Mở rộng Tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Ngân hàng thương Mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm

LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển kinh tế, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta ngày càng được mở rộng về quy mô và số luợng. Từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQ) đã phát triển rất nhanh, nhất là các đô thị, các thành phố lớn. Trên địa bàn thành phố Hà Nội nếu như năm 2001 mới có 2.818 doanh nghiệp, thì đến tháng 5 năm 2005 đã có 25.479 doanh nghiệp. Như vậy sau hơn 3 năm đã có hơn 22 ngàn DNNQD ra đời. Bình quân mỗi năm có trên 7.000 doanh nghiệp đượ

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng Tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Ngân hàng thương Mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c thành lập. DNNQD phát triển đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước và đang trở thành lực lượng kinh tế quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các DNNQD vẫn còn gặp một số khó khăn trong hoạt động nhất là việc thực hiện các cơ chế, chính sách tài chính,… việc tạo điều kiện vay vốn và mở rộng các quan tín dụng đối với các DNNQD là rất cần thiết giúp các DN này có thể phát triển góp phần làm tăng trưởng kinh tế nước nhà. Vì vậy em chọn đề tài nghiên cứu về “Mở rộng Tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm”. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm. Mục tiêu: đưa ra các giải pháp để mở rộng tín dụng đối với các DNNQD. Kết cấu chuyên đề gồm: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tín dụng đối với các DNNQD của NHTM Chương 2:Thực trạng hoạt động TD đối với các DNNQD tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm. Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các DNNQD tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DNNQD CỦA NHTM Hoạt động tín dụng của NHTM Tổng quan về NHTM Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM Theo Hiệp định Basel II, “Ngân hàng” được định nghĩa như sau: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này dể cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Vậy sự hình thành của ngân hàng như thế nào và cùng với thời gian ngân hàng được phát triển dưới những hình thức nào? Các nhà khoa học đều đồng ý rằng hoạt động ngân hàng gần như đã xuất hiện cùng lúc với sự hình thành đời sống kinh tế và xã hội của loài người. Thông qua nghiên cứu cũng như các bằng chứng lịch sử cho thấy hoạt động ngân hàng đã ra đời từ khoảng 3000 đến 4000 năm trước công nguyên. Mỗi giai đoạn ngân hàng lại có những sự thay đổi trong nhận thức cũng như hoạt động. Ngân hàng đã đi từ bước hình thành cực kỳ thô sơ và chính nhu cầu phát triển của xã hội và nền kinh tế là nhân tố chính thúc đẩy ngân hàng ngày một phát triển, nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng các hoạt động, dịch vụ để trở thành một thành phần cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế. Giai đoạn sơ khai của ngành ngân hàng ra đời khi các thiết chế tổ chức xã hội bắt đầu được hình thành. Hoạt động của các ngân hàng sơ khai gồm có: đổi tiền, bảo quản và giữ hộ tiền của các thợ vàng và những người giầu có cho vay nặng lãi. Hoạt động của chúng mang tính chất gần giống như các tiệm cầm đồ ngày nay. Các hoạt động này xuất phát từ việc hầu như mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng. Quá trình giao lưu, buôn bán giữa các vùng, các lãnh thổ với nhau đã tạo ra thu nhập cho những người làm nghề đổi tiền, đúc tiền. Thu nhập đó có được từ chênh lệch giá mua và giá bán giữa các loại tiền. Hoạt động cất giữ hộ, cho vay nặng lãi và thanh toán hộ cũng được những người đổi tiền thực hiện. Việc có thể sử dụng tạm thời một phần số tiền của khách để cho vay đã làm xuất hiện việc thu hút tiền gửi bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Trong vòng từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ X nhiều hoạt động mới được áp dụng đã đem lại bước phát triển mới cho ngân hàng so với giai đoạn sơ khai trước kia: chiết khấu thương phiếu, ghi chép và theo dõi khách hàng qua số hiệu tài khoản… Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, từ chỗ là ngân hàng của các thợ vàng, người cho vay ngân hàng sơ khai đã trở thành ngân hàng thương mại với chức năng chủ yếu là cho vay ngắn hạn rồi tiếp đó mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản, cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê…Các hình thức huy động ngày càng phong phú và đa dạng. Ngân hàng đã giúp các luồng tiền di chuyển một cách có hiệu quả đồng thời bằng danh mục các sản phẩm, dịch vụ của mình Ngân hàng cũng ngày một đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của cả người cần tiền lẫn người có tiền, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của các ngân hàng. Các công ty bảo hiểm, hiệp hội tiết kiệm cho vay, các tổ chức tín dụng tiêu dùng, các quỹ tín dụng, các hợp tác xã tín dụng cũng tham gia vào các loại hình dịch vụ như nhận gửi tiền, cho vay thu lãi. Tuy nhiên, trong bất cứ nền kinh tế nào trên thế giới thì ngân hàng thương mại vẫn là tổ chức lớn nhất, quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Chức năng của Ngân hàng: - Chức năng trung gian tài chính, với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, Ngân hàng thương mại đóng vai trò là “cầu nối” giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi. Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp. Đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân hàng thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Chức năng trung gian tài chính được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng khác. - Chức năng trung gian thanh toán: Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là người “thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ. Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Đó chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí làm trung gian thanh toán. Hơn nữa, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro do phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với các khách hàng ở cách xa nhau, điều này đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng.Việc các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo được thanh toán an toàn. Như vậy, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồngthời, việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản tiền... Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. - Chức năng tạo phương tiện thanh toán, hay còn gọi là chức năng “tạo tiền”. Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tài chính và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Khi khách hàng tại một Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu, tức làm tăng số dư tiền gửi của một khách hàng khác tại một Ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một Ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống Ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay(tạo tín dụng). 1.1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh “Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm và trong tiếng Anh gọi là “Credit”. Cũng có thể hiểu nôm na “tín dụng” có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị, dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Trong mỗi một hành vi tín dụng hai bên cam kết với nhau: Một bên giao một số tài hoá hay tiền bạc, còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó. Nhà kinh tế người Pháp, ông Louis Baundin, đã định nghĩa tín dụng như là “một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. Ở đây, chúng ta thấy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và cũng vì có sự xen lẫn đó, cho nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng. Những hành vi tín dụng có thể được thực hiện do bất cứ ai, chẳng hạn hai người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian chúng ta thấy một sự chuyên nghiệp đã xảy ra và ngày nay khi nói tới tín dụng người ta thường nghĩ ngay tới các ngân hàng, vì các tổ chức này luôn làm những việc như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, ký thác…Mặt khác, trong một nền kinh tế đã phát triển với thu nhập của những người làm công ăn lương gần tương đương nhau và một hệ thống ngân hàng thế giới hiện đại thì mọi người chỉ có vay mượn ngân hàng, hầu như không vay mượn lẫn nhau. Hoạt động tín dụng có tầm quan trọng bậc nhất trong ngân hàng đặc biệt là ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế thị trường như ở nước ta. Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có, thu nhập do tín dụng đem lại chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập cho ngân hàng. Ngân hàng thương mại có thể coi như một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ với hoạt động chủ yếu là việc đi vay để cho vay. Hoạt động này của ngân hàng thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn để bán lại quyền sử dụng vốn đó. Khác với các quan hệ mua bán thông thường, quan hệ tín dụng ngân hàng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sở hữu khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới hình thức hàng hoá hay tiền tệ cho người vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, sau khi khai thác giá trị khoản vay trong thời hạn cam kết, người vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản vay và thêm khoản lợi tức trả cho việc được sử dụng khoản vay. Trong quan hệ tín dụng, giá trị vốn tín dụng được chuyển từ người cho vay sang người đi vay còn trong quan hệ mua bán hàng hoá giá trị hàng hoá thay đổi hình thái vật chất nghĩa là hàng hoá vẫn giữ nguyên giá trị chỉ thay đổi hình thái tồn tại. Trong việc cho vay, tiền với tư cách là một vật có đặc điểm là quay trở lại điểm xuất phát với nguyên vẹn giá trị của nó đồng thời cũng lớn lên trong quá trình luân chuyển. Nói tóm lại, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sỏ hoàn trả và có một số đặc trưng cơ bản sau: Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay( bằng tiền) và cho thuê( bất động sản và động sản ). Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê tài chính và cho thuê vận hành đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực( nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc- thiết bị) Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy nguời cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là một yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế , một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Để thực hiện được nguyên tắc này, phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Các ngân hàng thương mại hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn .. đến bảo lãnh, cho thuê tài chính, phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng. Có thể phân loại tín dụng theo nhiều tiêu thức khác nhau như sau: 1.1.2.1 Phân chia theo thời hạn cho vay: Cho vay ngắn hạn: Là việc cho vay với thời hạn dưới một năm nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân ,hộ gia đình. Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều… Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập. Cho vay dài hạn: Thời hạn vay trên 5 năm và tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 1970 trở lại đây, các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. 1.1.2.2. Phân chia theo đảm bảo Cho vay có bảo đảm: Cho vay bảo đảm biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó, ví dụ như: xe cộ, nhà cửa, đất đai hoặc hàng hoá…Vật thế chấp những khoản nợ rất đa dạng song một yêu cầu cơ bản là phải có thể bán được. Lý do chủ yếu đòi hỏi một khoản vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để người cho vay giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không muốn hoặc không thể trả nợ vay khi đến hạn. Bảo đảm không có nghĩa là món nợ sẽ được hoàn trả vì còn nhiều chi phí , công đoạn liên quan đến việc xử lý tài sản đảm bảo. Việc bảo đảm chủ yếu để giảm bớt rủi ro cho ngân hàng. Trong trường hợp giá trị thanh lý của tài sản vượt quá giá trị khoản vay thì khoản chênh lệch sẽ được hoàn trả cho người vay nhưng nếu không đủ giá trị khoản vay thì ngân hàng có thể trông đợi vào sự phán quyết của Toà án hay tịch biên thêm tài sản của khách hàng. Sự bảo đảm là yêu cầu phải có đối với các khoản cho vay vì một số nguyên nhân. Thông thường đó là do sự yếu kém về tài chính của người vay và khi đó thì ngân hàng cần có tài sản cầm cố, thế chấp để đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Việc thời hạn cho vay kéo dài đồng nghĩa với rủi ro tăng thì việc đảm bảo gần như bắt buộc. Tỷ lệ cho vay tối đa được tính trên giá trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ đó cao hay thấp tuỳ vào từng quy định của các ngân hàng, pháp luật, tư cách pháp nhân khách hàng… Cho vay không có bảo đảm Khác với cho vay có bảo đảm, cho vay không có bảo đảm được dựa trên uy tín, khả năng tài chính lành mạnh của khách hàng, lợi tức có thể có trong tương lai cùng tình hình trả nợ trước đây. Với những doanh nghiệp, cá nhân mà nguồn thu nhập ổn định, là khách hàng lớn của ngân hàng, hoạt động hiệu quả có thể ngân hàng sẽ cho vay những khoản vay lớn mà thiếu giá trị tài sản đảm bảo thậm chí không có tài sản đảm bảo. Ở Việt Nam, trong những năm 90 các ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm trừ các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông dân từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày 29/12/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; theo nghị định này việc cho vay không có bảo đảm được mở rộng hơn so với trước cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không có đảm bảo khi cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Tuy nhiên, khách hàng vay không đảm bảo phải hội đủ một số điều kiện cơ bản sau: - Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi - Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi có khả năng hoàn trả nợ hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật - Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ - Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản - Tổng mức cho vay không đảm bảo và điều kiện cho vay không đảm bảo do Ngân hàng Nhà nước quy định. 1.1.2.3. Phân chia theo hình thức tài trợ Theo hình thức tài trợ tín dụng đựơc chia thành: chiết khấu thương phiếu, cho vay, bảo lãnh, cho thuê. Chiết khấu thương phiếu: là việc NH ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu 1 thương phiếu chưa đến hạn. Đây là nghiệp vụ đơn giản nhất dựa trên sự tín nhiệm giữa NH và những người ký tên trên thương phiếu. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Hình thức cho vay lại có thể phân chia thành: Cho vay doanh nghiệp: Đây các khoản tín dụng thương mại và công nghiệp với thời hạn biến động từ một vài tháng đến vài năm. Hình thức tín dụng có thể là vay món hoặc hạn mức. Doanh nghiệp có thể vay một lần toàn bộ khối lượng tín dụng hoặc cũng có thể được cung cấp một hạn mức tín dụng trong một khoản thời gian nhất định và sẽ được sử dụng trong phạm vi tín dụng đó Cho vay tiêu dùng. Đây là hình thức tín dụng đang rất phát triển với các sản phẩm, dịch vụ như cho vay ô tô trả góp, mua nhà trả góp, thấu chi. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một thị trường đầy tiềm năng. Mức lãi suất của các loại vay tiêu dùng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm của khoản vay: chất lượng và hình thức thế chấp, mức độ rủi ro và các yếu tố phi lãi suất kèm theo như các khoản phí hoặc hoa hồng. Phương thức cho vay có thể cho vay trực tiếp hoặc thông qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các doanh nghiệp này bán hàng trả góp. Cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao. Vì vậy ngân hàng thường yêu cầu một mức lãi suất cao, yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm nhân thọ, hàng hoá… Cho vay Chính phủ:Chính phủ cũng là một trong những khách hàng của các ngân hàng thương mại. Hình thức phổ biến là ngân hàng mua trái phiếu do kho bạc nhà nước phát hành.Nhà nước cũng vay ngân hàng để đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở vật chất.. Cho vay các tổ chức tài chính khác: Việc vay mượn tạm thời giữa các tổ chức tài chính, tín dụng rất phổ biến và cũng tạo điều kiện cho việc lưu chuyển vốn nhanh hơn. Ở các nước có trình độ phát triển cao, các ngân hàng thương mại có mối liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành cả một hệ thống hoạt động hiệu quả. Cho vay liên quan đến bất động sản: Việc cho vay đầu tư bất động sản đã có thời gian đem lại lợi nhuận rất lớn cho ngân hàng ở một số nước như Việt Nam, Thái Lan..Khi giá nhà, giá đất rơi vào trạng thái đóng băng thì với các hoạt động tín dụng liên quan đến bất động sản ngân hàng phải tăng cường sự giám sát, có sự điều chỉnh phù hợp mức cho vay, định giá.. để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng Ngoài các dịch vụ căn bản trên, hoạt động tín dụng của ngân hàng còn có một số dịch vụ như: Bảo lãnh Đây là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ với bên thứ ba. Bảo lãnh phát triển nhờ uy tín của ngân hàng ngày được nâng cao. Bảo lãnh thường được áp dụng trong lĩnh vực xây lắp. Có nhiều loại bảo lãnh : bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán….Hoạt động bảo lãnh sẽ giúp ngân hàng thu được phí bảo lãnh. Tuỳ từng trường hợp cụ thể và tuỷ vào chính sách khách hàng của mỗi ngân hàng sẽ quy định khách hàng có phải có bảo đảm cho khoản bảo lãnh hay không, khách hàng có thể được bảo lãnh mà không cần tài sản bảo đảm hoặc phải có tài sản bảo đảm theo quy định hoặc có thể sẽ phải ký quỹ một tỷ lệ nhất định đối với giá trị của khoản bảo lãnh, có thể là 10%, 80% hay 100% số tiền bảo lãnh. Cho thuê Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản đẻ cho khách hàng thuê theo những thảo thuận nhất định. Với các thiết bị, phương tiện có giá trị lớn, các doanh nghiệp không muốn mua có thể sử dụng dịch vụ cho thuê thiết bị trung và dài hạn của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngân hàng sẽ mua thiết bị và cho khách hàng thuê kèm theo một số điều kiện. Kết thúc hợp đồng thuê, doanh nghiệp có thể được ưu tiên mua lại phương tiện với giá ưu đãi. Người ta cũng gọi hình thức này là thuê mua tài chính. Hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều các công ty tài chính mà chủ yếu là thuộc các Ngân hàng thương mại quốc doanh. 1.1.2.4. Phân chia theo rủi ro Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại các khoản mục tín dụng, dự trù quĩ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng. Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi. Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng có hàng hóa tiêu thụ chậm, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,…. Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn… Nợ quá hạn khó đòi: là nợ qúa hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…. Ngoài các cách phân chia trên thì tín dụng còn đựơc phân chia theo nhiều cách khác như theo ngành kinh tế, theo mục đích sử dụng… Hoạt động tín dụng đối với DNNQD của NHTM 1.2.1 Khái quát về các DNNQD Vai trò của các DNNQD Đối với sự phát triển kinh tế Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế toàn cầu, DNNQD ngày càng giữ vai trò hết sức quan trọng và trở thành một thành phần không thể thiếu được đối với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế thị trường. Vai trò của DNNQD được khẳng định qua các khía cạnh: Nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất vì giảm chi phí sản xuất đồng nghĩa với giảm giá thành, đồng thời cũng thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới thiết bị, công nghệ. Cạnh tranh không những giúp các doanh nghiệp đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu về tiêu dùng cho sản xuất hay tiêu dùng cho cá nhân trong xã hội, mà thông qua đó nó còn giúp đào thải và bình tuyển tự nhiên các doanh nghiệp, doanh nghiệp nào làm ăn không có hiệu quả sẽ nhanh chóng bị loại ra khỏi thị trường, trên thị trường chỉ tồn tại các doanh nghiệp có hiệu quả thực sự. Góp phần làm tăng thu nhập quốc dân: Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNQD đã góp phần làm gia tăng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, thông qua đó làm tăng đáng kể thu nhập quốc dân trong nước. Tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước: Nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước là thuế. Thuế do các tổ chức, các cá nhân trong quốc gia thực hiện nghĩa vụ của mình. Phần lớn thuế thu được là do đóng góp của các tổ chức kinh tế trong đó có các DNNQD. Về mặt pháp luật các DNNQD cũng như các doanh nghiệp nhà nước có nghĩa vụ như nhau trong việc nộp thuế. Các loại thuế phổ biến mà các doanh nghiệp này thường phải đóng là thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp: Việc làm hay một tỷ lệ thất nghiệp cao là một vấn đề xã hội nan giải với bất cứ quốc gia nào. Với dân số trên 85 triệu người như nước ta hiện nay, hàng năm sẽ có trên 1,5 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Giải quyết một số lượng việc làm như vậy mỗi năm là một vấn đề không hề đơn giản. Trong khi các doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể giúp một phần trong số lao động kia có việc làm thì các DNNQD thực sự là một cứu cánh cho số còn lại. Sự xuất hiện và phát triển của các DNNQD đã làm tăng thêm cơ hội có việc làm cho tất cả mọi người, đặc biệt là lao động trong khu vực nông thôn cũng như lao động dư thừa từ các doanh nghiệp nhà nước giải thể, cổ phần hóa. Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNNQD, và cũng là nguyên nhân khiến chúng ta quan tâm đặc biệt đến đối tượng này. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá: Thu hút một lực lượng lớn là lao động dư thừa ở nông thôn, lại có thể nhanh chóng thích nghi đón đầu công nghệ mới, chuyển đổi hướng sản xuất nhanh chóng cho phù hợp với thị trường, do đó DNNQD đã và đang tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu kinh tế: từ một nền sản xuất nhỏ, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp sang một nền kinh tế có cơ cấu tiên tiến, hướng xuất khẩu, phù hợp với định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tóm lại, Đại hội Đảng VI với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã mở đường cho các DNNQD có điều kiện tồn tại, hoạt động, và phát triển. Luật Doanh nghiệp mới ra đời gần đây đã tạo dựng một hành lang pháp lý khá đầy đủ và hoàn thiện cho sự hoạt động của các doanh nghiệp này. Cùng thực tế sau gần 20 năm đổi mới, các DNNQD đã thể hiện rõ vị trí và vai trò ngày càng quan trọng của mình trong nền kinh tế, đóng góp đáng kể vào sự phát triển,ổn định kinh tế đất nước. Đối với hoạt động Ngân hàng Khu vực kinh tế NQD hoạt động một cách sôi nổi và ngày càng phát triển cả về quy mô và chất lượng đã tạo ra một nhu cầu lớn cho ngân hàng cả về vốn và nhu cầu tín dụng, thanh toán, dịch vụ ngân hàng. Điều này đã tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng ngày càng trở lên sôi động hơn. Do vậy mà việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ giúp ngân hàng ngày càng năng động và hoàn thiện hơn trong hoạt động của mình và giữ vững vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế đặc biệt trong giai đoạn đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay. Trong tương lai khu vực kinh tế NQD sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế vì vậy nó sẽ là một thị trường đầy triển vọng của ngành ngân hàng, do vậy việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực này sẽ là một chiến lư._.ợc phát triển của ngân hàng. Những ưu thế và khó khăn của DNNQD DNNQD có những ưu thế nổi bật sau: Mục tiêu của các DNNQD là lợi nhuận. Do các DNNQD có tính tư hữu cao nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn gắn liền với quyền lợi, lợi ích cá nhân của người sản xuất cũng như chủ doanh nghiệp. Chính vì vậy mà các DNNQD luôn luôn tập trung, tận dụng tối đa những gì họ có để đạt được lợi nhuận cao nhất có thể. Các DNNQD có số vốn đầu tư ban đầu ít, nhưng hiệu quả sử dụng vốn cao, thường đầu tư vào các ngành nghề nhanh thu hồi vốn nên khả năng thu hồi vốn nhanh. Cũng chính vì ưu thế quy mô nhỏ mà các DNNQD có thể dễ dàng thích ứng đối với sự thay đổi của thị trường, cơ chế chính sách của nhà nước. Các DNNQD thường có bộ máy quản lý, tổ chức, kinh doanh gọn nhẹ. Vì vậy mà các quyết định quản lý được thực hiện nhanh, công tác kiểm tra, điều hành trực tiếp. Điều này góp phần đáng kể trong việc giảm chi phí quản lý doanh nghiệp . Các DNNQD có tính linh động cao, có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh và dễ dàng nhanh chóng tiếp thu được những tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới giúp họ có thể nhanh chóng “đi tắt”, “đón đầu”. DNNQD tận dụng triệt để được lợi thế về nguồn lao động dồi dào, cách thức quản lý lao động chặt chẽ và quan hệ giữa người lao động và chủ doanh nghiệp cũng được quản lý chặt chẽ theo địa phương, họ hàng, gia đình. Khó khăn Tuy có nhiều ưu thế, song các DNNQD cũng không tránh khỏi các hạn chế sau: Hạn chế về nguồn vốn là tình trạng rất phổ biến của các DNNQD khi muốn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Mặt khác việc tìm nguồn tài trợ của họ thường khó khăn hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng đã khó, song để có được nguồn vốn đủ cho phương án sản xuất kinh doanh thì nguồn vốn tự có nhỏ của họ đôi khi là rào cản bởi nó không đáp ứng được các tỷ lệ an toàn theo yêu cầu từ phía ngân hàng. Cơ sở sản xuất, trang thiết bị, công nghệ còn yếu kém và lạc hậu chủ yếu đầu tư vào các ngành nghề ít vốn, thu hồi vốn nhanh, không đòi hỏi công nghệ phức tạp. Do đó nhiều doanh nghiệp đã tận dụng những máy móc thiết bị đã lạc hậu để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Mặt khác do phạm vi hoạt động hẹp, bản thân doanh nghiệp không đủ sức tích luỹ vốn đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh cho nên họ chưa có đủ nguồn để tài trợ cho việc đổi mới máy móc trang thiết bị. Chất lượng lao động còn thấp, trình độ tay nghề chưa cao, đặc biệt là trình độ quản lý nói chung còn hạn chế, ít được đào tạo cơ bản và chưa đáp ứng được so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Cho nên trong thực tế, một số doanh nghiệp khi hoạt động ở quy mô nhỏ thì có hiệu quả, nhưng khi mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp không đáp ứng một cách tương xứng nên đã dẫn đến thua lỗ. Khả năng cạnh tranh trên thị trường bị hạn chế, thường bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị kém, nguy cơ phá sản cao. Hiện tượng các DNNQD hoạt động phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, lừa đảo v...v..còn phổ biến. Ngoài ra, đa số các DNNQD còn chưa thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về an toàn lao động và đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động của mình .Như vậy, DNNQD tuy có nhiều ưu thế, song cũng bộc lộ không ít các hạn chế của mình. Các hạn chế trên mới chỉ là những hạn chế của bản thân các doanh nghiệp. Mặt khác những doanh nghiệp này đang phải hoạt động trong một môi trường kinh tế mà trong đó còn có nhiều cản trở như sự bất bình đẳng về chế độ chính sách giữa doanh nghiệp quốc doanh và DNNQD, hay các cản trở gây khó khăn trong quá trình tìm kiếm nguồn vốn tài trợ. Do đó mà DNNQD cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về nhiều mặt như cơ chế chính sách, thuế, công nghệ, và đặc biệt là vốn. Có thể thấy với đặc điểm về quy mô vốn, trình độ Ban lãnh đạo, thiết bị công nghệ việc tự thu hút các nguồn vốn bên ngoài của các DNNQD là rất khó. Việc tự thu hút vốn thông qua phát hành cổ phiếu hay trái phiếu doanh nghiệp là vô cùng khó khăn, vì cần phải đáp ứng các điều kiện gắt gao về quy mô vốn, trình độ quản lý của Ban lãnh đạo v..v. Do đó nguồn vốn chính mà các DNNQD luôn mong mỏi có được chính là nguồn vốn vay từ ngân hàng. Hoạt động tín dụng đối với các DNNQD Các hình thức tín dụng đối với các DNNQD Cho vay Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Các hình thức cho vay: Cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp. Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép một số DN được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này này được gọi là hạn mức thấu chi. Cho vay thấu chi nhìn chung chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có quan hệ lâu dài với ngân hàng và có độ tin cậy cao, thu nhập ổn định. Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.Vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển, ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Mọi khoản thu từ bán hàng đều dùng trả nợ vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay, ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Hình thức cho vay này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Hình thức này có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp hàng hoá mua trả góp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập ổn định của người vay. Nếu xảy ra rủi ro đối với người vay, thu nhập bị giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng bị ảnh hưởng, vì vậy lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian như các tổ, đội, hội, nhóm như tổ sản xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, … Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, các tổ chức này cũng có thể đứng ra đảm bảo cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Cho vay gián tiếp được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Tuy nhiên, hình thức này cũng bộc lộ khiếm khuyết như nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình, … Chiết khấu thương phiếu Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nhận nợ). Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng dựa trên cơ sở trao đổi trái quyền: Ngân hàng bỏ tiền ra trong hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định (lãi suất chiết khấu), nhưng thực chất ngân hàng đã thay người mua trả tiền trước cho người bán, như vậy người bán sớm có tiền để tiếp tục sản xuất kinh doanh, quay vòng vốn nhanh chóng hơn. Bảo lãnh Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng của ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết. Bảo lãnh được coi là một hình thức tín dụng thông qua chữ ký, tuy ngân hàng không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã dùng uy tín của mình để thu lợi (phí bảo lãnh). Cho thuê tài chính Cho thuê tài chính là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài chính thường là hình thức tín dụng trung - dài hạn. Ngân hàng mua tài sản và cho khách hàng thuê với thời gian sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời gian khoảng 80 đến 90% đời sống hoạt động của tài sản đó). Hết thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Phương thức cho thuê là một hình thức tài trợ có nhiều ưu điểm, đặc biệt là đối với các DNNQD, bởi DNNQD sẽ không phải đầu tư với quy mô lớn ngay từ Ban đầu mà tuỳ theo thoả thuận với ngân hàng, sẽ trả gốc và lãi tương ứng với giá trị của tài sản thuê. Hơn nữa số tiền thuê này được tính thành cho thuê thiết bị trung và dài hạn.Với các thiết bị, phương tiện có giá trị lớn, các doanh nghiệp không muốn mua có thể sử dụng dịch vụ cho thuê thiết bị trung và dài hạn của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngân hàng sẽ mua thiết bị và cho khách hàng thuê kèm theo một số điều kiện. Kết thúc hợp đồng thuê, doanh nghiệp có thể được ưu tiên mua lại phương tiện với giá ưu đãi. Người ta cũng gọi hình thức này là thuê mua tài chính. Hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều các công ty tài chính mà chủ yếu là thuộc các Ngân hàng thương mại quốc doanh một chi phí và nó sẽ làm giảm đáng kể số thuế phải nộp của doanh nghiệp. Quy trình tín dụng a. Tiếp nhận hồ sơ Cán bộ tín dụng làm đầu mối tiếp nhận, hướng dẫn khách hàng hoàn thành các hồ sơ cần thiết. Các hồ sơ đó là: Hồ sơ pháp lý về doanh nghiệp: Quyết định thành lập doanh nghiệp, điều lệ tổ chức và hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề đối với ngành nghề cần giấy phép, biên bản họp bầu Hội đồng quản trị, chủ tịch, kế toán trưởng, các văn bản uỷ quyền và các giấy tờ có liên quan khác. Hồ sơ về khoản tín dụng: Giấy đề nghị cấp tín dụng, kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính trong năm kế hoạch, các báo cáo tài chính, bảng kê công nợ, các khoản phải trả, phải thu, các hợp đồng kinh tế (đầu vào, đầu ra), phương án sản xuất kinh doanh, và các hồ sơ khác có liên quan. Hồ sơ bảo đảm tín dụng: Gồm các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng, giá trị của tài sản hay hợp đồng, văn bản bảo lãnh của bên thứ ba. Phân tích tín dụng Mục tiêu chính của việc phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý chí trả nợ của khách hàng. Đây cũng là khâu quan trọng nhất để hạn chế tối đa rủi ro đối với một khoản tín dụng. Nội dung của việc phân tích tín dụng tập trung vào 5 yếu tố: uy tín, tư cách của khách hàng, quyền sở hữu về tài sản, khả năng tạo lợi nhuận, và một số điều kiện khác có ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng. Cụ thể việc phân tích tín dụng phải trải qua các bước sau: Bước 1: Thu thập thông tin Cán bộ tín dụng cần phải thu thập các thông tin về DNNQD xin cấp tín dụng. Nguồn thông tin có thể do chính DNNQD đó cung cấp, hay do cán bộ tín dụng thu thập được trực tiếp thông qua thăm, xem xét tình hình thực tế của doanh nghiệp, hoặc có thể lấy thông tin từ các bên thứ ba (các chủ nợ cũ, thông tin của phòng Kế hoạch - Đầu tư nơi DNNQD đăng ký kinh doanh). Bước 2: Xử lý thông tin Sau khi có được đầy đủ các thông tin, cán bộ tín dụng tiến hành phân tích các thông tin đó theo các khía cạnh sau: Đánh giá về tài sản của DNNQD: bao gồm đánh giá về ngân quỹ (tiền mặt, tiền gửi, các khoản phải thu có khả năng chuyển đổi thành tiền); các chứng khoán có giá, hàng hóa trong kho, tài sản cố định... Đánh giá các khoản nợ: Ngân hàng quan tâm đến tất cả các chủ nợ của khách hàng (ngân hàng, người cung cấp, người lao động, các khoản nợ cũ), các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và nợ khác. Phân tích luồng tiền: Các luồng tiền vào và luồng tiền ra thực tế là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua việc sử dụng các tỷ lệ để phân tích như tỷ lệ về khả năng thanh toán, tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ rủi ro... Phân tích các điều kiện kinh tế, xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của DNNQD xin cấp tín dụng. Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng Sau khi đã phân tích về khách hàng cũng như phương án tài trợ, ngân hàng sẽ ra quyết định tín dụng. Nếu đồng ý cung cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng và khách hàng sẽ cùng nhau ký kết hợp đồng. Đây có thể là hợp đồng tín dụng (nếu ngân hàng cho vay), hay hợp đồng bảo lãnh, hoặc hợp đồng cho thuê. Hợp đồng chính là các văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (DNNQD) và ngân hàng với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cung cấp cho khách hàng một khoản tín dụng trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Đây cũng chính là văn bản pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của cả hai bên trong quan hệ tín dụng. Các nội dung chính trong hợp đồng: + Khách hàng: tên doanh nghiệp, địa chỉ, điện thoại, người đại diện của DN. + Mục đích sử dụng khoản tín dụng (thường có trong hợp đồng tín dụng). + Số lượng tín dụng: số tiền mà ngân hàng cam kết cung cấp cho khách hàng. + Lãi suất: lãi suất mà khách hàng phải trả cho khoản tín dụng và tính chất của lãi suất (thả nổi hay cố định) hoặc phí phải trả (đối với hợp đồng bảo lãnh). + Thời hạn tín dụng hoặc thời hạn có hiệu lực của bảo lãnh. + Các loại bảo đảm. + Điều kiện giải ngân và kỳ hạn giải ngân (đối với hợp đồng tín dụng) hoặc các điều kiện thực hiện bảo lãnh (đối với hợp đồng bảo lãnh). + Các điều kiện thanh toán. Và một số điều kiện khác. Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như đã thoả thuận. Kèm theo ngân hàng phải kiểm soát khách hàng trong quá trình cho vay. Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng Theo dõi việc thực hiện hợp đồng tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng, sổ sách kế toán, chứng từ kế toán...để có thông báo trả nợ cho khách hàng trước 5 ngày làm việc. Khi ngân hàng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi thì quan hệ tín dụng kết thúc. Ngân hàng thực hiện tất toán khoản vay, giải toả các hợp đồng đảm bảo tài sản và thanh lý hợp đồng tín dụng. Nếu khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn thì có nghĩa là ngân hàng đã có một khoản tín dụng an toàn và sinh lời. Tuy nhiên cũng có trường hợp khách hàng không hoàn trả đúng hạn hoặc không hoàn trả được đầy đủ khoản tín dụng, khi đó ngân hàng cần phải xem xét nguyên nhân và đưa ra cách xử lý cho phù hợp. Mở rộng tín dụng đối với các DNNQD của NHTM Sự cần thiết mở rộng tín dụng đối với DNNQD của NHTM Qua nghiên cứu vai trò, ưu thế và hạn chế của DNNQD trong nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy việc mở rộng tín dụng của ngân hàng đối với khu vực kinh tế này là hết sức quan trọng, nó tạo ra sự phát triển đa dạng trong nền kinh tế, bởi vì không những khu vực kinh tế NQD có đóng góp lớn vào GDP(42%GDP của cả nước) mà còn tiềm ẩn những khả năng to lớn mà chúng ta chưa khai thác được. Theo chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của nhà nước thì việc mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ góp phần tạo ra sự phát triển cân bằng và ổn định cho nền kinh tế. Thúc đẩy các đơn vị sản xuất kinh doanh tăng cường đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khác việc mở rộng hoạt động tín dụng sẽ giúp ngân hàng ngày càng năng động và hoàn thiện hơn trong hoạt động của mình và giữ vững vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế đặc biệt trong giai đoạn đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay. Trong tương lai khu vực kinh tế NQD sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế, do vậy việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực này sẽ là một chiến lược phát triển của ngân hàng. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả mở rộng tín dụng đối với DNNQD Kết quả mở rộng tín dụng đối với DNNQD được đánh giá bằng nhiều tiêu thức khác nhau, dưới đây là một vài tiêu thức tiêu biểu: -Sự gia tăng số lượng khách hàng: Như đã đề cập ở trên DNNQD bao gồm Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, công ty hợp danh, Công ty TNHH. Gia tăng đối tượng khách hàng là tăng được số khách hàng mới cả về số lượng và loại khách hàng. Dsố lượng khách hàng = Số lượng KH năm nay/Số lượng KH năm trước Số lượng khách hàng tăng thêm đánh giá hiệu quả của hoạt động Marketing ngân hàng, khả năng giao tiếp và tiếp cận với khách hàng của cán bộ tín dụng ngân hàng. - Mức độ tăng dư nợ : Đây cũng là một trong những nhân tố tiêu biểu để đánh giá hiệu quả mở rộng tín dụng ngân hàng. DDư nợ = Dư nợ năm nay/dư nợ năm trước Tăng dư nợ nghĩa là tăng quy mô các khoản tín dụng. Các khoản tín dụng đối với DNNQD thường có quy mô nhỏ nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng vì nó phụ thuộc nhiều vào giá trị tài sản đảm bảo,tăng quy mô dư nợ là một vấn đề hết sức phức tạp, do vậy ngân hàng muốn mở rộng tín dụng ở khía cạnh này thường phải cân nhắc rất cẩn thận và kỹ lưỡng trước khi phán quyết mức tín dụng. - Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn cuối kỳ/ Tổng dư nợ tín dụng cuối kỳ Đây là chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng đối với các DNNQD. Chỉ tiêu càng cao chứng tỏ Ngân hàng có chất lượng tín dụng thấp. - Lĩnh vực kinh tế: Kết quả mở rộng tín dụng cũng có thể được đánh giá bằng sự gia tăng thị phần tín dụng trong các lĩnh vực kinh tế (Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, thương mại điện tử...) Nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng tín dụng đối với các DNNQD của NHTM Mở rộng tín dụng đối với các DNNQD là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp, do vậy mà có rất nhiều nhân tố tác động tới việc mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế NQD của các ngân hàng thương mại, trong đó có thể phân thành 2 nhóm sau: Các nhân tố chủ quan 1.3.1.1 Các nhân tố thuộc về NHTM Đây là những nhân tố xuất phát từ chính bản thân ngân hàng như: chính sách tín dụng, nguồn vốn, chính sách lãi suất cho vay, quy mô của ngân hàng... Trước hết là chính sách tín dụng của ngân hàng, mỗi ngân hàng có một chính sách tín dụng riêng ưu tiên theo từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của DN, ưu tiên theo địa phương, cụ thể: những DN ở vùng trọng điểm hay khu công nghiệp đựơc ưu tiên hơn là các DN ở các địa bàn khác,địa điểm xa hay gần ảnh hưởng đến quyết định cho vay của NH, những doanh nghiệp trong ngành thương mại, trong lĩnh vực bất động sản được trú trọng ưu tiên cho v ay hơn là các DN trong ngành nghề lĩnh vực khác. Nguồn vốn của ngân hàng là yếu tố tiền đề để mở rộng tín dụng, nguồn vốn của một ngân hàng càng lớn càng ổn định thì việc mở rộng tín dụng sẽ dễ dàng hơn so với 1 ngân hàng có nguồn vốn hạn hẹp ít ổn định,trong đó: Vốn huy động: là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng cho vay nhưng mỗi loại tiền gửi có đặc điểm riêng và có sự biến động khác nhau. Tiền gửi không kì hạn và ngắn hạn thì thường xuyên biến động còn tiền gửi có kì hạn và dài hạn thì ổn định hơn. Vốn huy động càng lớn và càng ổn định thì khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng ngày càng lớn. Vốn tự có: Đối với mỗi NHTM thì việc mở rộng tín dụng còn phụ thuộc vào mức vốn tự có của mỗi ngân hàng. Luật các tổ chức tín dụng quy định các điều kiện ràng buộc ngân hàng về mặt pháp lý đối với phạm vi giới hạn tín dụng, theo đó tổng dư nợ cho vay một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của các NHTM. Vì vậy vốn tự có của ngân hàng quyết định khối lượng tín dụng tối đa mà ngân hàng có thể đầu tư cho một doanh nghiệp. Và do đó việc mở rộng vốn huy động và vốn tự có của ngân hàng là tiền đề để mở rộng tín dụng đối với các DNNQD. Lãi suất cho vay của ngân hàng: Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay, lãi suất luôn được coi là biến số nhạy cảm đối với đời sống kinh tế-xã hội, nó là nhân tố tác động tích cực đối với việc mở rộng tín dụng đồng thời nó cũng sẽ là yếu tố kìm hãm sự mở rộng tín dụng nếu như ngân hàng không có chính sách lãi suất hợp lý. Trên lý thuyết cũng như thực tế, lãi suất là công cụ điều khiển quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ. Bởi NHTW các nước thường sử dụng công cụ lãi suất trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Chính vì vậy lãi suất cho vay của mỗi ngân hàng ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng của chính ngân hàng đó và cả các ngân hàng khác. Lãi suất chính là chi phí sử dụng vốn vay của DN, do đó lãi suất cho vay thấp NHTM có khả năng mở rộng đầu tư hơn và ngược lại lãi suất cho vay cao NHTM khó có khả năng mở rộng đầu tư (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi). Quy mô hoạt động của NHTM cũng ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng nói chung và việc mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế NQD nói riêng. NHTM có quy mô lớn, địa bàn hoạt động rộng, có danh tiếng và uy tín cao trên thương trường sẽ thu hút khách hàng gửi và vay tiền, tạo điều kiện cho NHTM mở rộng tín dụng. Công tác marketing của ngân hàng cũng có tác động tới việc mở rộng tín dụng của các NHTM, giúp cho khách hàng hiểu và tin ngân hàng hơn, từ đó đến với ngân hàng ngày càng nhiều hơn. Trình độ, thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng cũng tác động tới việc mở rộng hoạt động tín dụng của các NHTM. Nhân viên giao dịch chính là hình ảnh thu nhỏ của toàn ngân hàng, do đó khả năng giao tiếp, thái độ niềm nở lịch sự, trình độ kiến thức tổng hợp về các nghiệp vụ ngân hàng là yếu tố quan trọng tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái khi đến với ngân hàng. Điều này làm tăng khả năng mở rộng tín dụng ngân hàng đối với mọi tầng lớp khách hàng trong đó có các DNNQD. 1.3.1.2. Các nhân tố thuộc về bản thân các DNNQD Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu của thị trường với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Với mục tiêu này, doanh nghiệp phải lựa chọn sản xuất cái gì, cho ai, khả năng tiêu thụ như thế nào, điều đó quyết định đến khối lượng và hình thức đầu tư. Vì vậy mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng chịu tác động bởi 2 yếu tố xuất phát từ phía khách hàng đó là: động cơ đầu tư của khách hàng và khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng của ngân hàng. Động cơ đầu tư của khách hàng: là điều kiện để mở rộng tín dụng của ngân hàng. Động cơ đầu tư của khách hàng bắt nguồn từ lợi nhuận. Mục tiêu đầu tiên và cuối cùng của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận do đầu tư mang lại càng cao và có độ rủi ro càng thấp thì nhu cầu đầu tư càng lớn. Động cơ đầu tư của khách hàng có được thực hiện hay không còn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Trong khi đó dự án, phương án đầu tư đòi hỏi khối lượng vốn lớn mà chỉ một mình khách hàng sẽ khó thực hiện được. Điều này tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tham gia đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Như vậy động cơ đầu tư của các khách hàng quyết định việc mở rộng cho vay của ngân hàng. Nhu cầu đầu tư của các khách hàng càng lớn, các ngân hàng càng có điều kiện để mở rộng tín dụng. Năng lực pháp lý: Doanh nghiệp phải có đầy đủ năng lực pháp luật, có đăng ký kinh doanh mới có đủ điều kiện để hoạt động sản xuất kinh doanh và ký các hợp đồng vay vốn. Năng lực tài chính của khách hàng: Khả năng tài chính của khách hàng thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỉ trọng vốn tự có trong tổng số nguồn vốn của khách hàng sử dụng. Điều kiện tín dụng thường quy định một tỉ lệ cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn hoạt động hay một tỉ lệ vốn tự có tham gia phương án, dự án vay vốn.Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp, việc đáp ứng các yêu cầu thanh toán còn lệ thuộc khá lớn vào kết cấu tài sản của doanh nghiệp như khả năng chuyển hoá thành tiền của tài sản. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng càng lớn, càng làm cho ngân hàng có điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Tài sản bảo đảm tiền vay: Mặc dù tài sản bảo đảm tiền vay không là yếu tố quyết định đến việc có cho vay hay không mà điều quyết định ở đây là phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song đối với các DNNQD thì biện pháp bảo đảm bằng tài sản vẫn là nhân tố quan trọng để quyết định có cho vay hay không.Theo đó khi vay vốn ngân hàng doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định. Giá trị bảo đảm tiền vay phải bảo đản theo tỉ lệ quy định tại nghị định số 163/2006NĐ-CP ngày 29/12/2006 của chính phủ về bảo đảm tiền vay. Tài sản đảm bảo của DNNQD có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau: - Nếu phân loại theo tính chất an toàn + Tài sản đảm bảo loại 1: là các tài sản thuộc sử dụng hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc đảm bảo của bên thứ ba cho khách hàng (bảo lãnh). + Tài sản đảm bảo loại 2: là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng. - Nếu phân loại tài sản đảm bảo theo hình thức vật chất: + Đảm bảo bằng hàng hoá trong kho như nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm. Với loại tài sản đảm bảo này, ngân hàng cần phải có khả năng kiểm soát hàng hóa đảm bảo, phải nắm vững được tính thị trường của hàng hoá, khả năng bảo quản và định giá hàng hoá. + Đảm bảo bằng tài sản cố định: Các tài sản này thường là nhà máy, trang thiết bị sản xuất, phương tiện vận chuyển, cây con, quyền sử dụng đất. + Đảm bảo bằng hợp đồng chi trả của bên thứ ba: Khi doanh nghiệp bán hàng hóa dịch vụ và nhận về các hợp đồng thanh toán. Hợp đồng này cũng sẽ trở thành hàng hoá đảm bảo cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cần phải xem xét về khả năng thanh toán của bên thứ ba, các cam kết có khả năng chuyển nhượng v..v.. + Đảm bảo bằng chứng khoán: Đây là loại tài sản có thể bán với ít, nhiều rủi ro. Ngân hàng cũng là đơn vị có nghiệp vụ quản lý và kinh doanh chứng khoán. Thông thường chứng khoán làm tài sản đảm bảo phải đáp ứng được các yêu cầu về tính an toàn, tính thanh khoản. Nếu đáp ứng được các yêu cầu trên thì đây là một loại tài sản đảm bảo tương đối thuận tiện đối với cả ngân hàng và khách hàng. + Đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba: Người thứ ba này cam kết sẽ thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không thực hiện được nghĩa vụ đối với khoản tín dụng. Ngân hàng thường ưa chuộng nếu người bảo lãnh là người có uy tín, có khả năng thanh toán tốt (các ngân hàng, công ty lớn, nhà nước...). Còn với người bảo lãnh chưa có uy tín ngân hàng sẽ yêu cầu có tài sản đảm bảo cho bảo lãnh đó. + Đảm bảo bằng số dư bù: Số dư bù là số tiền gửi ký quỹ, được chuyển sang một tài khoản riêng của khách hàng hoặc có thể vẫn lưu giữ trong tài khoản tiền gửi của khách hàng nhưng họ không được quyền sử dụng cho đến khi trả nợ hết cho ngân hàng. Tuy nhiên, ký quỹ sẽ làm đọng vốn của khách hàng và nếu số tiền ký quỹ lớn thì hình thức này sẽ không phù hợp Các nhân tố khách quan Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực nhạy cảm đối với sự tác động từ bên ngoài. Một sự thay đổi dù nhỏ của môi trường xung quanh hay nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế cũng tác động không nhỏ tới toàn bộ hoạt động kinh doanh, khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng. Môi trường kinh tế-xã hội có tác động tích cực hoặc tiêu cực vào doanh nghiệp. Khi môi trường đầu tư thuận lợi, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh của mình và ngược lại, và khi doanh nghiệp mở rộng và nâng cao chất lượng đầu tư sẽ củng cố và hoàn thiện hơn môi trường đầu tư, đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng. Môi trường kinh tế-xã hội phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Hệ thống pháp luật đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong đó có các NHTM hoạt động kinh doanh thuận lợi, dễ dàng trong việc cấp tín dụng cũng như các hoạt động khác. Hệ thống pháp luật đồng bộ sẽ tạo ra khả năng xử lý tài sản làm đảm bảo cho nợ vay và khả năng thu hồi vốn của NHTM nhanh hơn, rủi ro trong hoạt động ngân hàng thấp hơn và NHTM có khả năng thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong đầu tư tín dụng. Như vậy có rất nhiều yếu tố tác động đến việc mở rộng tín dụng, mỗi nhân tố có mức độ tác động khác nhau tuỳ theo tính chất và thời gian của hoạt động tín dụng. Đồng thời các nhân tố có liên quan với nhau, tạo sự tác động tổng hợp tới hoạt động tín dụng của NHTM. Vấn đề đặt ra là người điều hành NHTM phải nắm vững và điều khiển sự tác động của các nhân tố đó trong quá trình mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TD ĐỐI VỚI CÁC DNNQD TẠI NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH HOÀN KIẾM 2.1. Tổng quan về Techcombank Hoàm Kiếm 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam Ngân hàng Thương mại cổ Phần Kỹ Thương Việt Nam (viết tắt là: TECHCOMBANK) hoạt động theo giấy phép số 0040 NH-GP do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cấp ngày 08/08/1993. Được thành lập vào ngày 27 tháng 09 năm 1993, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng và trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Năm 1995, NH tăng vốn điều lệ lên 51,495 tỷ đồng và thành lập chi nhánh Techcombank TP Hồ Chí Minh. Đây là bước đầu tiên đánh dấu quá trình mở rộng hoạt động của Techcombank ra các tỉnh thành khác trong cả nước. Năm 1996, tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ đồng, đồng thời thành lập Chi nhánh Techcombank Thăng Long cùng Phòng Giao dịch Nguyễn Chí Thanh tại Hà Nội và Phòng Giao dịch Thắng Lợi trực thuộc Techcombank Hồ Chí Minh. Năm 1998, thành lập chi nhánh Techcombank Đà Nẵng, và chuyển trụ sở sang tòa nhà Techcombank 15 Đào Duy Từ. Năm 1999, Techcombank tiếp tục tăng vốn điều lệ lên hơn 80 tỷ đồng và khai trương phòng giao dịch thứ 3 trên địa bàn Hà Nội. Năm 2001, cùng với việ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0302.doc
Tài liệu liên quan