LỜI MỞ ĐẦU
Thành công của một ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh đặc trưng của ngân hàng thương mại. Với tầm quan trọng và qui mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có một tầm quan trọng đặc biệt trong sự ngh
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1509 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng tín dụng Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp phát triển kinh tế – xã hội và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với sự gia tăng liên tục về số lượng và hoạt động ngày càng hiệu quả, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế và chương trình xoá đói giảm nghèo cũng như giải quyết các vấn đề xã hội khác. Nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn và không ngừng tăng lên do mỗi năm có hàng ngàn doanh nghiệp ra đời. Tiềm năng của khối doanh nghiệp này đang là hướng đầu tư trọng điểm của nhiều ngân hàng thương mại.
Được tìm hiểu những chủ trương chính sách của NHNo&PTNT Việt Nam và trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long, đã cho em hiểu rõ hơn tính đúng đắn của chính sách mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thời gian vừa qua, chi nhánh Thăng Long đã có được những bước tiến đáng kể trong cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng chưa khai thác hết được những khả năng của chi nhánh. Vậy tại sao chi nhánh Thăng Long không đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay tới đối tượng khách hàng nhiều tiềm năng này? Với những trăn trở đó em đã chọn đề tài: "Mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long" làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn có cơ hội tìm hiểu nhiều hơn nữa về hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng góp một số ý kiến giúp mở rộng tín dụng tới đối tượng khách hàng này được tốt hơn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu một số giải pháp chính nhằm mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long.
Phạm vi nghiên cứu: Đó là các vấn đề tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Thăng Long trong những năm gần đây.
Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên các lý thuyết kinh tế kết hợp với thực tế, sử dụng phương pháp phân tích, lựa chọn, so sánh,… để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Kết cấu của luận văn:
Chương 1: Hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long.
Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long.
CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM
1.1. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NHTM
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của NHTM
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng lại trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đã và đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào các quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các quốc gia khác nhau các đối tượng khác nhau có thể đưa ra những định nghĩa không giống nhau về ngân hàng. Ví dụ, Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa NHTM dựa trên các hoạt động chủ yếu: "Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán ".
1.1.1.2. Các đặc điểm của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập vì thế họ là những người cần bổ xung vốn; và (2) là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai thấy cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng.
Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có từ rất lâu và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian tài chính sẽ hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Là trung gian tài chính, ngân hàng thực hiện hai nghiệp vụ chính: nhận tiền gửi và cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi tiền; trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay. Chênh lệch giữa lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.
Đa số các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng " thông tin không cân xứng", nó làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng - nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro và lợi nhuận hấp dẫn nhất.
Khả năng tập hợp và phân tích thông tin tài chính của ngân hàng đã tạo ra một cách nhìn khác về vấn đề tại sao ngân hàng tồn tại trong xã hội hiện đại. Hầu hết người vay tiền và người gửi tiền đều muốn giữ bí mật tình trạng tài chính của họ, đặc biệt là trước các đối thủ cạnh tranh. Nhu cầu này của khách hàng gợi ý rằng các ngân hàng có thể thu hút người đi vay bởi vì họ cam kết giữ bí mật. Hơn nữa, khi một khách hàng vay một cách dễ dàng và tốn ít chi phí hơn việc huy động vốn ở bất kỳ nguồn nào khác. Điều này thông báo cho thị trường rằng người vay tiền là hoàn toàn đáng tin cậy và chắc chắn họ sẽ trả toàn bộ khoản vay. Tác dụng thông báo này trong việc cho vay của ngân hàng là rất quan trọng, không chỉ khi ngân hàng tiến hành cho vay đối với một khách hàng mới mà cả khi ngân hàng gia hạn khoản vay cho khách hàng.
Hoạt động của ngân hàng thương mại tạo phương tiện thanh toán
Một lý do quan trọng để giải thích tại sao ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức bị kiểm soát chặt chẽ nhất trong nền kinh tế là vì hoạt động của ngân hàng tạo phương tiện thanh toán. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận: Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn... Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu mới (tức là làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa thì toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán
Hiện nay, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử kết nối các quĩ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng được các nhà quản lí áp dụng rộng rãi vì ngân hàng càng đạt hiệu qua cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp nhiều dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được xem là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng và ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động khác. Vì vậy, để đảm bảo đủ nguồn tiền cho kinh doanh và thu hút được nguồn tiền chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau và luôn tăng cuờng thêm những tiện ích mới.
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch)
Tiền gửi thanh toán là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán là một nguồn vốn có mức lãi suất huy động rất thấp (hoặc bằng không), nhưng chi phí đầy đủ cho việc huy động vốn lại khá cao. Một số ngân hàng đã sử dụng nhiều hình thức " biến tướng " của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại hình tiền gửi này nhằm tăng sức cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
- Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế - xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại rất thấp. Để đáp ứng yêu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có thoả thuận về thời gian rút tiền. Người gửi tiền theo hình thức này không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy người gửi tiền không được hưởng nhiều tiện ích bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn. Ngân hàng thương mại luôn lỗ lực cao nhất để gia tăng nguồn vốn này và đây cũng là nguồn tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất của ngân hàng thương mại.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Ngân hàng nhận thấy các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Loại hình tiền gửi tiết kiệm ra đời nhằm đáp ứng hai nhu cầu của cá nhân đó là bảo toàn và tăng thu nhập cho số tiền chưa sử dụng đó. Ngân hàng có thể mở cho mỗi người gửi tiền nhiều trương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không được dùng để thanh toán cho hàng hoá và dịch vụ song nhiều ngân hàng cho phép khách hàng dùng nó để thế chấp vay vốn.
Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác, nhưng qui mô nguồn này thường không lớn.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng có thể có được vốn bằng cách vay mượn thêm:
- Vay Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương): Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn).
- Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
-Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.
- Vốn nợ khác: Loại này bao gồm nguồn tiền uỷ thác, tiền trong thanh toán và một số nguồn khác.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức. Tín dụng ngân hàng cũng là một hình thức của tín dụng, là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng. Tín dụng của ngân hàng có thể bao gồm cả cho vay, cho thuê, bảo lãnh, cả ngắn, trung và dài hạn.
Hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại tài sản ở ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của NHTM. Ngân hàng thương mại luôn sử dụng mọi lỗ lực để tăng qui mô tín dụng như mở rộng mạng lưới, đa dạng hoá các loại hình tín dụng, phát triển công nghệ mới nhằm là gia tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi…
+ Cho vay thương mại
Cho vay thương mại là hoạt động cho vay truyền thống của ngân hàng. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một đối tượng khách hàng tiềm năng. Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển… Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
+ Tài trợ cho dự án
Các ngân hàng thương mại ngày càng trở nên năng động trong việc cho vay trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao, cho vay để đầu tư vào đất. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án (sản xuất kinh doanh). Phân tích (và thẩm định) dự án là cơ sở để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Hiện nay, rất nhiều ngân hàng đang tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản thuê.
1.1.2.3. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho ngành ngân hàng phát triển thêm các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ,…
1.1.2.4. Các hoạt động khác
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dich vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Để đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng và căn cứ vào các quy định và khả năng của ngân hàng mà ngân hàng đó triển khai nhiều hay ít các dịch vụ.
+Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ: Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
+ Bảo quản tài sản hộ: Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két. Dich vụ này phát triển cùng với nhiều dich vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách hàng, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ…
+Quản lý ngân quĩ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lí ngân quĩ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dich vụ quản lí ngân quĩ. Quản lý ngân quĩ là hoạt động ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi hoặc tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
+ Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
+ Hoạt động bảo lãnh, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dich vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lí… cũng đã được nhiều ngân hàng triển khai và đã đem lại cho ngân hàng khoản thu phí đáng kể.
Để tồn tại và đứng vững được trong môi trường mang tính cạnh tranh cao các ngân hàng đang cố gắng phấn đấu cung cấp thêm nhiều dịch vụ tài chính để thoả mãn các nhu cầu đa dạng của nhiều đối tượng khách hàng. Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các "Bách hoá tài chính".
1.1.3. Ý nghĩa của mở rộng tín dụng DNVVN trong hoạt động của ngân hàng thương mại
Ngân hàng ngày nay đang phải đối phó với những áp lực thay đổi trong quy định, sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng, sự mở rộng trong xu thế quốc tế hoá thị trường ngân hàng và những đổi mới không ngừng trong trong công nghệ và tự động hoá. Tuy nhiên, các xu hướng kinh tế xã hội mạnh mẽ cũng có vai trò quan trọng không kém đối với tương lai của ngân hàng và nó ảnh hưởng trực tiếp tới cơ sở khách hàng của ngân hàng. Ngày càng nhiều công ty lớn - những khách hàng vay vốn lớn nhất và tốt nhất của ngân hàng - những năm gần đây đã từ bỏ hệ thống ngân hàng để tự huy động vốn, hoặc trực tiếp từ thị trường mở, hoặc thông qua các tổ chức phi ngân hàng (như các công ty chứng khoán và các công ty tài chính). Sự thay đổi cơ cấu đó chẳng những làm giảm doanh thu của ngân hàng trong hoạt động cho vay mà còn đưa tới sự chuyển dịch trong cơ cấu danh mục cho vay trong đó các món vay lớn, chất lượng cao trên sổ sách giảm dần và các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ, cho vay tiêu dùng, chất lượng thấp, rủi ro cao lại tăng dần.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một lực lượng lớn của nền kinh tế, có nhiều tiềm năng phát triển. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy đây là khu vực phát triển năng động nhất, tạo ra nhiều việc làm nhất và có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Ở nước ta mỗi năm có hàng nghìn doanh nghiệp được thành lập mới, trong đó đại bộ phận là DNVVN. Theo số liệu thống kê năm 2005 tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện có ở nước ta là 160.000 doanh nghiệp chiếm khoảng 96% tổng doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp và chiếm 26% lực lượng lao động trong cả nước. Nhu cầu vốn của doanh nghiệp là rất lớn, nhưng khả năng huy động của doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp có qui mô vốn mô nhỏ, còn nhiều yếu kém trong quản lí và hoạt động, chưa xây dựng được uy tín trên thị trường. Lý luận và thực tiễn cho thấy chỉ những công ty lớn, thiết lập vững chắc mới với tới được thị trường chứng khoán để tài trợ cho các hoạt động của họ. Các doanh nghiệp nhỏ chưa được thiết lập vững chắc hầu như không bao giờ gom vốn bằng cách phát hành các chứng khoán có thể bán được. Như vậy, kênh huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thu hẹp và vì thế tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ chủ yếu cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Tiềm năng của loại khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút được sự quan tâm của các ngân hàng thương mại. Nhiều ngân hàng thương mại hàng đầu đã coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là khách hàng trọng tâm của mình, và đó là một hướng đi đúng. Trong hai năm gần đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các DNVVN vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ, thậm chí có những trường hợp chiếm từ 50 - 60% tổng dư nợ như ngân hàng Công thương Việt Nam. Mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ là hướng đi tất yếu của các ngân hàng thương mại hiện nay. Tuy nhiên, rủi ro cao hơn của loại khách hàng này là một thực tế. Để đáp lại, ngân hàng phải cải tiến phương pháp trong việc thẩm định và đánh giá các khoản cho vay nhỏ hơn, rủi ro hơn và cung cấp nhiều dịch vụ mới tạo ra các khoản phí mới.
Chúng ta sẽ xem xét thêm một số lý do để tìm hiểu tại sao ngân hàng thương mại coi DNVVN là khách hàng tiềm năng và đẩy mạnh mở rộng tín dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc tiếp cận vốn ngân hàng của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn, nhưng không phải là hầu hết các doanh nghiệp đều như vậy. Những khách hàng có nhiều tiềm năng, những dự án khả thi luôn được những ngân hàng tìm kiếm và sẵn sàng cấp vốn, vì chính họ là người đem lại thu nhập cho ngân hàng không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai. Các doanh nghiệp đó có nhiều sự lựa chọn ngân hàng để phụ vụ cho hoạt động của họ. Tuy vậy, khách hàng thường có xu hướng tiếp tục quan hệ với những ngân hàng mà trước đó họ đã thiết lập quan hệ để tiết kiệm thời gian làm thủ tục, chi phí đi lại,… làm giảm thời giam, chi phí để có đựơc khoản vay. Do đó, càng tiếp cận sớm với doanh nghiệp và xây dựng quan hệ với họ là càng tốt. Hơn nữa, khi đã có một số lượng khách hàng là doanh nghiệp đủ lớn ngân hàng triển khai thêm một số dịch vụ tiện ích phục vụ doanh nghiệp sẽ có khả năng thành công lớn hơn. Vì chính những doanh nghiệp đã quan hệ với ngân hàng sẽ là người sử dụng đầu tiên nếu họ thấy có lợi. Cách thức này rất phù hợp với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam khi mà các dịch vụ ngân hàng còn rất đơn điệu và không ít doanh nghiệp còn chưa biết đến nhiều dịch vụ ngân hàng. Chẳng hạn, như dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, dịch vụ môi giới chứng khoán, quản lý tài sản, vốn đầu tư của doanh nghiệp…
Các ngân hàng đang cố gắng khuyến khích khách hàng sử dụng nhiều dich vụ của mình để tăng thu nhập. Các doanh nghiệp cũng biết rằng sử dụng các dich vụ trọn gói của một ngân hàng sẽ có lợi hơn là sử dụng ở các ngân hàng khác nhau vì sự thuận tiện trong giao dịch và còn được hưởng những ưu đãi nhất định. Chính sách tín dụng hướng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ thể hiện thiện chí của ngân hàng trong việc tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Việc làm này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp mở tài khoản giao dịch. Tuy dòng tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp không lớn, nhưng lại khá thường xuyên và ngày càng gia tăng theo đà tăng trưởng của doanh nghiệp. Khi trình độ quản lý của doanh nghiệp được nâng lên, doanh nghiệp sẽ phải xây dựng kế hoạch hoạt động của họ một cách chặt chẽ. Lượng tiền chưa đầu tư thường được gửi vào ngân hàng để hưởng lãi sẽ là một nguồn vốn không nhỏ cho ngân hàng. Mặt khác, thông qua tài khoản giao dịch, tài khoản tiền gửi của khách hàng, ngân hàng còn theo dõi được tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Cho vay tiêu dùng cũng là một hướng đi tất yếu của NHTM, nếu ngân hàng quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ thì có thể thực hiện dịch vụ mua bán trả góp trong cho vay tiêu dùng thông qua trung gian là doanh nghiệp sẽ có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho doanh nghiệp bán lẻ về số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lí thu tiền cho ngân hàng.
1.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm DNVVN
1.2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thông thường để xếp loại qui mô một doanh nghiệp, các quốc gia căn cứ vào những tiêu chuẩn như: số lao động thường xuyên, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị công ty,... Các quốc gia khác nhau, tiêu thức để xếp loại DNVVN cũng khác nhau. Một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước mình được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng ở nước khác nó lại được coi là doanh nghiệp lớn hoặc cực nhỏ. Trên thực tế các nước thường dùng hai chỉ tiêu là vốn sản xuất và số lượng lao động thường xuyên để phân biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn.
Từ trước tới nay, nước ta vẫn sử dụng hai tiêu thức để xếp loại doanh nghiệp vừa và nhỏ là vốn sản xuất và số lao động thường xuyên. Để phù hợp với tình hình phát triển, phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế thì các tiêu chuẩn giới hạn của mỗi tiêu thức có sự thay đổi. Trước năm 2001, theo quy định của Chính phủ tại công văn số 681/CP_KTN ngày 20/06/1998 thì DNVVN được định nghĩa là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động hàng năm dưới 200 người, tuỳ theo từng lĩnh vực, từng ngành mà có giới hạn riêng cho mỗi tiêu chí.
Kinh tế ngày càng phát triển, đồng nghĩa với nó là quy mô các doanh nghiệp cũng ngày càng được mở rộng, những quy định cũ không còn phù hợp nữa. Mở đầu cho chiến lược tổng thể hỗ trợ phát triển DNVVN, nhằm tháo gỡ những rào cản, phát huy tiềm năng của loại hình doanh nghiệp này. Ngày 23/11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ - CP quy định về việc trợ giúp phát triển DNVVN. Theo điều 3 của Nghị định này thì " DNVVN là cơ sở sản suất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có qui mô vốn đầu tư không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người".
Theo định nghĩa trên thì DNVVN ở nước ta bao gồm:
+ Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo theo Luật Doanh nghiệp gồm có các loại hình doanh nghiệp sau: công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh.
+ Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp Nhà nước.
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
+ Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp
+ Hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/ NĐ - CP
+ Cá nhân và nhóm sản xuất kinh doanh đăng ký theo Nghị định 66 - HĐBT.
1.2.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thứ nhất, cũng là đặc điểm đặc trưng nhất của DNVVN là qui mô vốn chủ sở hữu, qui mô sản suất kinh doanh nhỏ, số lượng lao động ít. Đặc điểm này của doanh nghiệp vừa và nhỏ, ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn lĩnh vực ngành nghề hoạt động kinh doanh, cơ cấu tổ chức, phương thức sản xuất kinh doanh… của doanh nghiệp.
Thứ hai, các DNVVN có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Đa số các DNVVN ở nước ta hiện nay hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ (chiếm trên 50%) do đây là ngành có vòng quay vốn nhanh, không cần số vốn đầu tư lớn, không cần lao động có trình độ cao, ra nhập và rút lui dễ dàng. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thực hiện gia công, lắp rá._.p… phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp thương mại chủ yếu tập trung ở thành phố lớn, có kết cấu hạ tầng phát triển, điều kiện giao thông thuận lợi, người tiêu dùng có thu nhập cao, sức cầu lớn. Do tập trung quá nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn nên tính cạnh tranh thường rất gay gắt.
Thứ ba, để thích nghi với qui mô nhỏ, doanh lợi thấp, các DNVVN thường tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đơn giản, không quá cồng kềnh nhưng hiệu quả. So với các doanh nghiệp lớn thì mối liên kết giữa chủ doanh nghiệp với các nhân viên và giữa các nhân viên với nhau chặt chẽ hơn. Nhiều doanh nghiệp không có sự phân chia phòng ban, bộ phận rõ ràng, thậm chí một người có thể đảm nhiệm nhiều vị trí, nhiệm vụ. Điều kiện mặt bằng cho sản suất kinh doanh của DNVVN thường chặt hẹp, nhiều doanh nghiệp còn dùng nhà ở làm nơi sản xuất kinh doanh, giao dịch, giới thiệu, bán hàng...
Thứ tư, nguồn tài chính hạn chế, việc tiếp cận vốn trên thị trường vốn của các DNVVN gặp nhiều khó khăn.
Nguồn vốn của doanh nghiệp chia là hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ. Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới (chỉ những công ty cổ phần mới được huy động vốn bằng cách thức này). Nợ của doanh nghiệp từ các nguồn: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu.Vốn góp ban đầu thường chỉ đủ để hình thành nên tài sản cố định cho doanh nghiệp. Tín dụng thương mại là hình thức mua bán trả chậm hay trả góp. Hình thức vay mượn này chỉ mang tính bổ sung tạm thời, qui mô không lớn và chỉ có được từ các đối tác kinh doanh có quan hệ gắn bó tin tưởng lẫn nhau.
Để mở rộng sản xuất kinh doanh hay sửa chữa, mua sắm mới trang thiết bị… doanh nghiệp cần nguồn vốn có tính chất ổn định và mang tính dài hạn. Huy động vốn bằng cách thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu là nguồn vốn dài hạn cho doanh nghiệp, tuy nhiên chỉ một số loại hình doanh nghiệp được phép phát hành trái phiếu công ty (doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, hộ kinh doanh không được phép huy động vốn bằng hai hình thức trên). Hơn nữa, các DNVVN chỉ mới được thành lập trong thời gian gần đây, chưa xây dựng được hình ảnh riêng cho công chúng, thông tin về doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Chỉ những doanh nghiệp lớn có uy tín mới có thể huy động vốn qua thị trường chứng khoán với mức chi phí thấp, còn những doanh nghiệp nhỏ chưa tạo dựng được uy tín thì rất khó huy động vốn trên thị trường này, nếu huy động được đủ vốn thì chi phí bỏ ra sẽ rất cao. Không chỉ có lý do trên hạn chế doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia thị trường chứng khoán, bảo vệ bí mật kinh doanh cũng là một yếu tố được cân nhắc để quyết định có huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán hay không. Nhiều doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong những lĩnh vực mang tính cạnh tranh cao, chủ doanh nghiệp không muốn các đối thủ cạnh tranh biết được chiến lược, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, nên họ lựa chọn kênh ngân hàng để huy động vốn. Từ những phân tích trên cho chúng ta thấy, vay vốn ngân hàng là hình thức tài trợ chủ yếu cho các DNVVN.
1.2.2. Các nghiệp vụ cho vay DNVVN của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Phân loại theo thời hạn tín dụng
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn do các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn của DNVVN cũng thường cao hơn so các doanh nghiệp lớn.
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động, hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn.
- Tín dụng trung hạn: Trên 5 năm chủ yếu tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà ở, cầu, đường , máy móc thiết bị có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn như trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
1.2.2.2. Các phương thức cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trên cơ sơ nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và khả năng kiểm tra, giám sát của ngân hàng mà ngân hàng thoả thuận với khách hàng vay về việc lựa chọn các phương thức cho vay phù hợp. So với doanh nghiệp lớn các phương thức vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đơn điệu hơn. Phương thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức và cho vay theo dự án. Các ngân hàng đang thực hiện cho vay đối với DNVVN theo các phương thức sau:
+ Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và tỉ lệ phí chiết khấu.
Nghiệp vụ chiết khấu được dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Do tối thiểu có hai người cam kết cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao (trừ trường hợp ngân hàng ký miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp (vì vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng - có tính thanh khoản cao).
+ Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ,... vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả:
Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi x thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi
Hình thức cho vay thấu chi dựa trên cơ sở các khoản thu chi của doanh nghiệp không phù hợp về thời gian và qui mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào ngân quĩ song không chính xác. Do vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho doanh nghiệp vài ngày hoặc vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng... Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
+ Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng áp dụng cho các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng.
Để được cấp tín dụng, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Tiền cho vay dựa vào giá trị tài sản đảm bảo và các ngân hàng thường quy định giới hạn phần trăm cho vay tối đa tính trên giá trị tài sản đảm bảo.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng
Phương thức cho vay này áp dụng với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, kinh doanh ổn định, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng qui định hạn mức tín dụng cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho cuối kỳ không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Trong nghiệp vụ cho vay này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quĩ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
+Cho vay theo dự án
Các ngân hàng ngày càng tăng cường tài trợ cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp như: cho vay theo dự án đầu tư phát triển sản xuất , kinh doanh dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống. Thời gian thực hiện dự án thường dài và cần nhiều vốn nên có rủi ro cao. Những dự án lớn có thể có nhiều ngân hàng cùng đứng ra cho vay.
Số tiền cho vay được xác định như sau:
Số tiền vay = Tổng mức đầu tư của dự án - Vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự có tham gia - Nguồn vốn huy động khác
Căn cứ để phát tiền vay dựa vào:
- Hợp đồng tín dụng
- Hợp đồng và chứng từ cung ứng vật tư, thiết bị, công nghệ, dịch vụ,...
- Biên bản xác nhận giá trị khối lượng công trình hoàn thành (đã được nghiệm thu từng hạng mục hoặc toàn bộ công trình) hoặc các văn bản xác nhận tiến độ thực hiện dự án.
Mỗi lần vay khách hàng phải ký giấy nhận nợ. Trong trường hợp thời gian chưa vay được vốn ngân hàng, khách hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí theo dự án được duyệt thì ngân hàng có thể xem xét cho vay bù đắp nguồn vốn đó trên cơ sở phải có chứng từ pháp lý minh chứng rõ ràng nguồn vốn đã sử dụng trước.
+ Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp để mua hàng và sẽ thu nợ khi họ bán hàng. Đầu năm hoặc quý doanh nghiệp phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và doanh nghiệp sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Doanh nghiệp cũng phải cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không dựa trên những đánh giá của ngân hàng về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Hình thức cho vay luân chuyển dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quĩ trong thời gian tới. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng hàng hoá và chất lượng quan hệ tín dụng của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển đem lại nhiều thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục cho vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
1.2.2.3. Các hình thức đảm bảo trong cho vay
Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Những biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn, có thể dẫn tới phá sản. Chính vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo mới được ngân hàng cấp tín dụng.
Phân loại theo tính chất an toàn, ngân hàng có thể chia tài sản đảm bảo thành hai loại:
+ Loại 1 là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng của ngân hàng. Các khoản tín dụng dựa trên đảm bảo loại 1 thường có mức độ rủi ro thấp, song gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn khách hàng trong việc định giá, bảo quản, làm cho thời gian phân tích tín dụng bị kéo dài.
+ Loại 2 là những tài sản được hình thành từ vốn vay. Đây là biện pháp cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế người vay bán tài sản được hình thành từ vốn vay. Hình thức đảm bảo này có mức độ rủi ro cao hơn vì khi người vay không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán.
Ngân hàng cũng phân loại tài sản đảm bảo theo hình thức vật chất:
+ Đảm bảo bằng hàng hoá trong kho của doanh nghiệp như nguyên vật liệu, sản phẩm,…
+ Đảm bảo bằng tài sản cố định gồm: nhà máy, trang thiết bị sản xuất, phương tiện vận chuyển, quyền sử dụng đất,…
+ Đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của người thức ba
+ Đảm bảo bằng chứng khoán
+ Đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba
+ Đảm bảo bằng số dư bù
Tuỳ thuộc vào tính chất loại tài sản đảm bảo của khách hàng mà ngân hàng sử dụng phương pháp cầm cố hay thế chấp. Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết (ngân hàng áp dụng hình thức này cho các tài sản mà khách hàng dễ bán, dễ chuyển nhượng). Thế chấp là hình thức người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu (hoặc sử dụng) tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm gữi trong thời gian cam kết. Đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến đối với doanh nghiệp, tuy nhiên trở ngại lớn nhất cho ngân hàng là ở khâu xác định giá trị tài sản và giám sát tài sản trong thời gian cho vay.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG DNVVN
1.3.1. Các nhân tố thuộc về NHTM
Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn gọi là tín dụng ngân hàng). Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng có rủi ro cao nhất cho NHTM. Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập thông qua phân tích tín dụng với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người vay trong việc hoàn trả đúng hạn. Do đó mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro. Nội dung phân tích tín dụng là thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định tư cách pháp lý, uy tín, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay,... trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hiệu quả cả dự án,... Trong môi trường gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng và ngân hàng với các tổ chức tài chính khác, đòi hỏi ngân hàng phải có một qui trình tín dụng hợp lý đảm bảo tính nhanh, gọn và tiết kiệm chi phí nhưng phải đáp ứng được tính an toàn và khả năng sinh lời cho ngân hàng.
1.3.1.1. Chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại
Để tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời, hoạt động tín dụng được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng. Chính sách tín dụng của ngân hàng được xây dựng dựa trên những nhân tố cơ bản sau: nhu cầu tín dụng, khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của khách hàng. Chính sách của chính phủ và ngân hàng Nhà nước, qui mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của ngân hàng, qui mô vốn chủ sở hữu... cũng được cân nhắc kỹ khi xây dựng chính sách tín dụng.
Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng bao gồm:
- Chính sách khách hàng: Ngân hàng thường phân loại khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng, khách hàng mục tiêu,… Chính sách khách hàng của ngân hàng sẽ cho biết đối tượng khách hàng nào là mục tiêu phục vụ, khách hàng nào được hưởng chính sách ưu đãi của ngân hàng. Ngân hàng coi đối tượng khách hàng nào là trọng tâm thì họ sẽ đầu tư nhân tài vật lực nhiều hơn để phát triển mảng khách hàng đó.
- Chính sách qui mô và giới hạn tín dụng: Ngân hàng cam kết tài trợ cho khách hàng với món tiền hoặc hạn mức nhất định. Số lượng tài trợ có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau. Ngân hàng có thể tài trợ tối đa bằng nhu cầu của khách hàng dựa trên các qui định và các tính toán của ngân hàng về rủi ro và sinh lợi. Nhìn chung ngân hàng rất quan tâm tới vốn chủ sở hữu của khách hàng và ít muốn tài trợ trong trường hợp các khoản nợ lớn hơn vốn chủ sở hữu.
- Lãi suất và phí suất tín dụng: Ngân hàng xây dựng các mức lãi suất khác nhau tuỳ theo loại khách hàng. Những khách hàng nhỏ, khách hàng mới thường phải chịu lãi suất cao hơn những khách hàng lớn, khách hành quen. Chính sách lãi suất áp dụng đối với DNVVN cần phải linh hoạt, đa dạng trong việc đặt giá trên cơ sở đảm bảo khả năng sinh lời cũng như cạnh tranh của ngân hàng.
- Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ: Các giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm vì kỳ hạn nợ liên quan đến thanh khoản và rủi ro của ngân hàng cũng như chu kỳ kinh doanh của người vay. Ngân hàng thường dựa trên kì hạn của nguồn để quyết định chính sách kì hạn cho vay nếu khả năng tìm kiếm nguồn và chuyển hoá kì hạn nguồn của ngân hàng không cao.
- Phương thức tín dụng: Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, các ngân hàng không ngừng phát triển thêm một số phương thức vay mới, tăng cường các dịch vụ tiện ích và gắn kết sản phẩm tín dụng với các hoạt động khác. Phương thức tín dụng phù hợp ảnh hưởng rất lớn tới tính an toàn và sinh lợi không chỉ của ngân hàng mà cả khách hàng.
- Chính sách đảm bảo: Chính sách đảm bảo bao gồm các qui định về các trường hợp tài trợ cần đảm bảo bằng tài sản, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, danh mục các đảm bảo được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên đảm bảo, đánh giá và quản lí đảm bảo.
1.3.1.2. Nhận thức và năng lực của cán bộ tín dụng
Chính sách tín dụng là phương châm hoạt động của ngân hàng. Nhưng thực hiện quy trình tín dụng, ra quyết định có cấp tín dụng hay không, tính chất của khoản vay phụ thuộc cán bộ tín dụng. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay... Như vậy, cán bộ tín dụng cần được đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Doanh nghiệp vừa và nhỏ với những tồn tại vốn có của loại hình doanh nghiệp này, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kinh nghiệm có những biện pháp thu thập và phân tích thông tin liên quan đến người vay, khoản vay sáng tạo, linh hoạt. Một thực tế mà cán bộ tín dụng biết rõ là đánh giá khoản vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó khăn hơn các doanh nghiệp lớn đã có uy tín vì không ít các DNVVN cung cấp thông tin sai lệch. Cho vay loại hình doanh nghiệp này đòi hỏi cán bộ tín dụng cũng phải theo dõi kiểm soát sát sao hơn.
Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa am hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Những cán bộ tín dụng chưa đủ trình độ và quá thận trọng rất dễ bỏ qua những khách hàng loại này và như vậy ngân hàng đã mất đi những khách hàng tiềm năng. Khi khách hàng bị từ chối tại một ngân hàng, thì họ sẽ tìm đến một ngân hàng khác, hoặc tìm nguồn tài trợ khác. Trường hợp như vậy nếu dự án của doanh nghiệp là thành công thì ngân hàng sẽ để lại trong khách hàng những ấn tượng không tốt và khó thiết lập đựơc quan hệ tín dụng trong tương lai. Ngược lại, những cán bộ tín dụng không đủ trình độ phân tích khách hàng mà lại mạo hiểm cho vay thì nguy cơ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng là rất lớn. Tóm lại chất lượng cán bộ, thái độ phục vụ khách hàng của cán bộ tín dụng là nhân tố quyết định để một ngân hàng thu hút và giữ được khách hàng, tạo dựng uy tín cho ngân hàng.
1.3.1.3. Công nghệ ngân hàng
Các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động cung cấp dich vụ, quản lý, phân tích khách hàng đóng một vai trò rất lớn tới chính sách khách hàng của một ngân hàng và chất lượng tín dụng. Chất lượng của một sản phẩm phải được đánh giá trên quan điểm của khách hàng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng cách tốt hơn các đối thủ cạnh tranh. Khi càng gắn nhiều tiện ích cho sản phẩm thì đòi hỏi công nghệ phải càng hiện đại. Muốn áp dụng công nghệ hiện đại thì ngân hàng phải có vốn chủ sở hữu đủ lớn và năng lực tiếp thu, vận hành của đội ngũ nhân viên tốt. Công nghệ ngân hàng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm dich vụ của ngân hàng, là ưu thế cạnh trạnh của các ngân hàng lớn có mạng lưới rộng.
1.3.1.4. Các nhân tố khác
Quy trình tín dụng: Các cán bộ tín dụng xem xét, thực hiện cho vay theo một quy trình tín dụng do ngân hàng xây dựng. Để đảm bảo tính an toàn nhanh gọn quy trình tín dụng thường được xây dựng riêng cho từng nhóm đối tượng khách hàng. Quy trình tín dụng phù hợp sẽ tiết tiệm thời gian, cũng như chi phí cho ngân hàng và khách hàng xin vay vốn.
Thông tin tín dụng: Thiếu thông tin sẽ làm cản trở rất lớn tới quyết định cấp tín dụng và tăng rủi ro cho ngân hàng. Thông tin tín dụng được cung cấp chủ yếu từ khách hàng và từ mạng lưới thông tin của ngân hàng. Thông tin liên quan đến khách hàng chính xác, đầy đủ, kịp thời sẽ giúp cán bộ tín dụng ra quyết định nhanh chóng, chính xác.
Tình hình huy động vốn, uy tín ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, công tác tổ chức cán bộ, chế độ lương, thưởng,... cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3.2. Các nhân tố thuộc về DNVVN
1.3.2.1. Tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh
Tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả là nguyên tắc tín dụng ngân hàng. Phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi của doanh nghiệp minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Nhưng hiện nay nhiều doanh nghiệp còn chưa biết xây dựng phương án kinh doanh có hiệu quả hoặc xây dựng được phương án tốt, có ý tưởng tốt nhưng không biết tìm đến ngân hàng hoặc tìm đến muộn vì thiếu thông tin dẫn đến mất cơ hội kinh doanh. Nguyên nhân này là do sự yếu kém và thiếu thông tin của các chủ doanh nghiệp. Họ chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh, ít đầu tư vào nghiên cứu thị trường và sở thích của khách hàng.
1.3.2.2. Năng lực tài chính của khách hàng
Đối với một khách hàng, năng lực tài chính được thể hiện qua các chỉ tiêu như: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản; suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA); suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE); giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và một số chỉ tiêu khác. Cán bộ tín dụng tính ra các chỉ tiêu này dựa trên các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi tới. Các chỉ tiêu đó giúp cán bộ tín dụng đánh giá năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng, tiềm năng phát triển của một doanh nghiệp... Tuy nhiên, hiện nay việc xem xét các chỉ tiêu này của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn vất phải nhiều trở ngại do các báo cáo tài chính của doanh nghiệp không đủ độ tin cậy vì nó không được kiểm toán độc lập. Thực trạng đó ảnh hưởng rất lớn tới quyết định cho vay của cán bộ tín dụng trong việc xem xét đánh giá khách hàng là DNVVN.
1.3.2.3. Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp
Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường cũng là một trong những yếu tố quan trọng để ra quyết định cho vay. Những doanh nghiệp đã khẳng định được thương hiệu thường có doanh thu cao và lợi nhuận lớn. Các doanh nghiệp đã gây dựng được uy tín thông thường họ sẽ hành động một cách trung thực, và có cố gắng cao nhất để bảo vệ uy tín đó. Ngân hàng luôn sẵn lòng tài trợ cho các khách hàng có uy tín mà không cần tài sản đảm bảo, và họ còn được hưởng nhiều ưu đãi. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập chưa tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường sẽ gặp rất nhiều khó khăn để gây dựng được uy tín cho mình. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường sẽ có nhiều doanh nghiệp bị thất bại. Chính những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ là người có ý định mạo hiểm hơn trong kinh doanh. Không có sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan nhà nước trong việc hạch toán kế toán của doanh nghiệp, sẽ rất khó phân biệt doanh nghiệp nào là hoạt động tốt doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ. Các doanh nghiệp chưa tạo dựng được uy tín và có vốn tự có thấp sẽ khó khăn hơn trong việc nhận được sự tài trợ từ ngân hàng. Cho vay đối tượng khách hàng này sẽ có rủi ro lớn hơn nên ngân hàng thường phải yêu cầu tài sản đảm bảo và khách hàng phải chịu lãi suất cao.
1.3.2.4. Vốn chủ sở hữu của của doanh nghiệp
Trong khi các công ty lớn, doanh nghiệp nhà nước và những đối tượng có hạn mức tín dụng cao thường vay vốn mà không phải sử dụng tài sản thế chấp thì hầu hết khách hàng của ngân hàng phải có tài sản thế chấp khi xin vay để đảm bảo cho việc thanh toán nợ. Lí do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Những biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Quy định tài sản thế chấp được thực hiện nhằm đáp ứng hai mục tiêu của ngân hàng. Thứ nhất, nếu người vay không có khả năng hoàn trả thì ngân hàng có quyền thu giữ và bán tài sản để thu hồi lại khoản tiền đã cho vay. Thứ hai, việc thế chấp sẽ tạo ra lợi thế về tâm lý cho người vay. Bởi vì các tài sản cụ thể đã được dùng để thế chấp cho khoản vay nên người vay sẽ cảm thấy cần phải làm việc tích cực hơn để thanh toán khoản nợ của mình, tránh khả năng để mất những tài sản có giá trị. Nếu ngân hàng quá chú trọng về tài sản thế chấp và mức vốn chủ sở hữu tối thiểu phải có thì các dự án đầu tư cần nhiều vốn của các DNVVN rất khó được cấp vốn.
Các cuộc điều tra cho thấy máy móc, trang thiết bị trong các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung là máy móc lạc hậu, so với các nước đang phát triển trong khu vực thì lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ. Chính sử dụng các máy móc lạc hậu nên chất lượng sản phẩm kém, tiêu thụ chậm, lợi nhuận thấp. Mặt khác, do máy móc lạc hậu nên việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, kéo dài thời gian thẩm định làm giảm ý muốn cho vay của cán bộ tín dụng. Rủi ro cho ngân hàng khi tài sản thế chấp của doanh nghiệp là các thiết bị máy móc lạc hậu là rất cao nên khi tính giá trị cho vay trên tài sản đảm bảo ngân hàng thường tính với tỷ lệ thấp.
1.3.3. Các nhân tố khác
Các chủ thể trong xã hội bao gồm các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội, doanh nghiệp, các cá nhân đều chịu ảnh hưởng, hay bị tác động bởi các yếu tố thuộc môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội.
Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý được hiểu là các văn bản pháp luật, quy định, chính sách của cơ quan Nhà nước được ban hành ra để quản lý, điều chỉnh hành vi của đối tượng hay chủ thể nào đó. NHTM là một tổ chức quan trọng nhất của nền kinh tế nên hoạt động ngân hàng luôn được đặt dưới một hệ thống quy định chặt chẽ do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm kiểm soát hoạt động ngân hàng, kiểm soát việc cung cấp dịch vụ ngân hàng, chất lượng tín dụng, tình trạng vốn chủ sở hữu và cả cách thức ngân hàng phát triển, mở rộng hoạt động với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng phục vụ cộng đồng. NHTM bị quản lý bởi cơ quan chủ quản là Ngân hàng Nhà nước. Một số quyết định sau đây của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ như:
+ Ngân hàng Nhà nước là người ra quyết định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp vốn cho NHTM, quy định khung lãi suất huy động… Quy định này ảnh hưởng tới nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Khi nguồn vốn của ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của khách hàng, những khách hàng truyền thống, khách hàng có quan hệ lâu năm, những khách hàng có uy tín sẽ được ưu tiên cấp vốn, còn những khách hàng nhỏ, những khách hàng mới sẽ ít có cơ hội tiếp cận được vốn của ngân hàng, nếu tiếp cận được thì cũng phải chịu lãi suất cao.
+ Ngân hàng Nhà nước cũng quy định về mức vốn chủ sở hữu phải có trong một dự án, các quy định về tài sản đảm bảo,... mục đích là để phòng ngừa rủi ro cho các ngân hàng nhưng ảnh hưởng trực tiếp tới điều kiện được cấp vốn của khách hàng.
Cơ quan Nhà nước tác động tới doanh nghiệp bằng cách tác động đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp, bằng các chính sách khuyến khích hoặc hạn chế,… tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp. Các quyết định, các biện pháp can thiệp vào nền kinh tế của Nhà nước, ảnh hưởng tới nhu cầu vốn đầu tư, ý muốn đầu tư của doanh nghiệp.
Môi trường kinh tế –xã hội
Điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân h._.tiếp cận với khách hàng, củng cố khách hàng truyền thống và chủ động thu hút thêm khách hàng mới, có chính sách ưu đãi lãi suất với khách hàng có tiềm lực tài chính, có uy tín trong quan hệ tín dụng. Tích cực đẩy mạnh cho vay đối với các DNVVN có dự án khả thi, có tài sản đảm bảo chắc chắn để tạo nguồn dư nợ ổn định cho chi nhánh. Mở rộng cho vay tiêu dùng với mức lãi suất thấp hơn các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội.
- Mở rộng thị phần tín dụng theo hướng đầu tư khép kín gồm: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu, gắn nghiệp vụ tín dụng với thanh toán kể cả thanh toán quốc tế; chuyển đổi tín dụng sản xuất với tín dụng lưu thông và tín dụng tiêu dùng trong mỗi khách hàng.
- Mở rộng tín dụng phải đi đôi với việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Việc mở rộng tín dụng không có nghĩa là cho vay tràn lan mà nằm trong khả năng kiểm soát, quản lý của chi nhánh. Tích cực tìm kiếm những phương án kinh doanh có hiệu quả, dự án khả thi để đầu tư khi thoả mãn các điều kiện quy định.
- Mở rộng tín dụng đáp ứng được nhu cầu và lợi ích của khách hàng, đồng thời phải đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng và tuân thủ đúng pháp luật, quy định, quy chế tín dụng.
3.2. GIẢI PHÁP
Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động trong một môi trường có tính cạnh tranh ngày càng cao, khách hàng ngày càng có nhiều lựa chọn ngân hàng để tài trợ cho các hoạt động của họ. Sức thu hút của một ngân hàng là do sản phẩm của ngân hàng thoả mãn được nhu cầu của khách hàng. Số lượng DNVVN rất đông đảo và hoạt động ngày càng hiệu quả sẽ là nhóm khách hàng chủ yếu của NHTM trong thời gian tới. Năm 2006, NHNo&PTNT đã có văn bản hướng dẫn đẩy mạnh tăng cường cho vay DNVVN tới các chi nhánh. Nhưng mở rộng tín dụng cho nhóm đối tượng khách hàng DNVVN vẫn chưa tương xứng với khả năng của chi nhánh. Sau đây là một số giải pháp cơ bản để mở rộng tín dụng đối với các DNVVN tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long.
3.2.1. Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý, ngân hàng chủ động đến với doanh nghiệp
Muốn mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, trước hết chi nhánh phải tiếp cận được với doanh nghiệp cho họ biết ngân hàng có những sản phẩm gì, đặc điểm của sản phẩm ấy ra sao, những tiện ích kèm theo, những lợi ích mà doanh nghiệp sử dụng sản phẩm đó. Vì vậy, để gia tăng khách hàng, tăng doanh số cho vay, tăng dư nợ DNVVN thì chi nhánh Thăng Long phải đẩy mạnh công tác khuếch trương, tìm kiếm khách hàng.
NHNo&PTNT Việt Nam có ưu thế hơn hẳn các ngân hàng khác đó là: mạng lưới chi nhánh rộng, kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, có quan hệ tín dụng lâu năm và có uy tín với các tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp lớn. Chi nhánh Thăng Long là một chi nhánh cấp một, có vị trí quan trọng trong hệ thống NHNo&PTNT. Với ưu thế này, trước tiên chi nhánh Thăng Long nên khai thác khách hàng mới từ những khách hàng truyền thống của chi nhánh vì nhiều doanh nghiệp nhỏ có quan hệ phụ thuộc, hoặc quan hệ bạn hàng với các doanh nghiệp lớn. Thực hiện theo cách này không những chi nhánh Thăng Long hoàn thành được mục tiêu tài trợ khép kín chu kỳ kinh doanh của khách hàng mà còn nâng cao khả năng theo dõi, quản lý khách hàng và tăng khả năng dự đoán rủi ro để trích lập dự phòng rủi ro kịp thời.
Cử cán bộ trực tiếp đến các doanh nghiệp là một biện pháp tốn ít chi phí nhưng lại đem lại hiệu quả cao. Cán bộ tín dụng giới thiệu sản phẩm, gợi mở nhu cầu cho doanh nghiệp, thuyết phục doanh nghiệp mở tài khoản tại ngân hàng. Qua những lần ghé thăm doanh nghiệp cán bộ tín dụng biết được tính cách, sự trung thực, tính thần trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp nắm được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cách thức này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kỹ năng giao tiếp và khả năng đánh giá tình hình tốt. Biện pháp này cũng đòi hỏi lực lượng cán bộ phải đông đảo và am hiểu tình hình. Tăng cường cán bộ tín dụng là một việc cần phải được làm ngay để mở rộng cho vay DNVVN. Việc tuyển chọn cán bộ tín dụng cần phải đáp ứng được cả về trình độ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Để cán bộ tín dụng làm việc có trách nhiệm, hiệu quả thì chi nhánh cũng phải có chính sách lương, thưởng hợp lý, kịp thời động viên khuyến khích cán bộ tín dụng giỏi.
3.2.2. Vận dụng linh hoạt chính sách lãi suất của NHNo&PTNT Việt Nam
Yếu tố mà khách hàng dễ nhìn thấy nhất và thường lấy đó làm tiêu chuẩn so sánh để lựa chọn ngân hàng tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp là lãi suất, phí suất tín dụng. Để thu hút và giữi được khách hàng thì trước tiên chi nhánh Thăng Long cần có một chính sách lãi suất hợp lý, cạnh tranh.
Cho vay các DNVVN thường có rủi ro lớn hơn, chi phí cho thẩm định, giao dịch cũng lớn. Ngân hàng thường đòi hỏi mức lãi suất cho vay cao hơn các khách hàng là doanh nghiệp lớn đã có quan hệ lâu năm. Nhưng điều mà khách hàng quan tâm là mức lãi suất đó có bằng hoặc thấp hơn các ngân hàng khác không. Việc áp mức lãi suất cao sẽ làm giảm ý muốn vay vốn của khách hàng, giảm tính cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác hoạt động trên cùng địa bàn. Vì vậy để thúc đẩy mở rộng tín DNVVN thì ngân hàng phải xây dựng khung lãi suất hợp lý đảm bảo tính cạnh tranh và lãi suất cần được áp dụng mềm dẻo, linh hoạt cho từng đối tượng khách hàng, phù hợp với tính chất của khoản vay.
3.2.3. Đào tạo cán bộ chuyên môn chuyên trách nhóm khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay Chi nhánh Thăng Long chưa có bộ phận chuyên trách thực hiện cho vay DNVVN, để mở rộng cho vay tới đối tượng khách hàng này và để hạn chế tổn thất cho ngân hàng, chi nhánh Thăng Long cần phải thành lập tổ tín dụng phụ trách mảng DNVVN. Trong khi đa phần cán bộ của chi nhánh là trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, đào tạo và cử cán bộ phụ trách một số lĩnh vực nhất định mà cán bộ am hiểu trong cho vay doanh nghiệp sẽ tạo cơ hội cho cán bộ trẻ nắm chắc được khách hàng tìm và áp dụng những biện pháp pháp phù hợp khi cho vay, hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
Cán bộ tín dụng là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, thu thập thông tin và phân tích thông tin để ra quyết định cho vay hay không cho vay. Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai... là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của sản phẩm tín dụng. Và họ chính là hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Sắp xếp lại cán bộ tín dụng, cử cán bộ cũ trực tiếp hướng dẫn kèm cặp cán bộ mới, tiếp tục đào tạo, đào tạo lại (cử cán bộ đi học các lớp ngắn hạn về thẩm định dự án, phân tích tài chính...), kết hợp với đào tạo chuyên môn hoá để cán bộ tín dụng nắm được quy trình công nghệ của các ngành nghề từ đó đáp ứng nhanh nhu cầu của khách hàng giảm chi phí và thời gian thẩm định cho vay.
3.2.4. Đa dạng hoá hình thức hỗ trợ tài chính cho DNVVN, kết hợp sản phẩm tín dụng với các sản phẩm khác của ngân hàng
Trong thời gian qua nhiều ngân hàng đã triển khai thêm một số phương thức cho vay mới và gắn thêm tiện ích cho sản phẩm tín dụng, ví dụ như: tư vấn, dich vụ thông tin theo nhu cầu, thu hộ, chi hộ,… cũng đã triển khai thêm một số phương thức tài trợ cho khách hàng. Nhưng thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thực sự quan tâm tới các sản phẩm mới này của ngân hàng, một phần vì doanh nghiệp chưa thấy hết được những lợi ích của những sản phẩm đó, phần nữa là doanh nghiệp không có nhiều nghiềp vụ phát sinh với các đối tác nước ngoài, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán vẫn là phổ biến. Nền kinh tế càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng sâu và rộng, tính cạnh tranh trong kinh doanh thêm gay gắt các doanh nghiệp sẽ thấy sự cần thiết phải sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Tăng cường các dịch vụ tài chính mới cho doanh nghiệp nhằm gợi mở nhu cầu chưa được đánh thức của nhiều doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng sẽ nhận thấy sự tiên phong của ngân hàng trong việc triển khai các dich vụ hỗ trợ, nâng cao uy tín của ngân hàng.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp cứ cần vồn là đến vay ngân hàng, đôi khi có những phương thức tài trợ hiệu quả hơn phù hợp với doanh nghiệp hơn nhưng khách hàng lại không nghĩ tới, hoặc có nghĩ tới nhưng không mạnh dạn làm. Cán bộ tín dụng cần phối hợp với doanh nghiệp để tìm ra phương thức tài trợ hợp lý nhất cho hoạt động của khách hàng, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho họ. Chẳng hạn, do đặc điểm hạn chế về tài chính các DNVVN không đủ điều kiện tài sản thế chấp để vay vốn cho đầu tư mới dây truyền sản xuất. Nếu xét thấy phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tính khả thi cao, thì việc sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính có thể là giải pháp tốt để hỗ trợ cho doanh nghiệp. Cán bộ phòng tín dụng cần phối hợp với các nhân viên của Công ty cho thuê Tài chính của NHNo&PTNT Việt Nam để hỗ trợ cho doanh nghiệp, thiết lập quan hệ với khách hàng, không bỏ qua một hàng tốt. Sự nhiệt tình và tận tâm phục vụ của nhân viên ngân hàng sẽ là sức mạnh thu hút khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Do đó sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận của ngân hàng, giữa các chi nhánh và các công ty thành viên của NHNo&PTNT (Công ty cho thuê Tài chính, Công ty Chứng khoán NHNo&PTNT Việt Nam) là rất quan trọng để mở rộng tín dụng đối với các DNVVN.
3.2.5. Hỗ trợ DNVVN xây dựng hồ sơ, phương án sản xuất kinh doanh
Mặc dù NHNo&PTNT đã có nhiều cải cách trong thủ tục hồ sơ vay vốn cho các khách hàng và thái độ phục vụ cũng đã được cải thiện rất nhiều. Nhưng vẫn có rất nhiều doanh nghiệp phàn nàn về thủ tục vay vốn ngân hàng và họ bị yêu cầu sửa đổi, bổ xung quá nhiều để được cấp vốn. Để đảm bảo an toàn thì cán bộ tín dụng phải thực hiện đúng quy trình cho vay là hợp lý. Nhưng cán bộ tín dụng phải đặt ra câu hỏi: Họ áp dụng quy trình đã đúng cho đối tượng khách hàng đó chưa? Khách hàng là DNVVN với tính đa dạng, tính linh hoạt vốn có, họ có thể sẽ không giống với những khách hàng là các doanh nghiệp lớn. Vì vậy không phải trong trường hợp nào cán bộ tín dụng cũng áp dụng một phương pháp theo một lối mòn.
Cán bộ tín dụng cần tìm hiểu về khách hàng trước khi yêu cầu khách hàng điền các thông tin cần thiết để tránh làm mất thời gian của khách hàng, vận dụng linh hoạt các quy định đối với các khách hàng truyền thống. Nhiều doanh nghiệp khi đến xin vay vốn ngân hàng lần đầu chưa có kinh nghiệm xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, có ý tưởng tốt nhưng tính toán chưa hợp lý dẫn đến mất nhiều thời gian xét duyệt. Cán bộ ngân hàng phải là người hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện việc hoàn tất những phần còn không hợp lý đó. Cán bộ tín dụng giúp doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí và giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp.
3.2.6. Thực hiện tốt cơ chế đảm bảo tín dụng, thường xuyên phân loại khách hàng
Bảo đảm tín dụng tuy không phải là điều kiện tiên quyết song hiện nay nó là một yêu cầu bắt buộc đối với các DNVVN chưa được sự tín nhiệm của ngân hàng. Nhưng khi áp dụng hình thức đảm bảo không nên cứng nhắc, áp đặt. Với những DNVVN chưa có đủ điều kiện về tài sản thế chấp, hay đất đai chưa được cấp sổ đỏ… có thể tạo điều kiện chấp nhận bảo lãnh của bên thứ ba, hay đảm bảo bằng tài sản riêng của chủ doanh nghiệp. Việc đảm bảo bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay, tuy làm tăng thêm rủi ro cho ngân hàng, nhưng lại giúp doanh nghiệp có điều kiện vay được vốn. Trong những trường hợp này, ngân hàng cần phải có quá trình theo dõi thường xuyên những tài sản đã được đem ra làm bảo đảm… để có thể xử lý kịp thời khi có sai phạm.
Khi định giá tài sản đảm bảo cần tham khảo thông tin giá cả thị trường và dự đoán tình hình biến động của nó ứng với thời hạn của khoản vay. Làm được như vậy mới đảm bảo an toàn cho ngân hàng và đảm bảo quyền lợi của khách hàng.
Chấm điểm tín dụng và xếp loại khách hàng cần được làm một cách nghiêm túc và thận trọng. Điểm tín dụng xếp loại doanh nghiệp sẽ quyết định thứ hạng, uy tín của doanh nghiệp đó. Việc này hỗ trợ ngân hàng trong việc ra quyết định cấp tín dụng hay không, xác định mức tín dụng, mức lãi suất, biện pháp bảo đảm tiền vay, biệp pháp giám sát khách hàng, phát hiện những dấu hiệu xấu để can thiệp kịp thời. Điểm tín dụng còn liên quan đến chính sách khách hàng của ngân hàng, ví dụ như: sẽ quyết định một doanh nghiệp có được cấp tín dụng theo hình thức tín chấp hay không, những ưu đãi cho doanh nghiệp có uy tín. Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng cho vay, chấm điểm tín dụng và xếp loại khách hàng cón giúp phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách hàng có rủi ro thấp hơn, ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng tổn thất tín dụng. Đây là việc làm khó vì hầu hết các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa được kiểm toán nên số liệu chưa đáng tin cậy nhiều doanh nghiệp gửi báo cáo còn không đúng thời điểm yêu cầu, các thông tin về doanh nghiệp cập nhập vào hệ thống còn chậm. Để xếp loại khách hàng thì phải chú ý tới hệ thống xử lý, lưu trữ thông tin và trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc theo dõi cập nhập thông tin vào hệ thống.
3.2.7. Xây dựng mạng lưới thông tin, cung cấp thông tin kịp thời
Thông tin có chính xác, cập nhật thì việc đưa ra quyết định mới nhanh chóng an toàn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng nợ xấu gia tăng là do cán bộ tín dụng không có các tiêu chuẩn để so sánh với thực tế doanh nghiệp xin vay. Khả năng thu thập, phân tích thông tin của cán bộ tín dụng bị nhiều hạn chế, các kênh cung cấp thông tin không nhiều. Ngoài các thông tin do khách hàng cung cấp thì cán bộ còn phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, từ thị trường, từ trung tâm thông tin kinh tế thương mại và phòng ngừa rủi ro của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, từ các đối tác làm ăn của khách hàng hoặc từ các chủ nợ cũ của doanh nghiệp... Tuy nhiên, các thông tin từ các nguồn chính thức lại thường không được cập nhật và không sát thực tế gây khó khăn cho cán bộ tín dụng.
Để giúp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với DNVVN, ngân hàng cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin về các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cho các ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá tiềm năng phát triển của các ngành nghề trên địa bàn…
3.3. KIẾN NGHỊ
3.3.1. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam
NHNo&PTNT Việt Nam là cơ quan quản lý cấp trên của chi nhánh Thăng Long. Các quy định và văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nông nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động không chỉ của chi nhánh Thăng Long mà ảnh hưởng tới cả toàn hệ thống.
Để mở rộng cho vay DNVVN thì lãi suất cho vay cần phải đảm bảo tính cạnh tranh so với các ngân hàng khác. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cần xem xét lại về lãi xuất cho vay, đặc biệt là vay ngắn hạn. Với mức lãi suất vay ngắn hạn 1.03%/tháng là cao so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn thành phố Hà Nội.
Việc tuyển dụng, điều chuyển, sắp xếp cán bộ cũng cần được xem xét cẩn trọng, tạo điều kiện cho cán bộ yên tâm công tác. Vị trí, nhiệm vụ phù hợp với năng lực, trình độ sẽ khuyến khích cán bộ phát huy được khả năng của họ, nâng cao hiệu quả và hạn chế rủi ro cho ngân hàng. NHNo&PTNT cần duy trì tổ chức thi cán bộ tín dụng giỏi, quan tâm hơn nữa về việc đào tạo thường xuyên để nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ nhân viên ngân hàng. Khuyến khích cán bộ tín dụng giỏi bằng nhiều biện pháp cả vật chất và tính thần như: khen thưởng, cho đi tham quan học hỏi kinh nghiệm ở trong nước và nước ngoài.
Để có thể thực hiện chiến lược tiếp cận và cung cấp trọn gói tất cả các dịch vụ ngân hàng đối với một khách hàng. NHNo&PTNT Việt Nam cần đẩy mạnh tăng cường số lượng, chất lượng các dịch vụ ngân hàng không chỉ riêng sản phẩm tín dụng.
NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ và cập nhật về các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật trong các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, giá cả những vật tư mặt hàng, tài sản mà doanh nghiệp dùng làm tài sản đảm bảo khi vay vốn tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng rút ngắn thời gian thẩm định và nâng cao chất lượng tín dụng.
3.3.2. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cản trở lớn nhất là ngân hàng không có đủ thông tin tin cậy về người vay và không có khả năng thu hồi kịp thời các khoản nợ xấu do hệ thống văn bản pháp luật chưa hoàn thiện, ý thức của người vay trong việc thực hiện cam kết với ngân hàng không cao. Để cho đồng vốn ngân hàng đến được với doanh nghiệp một cách nhanh chóng, kịp thời thì doanh nghiệp cần sửa chữa một số tồn tại sau:
- Doanh nghiệp phải tuân thủ chế độ hạch toán kế toán hiện hành. Ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ, rõ ràng theo đúng quy định. Báo cáo tài chính cần được lập đúng thời điểm, cung cấp kịp thời cho ngân hàng các thông tin khi được yêu cầu.
- Chủ doanh nghiệp cần phải nâng cao trình độ quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân viên, sử dụng công nghệ phù hợp. Ngân hàng chỉ tin tưởng cấp vốn cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, mà hiệu quả của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào tài năng của lãnh đạo doanh nghiệp.
- Việc tăng vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp sẽ tăng thêm lòng tin từ các đối tác kinh doanh và từ ngân hàng, do vậy doanh nghiệp cần có các biện pháp tăng vốn hợp lý như thực hiện cổ phần hoá, bán cổ phần cho nhân viên của công ty.
- Hình thức bảo lãnh của bên thứ ba cũng là một biện pháp mà các doanh nghiệp không đủ điều kiện về tài sản thế chấp sử dụng khi họ đã xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi. Bên thứ ba có thể là đối tác hinh doanh của doanh nghiệp hoặc cũng có thể là bảo lãnh của một tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp... Để có được điều đó thì doanh nghiệp phải luôn coi trọng chữ tín, tham gia các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp, có thái độ hợp tác tốt đối với cán bộ tín dụng cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời.
3.3.3. Đối với cơ quan Nhà nước
Đối với Ngân hàng Nhà nước
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các đối tượng tham gia thị trường tài chính. NHNN là cơ quan quản lý trực tiếp đối với hệ thống NHTM. Để cho hoạt động tín dụng của các NHTM được an toàn và hiệu quả, ngân hàng nhà nước cần bổ xung, sửa đổi những qui định theo kịp với những biến động của thị trường tài chính – tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước quản lý thị trường tiền tệ thông qua các công cụ chủ yếu là quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu và quy định về lãi suất cho vay, quy định về vốn chủ sở hữu tham gia dự án... Một khi các NHTM khả năng thanh toán gặp khó khăn thì các đối tượng khách hàng nhỏ, khách hàng mới sẽ không được quan tâm và nhiều dự án giải ngân cũng không đúng tiến độ được phê duyệt. Do vậy, để tăng cường cho vay DNVVN thì Ngân hàng Nhà nước cần có những quy định phù hợp, kịp thời hỗ trợ các ngân hàng trong lúc gặp khó khăn về vốn.
Đối với Nhà nước Việt Nam
- Nhà nước tạo hành lang pháp lý an toàn cho DNVVN hoạt động. Các văn bản pháp quy, các chính sách, chủ trương của Nhà nước ban hành phải nhất quán, hợp lý, tạo sân chơi bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Có như vậy, doanh nghiệp mới yên tâm hoạt động, các nhà đầu tư và ngân hàng mới yên tâm rót vốn vào các dự án của doanh nghiệp. Chính phủ cần tăng cường thu hút các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế, cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
- Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính một cách triệt để: thực hiện cải thiện hệ thống đăng ký kinh doanh và cấp phép hiện hành cho các DNVVN, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và công trình…. Nhà nước cũng cần phải hoàn thiện các quy định về đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất cho phù hợp với các giao dịch đảm bảo hiện nay để các doanh nghiệp nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ pháp lý đủ điều kiện vay vốn ngân hàng.
- Các cơ quan chuyên trách về quản lý Nhà nước đối với các DNVVN thực hiện đúng chức năng của mình: xây dựng chiến lược phát triển DNVVN, cung cấp thông tin về chính sách, thị trường, công nghệ, lao động, nắm bắt tình hình nguyện vọng và xu hướng phát triển của các doanh nghiệp, chống hàng nhái hàng giả bảo vệ uy tín cho doanh nghiệp… Bên cạnh các biện pháp hỗ trợ, các cơ quan Nhà nước cũng phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp, đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê.
- Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức hỗ trợ DNVVN thành lập và hoạt động. Các tổ chức này hỗ trợ doanh nghiệp về các mặt như: chuyển giao công nghệ, giúp chủ doanh nghiệp nâng cao trình độ quản lý, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, tìm kiếm đối tác kinh doanh trong và ngoài nước, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp… Chính phủ đã ký quyết định thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN từ năm 2002, nhưng cho đến nay quỹ này vẫn chưa thể đi vào hoạt động vì lý do nguồn vốn chưa đủ. Các cơ quan Nhà nước cần có những biện pháp thúc đẩy, khuyến khích các tổ chức tài chính tham gia góp vốn đưa quỹ này vào hoạt động để trợ giúp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn ngân hàng.
KẾT LUẬN
Để mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ và để vốn tín dụng ngân hàng thực sự giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển các hoạt động của họ tốt hơn nữa, cần phải có những giải pháp đồng bộ từ nhiều phía liên quan: ngân hàng, doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước.
Trên cơ sở phân tích tình hình thực tế ở chi nhánh Thăng Long, luận văn tốt nghiệp đã có những đánh giá cơ bản về thực trạng tín dụng DNVVN tại chi nhánh và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước cũng như các DNVVN nhằm tạo sự thống nhất, phối hợp đồng bộ giữa các bên liên quan nhằm giải quyết những khó khăn, tháo gỡ rào cản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các DNVVN.
Với tầm nhìn, sự hiểu biết còn hạn chế, thêm vào đó là những biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh và sự đa dạng, phong phú trong hoạt động của ngân hàng thương mại nên những vấn đề đưa ra trong bài viết có thể còn thiếu sót, với tính thuyết phục và khái quát chưa cao, thậm chí còn có cả những nhìn nhận chưa chính xác. Song em hy vọng rằng những ý kiến, những giải pháp đưa ra trong luận văn này sẽ được quan tâm, trở thành đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp về mở rộng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Thăng Long. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các cán bộ tín dụng ngân hàng để luận văn của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: "Ngân hàng thương mại" – TS. Phan Thị Thu Hà
2. Giáo trình: "Quản trị ngân hàng thương mại" – Peter S. Rose
3. Luật các tổ chức tín dụng số 07/QHX của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa VIệt Nam
4. Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNVVN.
5. Quyết định số 72/ QĐ - HĐQT – TD của chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam.
6. Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNVVN.
7. Sổ tay tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam
8. Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Tài chính , Tạp chí Thị trường tiền tệ.
9. Một số bài viết trên các website:
www.vneconomy.com.vn
www.vcci.com.vn
www.vnexpress.net
DANH MỤC VIẾT TẮT
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNo&PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
CBTD: Cán bộ tín dụng
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
1. SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Thăng Long 36
2. BẢNG
Bảng 1: Nguồn vốn huy động từ năm 2003 đến 2005 39
Bảng 2: Kết quả cho vay, thu nợ của chi nhánh Thăng Long qua các năm 41
Bảng 3: Cơ cấu đầu tư qua các năm của chi nhánh 43
Bảng 4: Tình hình dư nợ xấu của chi nhánh 44
Bảng 5: Dư nợ tín dụng DNVVN tại chi nhánh Thăng Long qua các năm 46
Bảng 6: Số lượng DNVVN còn dư nợ năm 2005 47
Bảng 7: Dư nợ tín dụng phân loại theo thời hạn tín dụng và loại tiền 48
Bảng 8: Dư nợ xấu của DNVVN ở chi nhánh Thăng Long. 49
3. BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Doanh số cho vay phân loại theo thời hạn tín dụng 41
Biểu đồ 2: Dư nợ tín dụng DNVVN so với các thành phần khác 46
Biểu đồ 3 : Dư nợ xấu của DNVVN ở chi nhánh Thăng Long 50
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Hà Nội, ngày tháng năm 2006
Giáo viên hướng dẫn
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Hà Nội, ngày tháng năm 2006
Giáo viên phản biện
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32474.doc