hàng đúng đắn.
Cùng với việc lập thêm phòng Marketing, cần phải xây dựng một chiến lượcMarketing đúng đắn nhằm thu hút khách hàng. Để tăng quy mô tín dụng, tăng khả năng xâm nhập thị trường của ngân hàng vào một thị trường mới thì ngân hàng phải thu hút được nhiều khách hàng có quan hệ tín dụng với mình. Để làm được điều đó chi nhánh NHNN – PTNT phải xây dựng được một chiến lược Marketing đúng đắn và hấp dẫn. Cụ thể cần thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu nhu cầu của thị trường, cụ thể là của khách hàng về nhu cầu vay vốn và các dịch vụ khác của ngân hàng là yếu tố đầu tiên quyết định các bước tiến theo của việc xây dựng chiến lược Marketing ngân hàng. Khi khách hàng lựa chọn ngân hàng để quan hệ tín dụng khi họ quan tâm đến thái độ phục vụ, mức lãi suất, phí dịch vụ, các dịch vụ đi kèm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng... Để có được đầy đủ các thông tin về nhu cầu của thị trường, các ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu thu thập các thông tin về nhu cầu của khách hàng và nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh. Việc nghiên cứu nhu cầu của khách hàng nhằm trả lời câu hỏi họ cần gì ửo ngân hàng, cần lúc nào? bao nhiêu? Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh tức là nghiên cứu các ngân hàng cùng tham gia vào thị trường xem xét khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của các ngân hàng khác và các tổ chức hoạt động tín dụng. Thực hiện tốt việc này, ngân hàng mới nắm rõ được nhu cầu của khách hàng, nhìn lại chính mình để thấy rõ điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để khắc phục và đưa ra chiến lược phát triển lâu dài trong hoạt động kinh doanh.
Thứ hai. Xây dựng một chiến lược sản phẩm hấp dẫn.
Một sản phẩm hấp dẫn mà khách hàng có thể tìm thấy nhiều lợi ích từ đó thì chắc chắn khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm đó. Một chiến lược sản phẩm đúng đắn sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng được quan hệ tín dụng. Ngược lại nếu một sản phẩm không có tính hấp dẫn thì sẽ không thu hút được khách hàng. Do đó chi nhánh cần phải hiểu rằng, trong hoạt động của ngân hàng, rất khó có thể đưa ra được một sản phẩm mới, mà phần lớn chỉ là cải tiến, tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn. Nhưng cũng cần phải hiểu rằng, trong hoạt động của ngân hàng, rất khó có thể đưa ra được một sản phẩm mới, mà phần lớn chỉ là cải tiến, tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn trong sản phẩm truyền thống của ngân hàng. Sự cải tiến này lại nằm trong quy định của Ngân hàng cấp trên, tuy nhiên trong tình hình hiện nay khi mà hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt thì càng buộc các ngân hàng phải có các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ mà thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại. Ngân hàng ngày càng phải đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà mình cunhg cấp, tăng khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội ngày càng khẳng định vị trí của mình trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ, ngân hàng khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận, do đó cần phải chú ý vào các điểm sau trong chiến lược sản phẩm của mình:
Một là: Đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với khu vực ngoài quốc doanh.
Trong tương lai gần khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là khu vực kinh tế đa dạng về quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh. Vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời hạn vay, phương thức trả vốn và lãi vay là không giống nhau. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu thoả mãn đồng thời lợi ích của khách hàng và của ngân hàng, ngân hàng phải đưa ra các hình thức tín dụng phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay theo truyền thống qua việc đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cần phải phát triển mạnh mẽ các hình thức cho vay khác như:
- Cho vay bảo lãnh: Hoạt động này chưa phát triển tại chi nhánh trong những năm qua. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, một số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cónhu cầu vay vốn nhưng không có đủ các điều kiện để được vay vốn tại chi nhánh thì chi nhánh có thể tư vấn cho khách hàng nhờ một tổ chức nào đó đứng ra bảo lãnh cho món vay. Khi áp dụng hình thức này chi nhánh phải yêu cầu bên bảo lãnh xuất trình đầy đủ các giấy tờ cần thiết, việc bảo lãnh phải được ký kết bằng văn bản và phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
- Cho vay đảm bảo bằng các khoản thu. Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua chịu làm cho các doanh nghiệp này bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động bằng cách cho vay một khoản tín dụng ngắn hạn dựa theo tỷ lệ phần trăm so với khoản thu. Các doanh nghiệp phải trình đầy đủ các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu các khoản thu của mình.
- Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh liên kết với khách hàng. Đây là một hình thức rất mới để giúp ngân hàng mở rộng tín dụng, không nhất thiết phải cho vay mà tìm trong số khách hàng của mình các doanh nghiệp làm ăn có hiêụ quả, có hiệu quả, có triển vọng thì ngân hàng ký thoả thuận liên doanh liên kết để cùng sản xuất kinh doanh. Bằng hình thức này ngân hàng không những mở được tín dụng của mình mà còn có điều kiện để xâm nhập thị trường, từ đó tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp. Vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn vay vừa có thu nhập cao do là người trực tiếp đầu tư. Với sự giúp đỡ của các nhân viên ngân hàng, chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả.
Hai là: Tổ chức dịch vụ: “Cung cấp tín dụng tại nhà”. Đây là dịch vụ mà chưa có một ngân hàng nào cung ứng. Nhưng thiết nghĩ các doanh nghiệp buôn bán, sản xuất sản phẩm thuần tuý đã thực hiện cung cấp sản phẩm tại nhà, hay cung cấp theo yêu cầu của khách hàng với dịch vụ vận chuyển. Điều này tạo ra một bước ngoặc mới trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt, thì tất nhiên ngân hàng cũng có thể làm dịch vụ cung cấp tín dụng tại nhà. Thực hiện cấp tín dụng tại nhà sẽ giúp được ngân hàng xem xét được tận nơi cơ sở vật chất, trong thiết bị của doanh nghiệp, có điều kiện đánh giá về tình hình làm ăn của khách hàng. Mặc dù chi phí cho khoản vay này sẽ cao hơn bình thường song nó đảm bảo chắc chắn, ít rủi ro do nắm được cơ bản tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, hơn nữa chắc chắn loại hình này nếu được áp dụng sẽ đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng.
Ba là: Tiến hành phân loại khách hàng để cho vay.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến giao dịch với chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội chủ yếu là các công ty TNHH. Sau đó là các công ty cổ phần và công ty tư nhân. Đây là các đối tượng rất nhạy cảm với những chính sách của ngân hàng. Vì vậy để duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng cũ đồng thời thu hút thêm khách hàng mới tới giao dịch thì chi nhánh cần phải có các chính sách ưu đãi riêng đối với từng loại khách hàng, đảm bảo sư khác biệt và hấp dẫn hơn so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Muôn làm được điều đó chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội cần phải phân loại theo những tiêu thức nhất định nhằm chọn ra những khách hàng tốt nhất để có những chính sách riêng đối với họ. Có thể loại các đơn vị đó theo các mức sau:
- Đơn vị xếp loại A: Là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong 2 năm gần đây nhất, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và không có nợ quá hạn đối với Ngân hàng. Nếu các doanh nghiệp thuộc loại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất hoặc có thể cho vay bằng tín chấp.
- Đơn vị xếp loại B: Là những doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh không ổn định uy tín trên thị trường chưa cao. Đối với các doanh nghiệp này nên cho vay trên cơ sở cầm cố thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ 3.
- Đơn vị xếp loại C: Là những đơn vị kinh doanh thua lỗ, không có biện pháp khắc phục, quan hệ dây dưa với các ngân hàng, thường xuyên có nợ quá hạn tại ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp này không nên tiếp tục cho vay đồng thời tìm mọi biện pháp để thu hồi nợ quá hạn.
Tất nhiên đây chỉ là một cách phân loại tạm thời, không phải là một khuôn mẫu cứng nhắc. Chi nhánh có thể tiến hành phân loại theo các tiêu thức khác nhau cho phù hợp.ư
Bốn là: Cần có các dịch vụ kèm theo sản phẩm chính của chi nhánh, thông thường đó là dịch vụ tư vấn. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cần sự tư vấn của chi nhánh vì khả năng quản lý, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này còn rất hạn chế và kém bén nhạy trên thị trường, không có khả năng dự đoán về những biến động. Dịch vụ tư vấn ở ngân hàng đã có nhưng mức độ chưa đạt được như mong muốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Để thu hút các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về quan hệ với chi nhánh cần phải tổ chức một dịch vụ tư vấn khách hàng thật tốt về tất cả mọi lĩnh vực: tư vấn về thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, quản lý quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác. Muốn cho có một dịch vụ tư vấn thì chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội cần phải có một đội ngũ cán bộ thật sự hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực để có thể tư vấn cho khách hàng. Điều đó sẽ giúp khách hàng làm ăn có hiệu quả hơn cũng như tránh được rủi ro có thể xảy đến cho ngân hàng và ngày càng gây uy tín cho khách hàng, thu hút được khách hàng.
Thứ 3: Xây dựng một chính sách giá cả linh hoạt.
Lãi suất được coi là giá cả của sản phẩm tín dụng của ngân hàng. Đối với ngân hàng giá mua chính là chi phí của các yếu tố đầu vào mà chủ yếu là lãi suất huy động. Giá bán chính là lãi suất cho vay. Chênh lệch về giá thành là lợi nhuận của ngân hàng. Đối với khách hàng họ sẽ chọn mức lãi suất nào mang lại nhiều lợi ích cho họ nhất. Lợi ích của khách hàng và của ngân hàng về cơ bản là trái ngược nhau. Vấn đề quan trọng là phải biết kết hợp hài hoà sao cho hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên việc xác định mức lãi suất cho vay ra cũng như lãi suất huy động vào lại phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy chi nhánh cần có chính sách lãi suất đảm bảo đồng thời lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và theo luật pháp quy định. Điều này rất khó đạt được và lại càng khó đảm bảo khi chi nhánh đang chú ý đến việc thu hút khách hàng. Để tăng cường thu hút khách hàng mở rộng quy mô tín dụng thì chi nhánh phải tính đến một mức lãi suất cho vay thấp hơn, linh hoạt hơn và phải hy sinh một phần lợi nhuận của mình.
Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo mức vay vốn và thời hạn vay. Chẳng hạn nếu mức vay của khách hàng lớn thì mức lãi suất cho vay có thể nhỏ hơn. Về cơ bản, lãi suất cho vay ngắn hạn phải thấp hơn lãi suất chung và dài hạn. Ví dụ nếu khách hàng vai từ 1 đến 3 tháng với khối lượng vay lớn thì có thể lãi suất giảm xuống thấp hơn một chút so với lãi suất cho vay ngắn hạn. Chính sách cho vay lãi suất này sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn và thực tế lợi nhuận của ngân hàng sẽ lớn hơn so với một chính sách giá cả cứng nhắc.
Thứ tư: Xây dựng chiến lược khách hàng.
Muốn mở rộng hoạt động tín dụng thì chi nhánh cần phải có một chiến lược khách hàng lâu dài. Chiến lược ấy phải gắn bó với lợi ích của khách hàng. Việc xây dựng chiến lược khách hàng cần phải thực hiện các vấn đề sau:
- Ngân hàng phải được uy tín với khách hàng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng, hẫp dẫn về lợi ích vật chất, áp dụng chính sách không phân biệt về lãi suất giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tiếp tục duy trì chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng lớn và thực hiện qua hệ sòng phẳng với ngân hàng.
- Hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng, khơi dậy khả năng và nhu cầu của khách hàng tiềm năng.
- Thực hiện đa dạng hoá các khách hàng theo hướng: duy trì và củng cố quan hệ tín dụng với các khách hàng đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để giúp cho hoạt động tín dụng ổn định với các doanh nghiệp này. Mở rộng thêm các mối quan hệ với các khách hàng mới để tăng thêm thị phần.
- Thực hiện chính sách lôi cuốn và hẫp dẫn khách hàng đồng thời vẫn bảo đảm được nghĩa vụ đối với khách hàng.
Thứ năm: Xây dựng chính sách giao tiếp khuyếch chương.
Ngân hàng cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay thực tế chi nhánh chưa chú trọng tới việc này nên nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng việc vay của ngân hàng rất khó vai về thủ tục thời gian hơn nữa họ cũng không hiểu về các hình thức mà chi nhánh đang áp dụng cho vay về thời gian, lãi suất từ đó chi nhánh bị mất khả năng được lựa chọn làm cho đơn vị tài trợ cho khách hàng. Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt nên để thúc đẩy hoạt động có hiệu quả hơn, chi nhánh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để các doanh nghiệp nắm bắt được chủ trương chính sách đổi mới đối với các thành phần kinh tế. Cho khách hàng biết được những áp dụng cơ chế tín dụng mới, thể lệ cho vay mới theo cơ chế thị trường để khách hàng thấy được thiện chí của chi nhánh, thấy được những lợi ích trong quan hệ với chi nhánh.
Hiện nay, chi nhánh NHNN – PTNT Hà Nội hoạt động theo phương thức bị động tức là nếu có khách hàng đến xin vay thì cán bộ tín dụng xem xét, thẩm định và quyết định có cho vay hay không. Do đó ít có cơ hội gặp được khách hàng tốt. Nên trong phòng Marketing của chi nhánh được mở, và cử một số cán bộ Marketing làm nhiệm vụ Marketing cho hoạt động của chi nhánh, giúp chi nhánh chủ động tìm kiến khách hàng từ đó tăng tính hiệu quả cho hoạt động tín dụng. Phòng Marketing trong chi nhánh không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền quảng cáo mà quan trọng hơn là tìm hiểu về khách hàng, phân loại khách hàng, lựa chọn một số đối tượng khách hàng làm đối tượng chính để tiếp cận. Cũng từ việc tìm kiếm, nghiên cứu về khách hàng, hiểu rõ các nhu cầu của khách hàng, phòng Marketing đưa ra các giải pháp, chiến lược như chiến lược sản phẩm, chiến lược lãi suất, nhằm tạo ra một sự khác biệt trong ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh. Từ đó thoả mãn tốt nhất nhu cầu, cơ hội lựa chọn tốt cho khách hàng, cuốn hút khách hàng.
3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định trước khi đưa ra quyết định cho vay.
Thực hiện đúng quy trình thẩm định dự án, nâng cao chất lượng thẩm định trước khi quyết định cho vay là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao qui mô tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Để làm được điều đó, việc thẩm định dự án phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau để đối chiếu, đảm bảo tính chính xác của nguồn thông tin thu nhận được, xử lý các thông tin đó để có các căn cứ ra quyết định có cho vay hay không.
Trong quá trình thẩm định 5 điều kiện quan trọng mà cán bộ ngân hàng đòi hỏi phải có từ khách hàng xin vay là:
* Tư cách pháp lý.
* Tình hình hoạt động kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh trong 2 năm gần nhất.
* Khả năng quản lý, điều hành của chủ các doanh nghiệp.
* Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp.
* Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Trong các điều kiện mà khi thẩm định, đánh giá, cần phải đưa ra xem xét kỹ các vấn đề.
- Về tư cách pháp lý: đó là việc căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập.
- Qua các báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự thanh tra, giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý tài chính của chủ doanh nghiệp.
- Về vấn đề tài sản thế chấp: hiện nay các ngân hàng coi tài sản thế chấp như là một "bảo bối" khi quyết định cho vay. Bởi vì họ luôn có tư tưởng rằng cho vay bằng tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi khả năng phát mại tài sản để thu hồi phần nợ không đòi được từ khách hàng. Nhưng chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của ngân hàng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng.Bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không rõ ràng. Mặt khác chính bản thân tài sản thế chấp cũng có chứa đựng nhiều rủi ro khi có biến động về giá. Hơn nữa các chi phí khi tiến hành phát mại tài sản làm cho số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bị giảm đi rất nhiều. Do đó chi nhánh cần phải nhìn lại vấn đề tài sản thế chấp. Coi đó là điều kiện bất đắc dĩ trong đòi hỏi từ khách hàng chứ không phải là một nguyên tắc đúng đắn. Đây là một vấn đề quan trọng cần quan tâm để có quan điểm đúng đắn về tài sản thế chấp.
- Về việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Đây là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp đang còn nhiều vướng mắc, thì việc căn cứ vào tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều hết sức cần thiết. Vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực sự có năng lực, kinh nghiệm đánh giá xem xét tính khả thi của dự án trên toàn bộ các phương diện, kỹ thuật, tài chính, kinh tế xã hội để đưa ra những quyết định đúng đắn. Ngoài ra thông qua quá trình thẩm định, cán bộ ngân hàng có thể tư vấn thêm cho khách hàng các vấn đề có liên quan đến tính khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, ngân hàng cũng phải chú trong tới công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ bảo đảm nghiêm túc các điều kiện, yêu cầu của quy trình tín dụng. Tiến hành kiểm soát ở các 3 giai đoạn: trước, trong và sau khi quyết định cho vay đối với khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn thu nợ không nên cứng nhắc dập khuôn mà phải thực sự hợp tác với người vay.
3.2.4. Thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng.
Do mới phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây nên thị trường các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thị trường mới phức tạp, nhỏ lẻ và khó nắm bắt. Trong khi đó, yêu cầu của các ngân hàng là phải nắm bắt đầy đủ các thông tin về khách hàng vay do đó việc tìm hiểu đầy đủ các thông tin về khách hàng là điều hết sức quan trọng. Nó góp phần giảm bớt các rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Trên thực tế có thể tìm thấy thông tin về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh qua các luồng sau:
- Thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tivi...
- Thông tin qua các cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan thuế, hải quan từ trung tâm thông tin tín dụng.
- Thông tin từ các đối tác làm ăn với các doanh nghiệp.
- Thông tin từ các trung tâm tư vấn cho các doanh nghiệp, từ các ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp.
- Thông tin từ bản thân doanh nghiệp.
Để nắm bắt được các thông tin này một cách chính xác, chi nhánh cần phải tiến hành một số giải pháp sau:
- Tạo mối quan hệ mật thiết gắn bó với các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp.
- Thường xuyên thông tin với trung tâm thông tin tín dụng để biết được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tiến hành các cuộc thảo luận, các hội nghị khách hàng để nắm bắt được nhiều thông tin.
- Thu thập từ nhiều nguồn khác như: sách, báo, tivi...
Ngoài các giải pháp chính trên, NHNN & PTNT Hà Nội cần có các giải pháp khác để mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh như:
Một là: Hiện đại hoá cơ sở vật chất trang thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ kinh doanh như: đầu tư thêm máy tính và các phần mềm ứng dụng cũng như các máy móc chuyên dụng để tăng chất lượng phục vụ của dịch vụ chuyển tiền, tiền gửi, rút tiền tự động... hay đầu tư mua sắm, xây dựng các phương tiện như két bạc, nhà kho nhằm bảo quan tài sản cầm cố cho khách hàng một cách tốt nhất.
Hai là, thiết lập các mối quan hệ với các ngân hàng khác trên cùng khu vực để có cơ hội tiếp cận, học hỏi và cho vay hợp vốn...
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nhằm đảm bảo hơn nữa chất lượng tín dụng
3.3. Kiến nghị.
Tất cả các biện pháp trên chưa phải là tất cả những gì mà một ngân hàng cần thiết phải làm để thực hiện mở rộng hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhưng thiết nghĩ những điều trên là cần thiết để góp phần vào việc mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp quốc doanh tại chi nhánh NHNN & PTNT Hà Nội. Tuy nhiên khó khăn, hạn chế trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHNN & PTNT Hà Nội không chỉ bắt nguồn từ bản thân ngân hàng, mà còn từ nhiều nguyên nhân khách quan khác như từ phía Chính phủ, từ Ngân hàng Nhà nước và từ chính các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó nếu chỉ thực hiện các giải pháp trên thì mới chỉ khắc phục được những hạn chế khách quan. Để mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh một cách toàn diện thì cần sự trợ giúp của Nhà nước, ngân hàng nhà nước... Do đó em xin trình bày một số kiến nghị như sau:
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước.
Thứ nhất, Nhà nước cần thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp này. Mặc dù nhà nước đã có những chính sách khuyến khích phát triển của các thành phần kinh tế nhưng trên thực tế vẫn có sự phân biệt đối xử không bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần sở hữu khác trong các chính sách thuế, tài chính, XNK...
Thứ hai, Nhà nước cần ban hành các luật lệ, chính sách nhằm tạo ra hành lang pháp lý ổn định cho sự hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, cần phải nhanh chóng cải tiến các thủ tục hành chính có liên quan đến việc thành lập và điều hành hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các chính sách của nhà nước cũng như sự áp dụng của các địa phương đối với doanh nghiệp này chưa thống nhất.
Thứ tư, có biện pháp hỗ trợ việc đào tạo cán bộ, trình độ quản lý cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các doanh nghiệp này có khả năng hoạt động có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay.
Thứ năm, nhanh chóng thực hiện việc chứng nhận quyền sở hữu cho tài sản của các hộ tư nhân. Hiện nay luật về sở hữu tài sản chưa rõ ràng, chưa đồng bộ. Nhiều khu đất mặc dù sở hữu hợp pháp nhưng các hộ tư nhân không có giấy chước bạ... Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn Hà Nội chỉ có khoảng 32 - 35% hộ tư nhân có giấy tờ hợp pháp về sở hữu nhà đất. Mặt khác giấy tờ này lại là một tài sản thế chấp quan trọng trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Do đó cần phải hoàn thiện công tác xác nhận quyền sở hữu tài sản để người sở hữu có đầy đủ giấy tờ hợp pháp hợp lệ.
Nhanh chóng ban hành chế độ kiểm toán, kế toán đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay do yêu cầu của việc vay vốn là các doanh nghiệp phải tuân thủ chế độ kế toán thống kê của Nhà nước. Tuy nhiên qua thực tế kiểm tra phần lớn chế độ sổ sách, kế toán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn sai phạm, thiếu sót chưa theo mẫu qui định. Thực trạng này rất phổ biến tại khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bởi nó giúp cho các doanh nghiệp này vượt qua các trách nhiệm về thuế là các đóng góp khác đối với nhà nước. Do vậy để ngân hàng có những thông tin chính xác, kịp thời về các đơn vị vay vốn, đề nghị nhà nước có chính sách buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thực hiện đầy đủ và tự giác chế độ kế toán, kiểm toán, tránh tình trạng khó khăn cho các cán bộ ngân hàng trong việc thẩm định dự án.
Nhà nước cần có chính sách khen thưởng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đây là thành phần kinh tế đóng góp không ít cho các phát triển kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, cần quy định cụ thể về năng lực của các cá nhân đứng lên thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và công ty cổ phần. Thực tế sự yếu kém về trình độ lãnh đạo, quản lý của các cá nhân này đã làm cho một số các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ảnh hưởng tới khoản đầu tư của ngân hàng. Luật công ty đã quy định về trình độ của người quản lý đối với một số ngành nghề kinh doanh nhất định... nhưng vần phải cụ thể hơn nữa. Không nên cho phép thành lập doanh nghiệp một cách tràn lan dẫn đến không kiểm soát nổi. Kiên quyết giải quyết, xoá bỏ các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, vi phạm pháp luật.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước.
Các quy định về kinh tế, tài chính, tín dụng, sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau còn hạn chế. Điều đó được thể hiện trong chính sách tín dụng của hệ thống ngân hàng. Các quy định còn quá cứng nhắc và còn có sự phân biệt như tài sản thế chấp, mức lãi cho vay. Chẳng hạn, theo quy định về quyền phán quyết tín dụng thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có mức cho vay tối đa thấp hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước từ 5 đến 10 lần. Mức lãi đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước. Do đó để khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh quan hệ tín dụng với ngân hàng, mở rộng và phát triển, pháp huy vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế thì ngân hàng Nhà nước cần xem xét và đưa ra các quy định về cho vay, hạn mức và lãi suất một cách linh hoạt hơn.
Hiện nay luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã thực sự đi vào nền kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện các luật này tại các ngân hàng và các tổ chức không phải là ngân hàng còn đang gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng Nhà nước cần có các văn bản hướng dẫn, phối hợp cùng với các ngân hàng thương mại tiến hành cụ thể hoá, áp dụng nó vào thực tiễn để pháp huy tính đúng đắn của hai Bộ luật này. Đồng thời quá trình thực hiện nó sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại và ngân hàng Nhà nước nhận thấy những ưu điềm để phát huy, hạn chế để khắc phục và sửa chữa. Thêm vào đó thị trường tài chính chưa phát triển một cách toàn diện, hoàn chỉnh Nhà nước chỉ mới có pháp lệnh về thị trường chứng khoán, các công ty cho thuê tài chính. Vì vậy cần phải xem xét, xây dựng các bộ luật như luật chứng khoán và thị trường chứng khoán... trình Chính phủ xem xét và thông qua nhằm tạo điều kiện phát triển thị trường tài chính một cách hoàn chỉnh. Hiện nay các ngân hàng chủ yếu là thiếu vốn chung và dài hạn mặc dù đã có quy định cho phép chuyển một phần vốn ngắn hạn sang cho vay chung và dài hạn. Tuy nhiên nhu cầu vốn trung và dài hạn vẫn còn rất lớn để đầu tư vào các cơ sở hạ tầng... Việc hoàn thiện các văn bản sẽ góp phần vào việc tăng trưởng nguồn vốn chung và dài hạn cho các ngân hàng. Điều đó góp phần đáp ứng nhu cầu vốn chung và dài hạn của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng.
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác nhằm chấn chỉnh những sai sót, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, phòng ngừa các tổn thất... Trong đó phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với các ngân hàng thương mại chấp hành tốt và các ngân hàng thương mại vi phạm quy định.
Cần có các biện pháp và chủ chương thiết thực hỗ trợ các ngân hàng thương mại khai thông tồn đọng nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại. Điều chỉnh, bổ sung các nghị định liên quan đến việc xử lý nợ quá hạn. Có giải pháp rất điểm nhanh gọn bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng đối với các khoản nợ khê đọng, đặc biệt là nợ phát sinh trước luật công ty và luật phá sản.
3.3.3. Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Việt Nam.
NHNo & PTNT Việt Nam là cơ quan chủ quản của NHNo &PTNT Hà Nội. Do đó cần phải có các biện pháp để phối hợp cùng với ngân hàng Nhà nước, chi nhánh NHN0 & PTNT Hà Nội trong việc khắc phục những hạn chế, phát huy mặt mạnh để cùng NHNo & PTNT Hà Nội phát triển kinh tế. Để làm được điều đó cần thực hiện các vấn đề sau:
- Tổ chức giải quyết các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của chi nhánh như việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư...
- Hỗ trợ chi nhánh NHN0 &PTNT Hà Nội trong việc lắp đặt trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình hoạt động như hệ thống máy tính, máy rút tiền tự động, nối mạng trong toàn bộ ngân hàng... Đặc biệt là trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ ngân hàng cho các cán bộ nhân viên NHN0 & PTNT Hà Nội.
- Thường xuyên kết hợp với NHN0 & PTNT Hà Nội tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị, nghiên cứu khoa học để vừa nắm được các thông tin về tình hình hoạt động của ngân hàng, vừa cung cấp thêm các kinh nghiệm kiến thức quý báu trong quá trình hoạt động.
- Phối hợp chặt chẽ với ngân hàng Nhà nước tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng, giúp chi nhánh phòng ngừa rủi ro.
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các sai sót phòng ngừa rủi ro...
Kết luận
Sau một thời gian nghiên cứu lý luận cũng như tìm hiểu thực tiễn tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội, dưới sự giúp đỡ của thầy giáo Vũ Duy Hào cùng các cán bộ, nhân viên của NHNo & PTNT Hà Nội, em đã mở mang thêm nhiều kiến thức về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng đốia với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Dù còn nhiều hạn chế và thiếu sót, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập qua việc trình bày những mặt được và những mặt còn hạn chế, đồng thời cũng mạnh dạn đưa ra các biện pháp và kiến nghị nhằm góp phần mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô các cán bộ NHNo & PTNT Hà Nội và các bạn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Vũ Duy Hào cùng toàn thể cán bộ nhân viên NHNo & PTNT Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Hà Nội 15 tháng 4 năm 2001
Sinh viên Vũ Việt Hùng
Tài liệu tham khảo
1. Sách Tài chính doanh nghiệp (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
2. Sách Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính.
Tác giả Frederic S. Mishkin.
3. Sách Ngân hàng thương mại.
Tác giả Edward W. Reed và Ed.ward K. Gill.
4. Sách Ngân hàng thương mại.
Tác giả Lê Văn Tư.
5. Luật các tổ chức tín dụng và Luật ngân hàng Nhà nước.
6. Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng.
7. Quy định cho vay đối với khách hàng của NHNN & PTNT Hà Nội.
8. Quy định về phân cấp quyền phán quyết mức cho vay tối đa đối với một khách hàng NHNN & PTNT Hà Nội.
9. Các báo cáo hoạt động kinh doanh của NHNN & PTNT Hà Nội.
10. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Thị trường tài chính... các năm 1999 & 2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0143.doc