Mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không

MỤC LỤC BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT Ký hiệu Nghĩa Tiếng Việt MFN Chế độ ưu đãi tối huệ quốc ISO2000 Chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng HACCP Tiêu chuẩn đặt ra các nguyên tắc của hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn SA8000 Hệ thống trách nhiệm xã hội FAO Tổ chức nông lương Liên hợp quốc WTO Tổ chức Thương mại Thế giới LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời cảm ơn tới toàn bộ các thầy cố giáo trong khoa: Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tận tì

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh giảng dạy cho em trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới PGS.TS Nguyễn Như Bình đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt quá trình hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Cuối cùng, em xin xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Công ty đặc biệt là cô: Lê Thị Thảo- trưởng phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu và anh Bùi Thái Nguyên - trưởng phòng Marketing và các anh chị trong phòng Marketing, Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến để em hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên Lưu Thị Hương LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, rau quả trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu và quy mô thị trường ngày càng gia tăng. Thị trường xuất khẩu là một điểm lớn của rau quả Việt Nam. Với những bước đầu xâm nhập thị trường, rau quả Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường trong khu vực Châu Á có vị trí địa lý gần với Việt Nam như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, các nước ASEAN…. Hòa cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, rau quả Việt Nam cũng không ngừng phát triển, tích cực tìm kiếm những bước đi mới mở rộng sự có mặt rau quả Việt Nam trên khắp các Châu lục trên thế giới. Với chiến lược và hướng đi đúng đắn, thị trường rau quả của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Bên cạnh những thị trường truyền thống, hiện nay rau quả Việt Nam đã vươn xa sang các thị trường Mỹ, EU, Nam Phi, Brazil… Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa trở thành một tất yếu đối với nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới. Cũng chính vì vậy, sự cạnh tranh trên thị trường thế giới cũng diễn ra gay gắt và quyết liệt hơn. Sự sụt giảm của kim ngạch xuất khẩu rau quả và đánh mất thị trường trong một số năm đã chứng minh được điều đó. Để có được hướng đi đúng đắn, mở rộng được thị phần rau quả của Việt Nam trên thị trường thế giới đòi hỏi công tác mở rộng thị trường của nhà nước phải có những bước tiến mới, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của quá trình mở rộng. Bên cạnh đó, hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp được coi là chìa khóa để mở rộng thị trường của quốc gia đó trên thị trường thế giới đối với từng ngành hàng và mặt hàng cụ thể. Xuất phát từ tình hình thực tiến, tìm hiểu công tác mở rộng thị trường rau quả trong doanh nghiệp em đã chọn đề tài: “Mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Bài chuyên đề bao gồm 3 phần: Phần 1: Cơ sở lý luận về mở rộng thị trường xuất khẩu Phần 2: Thực trạng mở rộng thị trường xuất khẩt rau quả tại công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không Phần 3:Định hướng và một số giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không 1. Cơ sở lý luận về mở rộng thị trường xuất khẩu 1.1. Thị trường xuất khẩu hàng hóa 1.1.1. Khái niệm về thị trường xuất khẩu Đứng trên mỗi giác độ khác nhau sẽ có những khái niệm khác nhau về thị trường xuất khẩu hàng hóa. Nếu đứng trên giác độ quản lý doanh nghiệp cho thị trường thế giới thì thị trường xuất khẩu được hiểu là: Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó. Còn theo kinh tế học thì thị trường xuất khẩu được mở rộng ra và cụ thể hơn đó là: “Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là tập hợp người mua và người bán có quốc tịch khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hóa mua bán, chất lượng hàng hóa và các điều kiện mua bán khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới”. Theo nghĩa này, thị trường xuất khẩu bao gồm cả thị trường xuất khẩu trực tiếp (nước tiêu thụ cuối cùng) và thị trường xuất khẩu gián tiếp (xuất khẩu qua trung gian). 1.1.2. Phân loại về thị trường xuất khẩu Dựa trên những căn cứ khác nhau mà thị trường xuất khẩu được phân loại thành: Nếu căn cứ vào vị trí địa lý, thị trường xuất khẩu được chia thành: +Thị trường Châu lục + Thị trường khu vực + Thị trường trong nước và vùng lãnh thổ Nếu căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương, thị trường xuất khẩu được chia thành: + Thị trường truyền thống + Thị trường mới +Thị trường tiềm năng Nếu căn cứ vào mức độ quan tâm và tính ưu tiên, thị trường xuất khẩu được chia thành: + Thị trường xuất khẩu chính +Thị trường xuất khẩu tương hỗ Nếu căn cứ vào cán cân thương mại giữa nước xuất khẩu và nhập khẩu, thị trường xuất khẩu được chia thành: +Thị trường xuất siêu +Thị trường nhập siêu Nếu căn cứ vào sức cạnh tranh, thị trường xuất khẩu được chia thành: + Thị trường xuất khẩu có ưu thế cạnh tranh + Thị trường xuất khẩu có ưu thế cạnh tranh Nếu căn cứ vào các loại hình cạnh tranh trên thị trường, thị trường xuất khẩu được chia thành: +Thị trường độc quyền +Thị trường độc quyền “ nhóm” +Thị trường cạnh tranh hoàn hảo +Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo Để xem xét mức độ mở rộng thị trường xuất khẩu, người ta thường dựa trên căn cứ phân loại thị trường dựa theo vị trí địa lý và lịch sử quan hệ ngoại thương. 1.2. Mở rộng thị trường xuất khẩu 1.2.1. Khái niệm và vai trò - Khái niệm: Đứng trên những góc độ kinh tế khác nhau sẽ có những cách tiếp cận khác nhau về mở rộng thị trường xuất khẩu. Đứng trên góc độ là doanh nghiệp thì mở rộng thị trường xuất khẩu là tổng hợp các cách thức, biện pháp của doanh nghiệp để đưa ngày càng nhiều khối lượng sản phẩm ra nhiều thị trường ngoài nước để tiêu thụ. Mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp không chỉ bao gồm việc mở rộng thêm những thị trường mới mà còn phải tăng thị phần của sản phẩm trên các thị trường hiện có. Cụ thể hơn, mở rộng thị trường xuất khẩu chính là việc thâm nhập sâu hơn, rộng hơn vào những thị trường sẵn có của doanh nghiệp, đồng thời tìm kiếm những thị trường mới, tiềm năng mà doanh nghiệp có khả năng chiếm lĩnh. Doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường bằng cách đa dạng hóa sản phẩm, đưa ra những sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm để mở rộng thị phần tại thị trường hiện có hoặc đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng được cả nhu cầu tại thị trường hiện tại lẫn thị trường tiềm năng. Đứng trên góc độ của quốc gia thì mở rộng thị trường xuất khẩu là việc quốc gia đó đưa được những sản phẩm của mình thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng được phạm vi địa lý của thị trường và kết quả là tăng được kim ngạch xuất khẩu từ sản phẩm đó. Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của một quốc gia là sự kết hợp giữa hoạt động mở rộng thị trường của tất cả các doanh nghiệp trong quốc gia đó và các hoạt động hỗ trợ của các cơ quan tổ chức Nhà nước trong quốc gia đó. Trong đó, hoạt động hỗ trợ của các cơ quan tổ chức Nhà nước đóng vai trò quan trọng chi phối hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp thông qua chiến lược và định hướng phát triển của quốc gia, của ngành hàng và doanh nghiệp. Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu quốc gia ngày một rộng lớn, phạm vị mở rộng đối với từng ngành hàng và mặt hàng. 1.2.2. Vai trò của mở rộng thị trường xuất khẩu Mở rộng thị trường xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá. Thứ nhất: Mở rộng thị trường làm tăng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mở rộng thị trường xuất khẩu tức số lượng thị trường tăng lên do đó nhu cầu về sản phẩm tăng, nâng cao được khối lượng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu cũng tăng lên và lợi nhuận của doanh nghiệp cao hơn trước. Điều này, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, mở rộng sản xuất quy mô của mình trong nền kinh tế. Thứ hai: Mở rộng thị trường xuất khẩu góp phần giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp trước những biến động của thị trường nhập khẩu như tình trạng khủng hoảng thị trường khi có một thị trường bị biến động như chiến tranh, đảo chính.... Thứ ba: Hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với hoạt động nền kinh tế quốc dân như tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thương mại, nâng cao vị thế đất nước, tạo thêm được nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Thứ tư: Mở rộng thị trường góp phần củng cố phát triển mối quan hệ với các quốc gia, các khu vực trên thế giới do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, liên kết kinh tế thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển 1.2.3. Phương hướng mở rộng thị trường xuất khẩu Mở rộng thị trường xuất khẩu có thể được phân thành hai hướng là mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng và mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu - Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng là việc tăng phạm vi thị trường, đưa sản phẩm mới đến với những thị trường mới và khách hàng mới. Cụ thể hơn, mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng là sự phát triển về số lượng thị trường, số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Hay mở rộng thị trường theo chiều rộng sẽ làm phạm vị thị trường tiêu thụ sản phẩm thay đổi. Mở rộng thị trường theo chiều rộng sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng sự có mặt của sản phẩm sang các thị trường chưa biết đến sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành tốt công tác nghiên cứu thị trường để đưa ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường đang nghiên cứu. - Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu là việc gia tăng số lượng và giá trị sản phẩm xuất khẩu trên những thị trường hiện tại bằng cách gia tăng những mặt hàng hiện có hoặc những mặt hàng mới đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Cụ thể, mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu thì phạm vi thị trường tiêu thụ sản phẩm không thay đổi nhưng thị phần sản phẩm doanh nghiệp sẽ ngày càng gia tăng dựa trên việc khai thác tốt thị trường hiện có. Hiện nay, các doanh nghiệp khi mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm của mình đều kết hợp cả mở rộng thị trường theo chiều rộng và chiều sâu, có nghĩa là vừa khai thác hiệu quả thị trường hiện có vừa đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp có khả năng chiếm lĩnh được. 1.2.4.Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu 1.2.4.1.Các chỉ tiêu đo lường hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng Số lượng thị trường xuất khẩu (Tn) Công thức Tn = Tn-1 + (Tm + T k – Td) Trong đó: Tn : Số thị trường xuất khẩu năm n Tn-1: Số thị trường xuất khẩu năm n-1 Tm : Số thị trường mới mở trong năm Tk : Số thị trường khôi phục trong năm Td : Số thị trường để mất trong năm Nếu Tn tăng đều và ổn định qua các năm, chứng tỏ hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả. Ngược lại, nếu Tn không đổi, giảm hay có xu hướng biến động bất thường thì hoạt động mở rộng thị trường còn nhiều yếu kém. Số lượng thị trường mới tăng bình quân Công thức: t1 + t2 +....+tn t = n Trong đó: t: tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu bình quân t1, t2 , ...tn : số lượng thị trường xuất khẩu thực hàng năm n: số năm trong giai đoạn Khi t <0: hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kém hiệu quả, thị trường xuất khẩu đang ngày càng bị thu hẹp theo phạm vi địa lý, sản phẩm không xâm nhập được vào thị trường mới hay số lượng thị trường mới mở nhỏ hơn số lượng thị trường mất đi Khi t = 0: hoạt động mở rộng thị trường không đem lại hiệu quả, doanh nghiệp chỉ duy trì được hoạt động của mình trên những thị trường hiện có hoặc số lượng thị trường mới mà doanh nghiệp khai phá được chỉ bằng số lượng thị trường mà doanh nghiệp để mất đi. Khi t >0 : hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu có hiệu quả, sản phẩm đang chiếm lĩnh được các thị trường mới. 1.2.4.2.Các chỉ tiêu đo lường hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu - Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu liên hoàn (k) Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu liên hoàn là một chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng của kim ngạch xuất khẩu năm sau so với năm trước và được tính bằng cách lấy kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của năm cần tính chia cho kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của năm trước đó. Nếu k < 1 có nghĩa là kim ngạch xuất khẩu năm sau giảm đi so với năm trước, điều này cho thấy hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu chưa hiệu quả, quy mô thị trường thu hẹp hoặc đã đạt mức bão hòa cần đẩy mạnh mở rộng thị trường sang những thị trường mới. Nếu k>1 tức là kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước, sản phẩm xuất khẩu đã khai thác và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường hiện tại, hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu khẩu theo chiều sâu đang hiệu quả. Nếu k = 1 tức kim ngạch xuất khẩu năm sau bằng với năm trước đó, có nghĩa là quy mô thị trường không thay đổi theo chiều sâu. Tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân (K) Công thức : K = (k1.k2 . ... .kn)1/n Trong đó: K: tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân k1, k2,...kn là tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu liên hoàn n: số năm Nếu K= 1 có nghĩa là quy mô thị trường hiện tại của doanh nghiệp không đổi, doanh nghiệp không thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường đã chiếm lĩnh được mà chỉ duy trì được thị phần của mình, cần mở rộng ra những thị trường mới. Nếu K < 1 có nghĩa là quy mô bình quân của doanh nghiệp ngày càng bị thu hẹp, doanh nghiệp đang mất dần thị phần của mình trên những thị trường hiện tại, công tác mở rộng thị trường chưa hiệu quả. Nếu K >1 có nghĩa là quy mô thị trường của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, sản phẩm ngày càng chiếm lĩnh được thị trường, công tác mở rộng thị trường có hiệu quả. 1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu 1.2.1.1. Các nhân tố thuộc về quốc gia xuất khẩu Chủng loại và chất lượng sản phẩm Tốc độ mở rộng thị trường xuất khẩu nhanh hay chậm phụ thuộc trước hết vào chủng loại sản phẩm đó. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp là mặt hàng đang có nhu cầu lớn, mức độ tiêu thụ mạnh trên nhiều thị trường thì chắc chắn việc mở rộng thị trường sẽ dễ dàng hơn so với những sản phẩm mà nhu cầu tiêu dùng hạn chế. Nếu chủng loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường nhập khẩu, mức độ tiêu thụ mạnh thì việc mở rộng thị trường sẽ dễ dàng hơn so với các sản phẩm mà nhu cầu hạn chế. Hiện nay, khi trên mỗi một quốc gia trên thế giới đều có những quy định, tiêu chuẩn riêng về chất lượng sản phẩm thì chất lượng sản phẩm giữ vai trò quyết định tới sự thành bại của sản phẩm. Sản phẩm có chất lượng tốt bao giờ cũng được khách hàng tin dùng và lựa chọn đầu tiên do đó việc mở rộng thị trường sẽ có nhiều thuận lợi. Hơn nữa, sản phẩm có chất lượng tốt sẽ làm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh, vì vậy sản phẩm sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường. Nguồn lực của doanh nghiệp Nguồn lực của doanh nghiệp bao gồm khả năng tài chính, khả năng sản xuất, nguồn nhân lực… Khi nguồn lực của doanh nghiệp được đảm bảo, khả năng tài chính lớn sẽ quyết định tới quy mô của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Khả năng tài chính lớn tức là việc cung cấp chi phí cho công tác xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường được đảm bảo, khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn. Ngoài ra, nguồn nhân lực của doanh nghiệp khi được trang bị tốt về kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, sự am hiểu về thị trường quốc tế, thông thạo ngoại ngữ thì những định hướng, chiến lược phát triển sẽ xác thực hơn, doanh nghiệp nhanh chóng cập nhập những diễn biến của thị trường xuất khẩu một cách chính xác, nắm bắt được thời cơ và dự báo được nhu cầu, rủi ro có thể xảy ra khi mở rộng thị trường. Chính sách hỗ trợ, phát triển thị trường của nhà nước Mỗi một quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế đều có những chính sách kinh tế chi phối hoạt động xuất khẩu của quốc gia mình nhằm điều tiết hoạt động xuất khẩu và mở rộng thị trường đối với từng ngành hàng và mặt hàng cụ thể. Chính sách của nhà nước càng thông thoáng và hỗ trợ cho doanh nghiệp thì hoạt động xuất khẩu sẽ diễn ra thuận lợi hơn, doanh nghiệp tích cực đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh đó, mức độ mở cửa nền kinh tế đóng vai trò rất lớn trong việc mở rộng thị trường, chính sách kinh tế đối ngoại nhà nước sẽ chi phối toàn bộ hoạt động xuất khẩu. Nhà nước càng tích cực tham gia ký kết các hiệp định thương mại đa phương, song phương, tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực thì khả năng tìm kiếm thị trường cho sản phẩm xuất khẩu sẽ ngày càng được mở rộng. 1.2.1.2.Các nhân tố thuộc về nước nhập khẩu Nhu cầu thị trường về sản phẩm và mức độ cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu Nhu cầu về sản phẩm và mức độ cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu là yếu tố để xác định chiến lược mở rộng thị trường. Sản phẩm khi có nhu cầu nhập khẩu lớn sẽ dễ dàng thâm nhập được vào thị trường hơn là những sản phẩm chỉ có nhu cầu thấp hoặc không có nhu cầu. Nhu cầu sản phẩm ở đây không đơn giản chỉ là số lượng, chủng loại sản phẩm mà bao hàm cả chất lượng sản phẩm, giá cả, mẫu mã, bao bì…Do đó, trong công tác mở rộng thị trường doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược cụ thể đối với từng nhu cầu của sản phẩm. Bên cạnh đó, khi tiến hành hoạt động mở rộng thị trường các doanh nghiệp còn phải đối mặt với sự cạnh tranh lớn tại thị trường nhập khẩu mà trước hết đó là những doanh nghiệp tại chính nước nhập khẩu. Các đối thủ cạnh tranh này luôn có ưu thế trong việc khai thác thị trường do nắm vững nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng. Thêm vào đó, các doanh nghiệp này đều có những chính sách ưu đãi của Chính phủ và sự ưu đãi của người tiêu dùng trong nước. Do đó, khi xâm nhập thị trường cần chú ý tới lợi ích của các doanh nghiệp đó, tránh gây tổn hại lợi ích của họ như trong một số trường hợp bán phá giá. Bên cạnh đó là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài đang trong quá trình xâm nhập thị trường cũng là trở ngại lớn trong quá trình mở rộng thị trường. Mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt thì cơ hội xuất khẩu càng ít, khó có thể khai thác sâu vào thị trường. Chế độ ưu đối với hàng hóa nước xuất khẩu Trong quan hệ kinh tế quốc tế, tùy thuộc vào mức độ hợp tác mà các nước giành cho nhau những ưu đãi nhất định. Mức độ ưu đãi đối với một quốc gia xuất khẩu sẽ tác động trực tiếp tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm nước đó trên thị trường quốc gia nhập khẩu. Nó có thể tạo điều kiện nhưng đồng thời cũng tạo những cản trở đối với hoạt động xuất khẩu mở rộng thị trường. Mức độ ưu đãi càng cao thì sản phẩm càng dễ dàng thâm nhập được vào thị trường. Ngược lại, mức độ ưu đãi thấp đặc biệt tương quan đối với các đối thủ cạnh tranh thì sản phẩm khó có thể đứng vững được trên thị trường, khả năng mở rộng thị trường là rất khó. Tình hình kinh tế, chính trị của quốc gia nhập khẩu Nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng hay giảm sút đều ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống nhân dân tại các quốc gia đó, qua đó tác động tới nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Nếu nền kinh tế tăng trưởng, ổn định sẽ tạo điều kiện có mức sống nhân dân tăng cao nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, mức sống của nhân dân giảm sút, khả năng tiêu dùng và chi trả hàng nhập khẩu giảm. Nếu nước nhập khẩu có tình hình chính trị không ổn định như chiến tranh, bạo động, nội chiến, bãi công…thì khi đó môi trường kinh doanh không an toàn và không hấp dẫn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Lúc đó, doanh nghiệp khi xuất khẩu tiềm ẩn nhiều rủi ro về thanh toán, mất hàng hóa, các mối liên kết kinh doanh bị phá vỡ. Trong những trường hợp như vậy, doanh nghiệp cần nhanh chóng rút lui tại thị trường hiện tại và tìm kiếm những thị trường mới. 2. Thực trạng mở rộng thị trường xuất khẩt rau quả tại công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không 2.1. Thực trạng mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam 2.1.1. Tình hình xuất khẩu rau quả của Việt Nam hiện nay Về chủng loại sản phẩm Các sản phẩm rau quả xuất khẩu của nước ta khá phong phú và đa dạng, xấp xỉ 90 mặt hàng khác nhau. Nhìn chung, rau hoa quả xuất khẩu chủ yếu là đóng hộp, sấy khô, và một lượng nhỏ là xuất tươi hoặc cấp đông. Trong đó: các mặt hàng rau quả chủ yếu xuất khẩu dưới dạng chế biến như: dứa đông lạnh, dứa hộp, dưa chuột ngâm dấm, chôm chôm nhân dứa đóng hộp, nước quả tươi và nước cô đặc, rau đông lạnh…. Các sản phẩm rau quả tươi xuất khẩu chiếm tỷ trọng thấp như: cải bắp, xoài, thanh long, chuối, vải, nhãn… Việt Nam được đánh giá có nhiều thuận lợi hơn các nước khác trong xuất khẩu rau quả do có nhiều loại trái cây ngon và lợi thế cạnh tranh. Các loại trái cây như vải thiều Lục Ngạn, thanh long Bình Thuận, vú sữa Lò Rèn, xoài cát Hòa Lộc, bưởi Năm Roi ... được thị trường thế giới ưa chuộng, đặc biệt thanh long Việt Nam đang chiếm vị thế hàng đầu thế giới. Thanh long và nấm là hai mặt hàng luôn đứng ở vị trí đầu về kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, thanh long là mặt hàng có sức phát triển mạnh nhất so với các ngành hàng trái cây xuất khẩu cả về phạm vi thị trường và sản lượng. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thanh long đạt hơn 5,8 triệu USD, năm 2004 tăng lên gần 6,6 triệu USD, năm 2005 hơn 10 triệu USD, năm 2006 đạt gần 13,3 triệu USD, tháng 10/ 2007 đạt 13,2 triệu USD gần bằng năm 2006. (Nguồn: Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư, năm 2007, link: www.itpc.hochiminhcity.gov.vn). Thanh long của Việt Nam đã xuất khẩu sang các thị trường khu vực như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Thái Lan….và có mặt tại một số thị trường Châu Âu như Pháp, Hà Lan, Đức. Rau quả xuất khẩu trong những năm qua đã được mở rộng thêm một số loại trái cây, rau đặc sản của Việt Nam và ngày càng được biết đến trên thế giới như Bưởi Năm Roi xuất khẩu sang Trung Quốc, Hồng Không, Na Uy, Thụy Điển, nhãn được xuất sang Trung Quốc, Đài Loan. Các mặt hàng chôm chôm, chanh, chuối cũng đang gây được chú ý mạnh ở nước ngoài bởi khả năng cung cấp trái vụ. Mãng cầu, xoài và các loại trái cây khác cũng đã ra mắt thị trường Trung Quốc, Hồng Công, Pháp, Hà Lan....Mặc dù, các sản phẩm được chào bán số lượng nhỏ, hàng gởi máy bay nhưng đã được thị trường các nước chấp nhận về mẫu mã, chất lượng. Về kim ngạch xuất khẩu Với những điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, rau quả Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay, rau quả trở thành một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu có thế mạnh, đạt hiệu quả kinh tế và cho kim ngạch xuất khẩu cao. Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam giai đoạn 2000 - 2008 Năm Kim ngạch xuất khẩu rau quả (Triệu USD) Tốc độ tăng (%) 2000 213,1 - 2001 344,3 61,56 2002 221,2 - 35,75 2003 151,5 - 31,5 2004 178,8 18,02 2005 235,5 31,71 2006 259,08 10,01 11/2007 273,84 5,69 2/2008 30,73 - (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, năm 2008, link: Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam giai đoạn 2000 – 2008 (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, năm 2008, link: Theo biểu đồ 2.1 ta thấy, thời kỳ 2001-2003, kim ngạch xuất khẩu rau quả bị giảm sút mạnh. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt mức kim ngạch cao 344,3 triệu USD tăng 61,56% so với năm 2000. Năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả sụt giảm mạnh chỉ đạt 221,2 triệu USD giảm 35,75 % so với năm 2001. Nguyên nhân chủ yếu là do giá xuất khẩu giảm sút và lượng xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, một thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất gặp khó khăn, đặc biệt đối với các loại quả tươi. Trong những năm gần đây, với những nỗ lực của cả doanh nghiệp và nhà sản xuất, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng, từ mức 151,5 triệu USD năm 2004 lên 263 triệu USD vào năm 2006 tăng 10,01% so với năm 2005 (235,5 triệu USD). Sang năm 2007, mặc dù thách thức đặt ra cho ngành rau quả là rất lớn từ việc Việt Nam gia nhập gia nhập WTO, song với những chính sách phát triển đúng đắn, xuất khẩu rau quả vẫn tăng trưởng mạnh, đạt 273,84% triệu USD tăng 5,69% so với năm 2006, trung bình giai đoạn 2000 – 2007 kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng 8,56%. Trên đà thắng lợi của kim ngạch xuất khẩu nói chung và rau quả nói riêng, năm 2008 kim ngạch rau quả vẫn tiếp tục đạt được những bước tiến mới. Tính tới tháng 2/2008 kim ngạch xuất khẩu rau quả đã đạt 30,73 triệu USD tăng 47,95 so với cùng kỳ năm 2007. 2.1.2. Thực trạng mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam 2.1.2.1.Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau quả Việt Nam (198) Việt Nam với đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại rau quả nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới nên có điều kiện phát triển ngành rau quả. Tận dụng được những điều kiện thuận lợi này, Việt Nam đã sớm và ngày càng phát triển sản xuất rau quả, trở thành một ngành sản xuất nông nghiệp quan trọng. Hiện nay, Việt Nam sản xuất rau thuộc nhóm cao nhất thế giới, bình quân khoảng 116 kg/người/năm, cao hơn mức tiêu thụ của các nước phát triển, như Hàn Quốc (93 kg), Nhật (52 kg). Trong 10 năm trở lại đây, ngành rau Việt Nam là ngành có tốc độ phát triển nhanh, khoảng 8,5%/năm. (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 2007, link: Với những nỗ lực và sự tập trung đầu tư, nghiên cứu, trong những năm qua diện tích trồng rau quả nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, khu vực Đồng bằng Sông Hồng trở thành vùng sản xuất rau lớn nhất nước, còn khu vực Đồng bằng song Cửu Long là vùng sản xuất quả chủ yếu của cả nước. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2007 cả nước có trên 1,4 triệu ha rau, quả cho thu hoạch trên 6,5 triệu tấn trái cây, 9,6 triệu tấn rau, là một tiềm năng rất lớn cho xuất khẩu. (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 2007, link: Những năm trở lại đây, Việt Nam đã tăng cường đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất rau quả, thành lập rất nhiều cơ sở sản xuất cỡ lớn, như xoài ở Tiền Giang, thanh long ở Bình Thuận, vải thiều ở Bắc Giang, bưởi Năm Roi ở Vĩnh Long, nho ở Ninh Thuận. Do điều kiện khí hậu nhiệt đới nên rau quả dễ trồng, đầu tư ít nhưng sản lượng cao, nên Việt Nam rất có tiềm năng trong việc sản xuất rau quả. Một số địa phương ở Việt Nam đã thành lập các hợp tác trồng cùng một loại rau quả, nhằm tăng cường quản lý canh tác, để các sản phẩm đạt được tiêu chuẩn xuất khẩu. Tuy nhiên, rau quả là mặt hàng nông nghiệp nhập khẩu lớn nhất thế giới với doanh số hàng năm lên đến 103 tỷ USD, so với chỉ có 9 tỷ cho lúa gạo song rau quả Việt Nam xuất khẩu lại chiếm một tỷ lệ thấp, chiếm 0,2% thị phần của cả thế giới (trong lúc xuất khẩu gạo đã đạt được 15%) năm 2005. Điều này cho thấy, tiềm năng phát triển rau quả Việt Nam sang các thị trường trên thế giới là rất lớn.(Nguồn: Sự chuyển mình của sản xuất nông nghiệp, 2008,link: www.vietlinh.vn) 2.1.2.2.Thực trạng thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam Cơ cấu thị trường Dưới tác động của hội nhập, xuất khẩu rau quả Việt Nam đã có những bước phát triển mới. Xu hướng hội nhập đã mở ra những cơ hội, điều kiện mở rộng thị trường và là điều kiện tốt cho sản xuất phát triển. Trong những năm vừa qua, thị trường rau quả có xu hướng phát triển nhanh. Các mặt hàng rau quả của Việt Nam hiện đã có mặt trên 50 quốc gia trên thế giới. Bảng 2.1: Một số thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007 Đơn vị: Triệu USD Năm Trung Quốc Nhật Bản Đài Loan Nga Hoa Kỳ 2001 144,6 13,7 23,3 4,52 2,6 2002 59,8 16,0 20,1 4,79 6,5 2003 49,4 15,5 21,36 5,29 6,0 2004 43,3 26,12 20,47 10,18 13,9 2005 34,94 28,98 26,36 17,82 13,15 2006 24,61 27,57 27,15 22,07 18,40 11/2007 24,13 23,82 26,41 20,02 17,95 (Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn) Rau quả của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Nga, Mỹ. Nếu năm 2001, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu rau quả chính của Việt Nam chiếm 41,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì gần đây kim ngạch tại thị trường này có xu hướng giảm mạnh.Trong khi đó, các thị trường như Nhật Bản, Đài Loan lại có xu hướng nhập khẩu rau quả của Việt Nam khá ổn định, hàng năm xuất khẩu trên 25 triệu USD. (Nguồn: Tính toán bảng số liệu 2.2). Bên cạnh đó, các thị trường Mỹ và Nga có vị trí cách xa Việt Nam nhưng kim ngạch xuất khẩu rau quả lại có tốc độ tăng mạnh. Điều này cho thấy, rau quả Việt Nam ngày càng được ưa chuộng, thị trường ngày càng được mở rộng. Biểu đồ 2.2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả Việt Nam tháng 11/ 2007 (Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ bảng số liệu 2.2, Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn) Theo biểu đồ 2.2, tháng 11/ 2007 Đài Loan trở thành thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam chiếm 9,63%, tiếp theo là các thị trường Trung Quốc 8,81%, Nhật Bản 8,69%, Nga 7,31% và Mỹ 6,54%. b)Thực trạng xuất khẩu rau quả sang một số thị trường trọng điểm của Việt Nam Thị trường Trung Quốc Trung Quốc hiện nay là nước sản xuất, xuất khẩu và tiêu thụ rau quả lớn nhất Châu Á. Các mặt hàng rau quả nhập khẩu chủ yếu là chuối, nho, cam, táo, cần tây, đậu hạt, nấm. Trung Quốc nhập khẩu chủ yếu từ Hoa Kỳ, Chi lê, Philippin, Ecuador, Niu Di lân và các nước Đông Nam Á. Trong đó, các nước ASEAN – 10 và Hồng Công chiếm 68% tổng kim ngạch nhập khẩu rau quả vào thị trường Trung Quốc. Khi xuất khẩu rau quả sang thị trường Trung Quốc, các nhà cung cấp nước ngoài có thể xuất khẩu hàng thông qua các công ty nhập khẩu phân phối, các nhà nhập khẩu nhỏ, các công ty mua gom, đóng gói cũng như cung cấp trực tiếp cho các nhà bán lẻ lớn. Mặc dù xuất khẩu rau quả của Trung Quốc hiện lớn gấp 10 lần nhập khẩu, nhưng hoạt động xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc lại đạt được mức gia tăng đáng kể. Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2000 -2007 Đơn vị: Triệu USD Năm Kim ngạch Tốc độ tăng (%) 2000 136,1 - 2001 144,6 0,78 2002 59,8 -58,92 2003 49,4 -17,39 2004 43,3 -12,35 2005 34,94 -19,31 2006 24,61 -29,56 11/2007 24,13 - (Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn) Theo bảng số liệu 2.3, năm 2001 là năm xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đạt mức giá trị cao nhất 144,6 triệu USD, đây cũng là năm hoạt động xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt được mức tăng trưởng cao nhất. Những năm tiếp theo kim ngạch xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc suy giảm nghiêm trọng, năm 2002 chỉ đạt 59,8 triệu USD giảm 58,92% so với năm 2001, năm 2003 đạt 49,4 triệu USD giảm 17,39% so với năm 2002 và năm 2006 ch._.ỉ còn 24,61 triệu tấn. Nguyên nhân của tình trạng kim ngạch sụt giảm một phần là do sự bất lợi về thuế. Năm 2002, Trung Quốc và Thái Lan đã ký kết Hiệp định Thái Lan – Trung Quốc (gọi tắt là Hiệp định Thái – Trung) về sản phẩm rau quả và có hiệu lực từ tháng 10 năm 2003. Theo đó, mức thuế mà Trung Quốc áp dụng đối với nhập khẩu rau quả của Thái Lan là 0% còn đối với Việt Nam là 27%. Chính vì vậy, rau quả của Thái Lan – vốn là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam được xuất khẩu mạnh vào thị trường Trung Quốc do những ưu đãi thuế quan khiến cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu khó có khả năng cạnh tranh về giá. Vì vậy, kim ngạch rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc sụt giảm một cách đáng kể. Mặc dù, theo lộ trình cắt giảm thuế quan giữa khu vực ASEAN và Trung Quốc tới năm 2005 còn 1,67% song vẫn bất lợi hơn so với Thái Lan, gây nản lòng tới các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu rau quả sang thị trường này do vậy hạn chế khả năng mở rộng thị trường rau quả Việt Nam. (Nguồn:Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư, năm 2007, link: www.itpc.hochiminhcity.gov.vn) Về mặt hàng, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc những mặt hàng: thanh long, chuối, dứa, xoài, dừa, vải, nhãn, chôm chôm, dưa hấu; dưa chuột, khoai tây, đậu quả các loại, măng ta, cà chua, nấm; hạt tiêu, gừng, ớt, giềng, nghệ, tỏi. Trong chính sách quản lý nhập khẩu, Trung Quốc áp dụng các mức thuế nhập khẩu tương đối cao và chính sách phi thuế quan khá chặt chẽ. Thuế suất trung bình phổ thông đối với các loại rau chủ yếu khoảng 70% (thuế suất MFN tương ứng là 13%), trừ một số mặt hàng như nấm, măng, hành khô hoặc sơ chế, có thuế suất phổ thông cao hơn, khoảng 80% - 90% (thuế suất MFN vẫn là 13%); nhưng các loại hạt giống rau có thuế suất MFN khoảng 0-8%, các loại đậu, lạc thuế MFN khoảng 30%. Riêng các loại quả tươi, khô có thuế suất cao hơn. Thuế suất MFN trung bình với quả khoảng từ 30%-50% (thuế phổ thông lên tới 100%). (Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, năm 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn) Thị trường Nhật Bản Với dân số 126,3 triệu người và tổng sản phẩm quốc dân GNP hàng năm đạt 500 nghìn tỷ USD, mức sống của người dân cao. Do đó, Nhật Bản là một thị trường tiêu dùng lớn thứ hai trên thế giới, sau Mỹ. Hiện nay, Nhật Bản là một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Thực tế cho thấy, hoạt động thương mại giữa hai nước có nhiều thuận lợi. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của Nhật Bản mang tính bổ sung chứ không phải cạnh tranh với Việt Nam: Nhật Bản xuất khẩu những mặt hàng mang nhiều hàm lượng vốn và công nghệ, những mặt hàng mà Việt Nam không có lợi thế hoặc chưa sản xuất được; Nhật Bản nhập khẩu những mặt hàng nguyên liệu thô chưa qua chế biến hoặc chỉ qua sơ chế, đây là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Trong lĩnh vực nhập khẩu rau quả, Nhật Bản thường nhập khẩu chủ yếu từ Mỹ, Mêhico, Niu Di Lân, Ôtrâylia, Trung Quốc. Trong đó, Mỹ là nước cung cấp chủ yếu các mặt hàng hành, hoa lơ, măng tây, bí ngô. Niu Di Lân và Ôtrâylia thường cung cấp các loại rau quả tươi trái vụ và Trung Quốc cung cấp các loại rau quả tươi nhờ những ưu thế thuận lợi về địa lý. Mặc dù, các sản phẩm rau quả Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm tỷ lệ không lớn trong cơ cấu nhập khẩu rau quả của Nhật Bản song Nhật Bản đang là một trong ba thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng2.4: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản giai đoạn 2001 – 2007 Đơn vị: Triệu USD Năm Kim ngạch Tốc độ tăng (%) Tỷ trọng trong Tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả (%) 2001 13,7 - 3,98 2002 16,0 16,78 7,23 2003 15,5 -3,12 10,23 2004 26,12 68,51 14,6 2005 28,98 10,95 12,3 2006 27,57 -4,86 10,64 11/2007 23,82 - 8,69 (Nguồn:Tổng hợp từ (Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn) Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản qua các năm không ổn định, có năm tăng năm giảm nhưng nhìn chung mức giảm không lớn. Theo bảng số liệu 2.4, năm 2001, kim ngạch đạt 13,7 triệu USD chiếm 3,98% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả. Sang năm 2002, mặc dù kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam giảm mạnh song kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng đạt 16,0 triệu USD tăng 16,78% so với năm 2001. Đến năm 2003, mức kim ngạch sụt giảm nhẹ chỉ đạt 15,5 triệu USD giảm 3,12% nhưng đến năm 2004, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Nhật lại tăng mạnh đạt 26,12 triệu USD, tăng 68,51% so với năm 2003, chiếm 14,6% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng đạt 28,98triệu USD nhưng bắt đầu có sự sụt giảm nhẹ trong những năm 27,57 triệu tấn năm 2006 giảm 4,86% so với năm 2005. Tới tháng 11/2007, kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản chỉ đạt 23,82triệu USD, chiếm 8,69% thị phần xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Thị trường Đài Loan Trong những năm gần đây, Đài Loan luôn là một trong những thị trường xuất khẩu rau hoa quả lớn của Việt Nam. Đây là một thị trường nhiều tiềm năng với thị hiếu tương đối đa dạng và không đòi hỏi quá cao về chất lượng. Hàng năm, Đài Loan nhập khẩu rau từ 130 – 145 triệu USD và nhập khẩu quả từ 400 – 420 triệu USD. (Nguồn: Trung tâm xúc tiến phát triển thương mại Hải Phòng, năm 2008, Trong số các loại quả nhập khẩu vào Đài Loan thì táo và lê là những sản phẩm được nhập nhiều nhất, nước này chủ yếu nhập khẩu hoa quả từ Hoa Kỳ. Loại rau tươi mà Đài Loan nhập khẩu nhiều nhất là súp lơ xanh, súp lơ trắng, bắp cải và bắp cải tàu. Thị trường nhập khẩu rau quả chủ yếu của Đài Loan là Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đứng vị trí thứ 5 trong số các nước và khu vực xuất khẩu rau vào Đài Loan (sau Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản), mỗi năm đạt khoảng trên 10 triệu USD rau và đứng thứ 8 về xuất khẩu quả vào Đài Loan (sau Mỹ, Chi Lê, Nhật Bản, New Zealand, Thái lan, Trung Quốc, Hàn Quốc), đạt trên 13 triệu USD. (Nguồn: Trung tâm xúc tiến phát triển thương mại Hải Phòng, năm 2008, Bảng 2.5.: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Đài Loan Năm Kim ngạch (triệu USD) Tốc độ tăng (%) Tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả(%) 2001 23,3 - 6,76 2002 20,1 - 13,73 9,08 2003 21,36 6,26 14,1 2004 20,47 -4,16 11,44 2005 26,36 28,77 11,19 2006 27,15 2,99 10,48 11/2007 26,41 - 9,63 (Nguồn:Tổng hợp từ Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn) Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Đài Loan nhìn chung đạt hiệu quả,trung bình hàng năm Đài Loan nhập khẩu 23,6 triệu USD rau quả từ Việt Nam. Theo bảng số liệu 2.5, năm 2001, kim ngạch xuất khẩu rau quả sang Đài Loan đạt23,3 triệu USD chiếm 6,76% thị phần xuất khẩu rau quả. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu có sự sụp giảm xuống còn 20,1 triệu USD (giảm 13,73% so với năm 2001) song lại tăng lên 21,36 triệu tấn vào năm 2003. Sang năm 2004, kim ngạch xuất khẩu sang Đài Loan lại giảm song không đáng kể đạt 20,47 triệu USD giảm 6,26% so với năm 2003 song có sự phục hồi nhanh chóng và đạt mức tăng trưởng cao vào năm 2005 (đạt 26,36 triệu USD tăng 28,77% so với năm 2004) và 2006 đạt 27,15% tăng 2,99% so với năm 2005. Tới tháng 11/2007, Đài Loan trở thành thị trường xuất khẩu số 1 của rau quả Việt Nam chiếm 9,63% thị phần xuất khẩu. Điều này cho thấy, trong thời gian tới thị trường Đài Loan vẫn là một thị trường đầy tiềm năng đối với rau quả Việt Nam. Hiện, Đài Loan là thị trường nhập khẩu rau quả lớn của Việt Nam với kim ngạch chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam. Bên cạnh đó, Đài Loan còn là thị trường trung gian cho rất nhiều loại sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường châu Âu, Mỹ và Đông Á. Các mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất sang Đài Loan gồm: bắp cải, dưa chuột, cà chua, nấm, chuối, thanh long, vải và xoài, ngoài ra có các loại gia vị như: hạt tiêu, gừng, ớt, giềng, nghệ, tỏi. Nhìn chung, hàng rau quả của Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan có tăng song còn manh nhúm. Lượng hàng xuất khẩu còn hạn chế, chưa tương xứng với nhu cầu của thị trường và năng lực của Việt Nam. Trong thời gian tới, để tăng năng lực xuất khẩu cho hàng rau quả Việt Nam sang thị trường Đài Loan, chúng ta cần quy hoạch thành những vùng rau quả lớn, có đủ khả năng cung cấp được với số lượng lớn, tranh thủ những thời điểm trái vụ và vào mùa mưa bão của Đài Loan (tháng 4 và 5 hàng năm). Bên cạnh đó, cần chú ý tới công tác bảo quản, đóng gói và đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực thẩm. 2.1.2.4. Đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong những năm qua Những kết quả đạt được - Các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả đã tích cực chủ động tìm hiểu thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu sang hơn 50 quốc gia trên thế giới. Bên cạnh những thị trường truyền thống (Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, ASEAN…) hoạt động xuất khẩu rau quả có nhiều thuận lợi do gần vị trí địa lý, chi phí vận chuyển thấp, rau quả Việt Nam trong những năm qua đã được mở rộng thêm ra các thị trường mới như: Achentina, Li Băng, Qata, Môtitania, Áo, Estônia …Đặc biệt, rau quả Việt Nam đã có mặt tại những thị trường được coi là khó tính trong việc yêu cầu chất lượng sản phẩm như Mỹ, EU… Đây cũng là những thị trường có nhu cầu lớn về nhập khẩu rau quả, trong đó EU là thị trường nhập khẩu quả nhiệt đới lớn nhất thế giới. - Hoạt động xúc tiến thương mại mở rộng thị trường được quan tâm và phát triển hơn trước, hiệp hội ngành hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin, tìm hiểu thị trường, tìm kiếm khách hàng, tổ chức các cuộc triển lãm trong và ngoài nước quảng bá sản phẩm ra nước ngoài… - Để mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả Nhà nước đã thực hiện rất nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, các nhà kinh tế sản xuất, xuất khẩu rau quả thông qua nhiều biện pháp như hoàn thuế giá trị gia tăng cho rau quả xuất khẩu; thưởng xuất khẩu đổi với nhiều mặt hàng rau quả mới xuất khẩu; hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường. Cụ thể, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rau quả được phép hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng rau quả xuất khẩu. Đây là một trong những ưu đãi lớn đối với xuất khẩu rau quả, điều này đã khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực xuất nhập khẩu rau quả và đẩy mạnh xuất khẩu rau quả ra nhiều thị trường. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu sản phẩm rau quả cũng được hưởng chế độ ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra, nhà nước còn tiến hành hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu trong đó có rau quả. Chính phủ cho vay với lãi suất thấp hơn 0,2%/tháng so với mức lãi suất cho vay xuất khẩu của các ngân hàng thương mại.( Nguồn: Rau hoa quả Việt Nam, 2007, link: www.rauhoaquavietnam.vn) Những mặt hạn chế - Mặc dù đã có những tiến bộ nhất định khả năng mở rộng thị trường, thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam vẫn khá hạn chế, thị trường xuất khẩu nhỏ lẻ. Hiện nay, rau quả Việt Nam xuất khẩu trên 50 quốc gia nhưng số thị trường có giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 10 triệu USD còn rất ít, năm 2007 bao gồm các thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Nga, Mỹ… - Cơ cấu thị trường mất cân đối dẫn đến việc xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào một số thị trường những nước lân cận như Trung Quốc, Đài Loan. Xuất khẩu rau quả, đặc biệt là rau quả tươi sang các thị trường nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản còn gặp nhiều trở ngại về công nghệ bảo quản và chế biến cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu về hàng nhập khẩu của các thị trường này. - Khả năng phát triển thị trường rau quả của Việt Nam còn thiếu hiệu quả. Hiện nay, Việt Nam chưa hình thành được các mặt hàng chủ lực, có địa vị thống trị trên thị trường như dứa của Thái Lan, chuối của Philippin, rau tươi và rau chế biến của Trung Quốc mặc dù Việt Nam có tiềm năng phát triển các sản phẩm này là rất lớn và có khả năng cung cấp các sản phẩm có chất lượng tốt, đảm bảo độ tươi mới mang hương vị đặc trưng và giá trị dinh dưỡng cao. Thị phần hầu hết các mặt hàng rau quả Việt Nam còn ở mức hạn chế, chưa tạo được tác động chi phối đến thị trường thế giới. - Kim ngạch xuất khẩu rau quả có mức tăng chậm và không ổn định. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu còn chưa phù hợp. Các mặt hàng rau, hoa, quả xuất khẩu chủ yếu là đóng hộp, sấy khô và một lượng rất nhỏ xuất tươi hoặc cấp đông trong khi đó trên thế giới nhu cầu về nhập khẩu rau quả tươi lớn. Chủng loại sản phẩm xuất khẩu rau quả của Việt Nam khá phong phú song khả năng cung ứng lại hạn chế, khó đáp ứng được khối lượng đặt hàng lớn. - Trình độ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu rau, hoa quả ra nước ngoài của rất nhiều doanh nghiệp còn thấp, thiếu thông tin thị trường và giá cả. Phương thức thanh toán không phù hợp với thông lệ quốc tế trong xuất nhập khẩu loại hàng này và nhất là phương pháp tổ chức từ sản xuất đến tiêu thụ và xuất khẩu còn rất yếu kém. Bởi vậy, hầu hết những đơn vị xuất khẩu rau, hoa quả cũng mới chỉ chủ yếu xuất khẩu tiểu ngạch hoặc thu mua cung ứng cho bạn hàng nước ngoài theo từng lô hàng. Do đó trong quá trình mở rộng thị trường xuất khẩu khả năng cung ứng không ổn định, ngoài những thị trường lớn truyền thống thì những thị trường nhỏ mới mở sau một, hai năm xuất khẩu thường xuyên bị mất thị trường do đơn vị xuất khẩu chủ yếu là làm theo đơn đặt hàng mà chưa có sự chủ động trong việc tìm kiếm đối tác hay phát triển, củng cố sản phẩm của mình trên những thị trường đó. Nguyên nhân những hạn chế - Năng lực cạnh tranh của rau quả của Việt Nam không cao ảnh hưởng tới khả năng mở rộng thị trường. Nhiều sản phẩm rau quả xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn chưa cạnh tranh được với những sản phẩm của các nước trong khu vực như Thái Lan, Philippin. Trong đó, những yếu tố làm hạn chế sức cạnh tranh của rau quả Việt Nam trong thời gian qua đó là: + Việc xây dựng thương hiệu mạnh cho rau quả Việt Nam trên thế giới vẫn chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu rau, hoa, quả không gắn được thương hiệu của doanh nghiệp vào sản phẩm. Không có thương hiệu riêng, khiến rau quả Việt Nam không tạo được chỗ đứng trên thị trường, nhiều sản phẩm rau quả Việt Nam bị người tiêu dùng ở nhiều nước hiểu lầm là các sản phẩm của Thái Lan, Trung Quốc. + Giá các sản phẩm rau quả của Việt Nam cao hơn so với rau quả cùng loại của các nước nhiệt đới khác. Ví dụ như so với sầu riêng Ri-6 Việt Nam bán lẻ 25.000 đồng/kg thì tại Thái Lan sầu riêng Mongthong khoảng 7.000 đồng/kg, Mongthong Thái bán ở Việt Nam chỉ 10.000-15.000 đồng/kg. Tương tự, bưởi năm roi Việt Nam xuất sang Trung Quốc giá lên đến 2-2,5 USD/kg, trong khi đó bưởi Trung Quốc xuất sang Hà Lan chỉ 50 cent/kg. Giá rau quả Việt Nam thường đắt hơn các nước khác là do sản lượng rau quả của chúng ta chưa nhiều, khâu vận chuyển, bảo quản thiếu chuyên nghiệp. Hiện nay, tỷ lệ hư hỏng sau bảo quả của trái cây Việt Nam ỏ mức 20 - 30%. (Nguồn: Giá rau quả Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực, 2007, www.thoisu.com). Đặc biệt, các chi phí dịch vụ cho xuất khẩu, nhất là chi phí vận tải của Việt Nam cũng cao hơn hẳn so với các nước trong khu vực. Đơn cử, giá cước vận chuyển tàu thuỷ của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực như Thái Lan, giá cước hàng không cao gấp 1,5 lần và từ 200–500USD/công lanh fit. Ngoài ra, chi phí vận chuyển đường dài bằng xe lạnh quá cao, chiếm khoảng 60% chi phí kinh doanh. Các hình thức vận chuyển khác chưa phổ biến như các nước khác, cước phí hàng không của Việt Nam cao nhất khu vực. (Nguồn: Cần nâng cao năng lực cho cây ăn trái Việt Nam trong xuất khẩu, 2007, link: + Hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ về giống, thu hoạch, bảo quản chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sản xuất và chưa thực sự bám sát thị trường về nhu cầu các mặt hàng và yêu cầu chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là vấn đề bảo quản sản phẩm gây cản trở lớn tới khả năng xuất khẩu rau quả Việt Nam đến các thị trường xa. Đơn cử như xoài, vú sữa, chuối….có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon nhưng mỏng vỏ nên không cất giữ được lâu, không bảo quản được để chủ động độ chin đáp ứng nhu cầu thị trường Pháp, Nhật, Hà Lan, Ai Cập. Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam chưa có hệ thống sản xuất và cung ứng giống chuyên nghiệp. Do đó, người sản xuất thường mua những giống cây rẻ, trôi nổi trên thị trường hay trồng những giống cây truyền thống nên chủ yếu đã thoái hóa, nhiễm bệnh, chất lượng ngày càng giảm sút. Còn tại các nước trong khu vực do luôn cập nhật và đưa vào canh tác những giống mới lạ, chất lượng tốt, năng suất cao như dứa MD2, thanh long ruột đỏ, chôm chôm râu dài xanh, xoài ngọt…do đó chất lượng luôn đảm bảo, dễ dàng xâm nhập được thị trường. + Công tác quy hoạch các vùng trồng cây ăn quả, trồng rau để tạo ra những vùng sản xuất lớn, tập trung, chuyên canh cho rau, hoa, quả, sản xuất hàng hoá, tạo sản lượng lớn ổn định, chất lượng cao, có tính cạnh tranh đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu chưa đầy đủ. Số lượng các vùng chuyên canh như vải thiều Bắc Giang, vú sữa Lò Rèn, thanh long Bình Thuận, nho Ninh Thuận còn ít. Mặc dù sản lượng sản xuất được khá lớn nhưng khó đáp ứng được nhu cầu khách hàng do việc thu gom gặp khó khăn. + Sản xuất rau quả manh nhúm, nhỏ lẻ khiến cho sản phẩm khi xuất khẩu có kích thước, trọng lượng, hương vị, chất lượng không giống nhau. Việt Nam có khả năng cung cấp các mặt loại rau quả trái vụ do có điều kiện thuận lợi về khí hậu so với các đối thủ cạnh tranh khác như Thái Lan. Đó sẽ là lợi thế xuất khẩu để nâng cao thị phần rau quả và mở rộng thị trường xuất khẩu song thực tế cho thấy kỹ thuật canh tác sản xuất rau quả chủ yếu là mang tính thời vụ do đó khả năng cung cấp các mặt hàng với số lượng lớn để tận dụng lợi thế và mở rộng khả năng chi phối tại các thị trường là khó thực hiện. - Chất lượng các sản phẩm rau quả của Việt Nam chưa cao nên khả năng cung cấp tại các thị trường còn nhiều hạn chế. Nhiều giống rau quả của Việt Nam hiện nay chỉ phù hợp với thị trường trong nước chứ chưa thích hợp cho xuất khẩu. Việt Nam có tiềm năng lớn về xuất khẩu rau quả, diện tích rau quả đạt trên 1,4 triệu ha và sản lượng đạt trên 16 triệu tấn song số lượng xuất khẩu vẫn còn thấp, so với các loại nông sản khác thì mới xuất khẩu đạt 20 – 25%. (Nguồn: Hội nông dân Việt Nam, 2008, link: Bên cạnh đó, rau quả Việt Nam còn kém về mẫu mã sản phẩm và bao bì. Nhiều loại rau quả của Việt Nam có chất lượng tốt hơn nhiều nước như bưởi của Trung Quốc, Thái Lan không ngon bằng bưởi Việt Nam nhưng vì giá bán của những nước này thấp hơn từ 10 – 20%, tươi lâu, mẫu mã lại đẹp hơn của Việt Nam do nhờ khâu xử lý đánh bóng nên được ưa chuộng hơn. 2.2. Thực trạng hoạt động mở rộng thị trường tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng Không 2.2.1. Khái quát chung về Công ty 2.2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Tên công ty: Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không Tên giao dịch quốc tế: Air services supply joint stock company Tên viết tắt: AIRSERCO Trụ sở chính: Số 1 Ngõ 196, Phố Nguyễn Sơn, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội. Điện thoại: 8 271352 / 8 271565 / 8731675 Fax: 04 8272426 Website: www. airserco.vn E-mail: info@airserco.vn Chi nhánh Tp Hồ Chí Minh: Số 7- Đường Hậu Giang - Phường 4 – Tân Bình Điện thoại: (08)8118687 – (08)8118688 Fax: (08)8118683 Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không ra đời trên cơ sở tiền thân là Cục phục vụ - Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam, ngày 19/9/2004 BộGiao thông vận tải ra Quyết định số 1507/QĐ/TCCB – LĐ thành lập Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không Việt Nam không trực thuộc Cục. Ngày 30/6/1997, Hội đồng quản trị Tổng Công ty Hàng không Việt Nam ra Quyết định số 1023/HĐQT về việc đổi tên Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng Không trực thuộc Cục Hàng không Dân Dụng Việt Nam thành Công ty Cung ứng dịch vụ Hàng không không thuộc trực thuộc Tổng công ty Hàng Không Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là một đơn vị độc lập, hoạt động đa ngàng nghề trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, sản xuất và cung ứng các sản phẩm phục vụ hành khách trên máy bay; trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh. Ngày 1/1/2007, Công ty chính thức cổ phần hoá lấy tên là: Công ty cổ phần Cung ứng Dịch vụ Hàng không. Trong quá trình hoạt động của mình, công ty luôn phấn đấu và nỗ lực nhằm đem đến những sản phẩm và dịch vụ tốt nhất đối với người tiêu dung. Các sản phẩm sản xuất của Công ty hiên nay gồm: - Khăn các loại phục vụ các chuyến bay trong và ngoài nước cho VIETNAM AIRLINES. - Các sản phẩm rau quả chế biến: dưa chuột, nấm, cà chua…. - Các sản phẩm dệt may: quần áo nam nữ, trẻ em… - Các sản phẩm về gỗ. Hoạt động Dịch vụ của Công ty bao gồm: - Hoạt động đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; Tổ chức Đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam trước khi đi làm việc ở nước ngoài, Tư vấn du học. - Đại lý bán vé máy bay cho VIETNAM AIRLINES - Du lịch nội địa và Quốc tế, dịch vụ thu gom và giao nhận hàng hoá Hiện nay, sản phẩm của Công ty đã xuất khẩu đi các thị trường nước ngoài như: Đức, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... luôn nhận được sự đánh giá cao của khách hàng về chất lượng sản phẩm, năng lực cung cấp và giá cả cạnh tranh. Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài, Công ty cũng hết sức chú trọng đến nhu cầu của thị trường nội địa trong nước đầy tiềm năng. Thông qua kênh phân phối của các đại lý bán buôn, bán lẻ, các siêu thị và nhà hàng, Công ty hy vọng được đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm tốt nhất của mình. 2.2.1.2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh Với mục tiêu trở thành một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả, uy tín trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh các sản phầm đồ hộp, rau quả chế biến, nước giải khát, sản suất kinh doanh may mặc, dệt thủ công mỹ nghệ, lữ hành nội địa, quốc tế, xuất khẩu lao động từ khi thành lập đến nay, Công ty đã không ngừng phấn đấu và phát triển. Với những nỗ lực của mình, trong 5 năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh của công ty đã có những bước phát triển hết sức khả quan, sản phẩm và dịch vụ của công ty luôn nhận được sự đánh giá cao của khách hàng. Điều này được thể hiện thông qua các chỉ tiêu sau. Bảng 2.6: Doanh thu sản xuất kinh doanh năm 2003-2007 Đơn vị: Triệu đồng Năm Doanh thu Tổng doanh thu Tốc độ tăng doanh thu hàng năm (%) Thương mại & XNK Sản xuất các loại Dịch vụ và doanh thu khác 2003 213.905,02 8.750,73 3.018,55 228.674,3 - 2004 278.579,3 15.306,08 8.240,52 302.125,9 32,12 2005 311.597,6 20.944,44 20.066,76 352.606,8 16,71 2006 322.915,4 27.168,7 28.901,5 378.985,6 7,48 2007 341.127,4 29.194,1 32.215,3 402.536,8 6,22 (Nguồn: Báo cáo hiệu quả kinh doanh năm 2003-2007) Biểu đồ 2.3: Doanh thu sản xuất kinh doanh năm 2003-2007 Đơn vị: Tỷ đồng (Nguồn: Báo cáo hiệu quả kinh doanh năm 2003-2007) Qua biểu đồ 2.3 ta thấy: doanh thu hoạt động kinh doanh của công ty luôn tăng trưởng, hoạt động kinh doanh luôn có lãi, mức tăng trưởng hàng năm từ 6% - 32%. Trong đó, năm 2007 doanh thu từ hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu đạt mức cao nhất chiếm 84,74% tổng doanh thu của công ty, doanh thu từ hoạt động sản xuất chiếm 7,25% tổng doanh thu và doanh thu từ các loại dịch vụ chiếm 8,01%. (Nguồn: Báo cáo hiệu quả kinh doanh năm 2003 – 2007) Biểu đồ 2.4: Cơ cấu doanh thu của công ty năm 2007 (Nguồn: Báo cáo hiệu quả kinh doanh năm 2007) 2.2.2. Tình hình hoạt động xuất khẩu rau quả tại Công ty Cổ phần Cung ứng dịch vụ Hàng không. 2.2.2.1. Chủng loại sản phẩm Từ năm 2003, công ty bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất chế biến xuất khẩu rau quả. Hiện nay, công ty có nhà máy chế biến rau quả đóng hộp và nước giải khát tại Hưng Yên. Các nhà máy của  Công ty được trang bị máy móc và dây chuyền sản xuất hiện đại được nhập khẩu từ Đài Loan và một số chế tạo trong nước. Các máy móc thiết bị chế biến rau quả đều đáp ứng được nhu cầu sản xuất của công ty, đảm bảo sản phẩm rau quả chế biến sản xuất ra có chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh thực phẩm và có tính cạnh tranh cao. Các mặt hàng rau quả xuất khẩu của công ty hiện nay đều là sản phẩm rau quả chế biến dưới dạng so chế đóng hộp, ngâm dấm, không xuất khẩu rau quả tươi. Mặt hàng chủ yếu của công ty bao gồm: dưa chuột ngâm dấm, dứa khoang, cà chua bi, ngô bao tử, mận ngâm đường, đậu Hà Lan, nấm… Thị trường xuất khẩu chính của công ty là Nga, Mông Cổ, Látvia... Trong đó, Công ty chủ yế xuất khẩu sang Nga những sản phẩm, dứa khoang, dưa chuột, cà chua bi; xuất sang Mông Cổ dứa khoang, dưa chuột; xuất sang thị trường Látvia dưa chuột, nấm, đậu Hà Lan. Bảng2.7: Nhu cầu một số sản phẩm rau quả xuất khẩu theo thị trường Nước Dưa chuột Nấm Dứa Ngô bao tử Đậu Hà Lan Cà chua Nga x x x Mông Cổ x x Đức x x x Mỹ x x Latvia x x x Romania x x x Estonia x x x 2.2.2.2. Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Công ty giai đoạn 2004 – 2007 Năm 2003, mặc dù là năm đầu tiên công ty tiến hành xuất khẩu rau quả, còn có nhiều khó khăn và thiếu kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu, marketing, nghiên cứu thị trường nhưng kim ngạch xuất khẩu công ty đã đạt được 573,538 nghìn USD. Những năm tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu rau quả của công ty ngày càng gia tăng: năm 2004 đạt 627,541 ngìn USD tăng 9,42% so với năm 2003, năm 2005 đạt 916,019 nghìn USD tăng 45,96% so với năm 2004 cho thấy sản phẩm của công ty bước đầu đã được các bạn hàng tin cậy, đáp ứng được nhu cầu thực tế. (Nguồn: Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng năm 2004 – 2007) Sang năm 2006, do đặc điểm các thị trường xuất khẩu ở Liên Bang Nga và Đông Âu có nhiều biến động về chính trị nên kim ngạch xuất khẩu đã giảm xuống còn 846,234 nghìn USD giảm 7,62% so với năm 2005. Tới năm 2007, tình hình kinh tế trong nước có nhiều thuận lợi, đặc biệt khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO với những ưu đãi của việc mở cửa thị trường đồng thời công ty đã đẩy mạnh xuất khẩu sang một số thị trường mới nên kim ngạch xuất khẩu của công ty đã tăng trở lại đạt 938,07 nghìn USD, tăng 10,85% so với năm 2006.(Nguồn: Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng năm 2004 – 2007) Bảng 2.8: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của công ty giai đoạn 2003 - 2007 Năm Kim ngạch xuất khẩu (Nghìn USD) Tỷ lệ tăng (%) 2003 573,538 - 2004 627,541 9,42 2005 916,019 45,96 2006 846,234 -7,62 2007 938,073 10,85 (Nguồn: Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng năm 2004 – 2007) Biểu đồ 2.5: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của công ty giai đoạn 2003 – 2007 Đơn vị: Nghìn USD (Nguồn: Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng năm 2004 – 2007) 2.2.2.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả của Công ty giai đoạn 2004 – 2007 Bảng 2.9: Kim ngạch xuất khẩu rau quả theo thị trường giai đoạn 2003 – 2007 Đơn vị: nghìn USD 2003 2004 2005 2006 2007 Nga 407,498 619,283 847,818 650,517 352,903 Mông Cổ 166,040 8,258 68,201 118,585 163,037 Látvia - - - 77,132 108,159 Đức - - - - 81,799 Mỹ - - - - 74,202 Romania - - - - 88,931 Estonia - - - - 69,042 (Nguồn: Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng năm 2004 – 2007) Giai đoạn 2003 – 2004, thị trường xuất khẩu chính của rau quả của công ty vẫn là thị trường Nga và Mông Cổ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nga luôn tăng và đạt mức tăng trưởng cao: năm 2003 mức kim ngạch xuất khẩu sang Nga đạt 407,498 nghìn USD chiếm 71,04% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của công ty, năm 2004 đạt 619,283 nghìn USD tăng 51,97% so với năm 2003 và năm 2005 đạt 847,818 nghìn USD tăng 36,9% so với năm 2004. Năm 2006, với nhiều những biến động về chính trị tại Nga nên kim ngạch xuất khẩu giảm đạt 650,517 nghìn USD giảm 23,27% so với năm 2005. Bước sang năm 2007, mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của công ty tăng song kim ngạch xuất khẩu sang Nga lại giảm chỉ đạt 352,903 nghìn USD, giảm 45,75%. Nguyên nhân sự sụt giảm mạnh đó là vào năm 2007, công ty đã mở rộng thêm được một số thị trường xuất khẩu mới do đó khả năng cung ứng các mặt hàng sang thị trường Nga bị hạn chế một phần nhưng hiện Nga vẫn là thị trường xuất khẩu truyền thống và lớn nhất của công ty. (Nguồn: Tổng hợp Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng năm 2004 – 2007) Thị trường Mông Cổ là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của công ty. Mặc dù xuất khẩu rau quả của Công ty sang Mông Cổ có năm giảm mạnh (năm 2004 đạt 8,258 nghìn USD, giảm tới 95% so với năm 2003) song đây lại là thị trường có mức tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây. Nếu năm 2005, xuất khẩu rau quả của công ty sang thị trường này đạt 68,201 nghìn USD thì tới năm 2006 là 118,585 nghìn USD tăng 73,87% so với năm 2005 và năm 2007 là 163,037 nghìn USD tăng 37,48% so với năm 2006. Đây là thị trường được công ty dự báo là có kim ngạch tăng mạnh trong những năm tới bởi những sản phẩm của công ty sang thị trường này ngày càng được ưu chuộng. (Nguồn: Tổng hợp Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng năm 2004 – 2007) Thị trường Látvia cũng là một thị trường tiềm năng cho sản phẩm của công ty. Dù mới qua 2 năm xuất khẩu sang thị trường này nhưng kim ngạch xuất khẩu lại tăng mạnh năm 2006 đạt 77,132 ngìn USD và năm 2007 đạt108,159 nghìn USD tăng 40,22% so với năm 2006. Kết quả này đã chứng minh hoạt động mở rộng của công ty bước đầu đã có những hiệu quả nhất định. Biểu đồ 2.6: Cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả năm 2007 (Nguồn: Tổng hợp Báo cáo Bán hàng chi tiết theo mặt hàng năm 2004 – 2007) Năm 2007 là năm đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ trong công tác phát triển thị trường của công ty. Công ty đã mở rộng sản phẩm xuất khẩu được sang thị trường Đức, Mỹ, Romania và Estonia. Nga vẫn là thị trường xuất khẩu lớn của công ty chiếm 37,62% thị phần xuất khẩu, đứng thứ hai là Mông Cổ chiếm 17,38% tiếp theo là các thị trường Látvia (11,53%), Romania (9,48%), Đức (8,72%), Mỹ (7,91%) và Estonia (7,36%). 2.2.2.4.Kết quả thực hiện các chỉ tiêu mở rộng thị trường của Công ty giai đoạn 2003 - 2007 Số lượng thị trường xuất khẩu (Tn) Công thức Tn = Tn-1 + (Tm + T k – Td) Bảng2.10: Số thị trường hiện tại của sản phẩm rau quả giai đoạn 2003 – 2007 Năm 2003 2004 2005 2006 2007 Số thị trường ban đầu 2 2 2 2 3 Số thị trường mới mở (Tm) - - - 1 4 Số thị trường khôi phục (Tk) - - - - - Số th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30422.doc