Mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công

Lời nói đầu Tín dụng từ xưa tới nay vẫn là hoạt động truyền thống và cơ bản nhất của một Ngân hàng Thương mại. Mặc dù rủi ro cao song đây luôn là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận hơn cả cho các NHTM. Ngày nay, hoạt động của các NHTM phát triển theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, tăng tỷ trọng thu nhập từ phí dịch vụ như dịch vụ thanh toán quốc tế, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo quản vật có giá…. Dù vậy, thu lãi từ hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của NHTM. Thực

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng tín dụng cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế đó đòi hỏi các NHTM, bên cạnh việc phát triển các dịch vụ mới, vẫn không thể sao nhãng việc phát triển và mở rộng hơn nữa hoạt động tín dụng, mới có thể đảm bảo tỷ suất lợi nhuận ổn định. Một trong những hướng chủ yếu để phát triển hoạt động tín dụng là tìm kiếm, mở rộng đối tượng khách hàng. Đối với các NHTM quốc doanh hiện nay, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh - với số lượng các chủ thể kinh doanh ngày càng tăng và hiệu quả kinh doanh ngày càng cao - là hướng ngỏ đáng quan tâm. Vietcombank, cũng như phần lớn các NHTM quốc doanh Việt Nam từ trước tới nay đều chưa chú ý đến đối tượng khách hàng này. Điều đó một mặt khiến các NHTM quốc doanh bỏ qua một hướng kinh doanh rất triển vọng, mặt khác cũng gây ra khó khăn cho các DNNQD trong việc tìm kiếm nguồn vốn kinh doanh. Nhận thức được vấn đề trên, hiện nay các NHTM quốc doanh ngày càng chú trọng hơn tới các DNNQD. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, trong đó có chi nhánh Thành Công cũng nằm trong số đó. Vì vậy, sau một thời gian thực tập tại VCB Thành Công, em đã chọn nghiên cứu đề tài “ Mở rộng tín dụng cho DNNQD tại VCB Thành Công ” để thực hiện Chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Chuyên đề gồm 3 phần: Chương 1: Tổng quan về cho vay với DNNQD Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại VCB Thành Công. Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNNQD tại VCB Thành Công Nội dung chuyên đề sẽ cho thấy tình hình tín dụng với DNNQD tại một chi nhánh cấp 1 của Viêtcombank. Từ đó xin được đề ra một số giải pháp mở rộng hoạt động này cho tương xứng với vai trò của nó trong sự phát triển kinh tế. Em xin chân thành cảm ơn Th.S Phạm Hồng Vân đã chỉ bảo, hướng dẫn tận tình giúp em hoàn thành Chuyên đề này. Chương 1 Tổng quan về tín dụng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.1 Hoạt động tín dụng của NHTM 1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại NHTM là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, với 2 hoạt động chính là thu hút tiền gửi và cho vay. Các chức năng chính của ngân hàng là: Thứ nhất: Ngân hàng là một tổ chưc trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển iết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: một là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt qua thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn, và các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển nếu điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoản thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Đây là quan hệ tín dụng trực tiếp đã ra đời từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch. Trung gian tài chính đã tập hơp được những người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch. Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận những khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lãi phát hành chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị truờng nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro - lợi nhuận hấp dẫn nhất. Thứ hai, tạo phương tiện thanh toán. Tiền- vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán,họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng mua hàng hoá dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này qua ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới.Trong khi không một nhân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dữ trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng). Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp của những nhân tố như tỷ lệ dư trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán... Thứ ba là trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung gain thanh toán lớn nhất hiện nay ở hấu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toàn bù trừ với nhau thông qua NHTW hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà cón giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. Trải qua lịch sử phát triển lâu dài, NHTM phát triển một hệ thống các dịch vụ đa dạng và phong phú, đáp ứng hầu hết các nhu cầu của khách hàng. Từ các dịch vụ truyền thống như: nhận tiền gửi, chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại, mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cung cấp các tài khoản giao dịch, dịch vụ uỷ thác...cho đến các dịch vụ hiện đại như: cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, quản lý ngân quỹ, dịch vụ thuê mua thiết bị, cho vay tài trợ dự án, ngân hàng điện tử, ATM, Internet banking, Phonebanking, Pcbanking...Ngày nay, NHTM càng khẳng định rõ vai trò không thể thiếu của mình đối với nền kinh tế quốc dân. 1.1.2 Hoạt động tín dụng của NHTM Tín dụng ngân hàng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của NHTM. Tín dụng ngân hàng bao gồm: + Cho vay + Cho thuê tài chính + Chiết khấu + Bảo lãnh + 1 số hoạt động khác được NHNN quy định Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Đây một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Thời hạn cho vay được xác định căn cứ vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của TCTD. Đối với các pháp nhân Việt Nam và nước ngoài, thời hạn cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt Nam; đối với cá nhân nước ngoài, thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn được phép sinh sống, hoạt động tại Việt Nam. Mức cho vay được TCTD quyết định căn cứ vào nhu cầu vay vốn và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn của bản thân TCTD. Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD. Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mối khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho TCTD. TCTD và khách hàng có thể thoả thuận để điều chỉnh kỳ hạn nợ- tức là thay đổi các kỳ hạn nợ đã được thoả thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng. TCTD cũng có thể chấp nhận gia hạn nợ vay cho khách hàng khi cần thiết. Cho vay dựa trên mục đích xác định, để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc tiêu dùng, mua sắm các tài sản có giá trị lớn... Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính, cho vay được ghi dưới hình thức dư Nợ hoặc dư Nợ cho vay. Hoạt động cho vay là hình thức cấp tín dụng chủ yếu của NHTM cho các DNNQD. Cho vay có 3 nguyên tắc cơ bản: - Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi - Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích - Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo Hoạt động cho vay có thể được phân loại theo nhiều cách: - Căn cứ phương thức cho vay: + Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tin dụng. + Cho vay theo hạn mức tín dụng: + Cho vay theo dự án đầu tư + Cho vay hợp vốn + Cho vay trả góp + Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng + Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng + Cho vay theo hạn mức thấu chi - Căn cứ thời hạn vay: + Cho vay ngắn hạn + Cho vay trung hạn + Cho vay dài hạn - Căn cứ đối tượng: + Cho vay vốn lưu động + Cho vay vốn cố định - Căn cứ mục đích sử dụng vốn: + Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá + Cho vay tiêu dùng - Căn cứ mức độ đảm bảo: + Cho vay có tài sản bảo đảm + Cho vay không có đảm bảo - Căn cứ chủ thể cho vay: + Cho vay gián tiếp + Cho vay trực tiếp 1.2 Khái quát về kinh tế tư nhân, doanh nghiệp NQD. 1.2.1 Khái niệm Theo nhận thức chung hiện nay, KTTN là một nhóm các thành phần kinh tế, bao gồm các cơ sở sản xuất, các hộ nông dân cá thể và tiểu chủ, các hộ sản xuất kinh doanh dịch vụ, thương mại ở thành thị, các doanh nghiệp tư nhân ( bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần của KTTN). Kinh tế tư nhân có vai trò lớn trong việc huy động nguồn vốn đầu tư rộng rãi trong nhân dân cho phát triển sản xuất, tạo ra nhiều của cải hàng hoá cho xã hội, đóng góp vào ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động, tạo động lực và môi trường cạnh tranh sống động, linh hoạt, sáng tạo cho sự phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành sản xuất và thực hiện đường lối “chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế”. 1.2.2 Vai trò của KTTN và DNNQD đối với nền kinh tế đất nước Ngày nay các DNNQD ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế đất nước. Vai trò đó được thể hiện qua các mặt cụ thể như sau: - Huy động nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển: nguồn vốn cho đầu tư phát triển từ khu vực kinh tế tư nhân đã được huy động tăng lên liên tục trong những năm qua. Năm 1990 mới có 3.544 tỷ đồng, năm 1999 tăng lên 21.000 tỷ đồng. Đặc biệt trong 4 năm qua, từ khi có luật Doanh nghiệp ra đời ( từ năm 2000 đến tháng 7-2003) tổng vốn của các DNNQD đăng ký đạt 145.000 tỷ đồng, tức gần bằng tổng vốn đầu tư của DNNN trong cùng thời kỳ, cao hơn vốn đầu tư nước ngoài, cao gấp 4 lần so với tổng vốn đầu tư của DNNQD 9 năm trước đó cộng lại. Từ năm 2000-2003, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên nhanh chóng: từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2001, lên 25,3% năm 2002 và khoảng 27% năm 2003.(Bộ kế hoạch và đầu tư: báo cáo tình hình thi hành Luật Doanh nghiệp, tháng 10/2003). Như vậy, từ khi có chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng, đặc biệt từ khi có Luật Doanh nghiệp (năm 2000) , mặc dù những bước thăng trầm nhất địnhnhưng khu vực kinh tế tư nhân đã từng bước khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tư nhân ngày càng có những đóng góp quan trọng vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, đặc biệt là đóng góp vào sự hoạt động năng động của nền kinh tế, giải quyết việc làm cho đông đảo người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. - Thúc đẩy sản xuất và đóng góp vào ngân sách nhà nước và địa phương Khu vực kinh tế tư nhân có mặt rộng khắp các vùng trong cả nước, hoạt động ở hầu hết các ngành kinh tế, tạo ra lượng sản phẩm lớn, đa dạng, phong phú, đáp ứng phần cơ bản đời sống của các tầng lớp nhân dân. Những năm qua, chính sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần quyết định trong việc cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các vùng dân cư và của toàn xã hội, đồng thời đóng góp không nhỏ và ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách nhà nước và GDP. Theo số liệu của Tổng cục Thuế, khu vực kinh tế tư nhân đã nộp ngân sách nhà nước: năm 2002 là11.003 tỷ đồng chiếm 16.1% tổng thu ngân sách; năm 2003 nộp 11.075 tỷ đồng chiếm 14,8% tổng thu ngân sách. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp vào NSNN với tỷ lệ ngày một tăng; năm 2002 là 6,4%; năm 2003 là 7% (trong khi tỷ lệ tương ứng của DNNN là 21,6% và 23,4%; các DNFDI là 5,2% và 6%). Đồng thời các DN dân doanh đang đóng góp phần quan trọng vào Ngân sách địa phương, chẳng hạn như ở TP HCM là 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Ninh Bình 19%...Ngoài ra, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân còn đóng góp không nhỏ vào các phong trào ủng hộ xây dựng các công trình công cộng như: cầu, đường, trường học, trạm xá, khu văn hoá, thể thao, nhà tình nghĩa, nhà tình thương, các quỹ khuyến học, vì người nghèo...ở các địa phương. - Kinh tế tư nhân phát triển góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiệu quả và hiện đại. ưu thế nổi trội của các doanh nghiệp tư nhân là năng động, nhạy bén, linh hoạt trong đầu tư sản xuất kinh doanh, nắm bắt và đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu thị trường để tìm kiếm hiệu quả, lợi nhuận. Do vậy, họ luôn tìm kiếm, phát hiện ngành, lĩnh vực, mặt hàng xã hội đang thiếu, đang cần đầu tư sản xuất, đồng thời không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm để có ưu thế trong cạnh tranh và thu được nhiều lợi nhuận, từ đó thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp lý, hiện đại. - Giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và phát triển nguồn nhân lực: hiện nay lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là 21.017.326 người, chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong toàn xã hội (số liệu năm 2002). Riêng trong lĩnh vực phi nông nghiệp, số lao động thuộc kinh tế tư nhân năm 2002 là 4.643.844 người, tăng 20,12 % so với năm 1996. Tính riêng trong 4 năm (1999-2002) khu vực kinh tế tư nhân thu hút thêm 997.000 lao động, gấp 6,6 lần so với khu vực kinh tế nhà nước và từ năm 2000 đến 2003, khu vực kinh tế tư nhân đã tạo ra gần 2 triệu chỗ làm việc mới cho người lao động, với trình độ kỹ năng lao động, tay nghề ngày một cao hơn. - Góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hiện đại hoá sản xuất: sự phát triển kinh tế tư nhân tạo ra khối lượng (và chiếm tỷ trọng lớn về hàng xuất khẩu) đồng thời mở rộng khả năng và là đối tác thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, nhập về máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến... 1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNQD 1.3.1 Tình hình vốn, trang thiết bị của các DNNQD Mặc dù có mặt đóng góp tích cực cho nền kinh tế như đã trình bày ở trên, song khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn có những hạn chế, yếu kém của nó. Điển hình là phần lớn các doanh nghiệp tư nhân đều có quy mô nhỏ, nên khả năng chiếm lĩnh thị trường, chống đỡ vượt qua những biến động, rủi ro bất trắc... trong sản xuất kinh doanh bị hạn chế. Hiện có tới 87,2% doanh nghiệp tư nhân mức vốn dưới 1 tỷ đồng. Trong đó, doanh nghiệp có mức vốn dưới 100 triệu đồng chiếm tới 29,4%. Chỉ có 1% số doanh nghiệp có mức vốn trên 10 tỷ đồng và 0,1% có mức vốn trên 100 tỷ đồng. Bên cạnh đó, hầu hết các DN này có trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ lạc hậu nên chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao dẫn đến sức cạnh tranh và hiệu quả thấp. Số liệu điều tra cho thấy như sau: Bảng 1: Trang bị kỹ thuật, công nghệ của DN tư nhân và Công ty TNHH (Đơn vị tính: %) Tiêu chí KT- CN DN tư nhân Công ty TNHH Trang thiết bị hiện đại 24 25 Kỹ thuật truyền thống kết hợp công nghệ hiện đại 34 57 Thuần tuý kỹ thuật truyền thống 37.2 20 ( Dẫn theo tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 3-2003: “ Động thái phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam” ) Tuyệt đại bộ phận doanh nghiệp tư nhân đều thiếu mặt bằng hoạt động (nhỏ bé, phải thuê mướn...) nên gặp nhiều khó khăn về mở rộng sản xuất kinh doanh. Cũng như, phần lớn các doanh nghiệp thiếu bạn hàng, thị trường truyền thống, ổn định để phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách về tín dụng, thuế, quota, kiểm tra... và tâm lý xã hội vẫn chưa thật thuận lợi, thông thoáng nhằm hỗ trợ và khuyến khích kinh tế tư nhân hăng hái đầu tư, phát triển... Do những đặc điểm trên, nên khu vực kinh tế tư nhân gặp không ít khó khăn trong việc phát triển, mở rộng sản xuất. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt hiện nay, nếu không kịp thời có những thay đổi thì khu vực KTTN khó mà tồn tại và phát triển. 1.3.2 Nhu cầu và khả năng tìm kiếm nguồn vốn của các DNNQD Một trong những giải pháp đầu tiên và chủ đạo để khắc phục những mặt yếu nói trên, là việc tìm kiếm nguồn vốn đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, đổi mới trang bị kỹ thuật và công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, rõ ràng là hơn bao giờ hết các DNNQD đang rất cần thêm vốn để thực hiện những cải thiện mạnh mẽ tình hình sản xuất của mình. Nhu cầu vốn không chỉ dừng lại ở Vốn lưu động để duy trì sản xuất, mà có tính quyết định hơn lại chính là những nguồn vốn trung dài hạn, với số lượng khá lớn để đầu tư máy móc, công nghệ. Trong thời gian qua, các công ty cổ phần, công ty TNHH, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác ngày càng tăng khả năng tiếp cận vốn ngân hàng. Nếu năm 1995, khu vực kinh tế tư nhân chỉ mới nhận được vốn từ hệ thống ngân hàng là 18.198 tỷ đồng, đến năm 1999 lưu lượng vốn đạt được 44.873 tỷ đồng, tăng 146% so với năm 1995, trong khi đó tín dụng cho DNNN chỉ tăng 73%. Đến năm 1997, 1998, 1999 tỷ trọng vốn tín dụng cho khu vực KTTN trong tổng số vốn tín dụng cho các khu vực kinh tế khoảng 46% và từ năm 2000-2003 tỷ trọng này đã tăng lên đáng kể (năm 2000: 55,7%, năm 2001:57,8%, năm 2002: 61,3%, năm 2003 : 64,5%). Tuy nhiên đến nay tình trạng thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất vẫn còn là trở ngại đối với các DNNQD. Thực tế những năm gần đây, số DN có vốn sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 94,93%; bình quân vốn thực tế sử dụng một DN là 3,7 tỷ đồng. Lao động bình quân của DNTN là 26 người, mức trang bị TSCĐ trên 1 lao động của DNTN chỉ có 34,7 triệu đồng. Chỉ tiêu hiệu quả của DNTN rất thấp, tỷ suất lợi nhuận/vốn rất thấp, quá xa so với lãi suất ngân hàng, đặc biệt là của khu vực hộ cá thể còn thấp hơn nữa, chủ yếu là gia công hoặc đại lý nên lấy công làm lãi là chính. Điều này chứng tỏ khả năng tích tụ và huy động vốn của KTTN trong toàn xã hội còn thấp. Lượng vốn tự có của các DN chỉ đáp ứng từ 20% đến 30% yêu cầu. Các DN thiếu vốn dẫn đến họ không có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Nhiều nhà DN ban đầu có ý định phát triển sản xuất nhưng do thiếu vốn nên đã gặp nhiều khó khăn lúng túng trong việc triển khai, nhiều khi phải huỷ bỏ hợp đồng đã ký với đối tác. Như vậy, mặc dù khu vực KTTN vay vốn ngân hàng ngày càng tăng, nhưng nhìn chung việc tiếp cận vốn từ khu vực NHTM quốc doanh vẫn còn không ít khó khăn: Thứ nhất là vấn đề thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Các quy định hiện hành của Nhà nước và ngành Ngân hàng về “ Bảo đảm tiền vay của các TCTD” khá chặt chẽ và không có bất cứ ưu đãi nào cho các DNNQD, nên thực tế khi sử dụng tài sản để thế chấp, cầm cố bảo lãnh, các DN này gặp nhiều trở ngại, nhất là trong khâu xử lý các thủ tục như đăng ký quyền sở hữu tài sản, khó khăn trong việc xác định giá trị của tài sản thế chấp... Thứ hai, đa số các DN thường không đủ điều kiện để vay vốn tín chấp tại NH như: chưa có tín nhiệm với ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ đúng hạn (cả gốc và lãi ), không ít doanh nghiệp lừa đảo, chây ỳ trả nợ; hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, không rõ ràng về sổ sách… Thứ ba, vẫn còn tình trạng hình sự hoá quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, nhiều cán bộ tín dụng không dám cho vay do sợ làm trái luật. Việc tự chịu trách nhiệm về quyết định trong việc cho vay, và việc không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của TCTD vẫn chưa được thông thoáng. Việc cho phép TCTD được cho vay theo phương thức mà pháp luật không cấm, phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh của TCTD và đặc điểm của khách hàng, nhưng trong thực tế các DN vẫn khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Mặc dù có những DN làm ăn tốt, đạt doanh số và nộp thuế rất cao nhưng các ngân hàng vẫn không dám mạnh dạn cho vay, nhất là đối với các khoản vay lớn không có tài sản thế chấp (đặc biệt là sau vụ án Minh Phụng-EPCo). Ngoài ra, còn không ít DN ngoài quốc doanh khác lừa đảo, chây ì trả nợ…Trong khi đó, những mặc cảm về mức độ rủi ro của vốn vay đối với KTTN từ các ngân hàng vẫn còn khá nặng nề. Việc cơ quan hành pháp coi ngân hàng là người gây hại trong một số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tiền vay, mà thực ra ngân hàng cũng là người bị hại, trong thời gian qua vẫn để lại tâm lý nặng nề đối với các cán bộ tín dụng của ngân hàng. Tại Việt Nam, cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của các NHTM quốc doanh tập trung chủ yếu ở hai ngân hàng: Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam, gần đây là Ngân hàng Chính sách Xã hội, bởi các ngân hàng này có Chi nhánh xuống tận cấp huyện cấp xã. Theo số liệu báo cáo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đến cuối năm 2003, dư nợ cho vay các DNNQD tăng 95,5% so đầu năm (chiếm tỷ trọng 15,3% ), dư nợ cho vay hộ sản xuất tăng 34% so đầu năm (tỷ trọng 63%). Tóm lại, rõ ràng các DNNQD đặc biệt là các DN nhỏ, hộ kinh doanh quy mô nhỏ có ít vốn, hộ nghèo lại thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận với các NHTM quốc doanh, do các tổ chức này vẫn thường ưu tiên các khách hàng lớn. Trong một số trường hợp, các DN nhu cầu thực sự lại phải tìm đến những tổ chức cho vay nặng lãi với lãi suát “cắt cổ”. Thực tế tồn tại cả những “ngân hàng ma” thò “ chiếc vòi bạch tuộc” vào những ngóc ngách mà ngân hàng để trống. Mặc dù hiện nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội đang được trao nhiệm vụ hỗ trợ và đặt nhiều quan tâm đến các đối tượng này, song vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu vốn của các DNNQD. Thực tế trên đòi hỏi tất cả các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng, mà đặc biệt là các NHTM quốc doanh phải quan tâm hơn đến đối tượng khách hàng DNNQD, phải có sự đổi mới trong cách nhìn, trong chiến lược hoạt động, trong chính sách tín dụng: hướng nhiều hơn đến các DNNQD. Chương 2 Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công. 2.1 Tổng quan chung về VCB Thành Công Mạng lưới VCB tại Hà Nội gồm Trụ sở chính đặt tại số 78 Nguyễn Du, 4 chi nhánh cấp 2: Chi nhánh Thành Công, chi nhánh Cầu Giấy, chi nhánh Chương Dương và chi nhánh Ba Đình; 3 phòng giao dịch và 1 quầy thu đổi ngoại tệ tại sân bay quốc tế Nội Bài. Ngân hàng Ngoại thương Chi nhánh cấp 2 Thành Công được thành lập ngày 31 tháng 10 năm 2001 theo quyết định số 525/QĐ/TCCB - ĐT, đặt tại số 30, 32 Láng Hạ, quận Đống Đa. Chi nhánh là Ngân hàng cấp I, loại 2 trực thuộc trung tâm điều hành VCB, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và Điều lệ hoạt động của VCB. Chi nhánh là một đơn vị hạch toán độc lập nhưng tương đối phụ thuộc vào VCB, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản giao dịch tại NHNN cũng như các tổ chức tín dụng khác trong cả nước. Kể từ khi thành lập đến nay, Chi nhánh Thành Công đã và đang hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự kinh doanh, tự bù đắp và có lãi. a. Nhiệm vụ của VCB Thành Công bao gồm: a.1 Huy động vốn - Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước bằng đồng VN và đồng ngoại tệ - Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi và thực hiện các hình thức huy động khác theo quy định của VCB - Tiếp nhận các nguồn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước và ngoài nước theo qui định của VCB - Được phép vay vốn ngắn hạn, trung dài hạn của các tổ chức tài chính trong nước theo qui định của VCB a.2. Cho vay - Cho vay ngắn hạn, trung dài hạn bằng đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ với các tổ chức kinh tế - Cho vay ngắn hạn, trung dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế a.3. Kinh doanh ngoại hối: Huy động vốn, cho vay, mua, bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp. a.4. Kinh doanh dịch vụ: Thu, chi tiền mặt, mua bán vàng bạc, máy rút tiền tự động, dịch vụ thẻ Tín dụng, két sắt, nhận cất giữ, chiết khấu các loại giấy tờ có giá trị, thẻ thanh toán, nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức Tài chính, Tín dụng, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, các dịch vụ Ngân hàng khác được Nhà nước, VCB cho phép. a.5. Cân đối, điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các Chi nhánh VCB trực thuộc trên địa bàn a.6. Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo qui định của VCB a.7. Thực hiện đầu tư dưới các hình thức như: hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi được VCB cho phép a.8. Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo thi đua, khen thưởng theo phân cấp uỷ quyền của VCB a.9. Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế đọ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn theo qui định của VCB a.10. Tổ chức phổ biến, hướng dẫn và triển khai thực hiện các cơ chế, quy chế nghiệp vụ và văn bản pháp luật của Nhà nước, ngành Ngân hàng và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam liên quan đến hoạt động của các Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương. a.11. Nghiên cứu, phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, Tín dụng và đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương. a.12. Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy định và theo yêu cấu đột xuất của Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương. a.13. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương giao. b. Sơ lược kết quả hoạt động của VCB Thành Công Tín dụng đối với DNNQD là một bộ phận của hoạt động tín dụng, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của công tác huy động vốn. Vì vậy ở phần này xem xét những kết quả đạt được về huy động vốn và tín dụng để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình tín dụng đối với DNNQD ở phần sau. b.1 Kết quả huy động vốn Bảng 2: Kết quả huy động vốn tại VCB Thành Công ( Đơn vị : Tỷ đồng) Chỉ tiêu 2002 2003 2004 A Tổng nguồn tiền gửi của KH 1.090,7 1.408 1.607 1. Nguồn vốn nội tệ 359,93 633,6 642,8 2. Nguồn vốn ngoại tệ (quy VND) 730,77 774,4 964,2 B Cơ cấu NV theo kỳ hạn 1. NV không kỳ hạn 534,44 675,84 819,57 2. NV kỳ hạn <12 tháng 305,94 344,6 409,5 3. NV kỳ hạn >12 tháng 250,32 387,56 377,93 C Cơ cấu NV theo Tphần Ktế 1. Tiền gửi của dân cư 272,675 295,68 369,61 2. Tiền gửi của các tổ chức 818,025 1112,32 1237,39 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 2002,2003,2004 Chi nhánh Thành Công ). Tổng nguồn vốn huy động toàn Chi nhánh liên tục tăng trong 3 năm, năm 2003 đạt 1.408 tỷ, tăng 29,1% so với năm 2001. Năm 2004, tổng vốn huy động đạt 1.607 tỷ , tăng14,1% so với năm 2003. Như vậy tốc độ tăng trưởng huy động vốn có xu hướng chậm lại, do nhiều lý do bất l._.ợi như mức độ cạnh tranh cao, lãi suất huy động thấp, lạm phát tiếp tục làm công chúng có tâm lý e ngại gửi tiền... Với truyền thống của VCB là ngân hàng đối ngoại, Chi nhánh Thành Công cũng luôn đạt mức huy động vốn bằng ngoại tệ khá cao, chiếm hơn 50% tổng vốn huy động: Năm 2002 chiếm 67%, 2003 chiếm 55%và 2004 chiếm 60%. Tuy nhiên, vốn ngoại tệ tăng trưởng chậm do một số nguyên nhân chung như: nhập siêu vẫn còn cao, lãi suất huy động vốn ngoại tệ tiếp tục thấp... Vốn huy động có kỳ hạn cũng luôn chiếm hơn 50% tổng nguồn huy động và liên tục tăng qua các năm. Trong đó vốn trung và dài hạn chiếm tỷ trọng khá cao, phần nào đáp ứn nhu cầu vốn trung dài hạn của khách hàng, so với các chi nhánh khác đây là ưu điểm đáng chú ý trong công tác huy động vốn của Chi nhánh.Mặc dù vậy, so với tổng nguồn vốn huy động được, nguồn vốn kỳ hạn trên 12 tháng vẫn chiếm tỷ trọng thấp, chưa đến 30%. Do vậy trong tương lai hướng phát triển công tác huy động vốn vẫn cần chú ý thay đổi cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng nguồn vôn trung dài hạn, giảm thiểu rủi ro.Đây cũng là thách thức chung với toàn bộ hệ thống ngân hàng hiệ nay. Xem xét cơ cấu nguồn vốn theo thành phân kinh tê, có thể thấy nguồn tiền gửi của dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ :năm 2002 chiếm 25% tổng nguồn, năm 2003 chiếm 21%, năm 2004 chiếm 23%. Đây là nguồn vốn khá ổn định cho ngân hàng do đa phần dân cư gửi tiền tiết kiệm , ít có nhu cầu rut tiền thường xuyên hoặc đột xuất. Trong khi đó, hầu hết các tổ chức kinh tế gửi tiền thanh toán, rút, chuyển tiền thường xuyên nên ngân hàng dễ bị động. Nguồn tiền gửi của dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ chứng tỏ nguồn vốn của Chi nhánh không ổn định lắm. b.2 Hoạt động tín dụng Bảng 3: Tình hình hoạt động tín dụng tại VCB Thành Công ( Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ tiêu 2002 2003 2004 A Tổng dư nợ cho vay 574 775 916 1. Trong hạn 550 729,5 881 2. Quá hạn phát sinh 11,7 13 13,7 3. Nợ chờ xử lý 5 8 9 4. Nợ cho vay được khoanh 7,3 24,5 12,3 B Dư nợ phân theo thời gian 1. Dư nợ ngắn hạn 304,22 395,25 494,64 2. Dư nợ trung và dài hạn 257,48 347,25 400,06 3. Nợ khoanh và nợ chờ xử lý 12,3 32,5 21,3 C Dư nợ phân theo loại tiền 1. Dư nợ nội tệ 275,52 317,7 366,4 2. Dư nợ ngoại tệ 298,48 457,3 549,6 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 2002, 2003,2004 Chi nhánh Thành Công) Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng nhìn chung là khá tốt, tăng trưởng 35% năm 2003, 19% năm 2004. Năm 2004 có vẻ chậm lại, chất lượng tín dụng cơ bản là tốt song cũng đã phát sinh nợ quá hạn ở mức độ dưới 2% tổng dư nợ. Đây là nguồn gốc của các koản nợ quá hạn trong tương lai, do đó là vấn đề Chi nhánh cần sớm lưu ý khắc phục. Dư nợ ngắn hạn lần lượt chiếm 53%,51%,54% tổng dư nợ tín dụng qua các năm. Dư nợ trung dài hạn liên tục tăng, tăng gần 90 tỷ năm 2003, tăng 99tỷ năm 2004. Một số chỉ tiêu khác như dư nợ theo thành phần kinh tế cho thấy dư nợ đối với các DNNN vẫn chiếm tới hơn 80 % tổng dư nợ, cho vay tiêu dùng, đời sống, cầm cố chứng chỉ có giá chiếm khoảng 3%, còn lại là cho vay các DNNQD. Cơ cấu dư nợ theo loại tiền : dư nợ nội tệ năm 2002 đạt 48% tổng dư nợ, năm 2003 đạt 41%, năm 2004 đạt 40% tổng dư nợ. Như vậy cũng có nghĩa dư nợ ngoại tệ tăng dần tỷ trọng qua các năm, phát huy truyền thống Chi nhánh ngân hàng đối ngoại. Đánh giá chung: Có thể thấy mặc dù mới thành lập được hơn 3 năm song chi nhánh Thành Công đã sớm đạt được những kết quả khả quan, nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và ổn định hoạt động. Kết quả kinh doanh trong 3 năm qua đối với một chi nhánh mới ra đời là rất đáng mừng. Số lượng khách hàng đến với Chi nhánh rất đông, cán bộ nhân viên luôn bận rộn, thậm chí có lúc bận tới mức không thể trả lời hết cho khách hàng nên cũng có những phản ánh chưa hài lòng. 2.2 Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công 2.2.1.Xét về quy mô a. Doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Trong những năm gần đây, cạnh tranh giữa các Ngân hàng Thương mại ngày càng gay gắt nhằm thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Nhận thức được thực tế trên, VCB Thành Công với mục tiêu “Tăng trưởng tín dụng, đảm bảo yêu cầu về chất lượng tín dụng, lấy chất lượng làm trọng và phù hợp với cơ chế quản lý, giám sát của ngân hàng", đã chủ trương mở rộng cho vay đối với một thị trường thực sự tiềm năng: đó là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Bảng sau sẽ cho thấy tình hình cho vay đối với các thành phần kinh tế tại ngân hàng. Bảng 4. Cơ cấu cho vay chia theo thành phần kinh tế (đơn vị tính: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Doanh số cho vay 1.413 100 1.695 100 1.898 100 DNNN 1.272 90 1.436 84,72 1.470 77.5 NQD 141 10 259 15,28 427 22.5 (Nguồn : Báo cáo kinh doanh tại và báo cáo tín dụng của VCB Thành Công các năm 2002, 2003 và 2004.) Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy: từ năm 2002 đến năm 2004, doanh số cho vay của Ngân hàng không ngừng tăng (năm 2003 tăng 20% so với năm 2002, năm 2004 tăng 12% so với năm 2004), tuy tốc độ tăng có giảm vào năm 2004, trong đó chủ yếu là do doanh số cho vay các doanh nghiệp Nhà nước tăng mạnh. Cho vay doanh nghiệp Nhà nước trong cơ cấu cho vay của chi nhánh chiếm tỷ trọng rất lớn (trên 80% trong 2 năm 2002, 2003 năm 2004 có giảm song vẫn ở mức 77.5% ). Bên cạnh đó, tỷ trọng tín dụng cho DNNQD chỉ chiếm dưới 25%. Năm 2002, tín dụng cho DNNQD chiếm 10%, năm 2003 tăng lên 15,28%, riêng năm 2004, con số này chiếm tới 22.5%. Song đây vẫn là con số rất nhỏ bên cạnh quy mô tín dụng đối với khu vực kinh tế nhà nước. Khi tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng này, có thể thấy được một số lý do như sau: - Trước hết VCB Thành Công cũng là một NHTM quốc doanh, nên tình trạng này là phổ biến và không có gì đáng ngạc nhiên. - Khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của Chi nhánh nếu là các hộ gia đình sản xuất kinh doanh, tư nhân cá thể, là những đối tượng hoạt động với quy mô tương đối nhỏ. Do đó nhu cầu tín dụng của họ cũng không lớn. - Các DN tư nhân khác thì cần vốn nhưng không đáp ứng được điều kiện về TSĐB. - Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân trong những năm gần đây hoạt động có khởi sắc song phần lớn cán bộ của VCB Thành Công chưa tin tưởng và quan tâm đến đối tượng này. Cho vay khu vực kinh tế tư nhân thường gặp rủi ro cao. Thực tế khu vực này luôn là nguyên nhân chính làm tăng nợ quá hạn tại các Ngân hàng nói chung và VCB Thành Công nói riêng trong những năm trước đây. Vì vậy Ngân hàng còn rất thận trọng khi cấp tín dụng cho khu vực này. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận là trong 3 năm qua từ năm 2002 đến năm 2004 doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công đã tăng trưởng một cách đáng kể cả về số tương đối và tuyệt đối: năm 2002 là 141 tỷ đồng, năm 2003 tăng lên 259 tỷ đồng (tăng 83,7% so với năm 2002), năm 2004 tăng 168 tỷ đồng, tương đương 65% so với năm 2003. Tốc độ tăng trưởng trên cho thấy dấu hiệu khả quan trong việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công. b. Dư nợ đối với khu vực ngoài quốc doanh Dư nợ tín dụng tại một thời điểm nào đó phản ánh cả tình hình cho vay và thu nợ cho đến tận thời điểm tính. Dư nợ tín dụng thường tính vào cuối kỳ (31/12 từng năm). Vì vậy, dư nợ tín dụng là chỉ tiêu không thể thiếu khi xem xét tình hình cho vay. Bảng 5. Tình hình thu nợ qua các năm (Đơn vị : tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % 1.Tổng doanh số thu nợ 1.355 100 1.627 100 1.824 100 - QD 1.248 92.14 1.424 87.54 1.539 84.4 - NQD 107 7.86 203 12.45 284 15.6 2. Tổng t.nợ/tổng c.vay 95.9 96 96.12 3.T.nợNQD/c.vay NQD 75,41 78,35 66.5 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2004- VCB Thành Công) Nhìn bảng ta có thể thấy tình hình thu nợ nói chung và của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng liên tục tăng qua các năm. Điều này chứng tỏ hiệu quả tín dụng NQD của Chi nhánh ngày càng tăng, làm giảm nợ quá hạn, phản ánh công tác thu nợ được chú trọng quan tâm. Hơn nữa, doanh số thu nợ tăng cũng một phần là do trong những năm gần đây, các DNNQD làm ăn ngày càng có hiệu quả, tăng khả năng hoàn trả vốn vay Ngân hàng đầy đủ, đúng hạn. Đây là kết quả của nỗ lực bản thân các chủ thể thuộc khu vực kinh tế này cộng với môi trường kinh tế chính sách ngày càng được cải thiện tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Xét về tình hình dư nợ: Bảng 2.6: Dư nợ phân theo thành phần kinh tế. Đơn vị tính : tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 số tiền tỷ trọng % số tiền tỷ trọng % số tiền tỷ trọng % Tổng dư nợ 574 100 775 100 916 100 - DNNN 489,6 85.3 635,8 82.04 714,6 78,02 - NQD 84,3 14.7 139,2 17.96 201,3 21,98 Dư nợ NQD so với năm trước : - Tăng 54,9 65,1 62,1 44,6 - Giảm (Nguồn:Báo cáo hoạt động kinh doanh và báo cáo tín dụng của VCB Thành Công các năm 2002, 2003 và 2004 ) Theo bảng 2.6, các chỉ tiêu tổng dư nợ, dư nợ đối với khu vực kinh tế quốc doanh và dư nợ đối với DNNQD đều tăng. Tỷ trọng dư nợ đối với khu vực kinh tế Quốc doanh có xu hướng giảm trong tổng dư nợ, năm 2002 chiếm 85.3%, năm 2003 giảm xuống 82.04% và năm 2004 giảm xuống còn 78,02% trong tổng dư nợ. Ngược lại, tỷ trọng dư nợ đối với DNNQD ngày càng tăng, năm 2002 chiếm 14.7%, năm 2003 tăng lên 17.96% và năm 2004 tăng lên đến 21,98% trong tổng dư nợ, có được điều này là bởi vì trong ba năm qua doanh số cho vay đối với DNNQD ngày càng tăng cao, mặc dù doanh số thu nợ đối với DNNQD ngày càng tăng trong ba năm qua nhưng tốc độ tăng của cho vay nhanh hơn nhiều nên mức dư nợ vẫn tăng lên một cách đáng kể. Tình hình này là rất lạc quan và có triển vọng đối với DNNQD, chắc chắn rằng trong tương lai tín dụng đối với DNNQD sẽ còn tăng mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng đặc biệt là đối với khu vực nông thôn. c. Cơ cấu tín dụng ngoài quốc doanh Bảng 2.7: Cơ cấu cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phân theo kỳ hạn ( Đơn vị : tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số tiền Số tiền Số tiền 1.Doanh số cho vay 141 259 427 - Ngắn hạn 101,01 221,8 345 - Trung, dài hạn 39,98 37,1 82 2. Dư nợ 47 95 210 - Ngắn hạn 35,4 67,8 167,6 - Trung dài hạn 11,7 27,2 42,4 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh và báo cáo tín dụng của VCB Thành Công các năm 2002, 2003 và 2004) Như vậy trong cơ cấu kỳ hạn của doanh số cho vay, tín dụng ngắn hạn đều lớn hơn so với tín dụng trung và dài hạn (tỷ trọng tín dụng ngắn hạn năm 2002 là 71,64%, năm 2003 là 85,67%, năm 2004 là 80,7%). Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn năm 2003 có giảm xuống so với năm 2002 (14,33% năm 2003 so với 28,36% năm 2002), nhưng năm 2004 lại tăng lên 19,3%. Bên cạnh đó, cơ cấu dư nợ cũng nghiêng về tín dụng ngắn hạn. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn trong tổng dư nợ NQD qua các năm 2002, 2003, 2004 lần lượt là: 75%, 71%,và xấp xỉ 80%. Như vậy không những dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn, mà cao hơn rất nhiều và không ngừng tăng lên. Khi tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng này tại VCB Thành Công, thì có một số lý do chính như sau: - Vốn dĩ các DNNQD vốn mỏng, vốn lưu động ít và đòi hỏi phải quay vòng nhanh mới đủ vốn kinh doanh, nên phần lớn có nhu cầu vay vốn để bổ sung VLĐ, tức là xin cấp tín dụng ngắn hạn là chính. - Mặt khác hầu hết các DNNQD hoạt động kinh doanh thương mại vừa và nhỏ, mua đi bán lại nên ít có nhu cầu đầu tư TSCĐ, nhà xưởng máy móc- là những loại hình đầu tư cần vốn trung dài hạn. Số DNNQD sản xuất công nghiệp hầu như không có. Còn các hộ gia đình và tư nhân cá thể thì lại càng ít có nhu cầu tínd ụng trung dài hạn. - Nếu có DNNQD nào muốn vay vốn trung dài hạn thì lại không thể đáp ứng được điều kiện vay vốn, nhất là các điều kiện về TSĐB, thêm vào đó là hệ thống sổ sách kế toán không đúng theo pháp lệnh kế toán hiện hành, hoặc không đủ vốn đối ứng (tức là ngân hàng chỉ cho vay một tỷ lệ phần trăm nhất định, khoảng 70-80% tổng giá trị dự án, phần còn lại DN phải tự đáp ứng bằng vốn CSH, nhưng ngay cả số vốn đó DN cũng không có đủ) - Một lý do nữa là nguyên nhân chủ quan từ phía cán bộ ngân hàng, hầu hết chưa tin tưởng và còn rất e dè khi cho DNNQD vay ngay cả tín dụng ngắn hạn ít rủi ro hơn còn ngại, huống chi là tín dụng trung dài hạn. Về điểm này lại có nguyên nhân sâu xa của nợ, là ở chất lượng các khoản vay trung dài hạn, mà chúng ta sẽ xét đến ngay sau đây. 2.2.2 Xét về chất lượng Khái niệm chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều nội dung trong đó có nội đung quan trọng thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Theo thông lệ quốc tế, nếu tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% tổng dư nợ hàng năm, trong đó tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng dư nợ quá hạn thấp thì được coi là tín dụng có chất lượng tốt, trên mức này là có vấn đề. Quy mô và chất lượng là 2 mặt quan hệ rất khăng khít của vấn đề tín dụng. Nếu chỉ mở rộng quy mô mà bỏ qua vấn đề chất lượng, sẽ dẫn đến rủi ro cao và kết quả khó lường. Nếu chỉ nâng cao chất lượng mà với quy mô hẹp thì cũng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Do đó, đã bàn tới quy mô tín dụng thì nhất thiết phải xem xét đến chất lượng của nó. Bảng 2.8: Tình hình nợ quá hạn. ( Đơn vị : tỷ đồng) Chỉ tiêu 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 Số tiền %(NQH/dư nợ ) số tiền %(NQH/dư nợ ) số tiền %(NQH/dư nợ ) Tổng dư nợ quá hạn 24 4,18 45,5 5,8 35 3,82 NQD 2,82 6,1 11,3 8,124 11,93 5,93 - Ngắn hạn 2,08 5,88 5,42 4,8 4,38 3,673 - Trung và Dài hạn 0,75 6,32 5,88 21,6 7,55 17,8 (Nguồn: Báo cáo VCB Thành Công) Nhìn vào số liệu bảng trên, điểm đầu tiên cần phải nói là tỷ lệ nợ quấ hạn của khu vực NQD cao, luôn cao hơn mức 5% và rất không ổn định, năm 2002 là 6,1%, năm 2003 tăng vọt lên tới 8,124 % và đến 2004 lại giảm còn 5,93%. Tỷ lệ cao và bấp bênh không ổn định này chứng tỏ ngân hàng không kiểm soát được chất lượng tín dụng, điều này có thể gây rủi ro cao cho tín dụng NQD nói riêng, đồng thời ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ quá hạn nói chung của toàn chi nhánh. Chất lượng tín dụng NQD của VCB Thành Công nhìn trước là không ổn. Khi phân tích sâu về nguyên nhân thì phải xem cơ cấu nợ quá hạn ra sao. Cơ cấu nợ quá hạn trong tín dụng NQD có sự thay đổi chiều hướng qua 3 năm. Năm 2002 đa sơ nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm trong tín dụng ngắn hạn: chiếm tới 74% tổng nợ quá hạn NQD. Tỷ lệ nợ quá hạn của tíndụng ngắn hạn ngoài quốc doanh cao, tới 5,88%. Tuy nợ quá hạn NQD trung dài hạn chiểm tỷ trọng ít trong tổng dư nợ, nhưng đó là do dư nợ trung dài hạn cũng ít. Vì thế mà tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ NQD trung dài hạn cũng lên tới 6,32%, cao hơn cả ngắn hạn. Trong 2 năm tiếp theo, chấtlượng tín dụng ngắn hạn đã đwocj cải thiện rõ rệt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn giảm đều qua 2 năm (4,8% năm 2003 và 3,6% năm 2004), xuống dưới mức 5%. Tuy vậy, chất lượng tín dụng trung dài hạn ngày càng bộc lộ không tốt, ngày càng đáng lo ngại. Đa số nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nằm trong loại cho vay trung và dài hạn: năm 2003, dư nợ quá hạn trung và dài hạn là 5,88 tỷ đồng, chiếm 21,6% dư nợ trung và dài hạn, chiếm 52% dư nợ quá hạn của ngoài quốc doanh; năm 2004, các con số này lần lượt là 7,55 tỷ đồng, 17,8% và 63,2%. Tình trạng này có thể do hai lý do: Thứ nhất, công tác thẩm định chưa đảm bảo nên còn có những món vay trung dài hạn chất lượng kém, khách hàng không sử dụng vốn đúng mục dích hoặc không đủ khả năng sản xuất kinh doanh tốt để hoạt động có lãi, hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Thứ hai, do thời hạn dài, trong đó có nhiều rủi ro xảy ra như những bất lợi về điều kiện kinh tế, về thị trưòng giá cả… mà cả Ngân hàng và khách hàng đều không lường trước được và cũng không thể kiểm soát được. Nhìn chung, tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn cao và tăng giảm thất thường là vấn đề nghiêm trọng trong chất lượng tín dụng NQD của VCB Thành Công, đòi hỏi ngân hàng phải sớm có biện pháp khắc phục nếu không nó có ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại vầ phát triển của ngân hàng. 2.3 Đánh giá chung hoạt động tín dụng ngoài quốc doanh tại VCB Thành Công. 2.3.1. Kết quả Hoạt động tín dụng NQD tại VCB Thành Công những năm qua đã có nhiều chyển biếm tích cực: quy mô tín dụng ngày càng tăng thể hiện ở việc cả doanh số cho vay và dư nợ đều tăng. Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng, qua 3 năm tỷ trọng đã tăng lên đáng kể, và tăng một cách ổn định.Ngày càng có nhiều khách hàng đến với VCB Thành Công để vay vốn và đã được Ngân hàng đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Với một cơ cấu kỳ hạn của doanh số mà hầu hết là tín dụng ngắn hạn (trên 90%), trong 3 năm gần đây cho thấy Chi nhánh hiện nay chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động cho các chủ thể ngoài quốc doanh. Cơ cấu tín dụng ngoài quốc doanh bước đầu cũng có những thay đổi theo chiều hướng tốt song mới chỉ là bước đầu. Trong đó tín dụng ngắn hạn có phần thay đổi tốt hơn và ngày càng ổn định, đóng góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng tín dụng ngoài quốc doanh của VCB Thành Công. Nguyên nhân khách quan: Có được những kết quả trên trước hết là do điều kiện kinh tế khách quan có nhiều thuận lợi cho việc phát triển tín dụng nói chung và tín dụng ngoài quốc doanh nói riêng. Trong hai năm 2003 và 2004 nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc, chặn được đà giảm sút, đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá: tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức trên 7%. Chính phủ đã từng bước có những điều chỉnh về chính sách nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế hoạt động có hiệu quả, trong đó có các Ngân hàng thương mại và các DNNQD. Mặc dù tình hình kinh tế - xã hội vẫn không tránh khỏi bộc lộ những yếu kém làm ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế, đồng thời cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng buộc các NHTM phải tìm và mở rộng cho mình những đối tượng khách hàng mới. Các ngân hàng thương mại hiện nay đều nhận thức rằng khu vực ngoài quốc doanh là hướng ngỏ đầy tiềm năng cho việc chiếm lĩnh thị phần tín dụng. Vì vậy, VCB Thành Công cũng như một số ngân hàng khác đều tăng doanh số cho vay với DNNQD trong vài năm gần đây. Nguyên nhân chủ quan: điều kiện thuận lợi là thuận lợi nói chung, điều quan trọng là mỗi cá thể trong môi trường đó có thể tận dụng cơ hội thuận lợi đó như thế nào để phát triển bản thân và đạt được những bước tiến cho riêng mình. Trong bói cảnh nền kinh tế có nhiều thuận lợi như trên, VCB Thành Công đã kịp thời nắm lấy cơ hội, nhờ đó tín dụng với DNNQD của VCB Thành Công có nhiều khởi sắc. - Định hướng, mục tiêu rõ ràng: Trứơc tiên phải kể đến là VCB Thành Công đã xác định cho mình một hướng đi rõ ràng, xác định tư tưởng cho toàn bộ nhân viên ngân hàng trong việc chú trọng nâng cao tín dụng với DNNQD. Nhờ đó, trong quan hệ tín dụng với DNNQD, Chi nhánh luôn đáp ứng nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả, nhưng vẫn tuân theo các bước trong quy trình tín dụng. - Chính sách khách hàng đúng đắn, VCB Thành Công thực hiện nhiều chính sách ưu đãi với các DNNQD, khuyến khích họ vay vốn ngân hàng mở rộng sản xuất kinh doanh. Trước tiên, Chi nhánh có những chính sách ưu đãi với những khách hàng có uy tín và quan hệ lâu dài để giữ vững mối quan hệ, đồng thời thúc đẩy các đối tượng này sử dụng toàn bộ dịch vụ của họ tại VCB Thành Công. Mặt khác, với chủ trương chủ động tìm kiếm khách hàng, Chi nhánh tăng cường công tác Marketing đến mọi đối tượng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, Chi nhánh ngày càng có thêm nhiều khách hàng. Hơn nữa, nhờ chủ động tìm kiếm khách hàng mà Chi nhánh có cơ hội lựa chọn khách hàng kinh doanh có lãi và tiềm năng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng - Chất lượng hoạt động ngày càng cao của VCB Thành Công đã thu hút được ngày càng nhiều khách hàng trên địa bàn tìm đến sử dụng dịch vụ ngân hàng và vay vốn. - Do công tác huy động vốn của Chi nhánh luôn đạt được kết quả cao, Ngân hàng luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng cả về quy mô, kỳ hạn và loại tiền. Mặt khác, Chi nhánh còn áp dụng chính sách ưu đãi về lãi suất cho các khách hàng vay vốn mà có số tiết kiệm thì áp dụng mức lãi suất cho vay ngắn hạn là, 65%/ tháng, trung và dài hạn là 0,6%/tháng. Còn nếu không có sổ tiết kiệm thì lãi suất tương ứng sẽ là 0,7%/tháng và 0,65%/tháng. Nhờ vậy, khách hàng đã đến lại càng muốn quay lại, khách hàng chưa đến lại càng muốn đến thử khi nghe tiếng tốt. 2.3.2. Những hạn chế Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, song hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VCB Thành Công vẫn còn có những hạn chế về quy mô và chất lượng tín dụng a. Về quy mô tín dụng Quy mô tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh trong nhưng năm qua có tăng với tốc độ tăng khá nhanh song quy mô còn thấp so với khu vực kinh tế quốc doanh. Mặt khác, cần phải thấy ở vị trí của Chi nhánh Thành Công, xung quanh đường Láng Hạ, Nguyễn Chí Thanh và khu vực Quận Đống Đa vốn rất tấp nập, hoạt động kinh doanh diễn ra sôi nổi và là nơi đặt trụ sở của rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi ở vị trí mà có khả năng tiếp cận với rất nhiều thành phần chủ thể thuộc khu vực này, doanh số cho vay của VCB Thành Công như vậy là vẫn ở mức thấp, chưa khai thác được các đối tượng khách hàng tiềm năng trên địa bàn của mình. Bên cạnh đó, tín dụng cho các DNNQD kinh doanh trên lĩnh vực xuất nhập khẩu còn rất ít, trong khi cho vay ngoại tệ vốn là thế mạnh của VCB Thành Công- như là một đặc trưng của các Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương. Các khoản tín dụng ngoại tệ của ngân hàng chủ yếu dành cho các DNXNK quốc doanh. Thực tế thì DNNQD kinh doanh XNK cũng rất nhiều, và họ còn có nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn phục vụ XNK cũng như thanh toán quốc tế. Họ thực sự cần đến sự hỗ trợ về vốn tín dụng cũng như tư vấn, thanh toán quốc tế, cần đến những kinh nghiệm của ngân hàng trong lĩnh vực này. Trong số các DNNQD, các DN có vốn đầu tư nước ngoài vốn là những đơn vị mạnh, làm ăn có hiệu quả hơn cả thì VCB Thành Công lại chưa tiếp cận được với đối tượng này. Đây là khách hàng tiềm năng có nhiều kỳ vọng mà VCB Thành Công nên sớm quan tâm đến. b.Về chất lượng tín dụng Nợ quá hạn có chiều hướng giảm chậm song vẫn còn rất cao. So với tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực kinh tế Nhà nước thì tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh luôn cao gấp nhiều lần. Trong ba năm tỷ trọng tín dụng NQD dù có tăng nhưng vẫn chỉ ở mức dưới 25% tổng dư nợ tín dụng. Trong khi đó tỷ trọng nợ quá hạn từ khu vực kinh tế NQD trong tổng nợ quá hạn thì tăng với tốc độ cao hơn nhiều, năm 2002 chiếm gần 12%, năm 2003 đã tăng lên 24,8% và 2004 là 34,1 %. Sự mâu thuẫn này chứng tỏ tăng trưởng tín dụng NQD còn có phần ồ ạt, chạy theo doanh số, chưa phải là một sự tăng trưởng bền vững. Hơn nữa trong cơ cấu nợ quá hạn của khu vực ngoài quốc doanh thì tỷ lệ nợ khó đòi rất cao và ngày càng gia tăng. Có nghĩa là chất lượng của nợ quá hạn nói riêng cũng rất thấp. Đó là chưa tính đến việc gia hạn nợ. Nếu công tác này không được thực hiện một cách nghiêm túc, gia hạn nợ không dựa trên triển vọng thực tế của dự án thì con số nợ quá hạn còn cao hơn. Và kết luận tất nhiên là chất lượng tín dụng thực tế còn thấp hơn nữa. c. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan của tình trạng trên: - Kinh tế Mặc dù phát triển kinh tế những năm gần đây khá ổn định, tốc độ tăng trưởng cao nhưng đi đôi với nó là mức độ gay gắt của cạnh tranh tăng lên. Nền kinh tế càng phát triển, toàn cầu hoá diễn ra càng sâu sắc thì cạnh tranh trong nền kinh tế càng trở nên quyết liệt. Quá trình gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế ở Việt nam kéo theo sự có mặt ngày càng gia tăng của hàng hoá và các công ty nước ngoài, đặt ra thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với xuất phát điểm không cao và không được sự trợ giúp của Nhà nước như các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân không thể đứng vững trong cạnh tranh dẫn đến thua lỗ, trong đó có những khách hàng của VCB Thành Công, làm nợ quá hạn của khu vực ngoài quốc doanh tăng cao. Mặt khác, tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh từ trước đến nay vẫn được coi là thị trường quen thuộc của các ngân hàng cổ phần. Đặc biệt, các ngân hàng nước ngoài là nhà cung cấp tín dụng ngoại tệ chính cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của VCB Thành Công trong những năm qua lại càng trở nên khó khăn. - Cơ chế tín dụng: Trước tháng 8/2000 quy định của Ngân hàng Nhà nước về các thủ tục, chế độ cho vay đối với các chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh quá cứng nhắc. Chỉ đến giữa tháng 10/2000 thì thể lệ tín dụng mới đi vào hoạt động, có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, phần nào “Cởi trói” cho cả ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quan hệ tín dụng. Song ảnh hưởng của cơ chế cũ vẫn tồn tại làm cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận tín dụng ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, trước khi có cơ chế lãi suất cơ bản và mới đây (6/2002) là cơ chế lãi suất thoả thuận thì lãi suất cho vay vốn của ngân hàng đối với các doanh nghiệp tư nhân còn cao hơn doanh nghiệp nhà nước, trong một số thời điểm gấp 1,4 đến 1,5 lần lãi suất cho vay doanh nghiệp nhà nước. Lãi suất cao cũng là một nguyên nhân gây ra sự quá hạn. Bởi chi phí vốn quá cao thì hoạt động của các doanh nghiệp khó có thể bù đắp, dẫn đến không hoàn lại được cho ngân hàng đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Mặt khác, những quy định về giới hạn tín dụng đối với các doanh nghiệp cũng làm hạn chế quy mô cho vay của khu vực ngoài quốc doanh. Theo quy định, các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần khi lập dự án vay vốn ngân hàng thì phải có ít nhất 40% vốn tự có cho dự án đầu tư mới, 15% vốn tự có trong tổng chi phí của dự án mở rộng sản xuất kinh doanh. Rõ ràng không phải nhiều doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu này. - Tài sản bảo đảm: Sự phối hợp trong việc hoàn thành thủ tục để các TCTD có thể cho vay DNNQD chưa đồng bộ, đặc biệt là các thủ tục trong giao dịch cần có đảm bảo bằng tài sản. Tiến độ cấp Chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà còn chậm khiến khách hàng khó có thể sử dụng tài sản là nhà, đất làm tài sản đảm bảo hợp lệ trong quan hệ tín dụng; hoặc thủ tục, thời gian đăng ký giao dịch bảo đảm, tủ tục xác nhận tại một số cơ quan chính quyền phường, xã gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, mạng lưới đăng ký giao dịch bảo đảm còn mỏng, phân bố chưa hợp lý, quá nhiều cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm mà chưa có đầu mối thống nhất… Nguyên nhân chủ quan - Nguyên nhân từ phía khách hàng Là một trong hai chủ thể trong quan hệ tín dụng, các khách hàng - chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh - là nguyên nhân tác động trực tiếp lên quy mô và chất lượng tín dụng cho khu vực tư nhân của VCB Thành Công. Những lý do chính bao gồm: + Vốn tự có quá ít, không đáp ứng đủ tỷ lệ vốn tự có trong tổng vốn đầu tư + Uy tín của khu vực tư nhân rất thấp, bằng chứng là Nhà nước bị thất thu thuế với tỷ lệ cao nhất ở khu vực này, các vụ án bị đưa ra xét xử nhiều nhất, nhiều vụ đổ vỡ, phá sản xảy ra... Không ít trường hợp xảy ra hiện tượng chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh. Đến khi mất khả năng thanh toán thì lừa đảo ngân hàng, giả mạo giấy tờ xin vay vốn và lừa đảo đối tác kinh doanh rồi bỏ trốn. Mặc dù ở VCB Thành Công chưa gặp phải nhiều trường hợp này nhưng tiếng dữ đồn xa, bài học từ các NH khác cũng làm VCB Thành Công có phần chùn bước trong việc mở rộng tín dụng với khu vực ngoài quốc doanh. + Các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa đủ độ tin cậy. Hầu hết khu vực kinh tế tư nhân chưa hạch toán kế toán theo quy định, chua thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính và cũng không coi đây là một cách để nâng cao uy tín của mình, nên việc thu thập thông tin, xem xét cho vayđối với các DN này của các TCTD còn nhiều khó khăn. Do đó, hạn chế việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. + Điểm quan trọng nhất là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp NQD còn chưa ổn định, bấp bênh nên chưa thể gây được niềm tin với ngân hàng. Hiện nay rất nhiều Dn tư nhân được thành lập như một trào lưu, thành lập một cách ồ ạt mà chất lượng hoạt động lại không đảm bảo. Không ít Công ty TNHH được thành lập bởi những thanh niên mới ra trường, thậmc hí những sinh viên còn chưa tốt nghiệp, không kinh nghiệm và năng lực còn nhiều bất cập, chỉ hoạt động một vài năm rồi phá sản. Không những trình độ năng lực hạn chế, nhiêu fDN còn không đủ kảh năng lập các dự án kinh doanh khả thi để làm thủ tục vay các TCTD. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng không ít nhân tài, có trình độ quản lý tốt và kiến thức chuyên môn vững vàng, thực sự chí thú nghiêm túc làm ăn. Nhưng họ không được sự hỗ trợ từ Nhà nước và các cơ quan chức năng về thông tin thị truờng, về nguồn vốn và nhiều chính sách hỗ trợ khác. Vốn dĩ họ là những doanh nghiệp qui mô nhỏ, nguồn vốn sản xuất kinh doanh còn chưa đủ thì không thể tự mình nghiên cứu thị trường, hay thực hiện công tác Marketing, đầu tư lắp đặt sử dụng công nghệ mới…Thiếu thông tin thì không thể phânt ích nắm bắt xu hướng thị trường, sản phẩm làm ra không được thị trường chấp nhận, doanh thu không đủ bù chi phí thì việc thất bại là không tránh khỏi. Không những thế, trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt hiện nay, vthiếu thông tin cộng với trình độ công nghệ kém, không thể thực hiện chính sách Marketing thì sản phẩm không thể đủ sức cạnh tranh trên thị truờng. Đặc biệt khi Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế, hàng ngoại tràn vào ngày càng nhiều do được miễn giảm thuế quan sẽ ngày càng rẻ và cạnh tranh mạnh với hàng nội địa. Tình thế đó là thách thức lớn cho các DNNQD. Bản thân các DNNQD còn chưa chủ động tìm hiểu các dịch vụ mà các TCTD cung ứng, cũng như các yêu cầu về thủ tục trong quan hệ tín dụng với các TCTD nên khi đến giao dịch, được cán bộ của các TCTD hướng dẫn thì không khỏi lúng túng, đôi khi còn cho rằng cán bộ gây khó khăn cho mình. - Nguyên nhâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH419.doc