Mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam - Chi nhánh Hoàn Kiếm

LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển kinh tế, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta ngày càng được mở rộng về quy mô và số luợng. Từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQ) đã phát triển rất nhanh, nhất là các đô thị, các thành phố lớn. Trên địa bàn thành phố Hà Nội nếu như năm 2001 mới có 2.818 doanh nghiệp, thì đến tháng 5 năm 2005 đã có 25.479 doanh nghiệp. Như vậy sau hơn 3 năm đã có hơn 22 ngàn DNNQD ra đời. Bình quân mỗi năm có trên 7.000 doanh nghiệp đượ

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam - Chi nhánh Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c thành lập. DNNQD phát triển đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước và đang trở thành lực lượng kinh tế quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các DNNQD vẫn còn gặp một số khó khăn trong hoạt động nhất là việc thực hiện các cơ chế, chính sách tài chính,… việc tạo điều kiện vay vốn và mở rộng các quan tín dụng đối với các DNNQD là rất cần thiết giúp các DN này có thể phát triển góp phần làm tăng trưởng kinh tế nước nhà. Vì vậy em chọn đề tài nghiên cứu về “Mở rộng Tín dụng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm”. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm. Mục tiêu: đưa ra các giải pháp để mở rộng tín dụng đối với các DNNQD. Kết cấu chuyên đề gồm: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tín dụng đối với các DNNQD của NHTM Chương 2:Thực trạng hoạt động TD đối với các DNNQD tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm. Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các DNNQD tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DNNQD CỦA NHTM Hoạt động tín dụng của NHTM Tổng quan về NHTM Chức năng của Ngân hàng: - Chức năng trung gian tài chính, với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, Ngân hàng thương mại đóng vai trò là “cầu nối” giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. - Chức năng trung gian thanh toán: Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. - Chức năng tạo phương tiện thanh toán, hay còn gọi là chức năng “tạo tiền”. Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tài chính và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Khi khách hàng tại một Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu, tức làm tăng số dư tiền gửi của một khách hàng khác tại một Ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. 1.1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM Hoạt động tín dụng có tầm quan trọng bậc nhất trong ngân hàng đặc biệt là ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế thị trường như ở nước ta. Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có, thu nhập do tín dụng đem lại chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập cho ngân hàng. Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sỏ hoàn trả và có một số đặc trưng cơ bản sau: Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay( bằng tiền) và cho thuê( bất động sản và động sản ). Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy nguời cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là một yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Để thực hiện được nguyên tắc này, phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Các ngân hàng thương mại hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn .. đến bảo lãnh, cho thuê tài chính, phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng. Hoạt động tín dụng đối với DNNQD của NHTM 1.2.1 Khái quát về các DNNQD Vai trò của các DNNQD Đối với sự phát triển kinh tế Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế toàn cầu, DNNQD ngày càng giữ vai trò hết sức quan trọng và trở thành một thành phần không thể thiếu được đối với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế thị trường. Vai trò của DNNQD được khẳng định qua các khía cạnh: Nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất vì giảm chi phí sản xuất đồng nghĩa với giảm giá thành, đồng thời cũng thúc đẩy các doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới thiết bị, công nghệ. Góp phần làm tăng thu nhập quốc dân: Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNQD đã góp phần làm gia tăng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, thông qua đó làm tăng đáng kể thu nhập quốc dân trong nước. Tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước: Nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước là thuế. Thuế do các tổ chức, các cá nhân trong quốc gia thực hiện nghĩa vụ của mình. Phần lớn thuế thu được là do đóng góp của các tổ chức kinh tế trong đó có các DNNQD. Góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp: Trong khi các doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể giúp một phần trong số lao động kia có việc làm thì các DNNQD thực sự là một cứu cánh cho số còn lại. Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNNQD, và cũng là nguyên nhân khiến chúng ta quan tâm đặc biệt đến đối tượng này. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá: Thu hút một lực lượng lớn là lao động dư thừa ở nông thôn, lại có thể nhanh chóng thích nghi đón đầu công nghệ mới, chuyển đổi hướng sản xuất nhanh chóng cho phù hợp với thị trường, do đó DNNQD đã và đang tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu kinh tế: từ một nền sản xuất nhỏ, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp sang một nền kinh tế có cơ cấu tiên tiến, hướng xuất khẩu, phù hợp với định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tóm lại, Đại hội Đảng VI với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã mở đường cho các DNNQD có điều kiện tồn tại, hoạt động, và phát triển. Luật Doanh nghiệp mới ra đời gần đây đã tạo dựng một hành lang pháp lý khá đầy đủ và hoàn thiện cho sự hoạt động của các doanh nghiệp này. Cùng thực tế sau gần 20 năm đổi mới, các DNNQD đã thể hiện rõ vị trí và vai trò ngày càng quan trọng của mình trong nền kinh tế, đóng góp đáng kể vào sự phát triển,ổn định kinh tế đất nước. Đối với hoạt động Ngân hàng Khu vực kinh tế NQD hoạt động một cách sôi nổi và ngày càng phát triển cả về quy mô và chất lượng đã tạo ra một nhu cầu lớn cho ngân hàng cả về vốn và nhu cầu tín dụng, thanh toán, dịch vụ ngân hàng. Điều này đã tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng ngày càng trở lên sôi động hơn. Do vậy mà việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ giúp ngân hàng ngày càng năng động và hoàn thiện hơn trong hoạt động của mình và giữ vững vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế đặc biệt trong giai đoạn đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay. Những ưu thế và khó khăn của DNNQD DNNQD có những ưu thế nổi bật sau: Mục tiêu của các DNNQD là lợi nhuận. Do các DNNQD có tính tư hữu cao nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn gắn liền với quyền lợi, lợi ích cá nhân của người sản xuất cũng như chủ doanh nghiệp. Chính vì vậy mà các DNNQD luôn luôn tập trung, tận dụng tối đa những gì họ có để đạt được lợi nhuận cao nhất có thể. Các DNNQD có số vốn đầu tư ban đầu ít, có bộ máy quản lý, tổ chức, kinh doanh gọn nhẹ, có tính linh động cao, có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh và dễ dàng nhanh chóng tiếp thu được những tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới giúp họ có thể nhanh chóng “đi tắt”, “đón đầu”, DNNQD tận dụng triệt để được lợi thế về nguồn lao động dồi dào, cách thức quản lý lao động chặt chẽ và quan hệ giữa người lao động và chủ doanh nghiệp cũng được quản lý chặt chẽ theo địa phương, họ hàng, gia đình. Khó khăn Tuy có nhiều ưu thế, song các DNNQD cũng không tránh khỏi các hạn chế sau: Hạn chế về nguồn vốn là tình trạng rất phổ biến của các DNNQD khi muốn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Mặt khác việc tìm nguồn tài trợ của họ thường khó khăn hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng đã khó, song để có được nguồn vốn đủ cho phương án sản xuất kinh doanh thì nguồn vốn tự có nhỏ của họ đôi khi là rào cản bởi nó không đáp ứng được các tỷ lệ an toàn theo yêu cầu từ phía ngân hàng. Cơ sở sản xuất, trang thiết bị, công nghệ còn yếu kém và lạc hậu chủ yếu đầu tư vào các ngành nghề ít vốn, thu hồi vốn nhanh, không đòi hỏi công nghệ phức tạp. Do đó nhiều doanh nghiệp đã tận dụng những máy móc thiết bị đã lạc hậu để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Chất lượng lao động còn thấp, trình độ tay nghề chưa cao, đặc biệt là trình độ quản lý nói chung còn hạn chế, ít được đào tạo cơ bản và chưa đáp ứng được so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Khả năng cạnh tranh trên thị trường bị hạn chế, thường bị động trong các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị kém, nguy cơ phá sản cao. Hiện tượng các DNNQD hoạt động phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, lừa đảo v...v..còn phổ biến. Ngoài ra, đa số các DNNQD còn chưa thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về an toàn lao động và đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động của mình . Hoạt động tín dụng đối với các DNNQD Các hình thức tín dụng đối với các DNNQD Cho vay Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép một số DN được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này này được gọi là hạn mức thấu chi. Cho vay thấu chi nhìn chung chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có quan hệ lâu dài với ngân hàng và có độ tin cậy cao, thu nhập ổn định. Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.Vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển, ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Mọi khoản thu từ bán hàng đều dùng trả nợ vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay, ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Hình thức cho vay này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian như các tổ, đội, hội, nhóm như tổ sản xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, … Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, các tổ chức này cũng có thể đứng ra đảm bảo cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Chiết khấu thương phiếu Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nhận nợ). Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng dựa trên cơ sở trao đổi trái quyền: Ngân hàng bỏ tiền ra trong hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định (lãi suất chiết khấu), nhưng thực chất ngân hàng đã thay người mua trả tiền trước cho người bán, như vậy người bán sớm có tiền để tiếp tục sản xuất kinh doanh, quay vòng vốn nhanh chóng hơn. Bảo lãnh Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng của ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết. Bảo lãnh được coi là một hình thức tín dụng thông qua chữ ký, tuy ngân hàng không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã dùng uy tín của mình để thu lợi (phí bảo lãnh). Cho thuê tài chính Cho thuê tài chính là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài chính thường là hình thức tín dụng trung - dài hạn. Ngân hàng mua tài sản và cho khách hàng thuê với thời gian sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời gian khoảng 80 đến 90% đời sống hoạt động của tài sản đó). Hết thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Quy trình tín dụng a. Tiếp nhận hồ sơ Cán bộ tín dụng làm đầu mối tiếp nhận, hướng dẫn khách hàng hoàn thành các hồ sơ cần thiết. Các hồ sơ đó là: Hồ sơ pháp lý về doanh nghiệp: Quyết định thành lập doanh nghiệp, điều lệ tổ chức và hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề đối với ngành nghề cần giấy phép, biên bản họp bầu Hội đồng quản trị, chủ tịch, kế toán trưởng, các văn bản uỷ quyền và các giấy tờ có liên quan khác. Hồ sơ về khoản tín dụng: Giấy đề nghị cấp tín dụng, kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính trong năm kế hoạch, các báo cáo tài chính, bảng kê công nợ, các khoản phải trả, phải thu, các hợp đồng kinh tế (đầu vào, đầu ra), phương án sản xuất kinh doanh, và các hồ sơ khác có liên quan. Hồ sơ bảo đảm tín dụng: Gồm các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng, giá trị của tài sản hay hợp đồng, văn bản bảo lãnh của bên thứ ba. Phân tích tín dụng Mục tiêu chính của việc phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý chí trả nợ của khách hàng. Đây cũng là khâu quan trọng nhất để hạn chế tối đa rủi ro đối với một khoản tín dụng. Nội dung của việc phân tích tín dụng tập trung vào 5 yếu tố: uy tín, tư cách của khách hàng, quyền sở hữu về tài sản, khả năng tạo lợi nhuận, và một số điều kiện khác có ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng. Cụ thể việc phân tích tín dụng phải trải qua các bước sau: Bước 1: Thu thập thông tin Cán bộ tín dụng cần phải thu thập các thông tin về DNNQD xin cấp tín dụng. Nguồn thông tin có thể do chính DNNQD đó cung cấp, hay do cán bộ tín dụng thu thập được trực tiếp thông qua thăm, xem xét tình hình thực tế của doanh nghiệp, hoặc có thể lấy thông tin từ các bên thứ ba (các chủ nợ cũ, thông tin của phòng Kế hoạch - Đầu tư nơi DNNQD đăng ký kinh doanh). Bước 2: Xử lý thông tin Sau khi có được đầy đủ các thông tin, cán bộ tín dụng tiến hành phân tích các thông tin đó theo các khía cạnh sau: Đánh giá về tài sản của DNNQD: bao gồm đánh giá về ngân quỹ (tiền mặt, tiền gửi, các khoản phải thu có khả năng chuyển đổi thành tiền); các chứng khoán có giá, hàng hóa trong kho, tài sản cố định... Đánh giá các khoản nợ: Ngân hàng quan tâm đến tất cả các chủ nợ của khách hàng (ngân hàng, người cung cấp, người lao động, các khoản nợ cũ), các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và nợ khác. Phân tích luồng tiền: Các luồng tiền vào và luồng tiền ra thực tế là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua việc sử dụng các tỷ lệ để phân tích như tỷ lệ về khả năng thanh toán, tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ rủi ro... Phân tích các điều kiện kinh tế, xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của DNNQD xin cấp tín dụng. Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng Sau khi đã phân tích về khách hàng cũng như phương án tài trợ, ngân hàng sẽ ra quyết định tín dụng. Nếu đồng ý cung cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng và khách hàng sẽ cùng nhau ký kết hợp đồng. Đây có thể là hợp đồng tín dụng (nếu ngân hàng cho vay), hay hợp đồng bảo lãnh, hoặc hợp đồng cho thuê. Hợp đồng chính là các văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (DNNQD) và ngân hàng với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cung cấp cho khách hàng một khoản tín dụng trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Đây cũng chính là văn bản pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của cả hai bên trong quan hệ tín dụng. Các nội dung chính trong hợp đồng: + Khách hàng: tên doanh nghiệp, địa chỉ, điện thoại, người đại diện của DN. + Mục đích sử dụng khoản tín dụng (thường có trong hợp đồng tín dụng). + Số lượng tín dụng: số tiền mà ngân hàng cam kết cung cấp cho khách hàng. + Lãi suất: lãi suất mà khách hàng phải trả cho khoản tín dụng và tính chất của lãi suất (thả nổi hay cố định) hoặc phí phải trả (đối với hợp đồng bảo lãnh). + Thời hạn tín dụng hoặc thời hạn có hiệu lực của bảo lãnh. + Các loại bảo đảm. + Điều kiện giải ngân và kỳ hạn giải ngân (đối với hợp đồng tín dụng) hoặc các điều kiện thực hiện bảo lãnh (đối với hợp đồng bảo lãnh). + Các điều kiện thanh toán. Và một số điều kiện khác. Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như đã thoả thuận. Kèm theo ngân hàng phải kiểm soát khách hàng trong quá trình cho vay. Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng Theo dõi việc thực hiện hợp đồng tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng, sổ sách kế toán, chứng từ kế toán...để có thông báo trả nợ cho khách hàng trước 5 ngày làm việc. Khi ngân hàng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi thì quan hệ tín dụng kết thúc. Ngân hàng thực hiện tất toán khoản vay, giải toả các hợp đồng đảm bảo tài sản và thanh lý hợp đồng tín dụng. Nếu khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn thì có nghĩa là ngân hàng đã có một khoản tín dụng an toàn và sinh lời. Tuy nhiên cũng có trường hợp khách hàng không hoàn trả đúng hạn hoặc không hoàn trả được đầy đủ khoản tín dụng, khi đó ngân hàng cần phải xem xét nguyên nhân và đưa ra cách xử lý cho phù hợp. Mở rộng tín dụng đối với các DNNQD của NHTM Sự cần thiết mở rộng tín dụng đối với DNNQD của NHTM Qua nghiên cứu vai trò, ưu thế và hạn chế của DNNQD trong nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy việc mở rộng tín dụng của ngân hàng đối với khu vực kinh tế này là hết sức quan trọng, nó tạo ra sự phát triển đa dạng trong nền kinh tế, bởi vì không những khu vực kinh tế NQD có đóng góp lớn vào GDP(42%GDP của cả nước) mà còn tiềm ẩn những khả năng to lớn mà chúng ta chưa khai thác được. Trong tương lai khu vực kinh tế NQD sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế, do vậy việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực này sẽ là một chiến lược phát triển của ngân hàng. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả mở rộng tín dụng đối với DNNQD Kết quả mở rộng tín dụng đối với DNNQD được đánh giá bằng nhiều tiêu thức khác nhau, dưới đây là một vài tiêu thức tiêu biểu: -Sự gia tăng số lượng khách hàng: Như đã đề cập ở trên DNNQD bao gồm Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, công ty hợp danh, Công ty TNHH. Gia tăng đối tượng khách hàng là tăng được số khách hàng mới cả về số lượng và loại khách hàng. Dsố lượng khách hàng = Số lượng KH năm nay/Số lượng KH năm trước Số lượng khách hàng tăng thêm đánh giá hiệu quả của hoạt động Marketing ngân hàng, khả năng giao tiếp và tiếp cận với khách hàng của cán bộ tín dụng ngân hàng. - Mức độ tăng dư nợ : Đây cũng là một trong những nhân tố tiêu biểu để đánh giá hiệu quả mở rộng tín dụng ngân hàng. DDư nợ = Dư nợ năm nay/dư nợ năm trước Tăng dư nợ nghĩa là tăng quy mô các khoản tín dụng. Các khoản tín dụng đối với DNNQD thường có quy mô nhỏ nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng vì nó phụ thuộc nhiều vào giá trị tài sản đảm bảo,tăng quy mô dư nợ là một vấn đề hết sức phức tạp, do vậy ngân hàng muốn mở rộng tín dụng ở khía cạnh này thường phải cân nhắc rất cẩn thận và kỹ lưỡng trước khi phán quyết mức tín dụng. - Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn cuối kỳ/ Tổng dư nợ tín dụng cuối kỳ Đây là chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng đối với các DNNQD. Chỉ tiêu càng cao chứng tỏ Ngân hàng có chất lượng tín dụng thấp. - Lĩnh vực kinh tế: Kết quả mở rộng tín dụng cũng có thể được đánh giá bằng sự gia tăng thị phần tín dụng trong các lĩnh vực kinh tế (Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, thương mại điện tử...) Nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng tín dụng đối với các DNNQD của NHTM Mở rộng tín dụng đối với các DNNQD là một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp, do vậy mà có rất nhiều nhân tố tác động tới việc mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế NQD của các ngân hàng thương mại, trong đó có thể phân thành 2 nhóm sau: Các nhân tố chủ quan 1.3.1.1 Các nhân tố thuộc về NHTM Đây là những nhân tố xuất phát từ chính bản thân ngân hàng như: chính sách tín dụng, nguồn vốn, chính sách lãi suất cho vay, quy mô của ngân hàng... Trước hết là chính sách tín dụng của ngân hàng, mỗi ngân hàng có một chính sách tín dụng riêng ưu tiên theo từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của DN, ưu tiên theo địa phương, cụ thể: những DN ở vùng trọng điểm hay khu công nghiệp đựơc ưu tiên hơn là các DN ở các địa bàn khác,địa điểm xa hay gần ảnh hưởng đến quyết định cho vay của NH, những doanh nghiệp trong ngành thương mại, trong lĩnh vực bất động sản được trú trọng ưu tiên cho v ay hơn là các DN trong ngành nghề lĩnh vực khác. Nguồn vốn của ngân hàng là yếu tố tiền đề để mở rộng tín dụng, nguồn vốn của một ngân hàng càng lớn càng ổn định thì việc mở rộng tín dụng sẽ dễ dàng hơn so với 1 ngân hàng có nguồn vốn hạn hẹp ít ổn định,trong đó: Vốn huy động: là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng cho vay nhưng mỗi loại tiền gửi có đặc điểm riêng và có sự biến động khác nhau. Tiền gửi không kì hạn và ngắn hạn thì thường xuyên biến động còn tiền gửi có kì hạn và dài hạn thì ổn định hơn. Vốn huy động càng lớn và càng ổn định thì khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng ngày càng lớn. Vốn tự có: Đối với mỗi NHTM thì việc mở rộng tín dụng còn phụ thuộc vào mức vốn tự có của mỗi ngân hàng. Luật các tổ chức tín dụng quy định các điều kiện ràng buộc ngân hàng về mặt pháp lý đối với phạm vi giới hạn tín dụng, theo đó tổng dư nợ cho vay một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của các NHTM. Vì vậy vốn tự có của ngân hàng quyết định khối lượng tín dụng tối đa mà ngân hàng có thể đầu tư cho một doanh nghiệp. Và do đó việc mở rộng vốn huy động và vốn tự có của ngân hàng là tiền đề để mở rộng tín dụng đối với các DNNQD. Lãi suất cho vay của ngân hàng: Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay, lãi suất luôn được coi là biến số nhạy cảm đối với đời sống kinh tế-xã hội, nó là nhân tố tác động tích cực đối với việc mở rộng tín dụng đồng thời nó cũng sẽ là yếu tố kìm hãm sự mở rộng tín dụng nếu như ngân hàng không có chính sách lãi suất hợp lý. Trên lý thuyết cũng như thực tế, lãi suất là công cụ điều khiển quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ. Bởi NHTW các nước thường sử dụng công cụ lãi suất trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Chính vì vậy lãi suất cho vay của mỗi ngân hàng ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng của chính ngân hàng đó và cả các ngân hàng khác. Lãi suất chính là chi phí sử dụng vốn vay của DN, do đó lãi suất cho vay thấp NHTM có khả năng mở rộng đầu tư hơn và ngược lại lãi suất cho vay cao NHTM khó có khả năng mở rộng đầu tư (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi). Quy mô hoạt động của NHTM cũng ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng nói chung và việc mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế NQD nói riêng. NHTM có quy mô lớn, địa bàn hoạt động rộng, có danh tiếng và uy tín cao trên thương trường sẽ thu hút khách hàng gửi và vay tiền, tạo điều kiện cho NHTM mở rộng tín dụng. Công tác marketing của ngân hàng cũng có tác động tới việc mở rộng tín dụng của các NHTM, giúp cho khách hàng hiểu và tin ngân hàng hơn, từ đó đến với ngân hàng ngày càng nhiều hơn. Trình độ, thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng cũng tác động tới việc mở rộng hoạt động tín dụng của các NHTM. Nhân viên giao dịch chính là hình ảnh thu nhỏ của toàn ngân hàng, do đó khả năng giao tiếp, thái độ niềm nở lịch sự, trình độ kiến thức tổng hợp về các nghiệp vụ ngân hàng là yếu tố quan trọng tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái khi đến với ngân hàng. Điều này làm tăng khả năng mở rộng tín dụng ngân hàng đối với mọi tầng lớp khách hàng trong đó có các DNNQD. 1.3.1.2. Các nhân tố thuộc về bản thân các DNNQD Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu của thị trường với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Với mục tiêu này, doanh nghiệp phải lựa chọn sản xuất cái gì, cho ai, khả năng tiêu thụ như thế nào, điều đó quyết định đến khối lượng và hình thức đầu tư. Vì vậy mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng chịu tác động bởi 2 yếu tố xuất phát từ phía khách hàng đó là: động cơ đầu tư của khách hàng và khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng của ngân hàng. Động cơ đầu tư của khách hàng: là điều kiện để mở rộng tín dụng của ngân hàng. Động cơ đầu tư của khách hàng bắt nguồn từ lợi nhuận. Mục tiêu đầu tiên và cuối cùng của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận do đầu tư mang lại càng cao và có độ rủi ro càng thấp thì nhu cầu đầu tư càng lớn. Động cơ đầu tư của khách hàng có được thực hiện hay không còn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Trong khi đó dự án, phương án đầu tư đòi hỏi khối lượng vốn lớn mà chỉ một mình khách hàng sẽ khó thực hiện được. Điều này tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tham gia đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Như vậy động cơ đầu tư của các khách hàng quyết định việc mở rộng cho vay của ngân hàng. Nhu cầu đầu tư của các khách hàng càng lớn, các ngân hàng càng có điều kiện để mở rộng tín dụng. Năng lực pháp lý: Doanh nghiệp phải có đầy đủ năng lực pháp luật, có đăng ký kinh doanh mới có đủ điều kiện để hoạt động sản xuất kinh doanh và ký các hợp đồng vay vốn. Năng lực tài chính của khách hàng: Khả năng tài chính của khách hàng thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỉ trọng vốn tự có trong tổng số nguồn vốn của khách hàng sử dụng. Điều kiện tín dụng thường quy định một tỉ lệ cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn hoạt động hay một tỉ lệ vốn tự có tham gia phương án, dự án vay vốn.Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp, việc đáp ứng các yêu cầu thanh toán còn lệ thuộc khá lớn vào kết cấu tài sản của doanh nghiệp như khả năng chuyển hoá thành tiền của tài sản. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng càng lớn, càng làm cho ngân hàng có điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Tài sản bảo đảm tiền vay: Mặc dù tài sản bảo đảm tiền vay không là yếu tố quyết định đến việc có cho vay hay không mà điều quyết định ở đây là phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song đối với các DNNQD thì biện pháp bảo đảm bằng tài sản vẫn là nhân tố quan trọng để quyết định có cho vay hay không.Theo đó khi vay vốn ngân hàng doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định. Giá trị bảo đảm tiền vay phải bảo đản theo tỉ lệ quy định tại nghị định số 163/2006NĐ-CP ngày 29/12/2006 của chính phủ về bảo đảm tiền vay. Tài sản đảm bảo của DNNQD có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau: - Nếu phân loại theo tính chất an toàn + Tài sản đảm bảo loại 1: là các tài sản thuộc sử dụng hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc đảm bảo của bên thứ ba cho khách hàng (bảo lãnh). + Tài sản đảm bảo loại 2: là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng. - Nếu phân loại tài sản đảm bảo theo hình thức vật chất: + Đảm bảo bằng hàng hoá trong kho như nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm. Với loại tài sản đảm bảo này, ngân hàng cần phải có khả năng kiểm soát hàng hóa đảm bảo, phải nắm vững được tính thị trường của hàng hoá, khả năng bảo quản và định giá hàng hoá. + Đảm bảo bằng tài sản cố định: Các tài sản này thường là nhà máy, trang thiết bị sản xuất, phương tiện vận chuyển, cây con, quyền sử dụng đất. + Đảm bảo bằng hợp đồng chi trả của bên thứ ba: Khi doanh nghiệp bán hàng hóa dịch vụ và nhận về các hợp đồng thanh toán. Hợp đồng này cũng sẽ trở thành hàng hoá đảm bảo cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cần phải xem xét về khả năng thanh toán của bên thứ ba, các cam kết có khả năng chuyển nhượng v..v.. + Đảm bảo bằng chứng khoán: Đây là loại tài sản có thể bán với ít, nhiều rủi ro. Ngân hàng cũng là đơn vị có nghiệp vụ quản lý và kinh doanh chứng khoán. Thông thường chứng khoán làm tài sản đảm bảo phải đáp ứng được các yêu cầu về tính an toàn, tính thanh khoản. Nếu đáp ứng được các yêu cầu trên thì đây là một loại tài sản đảm bảo tương đối thuận tiện đối với cả ngân hàng và khách hàng. + Đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba: Người thứ ba này cam kết sẽ thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không thực hiện được nghĩa vụ đối với khoản tín dụng. Ngân hàng thường ưa chuộng nếu người bảo lãnh là người có uy tín, có khả năng thanh toán tốt (các ngân hàng, công ty lớn, nhà nước...). Còn với người bảo lãnh chưa có uy tín ngân hàng sẽ yêu cầu có tài sản đảm bảo cho bảo lãnh đó. + Đảm bảo bằng số dư bù: Số dư bù là số tiền gửi ký quỹ, được chuyển sang một tài khoản riêng của khách hàng hoặc c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30043.doc
Tài liệu liên quan