Mở rộng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSH Đồng bằng sông Hồng BTB Bắc Trung Bộ NTB Nam Trung Bộ TN Tây Nguyên ĐNB Đông Nam Bộ MNPB Miền núi phía Bắc HTX Hợp tác xã AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN CEPT Hiệp định ưu đãi thuế quan DNNN Doanh nghiệp nhà nước NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn CNH – HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa KHCN Khoa học công nghệ WTO Tổ chức thương mại thế giới EU Liên minh châu Âu FAO Tổ chức nông lương

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới USDA Bộ nông nghiệp Mỹ DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ TT TÊN BẢNG, BIỂU ĐỒ Trang Bảng 2.1 Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 1989 – 2005. Biểu đồ 2.1 Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1989 -2995 Biểu đồ 2.2 Sự biến động của giá xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu gạo giai đoạn 1989 -2005 Biểu đồ 2.3 Diễn biến giá gạo 5%, 25% của Thái Lan và Việt Nam Bảng 2.2 Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam (2002- 2004) Bảng 2.3 So sánh gạo xuất khẩu của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh lớn Bảng 3.1 Cung và cầu gạo thế giới, thống kê và dự báo Bảng 3.2 Dự báo mức tiêu thụ gạo của thế giới tới năm 2010 của USDA Bảng 3.3 Dự báo các nước nhập khẩu gạo thế giới tới năm 2010 Bảng 3.4 Dự báo các nước xuất khẩu gạo thế giới tới năm 2010 Bảng 3.5 Dự báo thị trường gạo Việt Nam giai đoạn 2001-2010 LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây, nước ta đã vươn lên đứng thứ 2 trong số những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới (chỉ sau Thái Lan). Sản lượng lúa gạo sản xuất ngày càng tăng lên không những đáp ứng được nhu cầu của chương trình an ninh lương thực quốc gia mà còn có thể xuất khẩu với số lượng lớn. Trong giai đoạn 1995 – 2004, sản lượng lúa tăng bình quân khoảng 4,1%/năm. Mỗi năm cung cấp khoảng 16 – 28 triệu tấn gạo cho tiêu dùng nội địa và khoảng 3 – 4 triệu tấn cho xuất khẩu. Với gần 80% lao động sống ở khu vực nông thôn và tham gia sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa. Có thể nói vấn đề sản xuất và tiêu thụ lúa gạo luôn là một trong những vấn đề được Chính phủ quan tâm hàng đầu, coi đó là một hướng đi để phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, gạo luôn là một trong mười mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước ta. Tuy nhiên trong những năm gần đây trước tình hình hội nhập kinh tế thế giới mặt hàng gạo xuất khẩu nước ta gặp phải những khó khăn nhất định. Trước hết là sự cạnh tranh gay gắt giữa những quốc gia xuất khẩu gạo và sau nữa là những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và giá cả của các quốc gia nhập khẩu gạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo hiện nay chúng ta gặp một số khó khăn bất ổn đó là tình trạng gạo của nước ta xuất sang thị trường nước khác thường không được đánh giá cao về chất lượng, vì vậy giá gạo của nước ta trên thị trường thế giới thấp hơn so với gạo cùng loại của nước khác (Thái Lan). Hơn nữa nước ta chủ yếu xuất khẩu thô lúa gạo do trang thiết bị chế biến còn lạc hậu, trước tình hình đó Chính phủ đã có những giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường lúa gạo cả trong và ngoài nước, một số giải pháp có thể kể đến như: quy hoạch các vùng trồng lúa chất lượng cao, hỗ trợ vốn và kĩ thuật cho người nông dân, quy định mức giá sàn trong thu mua lúa gạo, thành lập các chợ đầu mối buôn bán gạo, xúc tiến thương mại với các tổ chức và quốc gia khác nhằm kí những hợp đồng xuất khẩu gạo có giá trị,…Tất cả những hoạt động này đã mang lại những hiệu quả tích cực nhất định và đang dần dần bình ổn thị trường xuất khẩu gạo nước ta. Với mong muốn tìm hiểu thực trạng thị trường xuất khẩu lúa gạo hiện nay và những giải pháp nhằm phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Chính phủ, nhằm tăng cường hiểu biết, áp dụng những kiến thức đã học của mình để có thể đề xuất những giải pháp riêng nên tôi đã chọn đề tài “Mở rộng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”. Đề tài gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới Chương II: Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian qua.(1989 – 2005) Chương III: Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam đến năm 2010 Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài không tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của Thầy giáo cùng các Cán Bộ trong Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam để bài viết được hoàn thiện hơn. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu hoàn thiện đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn chỉ bảo tận tình của Thầy giáo: ThS. Vũ Cương và cán bộ hướng dẫn thực tập TS. Đặng Phúc(Phòng kế hoạch - Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn) Với tấm lòng trân trọng nhất tôi xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI I. Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa I.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu hàng hóa I.1.1. Khái niệm Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là một trong những hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên và cơ bản của các công ty kinh doanh quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động kinh doanh quốc tế của các cá nhân, tập thể doanh nghiệp ở các quốc gia nhằm đưa hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và chi phí thấp. Dưới giác độ kinh doanh thì hoạt động này là việc bán hàng hoá dịch vụ, dưới giác độ là quà tặng, những hoạt động viện trợ thì hoạt động đó chỉ là việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ. Xuất khẩu còn được hiểu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Đó không chỉ là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức từ bên trong ra đến bên ngoài. Mục đích của việc xuất khẩu là khai thác được thế mạnh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của thương mại quốc tế, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu. Việc trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán sẽ tạo điều kiện cho sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh phạm vi chuyên môn hoá sản xuất. Số sản phẩm thoả mãn nhu cầu con người ngày càng dồi dào và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng lớn. Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của ngoại thương, đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Cho đến nay, nó đã phát triển rất mạnh mẽ, được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ giới hạn ở hàng hoá hữu hình mà còn mở rộng sang cả hàng hoá vô hình và mặt hàng này chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong mậu dịch quốc tế. I.1.2. Vai trò Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ nói riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của các quốc gia. Thực tế cho thấy các nước có dự trữ ngoại tệ lớn như Mỹ, Nhật Bản, Đài loan, Singgapo.. đều là những nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn trên thế giới. Vì vậy có thể nói thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá dịch vụ là một động lực của sự phát triển kinh tế. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Sức cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao, tăng trưởng kinh tế trở nên ổn định và bền vững hơn nhờ các nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các nước, nhất là những nước đang phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoa trên cơ sở ứng dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa hoc - công nghệ . Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Hoạt động xuất khẩu còn kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện mức sống của các tầng lớp dân cư. Ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu là nguồn tăng dự trữ ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ dồi dào là điều kiện cần thiết để giúp cho quá trình ổn định nội tệ và chống lạm phát. Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa cho sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa, tức là xuất khẩu nhưng gì ta có. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự “ thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu rất nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp, không có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất, nhằm xuất khẩu những gì mà thị trường thế giới cần. Quan điểm này chính là xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm. Sự tác động này được thể hiện ở chỗ: Các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đày đủ cho việc phát triển ngành xuất khẩu nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. Xuất khẩu tạo ta khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, nhờ vậy mà sản xuất có thể phát triển và ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này nhằm nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo nguồn vốn và kỹ thuật công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước để tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích ứng được với những thay đổi của thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn hiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh. + Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời xuất khẩu cũng tác động tích cực tới tình độ tay nghề và thay đổi thói quen của những người sản xuất hàng xuất khẩu. + Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới. Thực tế qua hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta đã cho thấy đóng góp của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế trong những năm qua là rất đáng kể. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ buôn bán với trên 170 quốc gia trên thế giới, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 2,087 tỷ USD năm 1990 lên 15 tỷ USD năm 2001. Bên cạnh đó chúng ta cũng đã từng bước xây dựng được một số mặt hàng có quy mô ngày càng lớn và được thị trường thế giới chấp nhận như: dầu khí, gạo, thuỷ sản, hàng may mặc, cà phê..Việc xây dựng được một số mặt hàng có quy mô lớn nói trên đã cho phép chúng ta khai thác được những lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam và đồng thời cũng tích luỹ được những bài học thực tiễn quan trọng cho việc đổi mới và hình thành cơ cấu xuất khẩu có hiệu quả cho nền ngoại thương Việt Nam trong những năm sau này. I.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu I.2.1. Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hình thức nhà sản xuất trực tiếp giao dịch với khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước ngoài thông qua tổ chức của mình. Các công ty có kinh nghiệm quốc tế thường trực tiếp bán các sản phẩm của mình ta thị trường nước ngoài. Khách hàng của công ty không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng. Những ai có nhu cầu mua sản phẩm của công ty đều là khách hàng của công ty. Để thâm nhập thị trường quốc tế qua hình thức xuất khẩu trực tiếp, các công ty thường sử dụng hai hình thức chủ yếu sau đây: * Đại diện bán hàng Đại diện bán hàng là hình thức bán hàng không trên danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người uỷ thác. Đại diện bán hàng được nhận một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị của hàng hoá mà họ bán được. Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như là nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài. Công ty sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng ở thị trường đó. * Đại lý phân phối Đại lý phân phối là người mua hàng hoá của công ty để bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vi phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán. I.2.2. Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là hình thức khi doanh nghiệp thông qua các dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài. Các trung gian mua bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là: Đại lý, công ty quản lý xuất nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hoá của công ty nhưng trợ giúp công ty xuất khẩu hàng hoá sang thị trường nước ngoài. • Đại lý (Agent) là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho một hoặc nhiều nhà xuất khẩu ở thị trường nước ngoài. Đại lý chỉ thực hiện một công việc nào đó do công ty uỷ thác và nhận thù lao. Đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hoá. Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa công ty và khách hàng ở thị trường nước ngoài. • Công ty quản lý xuất khẩu (Export management company): là các công ty nhận uỷ thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hoá. Công ty quản lý xuất khẩu hàng hoá hoạt động trên danh nghĩa của công ty xuất khẩu (không phải danh nghĩa của mình) nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công ty quản lý xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Bản chất công ty quản lý xuất khẩu là làm dịch vụ quản lý và thu được một khoản thù lao nhất định từ các hoạt động đó. • Công ty kinh doanh xuất khẩu (Export trading company): là công ty hoạt động như là nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài với công ty xuất khẩu trong nước. Ngoài việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, các công ty này còn cung ứng các dịch vụ xuất nhập khẩu và thương mại đối lưu, thiết lập và mở rộng các kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư, thậm chí trực tiếp thực hiện sản xuất để hỗ trợ một công đoạn nào đó cho các sản phẩm ví dụ như bao gói, in ấn ...Các công ty này có thể cung cấp các chuyên gia xuất khẩu cho các công ty xuất khẩu. • Đại lý vận tải: là các công ty thực hiện các hoạt động thuê vận chuyển và các hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá như khai báo hải quan, các phí giao nhận chuyên chở bảo hiểm. Các đại lý vận tải này cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận hàng hoá đến tận tay người nhận. Khi các công ty xuất khẩu thông qua các đại lý vận tải hay các công ty chuyển phát hành thì các đại lý và các công ty đó cũng làm các dịch vụ xuất nhập khẩu liên quan tới hàng hoá đó. Bản chất các đại lý vận tải hoạt động như các công ty kinh doanh dịch vụ giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí cả dịch vụ bao gói hàng hoá cho phù hợp với phương thức vận chuyển, mua bảo hiểm cho hàng hoá và hoạt động của họ. I.2.3. Xuất khẩu tại chỗ Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh xuất khẩu đang có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi bởi những ưu điểm của nó mang lại. Đặc điểm của loại hình này là không có sự dịch chuyển ra khỏi biên giới quốc gia của các hàng hoá, dịch vụ. Đó là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải..., tránh được những rắc rối hải quan, thu hồi vốn nhanh. I.2.4. Xuất khẩu theo nghị định thư Đây là hình thức mà doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo chỉ tiêu Nhà nước giao cho về một hoặc một số hàng hoá nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký kết giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí tìm kiếm bạn hàng, tránh được rủi ro trong thanh toán. I.2.5. Gia công quốc tế Gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt ra công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy, trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất. I.2.6. Xuất khẩu ủy thác Xuất khẩu uỷ thác là hình thức các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò trung gian xuất khẩu làm thay cho các đơn vị sản xuất (bên có hàng) những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và được hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã thoả thuận. Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt không cần bỏ vốn ra để mua hàng song lại được nhận tiền nhanh. I.2.7. Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Mục đích của xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương. I.2.8. Tạm nhập tái xuất Tạm nhập tái xuất là hình thức xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục đích là nhằm thu về một số ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này gồm ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu (còn gọi là giao dịch tam giác). Có hai hình thức tái xuất: Một là, hàng hoá đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của đồng tiền: nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Hai là, hình thức chuyển khẩu: hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. I.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa I.3.1. Yếu tố kinh tế Thị trường cần có sức mua, cũng như người mua. Sự thay đổi các thông số kinh tế như thu nhập, chi phí sinh hoạt, lãi suất và kết cấu tiết kiệm của một quốc gia có tác động tức thời đến thương trường, các nhà quản trị cần hiểu rõ những khuynh hướng chính yếu diễn ra trong các vấn đề này. Một yếu tố cơ bản để phản ánh kích thước của thị trường tiềm năng đó là dân số, quan trọng hơn nữa họ phải nghiên cứu so sánh tốc độ của GNP tăng so với tốc độ dân số để dự đoán khả năng mở rộng thị trường của quốc gia đó. Kèm theo vấn đề dân số, các nhà nghiên cứu thị trường nước ngoài còn phải chú ý tới mức phân phối theo tuổi, mật độ và sự phân bố ở quốc gia đó cũng như nghiên cứu đặc tính phân phối thu nhập. Để định hình các yếu cầu về sản phẩm và dịch vụ, công ty kinh doanh quốc tế phải tiến hành cơ cấu công nghiệp của một quốc gia với những đặc điểm khác nhau của nền kinh tế như: Những quốc gia mà nền kinh tế chỉ đủ sinh tồn thì ít cống hiến thời cơ cho hoạt động xuất khẩu của công ty, còn những quốc gia thường xuất khẩu nguyên liệu thô, có nền kinh tế đang công nghiệp hoá hay nền kinh tế công nghiệp sẽ tạo điều kiện triển vọng, mở ra nhiều thời cơ kinh doanh cho các công ty kinh doanh quốc tế. Công ty nào đặc biệt nhạy cảm với vấn đề lợi tức thì khôn ngoan đầu tư vào việc tiên đoán thị trường quốc tế. Với sự biết trước thích đáng, họ có thể ra những bước đi cần thiết để làm giảm các khoản chi không đáng và vượt qua được những biến động kinh tế. Chẳng hạn, Việt Nam là một nước đang phát triển, kinh tế mới chỉ đủ để sinh tồn và một phần đầu tư nhỏ dùng đầu tư vào các cơ sở hạ tầng trọng yếu, chưa có đủ vốn để xây dựng nhiều cơ sở sản xuất hiện đại để xuất khẩu các mặt hàng có tầm cỡ thế giới; mới chỉ có điều kiện liên doanh với các công ty nước ngoài sản xuất một số mặt hàng như: Giày dép, may mặc. Chính vì vậy mà chúng ta phải lựa chọn như thế nào để liên doanh hoặc xây dựng những nhà máy sản xuất, chế biến thật cần thiết cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy mạnh kinh tế phát triển . I.3.2. Môi trường văn hóa - xã hội Mỗi nước đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng được hình thành theo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng của người dân nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá đã làm xuất hiện khá nhiều tập tính tiêu dùng chung giữa các đầu tư, song những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững, có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Đặc biệt chúng biểu hịên rất rõ trong sự khác biệt giữa truyền thống Phương Đông và Phương Tây, giữa các tôn giáo và các chủng tộc. Cần chú ý rằng sự khác biệt về văn hoá có thể diễn ra ngay trong thị trường một nước. Trên thế giới có những thị trường bản sắc văn hoá thuần nhất (như Trung Quốc, Nhật Bản...) song cũng có thị trường hết sức phức tạp về văn hoá (như Mỹ) vì thế khi xem xét sự khác biệt về bản chất văn hoá không nhất thiết phải đóng khung trong ranh giới quốc gia. Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức giao dịch được tiến hành, loại sản phẩm mà khách hàng sẽ mua và những hình thức khuếch trương có thể được chấp nhận. Đặc điểm văn hoá được thể hiện qua các yếu tố như: thời gian, không gian, ngôn ngữ, sự quen thuộc, kỹ thuật đàm phán, hệ thống pháp lý, cách thức tiêu thụ. Ví dụ, Việt Nam có một nền văn hóa hết sức phong phú, với 54 dân tộc khác nhau. Điều này vừa là thuận lợi đồng thời cũng gây nhiều khó khăn trong cuộc sống. Thuận lợi là chúng ta có một thị trường hàng hoá phong phú, đặc trưng cho từng vùng nhất định. Ngược lại, chính vì sự khác nhau về phong tục tập quán nên hàng hoá sản xuất ra muốn tiêu thụ được lại phụ thuộc rất nhiều vào điều này. I.3.3. Môi trường chính trị - pháp luật Các quyết định kinh doanh chịu tác động mạnh mẽ của những tiến triển trong môi trường chính trị và pháp luật. Môi trường này được tạo ra từ các luật lệ, cơ quan chính quyền và những nhóm áp lực đã gây ảnh hưởng và ràng buộc tới mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Các nhà quản lý tiếp thị cần phải xem xét những xu hướng chính yếu và những điều ẩn chứa đó để đưa ra những quyết định có hiệu quả. Pháp lý điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, trước hết là để bảo vệ quan hệ giữa các công ty với nhau; thứ hai là, để bảo vệ người tiêu thụ tránh được các giao dịch buôn bán không công bằng(ví dụ như luật về đánh giá hàng tiêu dùng của Mỹ vào năm 1975: Ngăn cấm việc sử dụng các thoả hiệp duy trì giá giữa các nhà sản xuất và các nhà bán lẻ trong nội thương); thứ ba là, để bảo vệ các lợi ích rộng lớn của xã hội tránh khỏi những hành vi sai lạc vì hầu hết các công ty đều không hứng chịu những phí tổn xã hội trong hoạt động sản xuất hoặc trong sản phẩm của họ. Nếu họ gánh chịu các phí tổn xã hội này thì lợi nhuận của họ đương nhiên là giảm xuống. Khi môi trường xấu đi thì những điều luật mới của Chính phủ vẫn còn nguyên lực hoặc rộng hơn nữa sự tác động của chính phủ có thể thúc đẩy, ngăn cản hoạt động xã hội hoặc tạo ra môi trường cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu. Những biện pháp của chính phủ nhằm kiểm soát hoạt động nhập khẩu như: Sự đòi hỏi bắt buộc về giấy phép kinh doanh nhập khẩu, hình thức cực đoan hơn có thể là giấy phép cấm nhập khẩu hoặc xuất khẩu một số sản phẩm. Cấm buôn bán với một số quốc gia, các hàng rào thuế quan, quota nhằm định rõ số lượng hàng hoá nhập khẩu vào quốc gia mình, thực chất là bảo hộ các nhà sản xuất trong nước. Các nhà tiếp thị phải có sự hiểu biết thấu đáo các đạo luật quan trọng đang bảo vệ sự cạnh tranh, người tiêu thụ và những lợi ích rộng lớn của xã hội. Vì những điều luật mới, với sự cưỡng chế năng động hơn có thể tạo thành áp lực hạn chế sự tự do của nhà tiếp thị. Nên họ cần thông báo rõ ràng hàng hoá của mình với các bộ phận pháp lý và giao tế của công ty để tập hợp thành các quyết định quản lý chung. Ví dụ, Việt Nam đang trong thời kỳ đầu của quá trình CNH- HĐH, chúng ta đang dồn sức vào việc xây dựng đất nước, nên trong đường lối, chính sách cũng không khỏi có những vấn đề chưa được hoàn chỉnh. Cơ chế thị trường ở nước ta cũng mới được hình thành và chịu sự kiểm soát của Nhà nước, do đó cũng có nhiều đạo luật khác hơn so với cơ chế thị trường thuần tuý của các nước tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy mà việc quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá với các nước bên ngoài không hoàn toàn là tự do trao đổi mua bán. Đây là đặc trưng của nước ta. Do vậy khi hàng của ta xuất ra nước ngoài cũng như khi ta nhập hàng hoá nước ngoài vào thì cần phải có những tìm hiểu thấu đáo về luật pháp để tránh những trở ngại đáng tiếc. I.3.4. Yếu tố cạnh tranh Thị trường mục tiêu nước ngoài hiếm khi là một không gian thuần khiết cho mọi sự hiện diện thương mại. Các nhà sản xuất và nhập khẩu nội địa thường góp phần hình thành một hệ thống tổ chức mà doanh nghiệp thường khó thích nghi hơn. Cho dù sớm hay muộn thị trường cũng bị chia sẻ bởi các công ty kinh doanh quốc tế . Các công ty đa quốc gia với nhiều chi nhánh gây ảnh hưởng rất lớn tới thị trường cạnh tranh quốc tế. Điều chủ yếu khi một công ty xâm nhập thị trường nước ngoài thực chất là tìm kiếm hoạt động kinh doanh và duy trì một vị thế thích hợp trên thị trường. Từ nguồn gốc và động lực đó các nhà hoạch định marketing khi thu thập thông tin và nghiên cứu phải xác định được: Ai có thể là đối thủ cạnh tranh, cơ cấu cạnh tranh (một tình trạng độc quyền về danh nghĩa hay trên thực tế, một cách tổ chức ít độc quyền dựa trên các thoả thuận lịch sự hoặc theo từng hoàn cảnh. Mọi sự cạnh tranh hoàn toàn mở). Đó là ba tình huống có thể sinh ra những bầu không khí kinh doanh rất khác nhau. Trên cơ sở nắm bắt và tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh, các nhà quản trị phải phân loại đối thủ cạnh tranh như: Đối thủ cạnh tranh về ước muốn (ví dụ như khi mua một dụng cụ thể thao khách hàng muốn thoả mãn những ước muốn gì?), đối thủ cạnh tranh về hình thái sản phẩm và đối thủ cạnh tranh về nhãn hiệu. Để hoạch định một chiến lược cạnh tranh chi tiết, các nhà quản trị marketing còn phải nghiên cứu những nhân tố tác động tới cạnh tranh. Sản phẩm đồng nhất là nhân tố tác động tới cạnh tranh trực tiếp. Bên cạnh đó phải chú ý tới thái độ của nhà xuất khẩu, các loại nhu cầu của người mua mong muốn được đáp ứng. Nhân tố cuối cùng là luật pháp và những quy định của Chính phủ. II. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. II.1. Vị trí của sản xuất và xuất khẩu gạo đối với Việt Nam Vị trí của lúa gạo trong nền kinh tế quốc dân ngày càng được khẳng định chắc chắn. Gạo là lương thực chủ yếu của hơn một nửa dân số thế giới và càng được quan tâm đặc biệt trong tình hình an ninh lương thực toàn cầu hiện nay. Trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam, lúa là cây trồng có diện tích lớn nhất và có vị trí hết sức quan trọng để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Nước ta từ chỗ phải nhập khẩu lương thực đến nay không những đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia mà còn dư thừa để xuất khẩu. Xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện đang đứng ở vị trí thứ 2 trên thế giới, đóng góp khá lớn vào kim ngạch xuất khẩu nông sản (thường chiếm khoảng 25%), tạo tiền đề để cơ cấu lại ngành nông nghiệp góp phần và ổn định tình hình xã hội của đất nước. Trên qui mô nền kinh tế chung cả nước, lúa gạo phát triển là yếu tố quan trọng để ổn định và phát triển kinh tế-xã hội. Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, sản xuất lúa nước từ lâu đời, hơn nữa dân số lại đông và phần lớn dân số làm nông nghiệp do vậy thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ góp phần giải quyết việc làm cho người dân, tăng thu nhập cho nông dân, cải thiện đời sống và thu hẹp khoảng cách về thu nhập. Mặt khác, vì là một nước có nền nông nghiệp lâu đời nên các sản phẩm từ nông nghiệp chắc chắn sẽ có lợi thế hơn hẳn so với các sản phẩm công nghiệp. Nhìn chung so với hàng công nghiệp tiêu dùng như dệt may, da giầy hay cơ khí, điện tử lắp ráp... trong cùng một lượng xuất khẩu như nhau thì tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản thấp hơn so với hàng công nghiệp do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản sẽ cao hơn rất nhiều. Ví dụ: Chi phí xuất khẩu gạo có nguồn gốc ngoại tệ chỉ chiếm khoảng 15% giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước. Việt Nam có các yếu tố tự nhiên đóng góp hết sức quan trọng đến lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam II.2 Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo II.2.1. Điều kiện đất đai Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của canh tác lúa gạo vì toàn bộ sản phẩm thóc thu được trong quá trình sản xuất đều phải thông qua đất. Độ phì nhiêu của đất chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm . Tổng diện tích tự nhiên cả nước có trên 33,1 triệu ha, trong đó đất dành cho trồng lúa khoảng 4,3 triệu ha (chiếm 13% diện tích cả nước). Bình quân đất theo đầu người của nước ta tuy thấp nhưng quỹ đất có khả năng trồng lúa lại chiếm tỷ lệ cao trong đất có khả năng nông nghiệp. Theo khảo sát năm 2002 của Viện Quy hoạch và Thống kê Nông Nghiệp thuộc Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích đất nông nghiệp nước ta có khoảng 10,5 triệu ha, đất có khả năng trồng lúa là trên 8 triệu ha, trong đó có những loại thổ nhưỡng có giá trị kinh tế rất cao như đất đỏ Bazan, đất phù sa do các con sông bồi đắp. Như vậy, tài nguyên đất đai của nước ta có lợi thế đồng thời cho cả hướng thâm canh và quảng ._.canh nhằm tăng nhanh sản lượng lúa. II.2.2. Điều kiện khí hậu Khí hậu nhiệt đới ẩm của Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa Châu á. Nhờ sự đa dạng của địa hình, nước ta có nhiều vùng tiểu khí hậu thuận lợi cho việc đa dạng hoá cây trồng. Với lượng bức xạ lớn Việt Nam có một nguồn năng lượng tự nhiên quan trọng và có thể khai thác được qua con đường tích luỹ sinh học. Với độ ẩm tương đối cao, nguồn nước cũng khá dồi dào, tài nguyên khí hậu thuỷ văn cho phép khai thác có hiệu quả tài nguyên đất đai có hạn và nhân lên nhiều lần quỹ đất canh tác. Tài nguyên khí hậu đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, cung cấp nguồn năng lượng và các yếu tố khác như độ ẩm, gió, mưa... Tất cả các yếu tố này thay đổi theo không gian cùng thời gian và là cơ sở khoa học để phân chia các vùng sinh thái nông nghiệp ở nước ta. Các tỉnh phía Bắc: nhiệt độ trung bình thường thấp hơn thích hợp cho các cây như: cà phê, chè. Biên độ nhiệt độ trung bình là 6-110C thích hợp với tích luỹ chất khô của hạt. Đối với các tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Hồng(ĐBSH) thì là nơi rất tốt để phát triển cây lúa nước, dễ dàng thâm canh tăng vụ và cho năng suất cao. Duyên hải Trung Bộ: nhiệt độ trung bình từ 25- 270C, mùa khô bắt đầu vào tháng 8-9 và kết thúc vào tháng 12 và 1. Lượng mưa giảm dần từ Bắc vào Nam. Do đó, khu vực này thích hợp cho việc trồng các cây ăn quả, các cây công nghiệp. Khu vực Tây Nguyên: nhiệt độ hơi thấp, khí hậu mát mẻ, rất thuận lợi cho cây cà phê sinh trưởng và phát triển. Khu vực Nam Bộ: khí hậu nhiệt đới rõ rệt, đặc biệt khu vực này có Đồng Bằng Sông Cửu Long(ĐBSCL) được ví như một vựa lúa của cả nước. Hàng năm khu vực này sản xuất ra hàng chục triệu tấn lương thực và hoa quả cho cả nước đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Như vậy, hai vùng ĐBSH và ĐBSCL có điều kiện sinh thái lý tưởng đối với việc trồng cây lúa nước do có sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố khí hậu như: nhiệt độ, độ ẩm, mưa cũng như nắng gió. II.2.3. Nước tưới tiêu Cùng với đất, nước ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng khai thác nông nghiệp. Không nước đất trở thành vô sinh và không có ý nghĩa gì cả. Nước quyết định trực tiếp cơ cấu mùa vụ cũng như năng suất và sản lượng nông nghiệp. Nước còn là đặc trưng của hệ sinh thái nông nghiệp của vùng ĐBSH và ĐBSCL Tài nguyên nước rất dồi dào là một trong những lợi thế nổi bật của Việt Nam. Số ngày mưa lý tưởng 120- 140 ngày/năm ở hai đồng bằng lớn không chỉ cung cấp cho lúa nguồn nước trời quý giá mà còn đồng thời bồi bổ cho lúa nguồn phân đạm thiên nhiên dễ hấp thụ nhất, trong khi đó nước và đạm nhân tạo không thể so sánh được. II.2.4. Nhân lực Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn có ưu thế lớn về chất lượng, sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa. Vốn là nghề cổ xưa nhất và phổ cập nhất từ thuở cộng đồng nguyên thuỷ người Việt cho đến khi ra đời nước Văn Lang tới nay, lịch sử sản xuất lúa Việt Nam đã trải qua hơn 6.000 năm, đã được các thế hệ đúc rút và để lại nhiều tri thức và kinh nghiệm. Việt Nam với dân số trên 84 triệu người do đó có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào. Hơn nữa, Việt Nam là nước xuất phát từ nền nông nghiệp nên lao động trong ngành nông nghiệp chiếm khá lớn, khoảng 80%. Đây là thành phần không thể thiếu trong sản xuất lúa gạo của cả nước. II.2.5. Địa lý cảng khẩu Việt Nam có vị trí giao thông đường biển rất thuận lợi. Hệ thống cảng biển Việt Nam nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các chuyến đi Đông Bắc á, Đông Nam á- Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ... do đó rất thuận lợi cho việc vận chuyển xuất khẩu gạo sang các nước. Ví dụ, từ cảng Sài Gòn đến đường hàng hải quốc tế thường chỉ hết 3h hành trình với 40 hải lý. Như vậy, có thể khẳng định rằng Việt Nam có khá nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu gạo. II.3. Thúc đẩy xuất khẩu gạo để tranh thủ cơ hội của thị trường thế giới. II.3.1. Xuất khẩu gạo tranh thủ xu hướng phân công lao động quốc tế ngày càng sâu Theo lợi thế trong thương mại quốc tế, các nước đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế, khi biết tận dụng những ưu thế của phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu gạo chính là tranh thủ thị trường thế giới theo xu hướng chuyên môn hoá phân công lao động quốc tế ngày càng sâu. Hơn nữa, thị trường gạo thế giới vẫn là thị trường mở rộng tương đối ổn định vì ít rủi ro hơn các loại nông sản khác trong xu thế giá cả thường biến động hiện nay. Gạo vẫn là lương thực thiết yếu đối với hầu hết các nước đang phát triển, kim ngạch buôn bán vẫn lớn, nhu cầu vẫn tiếp tục mở rộng. Đồng thời lúa gạo cũng là ngành sản xuất chính trong nông nghiệp do đó việc đẩy mạnh hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo là quyết định phù hợp lòng dân. II.3.2. Xuất khẩu gạo tranh thủ xu thế thương mại hóa và hội nhập Xuất khẩu gạo tranh thủ cơ hội của xu thế thương mại hóa và hội nhập hiện nay. Từ những vòng đàm phán Urugoay của GATT trước đây cho đến WTO hiện nay, theo xu hướng thương mại hóa và hội nhập thế giới, buôn bán các loại nông sản, đặc biệt là lương thực đang được mở rộng. Theo xu hướng đó, các nước đều phải mở rộng cửa nhập khẩu nông sản nói chung và gạo nói riêng. Nhật Bản, Hàn Quốc tăng nhập khẩu gạo trong những năm gần đây chính là động thái trong xu hướng đó. Mặt khác, theo quy định của Điều 11 của WTO, các bên ký kết có thể nới lỏng những hạn chế nhập khẩu hàng nông sản theo những điều kiện: + Để phòng chống hoặc trợ giúp tình hình thiếu hụt lương thực nghiêm trọng của nước xuất khẩu, cấm xuất khẩu hoặc hạn chế xuất khẩu. + Để phân loại, phân cấp và đưa ra các tiêu chuẩn tiêu thụ hàng hoá trong thương mại quốc tế, phải thực hiện cấm xuất nhập khẩu hoặc hạn chế xuất khẩu. + Để chấp hành kế hoạch tiêu thụ hoặc sản xuất trong nước và giải quyết vấn đề dư thừa hàng nông sản trong nước, thực hiện hạn chế nhập khẩu hàng nông sản. Như vậy, đẩy mạnh xuất khẩu gạo là cần thiết, khai thác kịp thời cơ hội của tự do hoá thương mại và hội nhập thế giới hiện nay. II.3.3. Xuất khẩu gạo tranh thủ cơ hội cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ AFTA/ASEAN, WTO hiện nay Trong số các chương trình hợp tác kinh tế thương mại của ASEAN (mà Việt Nam là một thành viên) thì Hiệp định về Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung đóng vai trò cơ bản nhất, nhằm đưa ASEAN thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá ASEAN. Nội dung cốt lõi của Hiệp định thuế quan này (CEPT) là cắt giảm thuế quan xuống mức chung là 0- 5%. Tuy nhiên, lợi ích rõ ràng nhất khi Việt Nam tham gia CEPT/AFTA là mở rộng được thị trường tiêu thụ. Sau 6 năm thực hiện, ASEAN đã trở thành một trong các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, bên cạnh EU, Nhật Bản, Mỹ. Sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực thì các hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được hưởng Quy chế tối huệ quốc do đó mức thuế giảm xuống đáng kể. Hơn nữa Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế hàng đầu trên thế giới, Mỹ có nhiều đóng góp to lớn và chi phối hoạt động của rất nhiều tổ kinh tế, thương mại và tài chính như WTO, WB, IMF, ADB...Ký kết hiệp định thương mại với nước này sẽ cho phép Việt Nam tiếp cận những tổ chức này và mang lại những cơ hội thuận lợi mới cho nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam. Trong tiến trình này xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn tranh thủ thêm được các cơ hội mới để đẩy mạnh xuất khẩu bởi lẽ các nước nhập khẩu không đánh thuế hoặc đánh thuế thấp( 5%) đối với gạo xuất khẩu. Ngoài ra, tại Hội thảo hưởng ứng năm quốc tế về lúa gạo do FAO tổ chức năm 2004 tại TP.Hồ Chí Minh cho thấy những năm tới nhu cầu gạo trên thế giới vẫn rất bức xúc. Tình hình bất ổn về chính trị ở các nước Trung Đông, Châu Phi và lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nước, đã làm xuất hiện xu hướng tăng cầu. Do đó Việt Nam cần phải tranh thủ hơn nữa những cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu gạo. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu gạo của một quốc gia Xuất khẩu là hoạt động bán sản phẩm được sản xuất ở trong nước ra nước ngoài, hoạt động này phức tạp hơn rất nhiều so với việc bán sản phẩm ở trong nước. Vì vậy, để hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả chúng ta cần phải tổ chức hoạt động này một cách khoa học và chặt chẽ với nhiều nghiệp vụ khác nhau, từ khâu điều tra nghiên cứu thị trường lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, lựa chọn đối tác giao dịch, tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng. Mỗi khâu trong quá trình cần phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và đặt nó trong một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. III.1. Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường quốc tế. Đó là quá trình điều tra, khảo sát để tìm khả năng bán hàng đối với một hoặc một nhóm sản phẩm, kể cả biện pháp thực hiện mục tiêu đó. Các thông tin về tình hình cung cầu thị trường, động thái giá cả, các chính sách, pháp luật, tập quán buôn bán có liên quan tới xuất nhập khẩu của các nước nhằm lựa chọn được thị trường thích hợp với doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường thực hiện bằng hai phương pháp: Nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở các số liệu thực tế được xử lý bằng các công cụ thống kê. Phương pháp này có ưu điểm là chi phí thu thập thông tin rẻ, thông tin thu được đa dạng. Tuy nhiên nó có nhược điểm là kém tính cập nhật, độ tin cậy không cao... Nghiên cứu tại hiện trường là việc doanh nghiệp thu thập thông tin về thị trường thông qua trao đổi trực tiếp với khách hàng, bằng các phương pháp như phỏng vấn, quan sát, thử nghiệm thị trường ...Ưu điểm của phương pháp này là cập nhật thông tin, có độ chính xác cao và bao quát được nhiều khía cạnh của thị trường nhưng nó đòi hỏi chi phí cao và tốn nhiều thời gian. III.2. Tổ chức nguồn hàng xuất khẩu Đây là một nội dung không thể thiếu trong quá trình tổ chức xuất khẩu. Tiến độ xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn này. Công tác thu mua tạo nguồn cho xuất khẩu là một hệ thống các công việc, nghiệp vụ được thể hiện qua nội dung: › Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu để có được những nguồn hàng đảm bảo, có tính ổn định và có thể tiếp tục phát triển nguồn hàng. › Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu là nghiên cứu khả năng cung cấp lượng hàng xuất khẩu trên thị trường như thế nào ? Từ đó xây dựng một hệ thống thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh của mình nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và giảm thiểu chi phí thu mua. › Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới đại lý, hệ thống kho tàng ở các địa phương, các khu vực có mặt hàng thu mua. Hệ thống thu mua cần phải gắn với phương năng suất vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của từng địa phương. › Tổ chức đầu tư và hướng dẫn kỹ thuật thu mua, phân loại bảo đảm hàng hoá cho bạn hàng là việc làm rất cần thiết để xây dựng uy tín của doanh nghiệp đối vối bạn hàng. Đầu tư cho người sản xuất là việc chắc chắn, lâu dài để đảm bảo nguồn hàng ổn định trước sự cạnh tranh trong công tác thu mua trên thị trường. › Lựa chọn và kết hợp nhiều hình thức thu mua, đó cũng là cơ sở để tạo nguồn hàng ổn định và hạn chế rủi ro trong thu mua – ký kết hợp đồng. › Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu; sau khi ký kết hợp đồng với các ngân hàng với các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp phải lập được kế hoạch thu mua và tiến hành sắp xếp cấc công việc đồng thời chỉ đạo các bộ phận thực hiện từng kế hoạch cụ thể. - Tổ chức hệ thống thu mua hàng xuất khẩu: Tổ chức hệ thống kho hàng tại các điểm nút các kênh, đảm bảo khả năng tiếp nhận và giải hoà nhanh chóng “ dòng vào”. Tổ chức vận chuyển hàng theo địa điểm là quy đinh cần thiết để thuê phương tiện vận chuyển thích hợp với từng nhóm hàng. Đưa ra các cơ sở sản xuất, gia công chế biến vào hoạt động theo phương án kinh doanh đã đặt ra. - Chuẩn bị đầy đủ tài chính để thanh toán kịp thời cho các nhà sản xuất, các đại lý, các trung gian... - Tiếp cận bảo quản và xuất kho hàng xuất khẩu. III.3. Lựa chọn đối tác kinh doanh Việc lựa chọn đối tác xuất khẩu đáng tin cậy có ý nghĩa không nhỏ đến sự thành bại trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Để có thể lựa chọn được đối tác như mong muốn các doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu các đối tác của mình trên một số phương diện sau: Quan điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh Tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh Khả năng tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh Quá trình lựa chọn đối tác kinh doanh phải tuân thủ nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Thông thường, khi lựa chọn bạn hàng kinh doanh một mặt nên duy trì các bạn hàng truyền thống, mặt khác phải mở rộng quan hệ với các đối tác mới. Đối với các đối tác mới, cách tốt nhất là đặt quan hệ và thực hiện buôn bán với các công ty, những doanh nghiệp lớn và đã có uy tín nhiều năm trên thị trường thế giới. Đây là một trong những phương sách quan trọng để giảm bớt rủi ro trong kinh doanh. Tuỳ theo khả năng nắm bắt thị trường, đối tác, tuỳ theo tiềm năng và ưu thế sẵn có của mình doanh nghiệp nên lựa chon những thị trường, đối tác kinh doanh cho phù hợp. III.4. Đàm phán ký kết hợp đồng Các bên có thể gặp gỡ trực tiếp để cùng nhau đàm phán về các điều khoản của hợp đồng, từ đó đi đến ký kết hợp đồng. Ngoài ra hợp đồng có thể được ký kết dưới hình thức thư tín, điện thoại, fax, email.. Quá trình đàm phán gồm các bước : Chào hàng: Là lời đề nghị của một bên (người mua hoặc người bán) gửi cho bên kia, biểu thị muốn bán hoặc muốn mua hoặc một số mặt hàng nhất định theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian giao hàng, phương tiện thanh toán... Hoàn giá: là khi người nhận được lời chào hàng không chấp nhận mức giá chào hàng đó mà đưa ra mức giá mới để thương lượng. Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện bên kia ra. Xác nhận: là việc xác nhận điều kiện mà các bên thoả thuận trước đó. Bước này thường trùng với bước ký kết hợp đồng. III.5. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết thì các đơn vị kinh doanh xuất khẩu với tư cách là một chủ thể của hợp đồng phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Tiến hành sắp xếp những công việc phải làm, ghi thành bảng biểu theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi lại những diễn biến, những văn bản phát đi và nhận được để xử lý và giải quyết cụ thể. Đồng thời phải đảm bảo được quyền lợi quốc gia và uy tín kinh doanh của đơn vị, cố gắng không để xảy ra sai sót dẫn tới khiếu nại, đồng thời phải tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ xuất khẩu . Điều quan trọng hơn nữa là yêu cầu của đối tác (với tư cách là một bên tham gia ký kết hợp đồng) thực hiện các nghĩa vụ của mình theo qui định của hợp đồng. Nếu có gì phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thì các bên phải kịp thời trao đổi, bàn bạc để có hướng giải quyết hợp lý. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cần thực hiện các bước công việc sau: - Xin giấy phép xuất khẩu - Chuẩn bị hàng hoá để xuất khẩu - Kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá, kiểm tra hàng hoá - Làm thủ tục hải quan - Giao hàng - Mua bảo hiểm (nếu cần) - Làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu nại (nếu có) - Thanh lý hợp đồng Trên đây là trình tự công việc chung nhất để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ theo điều kiện thực tế và thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người xuất khẩu có thể bỏ qua một số công đoạn. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA (1989 – 2005) I. Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam I.1 Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam trong giai đoạn 1989 – 2005. Mười bảy nămm qua (1989 - 2005), Việt Nam đã cung cấp cho thị trường thế giới gần 50 triệu tấn gạo, thu về gần 10 tỷ USD. Từ một nước thiếu lương thực triền miên, mỗi năm phải nhập khẩu bình quân trên 1 triệu tấn lương thực (trước 1989) đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, liên tục từ 1989 đến nay. Bảng 2.1: Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 1989 – 2005. Năm Lượng gạo xuất khẩu(1000 tấn) Kim ngạch xuất khẩu(triệu USD) Giá bình quân xuất khẩu(USD/tấn) 1989 1420 290 204 1990 1624 374 186 1991 1033 234 227 1992 1946 418 215 1993 1722 362 210 1994 1983 424 214 1995 1988 530 267 1996 3003 885 285 1997 3575 870 243 1998 3730 1024 275 1999 4508 1025 227 2000 3476 672 192 2001 3528 619 165 2002 3240 726 224 2003 3820 734 188 2004 4055 941 232 2005 5200 1400 279 Biểu đồ 2.1: Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1989 – 2005. Biểu đồ 2.2: Sự biến động của giá xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu gạo giai đoạn 1989 - 2005. Qua bảng 2.1 cho thấy, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng dần qua các năm. Năm 1989, Việt Nam chính thức tham gia vào thị trường lúa gạo thế giới với số lượng 1,42 triệu tấn, thu về 290 triệu USD với giá bình quân 204 USD/tấn. Hai năm chập chững bước vào thị trường gạo thế giới (1989-1990), Việt Nam chỉ xuất khẩu bình quân 1,51 triệu tấn/năm. Tính chung 10 năm đầu xuất khẩu gạo (1989-1999), Việt Nam đã cung cấp cho thị trường gạo thế giới trên 22 triệu tấn, bình quân 2,23 triệu tấn/năm theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên trong 17 năm qua lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không ổn định (Biểu đồ 2.1), cũng như giá xuất khẩu không ổn định do đó kéo theo giá trị kim ngạch xuất khẩu không ổn định (Biểu đồ 2.2). Năm 1991 xuất khẩu gạo với số lượng thấp nhất chỉ đạt 1,03 triệu tấn. Năm 1999 là năm có lượng gạo xuất khẩu đạt mức kỷ lục 4,5 triệu tấn thu về 1,025 tỷ USD với giá bình quân 227 USD/tấn, xuất khẩu tăng là do lượng gạo xuất khẩu của ấn Độ năm 1999 giảm đáng kể gần 59% so với năm 1998 (4,66 triệu tấn). Mặc dù xuất khẩu đạt mức cao nhất nhưng giá trị kim ngạch lại không cao chỉ đạt 1025 triệu USD (trong khi năm 1998 đạt 1024 triệu USD), nguyên nhân là do giá gạo xuất khẩu giảm 48 USD/tấn so với năm 1998. Giá gạo giảm là do nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới năm 1999 giảm 10% (giảm 2,75 triệu tấn) so với năm 1998; trong đó Inđônêsia giảm gần 2 triệu tấn, Philippin giảm 1,19 triệu tấn, Bănglađét giảm 1,3 triệu tấn). Năm 2000 xuất khẩu lại giảm khoảng 1 triệu tấn còn 3,47 triệu tấn nguyên nhân là do nhu cầu nhập khẩu gạo trên thế giới giảm. Năm 2000 thị trường gạo thế giới xuất hiện xu hướng cung vượt cầu, giá gạo giảm mạnh. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ còn 192 USD/tấn, giảm 35 USD( 15,4%) so với năm 1999. Do vậy năm 2000 lượng gạo xuất khẩu chỉ bằng 77% năm 1999 và kim ngạch chỉ bằng 65,5%. Xu hướng này tiếp tục trong các năm 2001 và năm 2002. Năm 2001, dù xuất khẩu với số lượng lớn hơn năm 2000 (hơn 52 ngàn tấn) nhưng giá trị kim ngạch lại thấp hơn năm 2000 là 53 triệu USD do giá gạo Việt Nam giảm 27 USD/tấn (từ 192 xuống 165 UUSSD/tấn) so với năm 2000, nguyên nhân chủ yếu là Thái Lan đã tăng cường các biện pháp hỗ trợ cho việc giảm giá. Từ giữa năm 2003, thị trường gạo thế giới biến động mạnh do lượng gạo dự trữ giảm đột ngột đẩy giá lên cao. Vào thời điểm tháng 7/2003 giá gạo Hương nhài Thái Lan loại 5% tấm tăng lên 500 USD/tấn so vối 482 USD/tấn của tháng 6 năm đó. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, năm 2003 là năm đầu bước vào thời kỳ hội nhập theo lộ trình CEPT/AFTA, thuế xuất nhập khẩu của các mặt hàng nông sản giảm đồng loạt, trong đó có gạo. Đáng chú ý là, nếu như trong năm 2002, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu gạo với hợp đồng cấp chính phủ chiếm gần 70%, thì sang năm 2003, theo đánh giá của Hiệp hội Lương thực Việt Nam về kết quả xuất khẩu gạo năm 2003 “các doanh nghiệp xuất khẩu đã tích cực “chạy” những hợp đồng thương mại lớn(chiếm tới 80,2%), chứ không ỷ lại vào những hợp đồng cấp Chính phủ, đồng thời cũng xuất khẩu trực tiếp với khối lượng lớn” Theo đánh giá của Bộ Thương mại, trong năm 2003 giá gạo xuất khẩu có tăng từ 167 USD/tấn lên 188 USD/tấn, nhưng chung cả năm giá gạo vẫn ở mức thấp nên dù lượng xuất khẩu đạt 3,82 triệu tấn, tăng 17,9% về mặt lượng nhưng kim ngạch lại giảm 0,9% so với năm 2002. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2004, xuất khẩu gạo ước tính đạt 4,055 triệu tấn, tăng 6,3% so với năm 2003. Tuy nhiên, nhờ giá xuất khẩu gạo bình quân năm 2004 đã tăng tới 22,8% (43,16 USD/tấn) so với năm 2003, đạt 232,06 USD/tấn, nên kim ngạch xuất khẩu gạo năm 2004 đã tăng 30,6% so với năm 2003, đạt 941 triệu USD. Nguồn cung gạo thế giới thiếu hụt là nguyên nhân chủ yếu làm cho giá gạo tăng. Điều đáng lưu ý là, mặc dù tốc độ tăng giá cao, nhưng suốt năm 2004, giá chào bán gạo của Việt Nam luôn thấp hơn 15-35 USD/tấn so với giá chào bán gạo cùng loại của Thái Lan. Điều này đã nâng đỡ nhu cầu đối với gạo của Việt Nam tăng lên trong những tháng cuối năm 2004, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng. Biểu đồ 2.3: Diễn biến giá gạo 5%, 25% của Thái Lan và Việt Nam (12/03 – 02/04), USD/tấn Từ biểu đồ 2.3 cho thấy, giá gạo FOB của cả Thái Lan và Việt Nam đều tăng kể từ tháng 12/2003 đến tháng 12/2004. Tuy nhiên giá gạo của Việt Nam vẫn thấp hơn giá gạo của Thái Lan, như nếu so thời điểm tháng 12/2003 với tháng 12/2004 thì giá gạo 5% tấm và 25% tấm của Thái Lan tăng lên tương ứng là 93,5 USD/tấn và 71 USD/tấn trong khi giá gạo của Việt Nam chỉ tăng tương ứng là 40 USD/tấn (gạo 5% tấm) và 46 USD/tấn (gạo 25% tấm). Tuy nhiên, có thời điểm giá gạo 5% tấm của Việt Nam bằng giá gạo của Thái Lan (như tháng 6/2004 là 231 USD/tấn) và cao hơn giá gạo của Thái Lan (tháng 5/2004 giá gạo của Việt Nam là 235,5 USD/tấn, Thái Lan là 232,5 USD/tấn). Còn giá gạo 25% tấm thời điểm cao nhất là vào tháng 3/2004 và thời điểm này thì giá gạo của Việt Nam vẫn thấp hơn giá gạo của Thái Lan là 9 USD/tấn (Việt Nam là 230 USD/tấn, Thái Lan là 239 USD/tấn). Có nhiều nguyên nhân song có thể thấy những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên đó là do chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam được đánh giá thấp hơn Thái Lan, gạo xuất khẩu Việt Nam cần xây dựng cho mình một thương hiệu riêng trong quá trình thâm nhập thị trường quốc tế. Song song quá trình xây dựng thương hiệu cần đầu tư cải tiến công nghệ nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam để giành thắng lợi khi cạnh tranh với các đối thủ khác đặc biệt là Thái Lan. Năm 2005, Việt Nam xuất khẩu 5,2 triệu tấn gạo với tổng kim ngạch lên tới gần 1,4 tỷ USD(Mức kỷ lục trong suốt 17 năm từ khi Việt Nam xuất khẩu gạo), tăng gần 50% so với năm 2004. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi lớn về xuất khẩu gạo năm 2005 là công tác xúc tiến thương mại được tăng cường, nên số lượng khách hàng mua gạo của Việt Nam ngày càng nhiều. Nếu như khách hàng mua gạo nhiều nhất các năm trước là khoảng 100.000 tấn thì năm 2005 đã có 10 khách hàng mua từ 100.000 đến hơn 300.000 tấn. Kết quả này có được một phần do các doanh nghiệp đã duy trì được chất lượng gạo ổn định và dành được thị hiếu của người tiêu dùng tại những thị trường khó tính, trong đó có Nhật Bản. Hiện tại, một số hợp đồng xuất khẩu gạo cho năm 2006 đã được ký kết, chủ yếu xuất sang thị trường Philíppin, Trung Đông và Inđônêxia. Tính đến ngày 15/3/2006 cả nước đã xuất khẩu 857.617 tấn gạo các loại trị giá 213.581.443 USD, ước 15 ngày cuối tháng 3 sẽ xuất tiếp 217.000 tấn gạo nữa, với trị giá khoảng 54 triệu USD.(Nguồn: VNECONOMY cập nhật ngày 17/3/2006). Tuy nhiên đang nổi lên tình hình giá gạo xuất khẩu giảm và tốc độ giảm nhanh nhất là từ đầu tháng 3.Gạo 5% tấm đang ở  mức 238 - 245USD/tấn, giảm xuống chỉ còn 232USD/tấn. Hiện một số đối tác nước ngoài đang đòi giảm tiếp  2 - 5USD/tấn, thậm chí có đối tác còn đòi giảm đến 10USD/tấn. Trong khi đó, gạo xuất khẩu của Thái Lan, Pakistan, Ấn Độ vẫn ở mức cao hơn gạo Việt Nam từ 40 - 60USD/tấn tuỳ theo phẩm cấp. Qua biểu hiện về giá cả của gạo xuất khẩu thế giới trong thời gian 3 tháng đầu năm 2006 một lần nữa chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng và sự cần thiết phải có một thương hiệu cho gạo xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù trong 3 tháng đầu năm nay lượng cung gạo xuất khẩu của các nước xuất khẩu gạo lớn có xu hướng giảm nhưng vẫn không thể làm tăng giá gạo Việt Nam, điều này chứng tỏ gạo xuất khẩu Việt Nam cần có một chiến lược để nâng cao vị thế của mình trên thị trường thế giới hơn nữa.Một nguyên nhân nữa có thể kể đến là do khách quốc tế chỉ mua cầm chừng với hy vọng giá gạo sẽ giảm xuống. Bên cạnh đó, các đơn vị kinh doanh gạo lại chỉ có thể vay vốn ngân hàng theo từng thương vụ nên xuất hiện tình trạng(để giành lợi thế) một số doanh nghiệp đã ký hợp đồng bán gạo với giá thấp. Cụ thể hai tháng đầu năm, gạo 5% tấm được ký hợp đồng ở mức 258 - 260 USD/tấn. Sang đầu tháng 3/2006 đã giảm còn 245 - 250 USD/tấn. Và trung tuần tháng 3/2006 giá gạo 5% tấm chỉ còn 240 - 242 USD/tấn. Dự báo, giá gạo Việt Nam sẽ giảm thêm từ 3-7 USD/tấn trong những ngày cuối tháng 3(tháng thu hoạch cao điểm) sau đó sẽ hồi phục dần. I.2. Tính chất gạo xuất khẩu của Việt Nam Bên cạnh sự tăng trưởng về số lượng gạo xuất khẩu, chất lượng gạo của Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao cả về chất lượng gạo và chất lượng chế biến(phân theo tỷ lệ tấm). Trong những năm đầu tham gia thị trường gạo thế giới, chất lượng gạo Việt Nam còn thấp xa gạo Thái Lan về mọi mặt: độ dài, mùi thơm, bạc bụng, tỷ lệ tấm...nên giá cả thấp, chủ yếu bán ở các thị trường Châu Phi, Trung Đông thông qua các nước trung gian. Gạo bạc bụng, hạt không dài, tỷ lệ tấm cao 25% chiếm tỷ trọng từ 80% - 90%, nên giá gạo thấp, chỉ đạt 190 USD/tấn. Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở chế biến thiếu về số lượng, kém về máy móc thiết bị và trình độ công nghệ và công nhân, thiếu kinh nghiệm về xuất khẩu, xuất cái ta có chứ chưa xuất cái thị trường cần. Trong thời kỳ từ năm 1996 đến 2004, chất lượng gạo Việt Nam cũng được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ gạo chất lượng cao tăng lên đáng kể trong tổng lượng gạo xuất khẩu, gạo có phẩm cấp cao với đặc điểm hạt dài, ít bạc bụng, thơm, tỷ lệ tấm thấp từ 5% - 10% chiếm 40- 45% lượng gạo xuất khẩu, từ năm 1999 đến nay tỷ lệ này đã tăng lên trên 50%. Đây cũng là dấu hiệu tích cực, thể hiện phần nào phát triển của công nghiệp sau thu hoạch, công nghiệp chế biến như gặt hái, vận chuyển tuốt, xay xát. Vì vậy, trong những năm gần đây, thị trường gạo được mở rộng, khách hàng tăng, sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới tăng và đã đứng vững trên thị trường EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á. I.3. So sánh xuất khẩu gạo của Việt Nam với các nước Châu Á Theo đánh giá của FAO, khu vực Châu á - Thái Bình Dương, ở Châu Á, ngoài cường quốc xuất khẩu gạo Thái Lan, còn 3 nước khác có khả năng cạnh tranh với Việt Nam là ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc. Song trong 16 năm qua sản lượng gạo xuất khẩu của 3 nước này đều không ổn định. ấn Độ năm 1995 xuất khẩu 5 triệu tấn, năm 2002 xuất 6,6 triệu tấn và năm 2003 là 4,2 triệu tấn, vươn lên vị trí thứ 2 sau Thái Lan về lượng gạo xuất khẩu, nhưng các năm khác lại đạt rất thấp: phổ biến dưới 3 triệu tấn: năm 1993 xuất có 767 nghìn tấn, năm 1994 xuất 890 nghìn tấn, năm 1997 dưới 2 triệu tấn và năm 2004 là 2,8 triệu tấn...Nguyên nhân của tình hình trên là do sản xuất lúa gạo không ổn định, năm tăng, năm giảm. Sản lượng của nước này năm 1995 là 115,4 triệu tấn nhưng từ năm 1999 đến năm 2004 đều đạt dưới 90 triệu tấn, trong đó năm 2002 chỉ đạt 76,9 triệu tấn. Tương tự như vậy, Pakistan năm cao nhất xuất khẩu 2,4 triệu tấn (năm 2001), các năm khác chỉ đạt trên, dưới 1 triệu tấn. Trung Quốc năm cao nhất xuất khẩu 2,9 triệu tấn (năm 2000), các năm khác chỉ đạt từ 1 đến 2 triệu tấn. Năm 1998 sản lượng lúa nước này đạt 198,4 triệu tấn, nhưng năm 2002 chỉ đạt 175,7 triệu tấn. Cường quốc xuất khẩu gạo chất lượng cao là Mỹ những năm gần đây đã giảm dần lượng gạo xuất khẩu; năm 2001 xuất 2,5 triệu tấn, năm 2002 là 3,2 triệu tấn và năm 2004 là 3 triệu tấn đứng thứ 3 thế giới sau Thái Lan và Việt Nam. Khác với các nước trong khu vực, 16 năm qua sản xuất nông nghiệp nói chung và lúa gạo nói riêng ở Việt Nam phát triển ổn định và tăng trưởng nhanh. Từ năm 1999 đến nay tuy diện tích lúa giảm dần do công nghiệp hoá, đô thị hoá và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhưng năng suất và sản lượng lúa vẫn tăng dần, năm sau cao hơn năm trước. Sản lượng lương thực có hạt tăng bình quân 3,5%/năm, luôn luôn cao hơn tốc độ tăng dân số (1,7%) nên lương thực bình quân đầu người tăng dần, năm sau cao hơn năm trước: năm 1990 = 324,4 kg; năm 1995 = 363,1kg; năm 2000 = 444,8 kg; năm 2002 = 463,6 kg; năm 2003 = 462,9 kg và năm 2004 = 479,1kg/năm. Đó là xu hướng ít thấy trong lịch sử sản xuất lúa gạo của các nước Châu á và lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam. Xu hướng này đạt được trong điều kiện thiên nhiên, thời tiết không phải năm nào cũng thuận lợi, ngược lại nhiều năm rất khắc nghiệt như hạn hán, lũ lụt, sâu rầy không kém các nước trong vùng. Cũng theo FAO, trong 10 năm 1995-2004 sản lượng lúa gạo thế giới tăng thêm 70 triệu tấn, trong đó Việt Nam đóng góp 10 triệu tấn. I.4. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Thị phần gạo Việt Nam trên thị trường xuất khẩu gạo thế giới tăng từ 9,3% năm 1989 lên 12,8% năm 1987 và 15,3% năm 2004. Trong cả thời kỳ 1991 – 2002, gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường thế giới luôn chiếm tỷ trọng lớn từ 7- 18%. Riêng năm 1999, do tăng sản lượng gạo xuất khẩu kỷ lục 4,5 triệu tấn, Việt Nam chiếm thị phần xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới 18,2% và đạt kim ngạch xuất khẩu 1.025 triệu USD. Hơn nữa, gạo Việt Nam giá rẻ, phù hợp với nhu cầu các thị trường các nước đang phát triển. Thị trường nhập khẩu gạo Việt Nam đã từ 20 nước năm 1991 mở rộng ra 80 nước và có mặt ở cả 5 châu lục (Bảng 2.2). Trong đó, thị trường nhập khẩu chính của gạo Việt Nam là các nước Châu á với 29 nước, Châu âu 29 nước, Châu Mỹ 17 nước, Châu Phi 16 nước và Châu Đại Dương 3 nước. Các thị trường nhập khẩu với lượng lớn và ổn định là Philippin, Inđônêsia, Malayxia, Irắc. Các nước Singapore, Thuỵ Sỹ, Hà Lan và Mỹ nhập khẩu gạo nước ta chủ yếu là để tái xuất. Bảng 2.2: Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam (2002- 2004) (%) Thị trường 2002 2003 2004 Châu Á 48 59 61 Châu Phi 10 20 19 Trung Đông 29 9 8 Châu Mỹ 7 8 6 Châu Âu 6 4 5 Tổng số 100 100 100 Từ số liệu ở Bảng 2.2 cho thấy, thị trường Châu Á vẫn l._.2004 đến tháng 3/2005, sau đó kéo dài đến hết Tháng 4/2005). Ấn Độ, theo như dự báo thì lượng gạo xuất khẩu ngày càng tăng kể từ năm 2004 đến năm 2010, nhưng vẫn thấp hơn mức kỷ lục năm 2002 (6,6 triệu tấn). Trong khi thực tế xuất khẩu gạo của ấn độ ngày càng giảm dần, năm 2004 còn 2,8 triệu tấn nguyên nhân là do Chính phủ Ấn Độ đã ngừng trợ cấp xuất khẩu gạo sau khi dự trữ trong nước giảm mạnh nên lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ năm 2006 dự báo tiếp tục giảm. Theo FAO cho biết, sản lượng thóc của ấn Độ năm 2006 dự báo sẽ đạt 87,86 triệu tấn, tăng so với năm 2005 là 85,31 triệu tấn. Lượng gạo Chính Phủ Ấn Độ thu mua trong niên vụ 2003/2004 đạt 19,25 triệu tấn, tăng 7,3% so với mức 17,94 triệu tấn hồi năm ngoái. Xuất khẩu của Ấn Độ đã giảm mạnh từ mức 4,4 triệu tấn năm 2003 xuống còn 2,8 triệu tấn năm 2004. Dự báo sẽ giảm hơn nữa trong năm 2005. Trung Quốc cũng là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn. Năm 2004 là 2 triệu tấn, trong khi thực tế năm 2004 xuất khẩu của Trung Quốc giảm đáng kể xuống còn 800 nghìn tấn, do sản lượng và tồn kho gạo của Trung Quốc năm 2004 giảm mạnh đã làm xuất khẩu gạo của nước này giảm tới 69% (1,78 triệu tấn) so với năm 2003. Mỹ cũng là nước xuất khẩu gạo lớn, năm 2004 xuất khẩu Mỹ đúng bằng 3 triệu tấn theo như dự báo nhưng Mỹ đã vượt lên trên ấn Độ trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới sau Thái Lan và Việt Nam. Ngoài ra có Pakistan và các nước khác ngoài Mỹ cũng xuất khẩu gạo với lớn khoảng từ 1-2,5 triệu tấn/năm. Theo dự báo mới nhất của USDA (8/12/2005) xuất khẩu gạo thế giới năm 2006 dự báo sẽ tăng so với năm trước, lên 27,64 triệu tấn. Trong đó, vị trí của các nước xuất khẩu gạo sẽ không có sự thay đổi so với năm 2005, xuất khẩu gạo năm 2006 dự báo giảm ở Thái Lan, tăng 0,03 triệu tấn so với năm trước lên 7,3 triệu tấn và ở Việt Nam giảm 0,17 triệu tấn còn 5 triệu tấn. II. Dự báo xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới II.1. Cơ hội thách thức do điều kiện hội nhập mang lại Về triển vọng khả năng thương mại mặt hàng gạo, trong xu thế tự do hoá thương mại hiện nay, cơ hội gia tăng xuất khẩu gạo cho các nước cũng được mở ra. Một mặt, Chương trình Công ước Viện trợ lương thực về các sản phẩm có hạt(tương đương với lúa mì) đang có xu hướng giảm dần, kể từ năm 1990/1991 đến 1997/1998 đã giảm hơn 50% tương đương với 5,5 triệu tấn. Trong Công ước về Viện trợ năm 1995, tổng mức đóng góp tối thiểu hàng năm của các nước phát triển giảm 29%. Các nước kém phát triển đang chuyển dần sang nhập khẩu lương thực hoàn toàn theo điều kiện thương mại. Vì vậy, tổng giá trị thương mại lương thực sẽ tăng lên. Mặt khác, trong khuôn khổ các cuộc đàm phán về nông nghiệp của WTO, các nước nhập khẩu lương thực cũng đã đưa ra các cam kết về mở rộng thị trường lương thực, giảm trợ cấp sản xuất trong nước. Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) và chính thức nộp đơn gia nhập WTO ngày 4/1/1995. Ngày 22/8/1996, Việt Nam đã gửi Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam tới WTO. Tháng 7/1998, Việt Nam tiến hành phiên họp đa phương đầu tiên tới Nhóm công tác về minh bạch hóa các chính sách kinh tế thương mại. Cho tới nay, Việt Nam đã thực sự hoàn tất về cơ bản giai đoạn minh bạch hóa chính sách và đang ở giai đoạn đàm phán rất quan trọng về mở cửa thị trường một cách toàn diện. Gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây: Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi ích như: Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO. Thứ hai, gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Đối với các mặt hàng nông sản, là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu mặt hàng này hơn vì hạn ngạch nhập khẩu gạo và các nông sản khác sẽ được thay thế bằng thuế và thuế sẽ phải được cắt giảm theo Lộ trình quy định của WTO. Việt Nam có lợi nhiều khi các thị trường gạo mở cửa, đặc biệt là các thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. So với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp định của Vòng Uruguay vì theo quy định của WTO, hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế, sẽ rất có lợi từ quy định này. Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới. Thứ ba, Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa thuộc loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm. Thứ tư, Việt Nam sẽ có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Thứ năm, Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ… Theo Vụ trưởng Vụ Ngoại thương thuộc Bộ Thương mại Thái Lan Rachane Potjanasutorn, Việt Nam và Thái Lan đã nhất trí về kế hoạch cùng hợp tác để củng cố hoạt động xuất khẩu và bình ổn giá gạo trên thị trường quốc tế, trong đó bao gồm cả việc Thái Lan trợ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng gạo thông qua việc lập một hệ thống quản lý hoàn chỉnh từ thu hoạch, cất giữ, bán hàng và vận chuyển gạo. Ông Rachane cũng cho biết: "Kế hoạch hợp tác giữa Thái Lan và Việt Nam sẽ trở thành mô hình cho việc mở rộng hợp tác giữa các nước xuất khẩu gạo trong khu vực. Nó cũng sẽ góp phần củng cố việc buôn bán gạo có chất lượng cao trên toàn cầu và ổn định giá gạo trên thị trường thế giới. Trong thời gian tới, Thái Lan và Việt Nam dự kiến sẽ cùng chuyển gạo sang thị trường Trung Đông theo kế hoạch hợp tác nói trên". Bên cạnh những cơ hội đó, Việt Nam đồng thời cũng phải đương đầu với các thách thức sau khi gia nhập WTO. Bởi lẽ, so với thế giới, Việt Nam còn là một trong những nước nghèo với mức GDP đạt 372 USD/người/năm, hệ thống chính sách kinh tế-xã hội đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý… có sự chênh lệch lớn so với các nước phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải thực thi đầy đủ các cam kết của mình, đặc biệt là các cam kết trong một số lĩnh vực như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các biện pháp đảm bảo thương mại công bằng, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, kiểm dịch động thực vật và hàng rào kỹ thuật thương mại…, nên việc thực thi sẽ rất khó khăn. Điều này không chỉ yêu cầu Việt Nam phải thông qua các luật lệ, quy định phù hợp với WTO và nền kinh tế thị trường, mà còn đòi hỏi tình hình thực tiễn phải đáp ứng được các yêu cầu của WTO. Cụ thể, Việt Nam phải nâng cao đáng kể năng lực cho các cơ quan có liên quan cũng như thay đổi cơ bản về quản lý và tổ chức, đầu tư đáng kể cho nguồn nhân lực, hợp lý hóa công tác tổ chức thương mại và phân bổ ngân sách. Nếu không, sẽ phát sinh hai vấn đề: Thứ nhất, Việt Nam không thể thực hiện các nghĩa vụ WTO của mình và thứ hai là Việt Nam không thể tận dụng được hết các cơ hội khi gia nhập WTO, từ đó sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng, có thể gây tổn hại cho nền kinh tế. II.2. Triển vọng xuất khẩu gạo Việt Nam Trong thời gian tới, Việt Nam có rất nhiều cơ hội tăng sản lượng và chất lượng gạo xuất khẩu. Nếu Việt Nam tận dụng được cơ hội nhu cầu thị trường tăng lên(trong khi các nước có tiềm năng cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu gạo như: Myanmar, Pakistan và Campuchia còn đang chậm hơn trong nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất và tìm cách mở rộng thị trường), đồng thời, tăng cường có hiệu quả áp dụng các kỹ thuật mới trong sản xuất đi đôi với cải thiện cơ chế chính sách và phương thức xúc tiến thương mại, bắt kịp Thái Lan, Trung Quốc và ấn Độ trong cạnh tranh xuất khẩu vào các thị trường mới mở, Việt Nam sẽ có thể mở rộng xuất khẩu trên cả hai thị trường gạo phẩm cấp cao và gạo chất lượng trung bình. Tổng các thị phần có thể ở mức 17- 18%, khối lượng gạo xuất khẩu có hể đạt cao nhất 5,2 triệu tấn/năm trong vòng 5 năm tới và 6,2 triệu tấn/năm trong thời kỳ 5 năm tiếp theo. Ngược lại, nếu Việt Nam duy trì năng lực cạnh tranh như hiện tại, đồng nghĩa với Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ sẽ có cơ hội tiếp tục giữ vững thị phần của họ ở khu vực thị trường gạo chất lượng cao, trong khi đó khoảng cách không nhiều về khả năng cạnh tranh xuất khẩu giữa Việt Nam và nhóm 3 nước đang phát triển sẽ càng sít sao, thị phần nhập khẩu gạo của Việt Nam, vì vậy sẽ càng bị thu hẹp ít nhất 15 -16%, gạo xuất khẩu chỉ có khả năng đạt cao nhất khoảng 4 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2001-2005 và 4,8 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2006-2010. Với xu thế phát triển của đất nước, tương quan với tình hình thị trường và các nước cạnh tranh xuất khẩu có thể nhận định chung: Việt Nam vẫn là một trong các nước có nhiều khả năng và nằm trong 4 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới trong vòng 10 năm tới. Dự báo, trong bối cảnh cạnh tranh bám đuổi mạnh mẽ giữa các nước, tăng thêm thị phần xuất khẩu trong thời gian tới là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Một số nhà kinh tế cho rằng, tiếp tục giữ được thị phần như hiện nay ở các khu vực thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam là khả năng xảy ra cao nhất, theo đó xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ đạt 4,61 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2001 –2005 và 5,42 triệu tấn/năm thời kỳ 2006-2010. Thị trường quan trọng của gạo Việt Nam vẫn là Châu Á, hàng năm có thể xuất vào 1,9 - 2,7 triệu tấn gạo; Châu Phi 1,3-1,5 triệu tấn; tiếp theo là khu vực Mỹ La Tinh và Caribe có thể xuất vào mỗi năm 0,5-0,9 triệu tấn. Bảng 3.5: Dự báo thị trường gạo Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Đơn vị: 1.000 tấn Thị trường 2001-2005 2006-2010 Châu Phi 1.570 1.490 Châu Á 2.190 2.730 Mỹ La Tinh và Caribê 620 880 Khu vực còn lại 230 320 Tổng 4.610 5.420 Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 284/2004. Mặt khác, trong khoảng 10 năm tới, nhu cầu gạo có chất lượng cao sẽ tăng lên chiếm 30 - 40% số lượng tiêu thụ trong nước tương đương 5 - 6 triệu tấn gạo và gạo phẩm cấp cao cho xuất khẩu sẽ tăng lên chiếm 40 - 50% tổng lượng gạo xuất khẩu, tương đương 2 - 2,5 triệu tấn để đảm bảo yêu cầu của các thị trường Trung Cận Đông, Châu Âu, Đông và Đông Nam Châu Á, Bắc Mỹ và Mỹ La Tinh. Như vậy 10 năm tới, mặc dù khả năng tăng thị phần gạo xuất khẩu của Việt Nam là rất thấp nhưng Việt Nam vẫn có cơ hội tăng giá trị xuất khẩu gạo nhờ đầu tư cải thiện chất lượng gạo xuất khẩu. Bộ NN&PTNT cho biết, năm 2006 sản xuất nông nghiệp tiếp tục xu hướng chuyển đổi về cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng. Nhiều địa phương sẽ chuyển diện tích trồng lúa năng suất thấp sang nuôi thuỷ sản hoặc trồng các loại cây khác có hiệu quả cao hơn. Diện tích trồng lúa sẽ giảm sút. Sản lượng thóc năm 2006 dự báo sẽ giảm 0,7 - 0,8 triệu tấn so với năm trước, còn 35,1 - 35,2 triệu tấn. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam dự báo, giá xuất khẩu gạo bình quân của Việt Nam năm 2006 sẽ đạt 255 USD/tấn, tăng 45 USD/tấn so với giá bình quân năm 2005, sản lượng gạo xuất khẩu năm 2006 sẽ đạt ít nhất 3,8 triệu tấn, trị giá xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. III. Định hướng và giải pháp thị trường nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế III.1. Định hướng xuất khẩu gạo Việt Nam Sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là ngành quan trọng bậc nhất của nông nghiệp Việt Nam nhằm thực hiện 3 mục tiêu: * Đảm bảo vững chắc anh ninh lương thực quốc gia, tăng thêm khối lượng lương thực dự trữ, thoả mãn nhu cầu trong bất kỳ tình huống nào. * Đảm bảo nguồn nguyên liệu cho cung cấp công nghiệp. * Tăng cường năng suất cây trồng và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu trên, các định hướng cơ bản được đề xuất là: - Tăng cường thâm canh tăng năng suất, kết hợp khai hoang tăng vụ ở những nơi có điều kiện. Trong đó, thâm canh tăng năng suất là hướng chủ yếu lâu dài, kết hợp với nâng cao chất lượng lúa hàng hoá. Tuy nhiên, một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả ở ĐBSCL có thể sẽ chuyển sang canh tác các loại hoa màu khác hay nuôi trồng thuỷ sản sao cho cho có hiệu quả kinh tế cao hơn. - Đa dạng hoá trong sản xuất, đa dạng hoá về chủng loại gạo(gạo thông thường, gạo đặc sản, gạo cao cấp), đa dạng hoá về phẩm cấp các giống lúa(cùng một giống lúa nhưng có thể có giống siêu thuần chủng, thuần chủng cấp1, cấp2), đa dạng hoá nguồn lúa gạo cho xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường quốc tế để sản xuất ra các sản phẩm thích hợp. - Tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để vừa tăng năng suất vừa tăng chất lượng gạo. Nhưng chúng ta phải chú ý kèm với áp dụng khoa học kỹ thuật là bảo vệ môi trường sinh thái. * Mục tiêu và phương hướng phát tiển xuất khẩu lúa gạo. - Tăng lượng gạo xuất khẩu trên cơ sở vẫn phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và có lãi cho người sản xuất và xuất khẩu. - Mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phải xây dựng được một hệ thống phân phối trên thị trường quốc tế. Cùng với việc thúc đẩy mở rộng thị trường là chú trọng chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. - Nâng cao kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở nâng cao giá gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế. * Xuất phát từ mục tiêu trên chúng ta cần định hướng sản xuất như sau: - Đa dạng hoá chủng loại gạo với nhiều loại khác nhau để có thể đáp ứng các nhu cầu thị trường thế giới. Chúng ta đa dạng hoá chủng loại sản phẩm nhưng mang tính tích cực, càng ngày càng có nhiều chủng loại tốt, cấp cao, đặc sản phù hợp với nhu cầu thị hiếu của các thị trường gạo trên thế giới. - Đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo, xác định và có sự ưu tiên đối với thị trường xuất khẩu gạo mang tính chiến lược, lâu dài bằng ổn định số lượng và nâng cao chất lượng hàng hoá. Khi có cơ hội phải chiếm lĩnh và biến những thị trường tiềm năng thành những thị trường quen thuộc và truyền thống của mình. - Khuyến khích và tạo điều kiện cho nhiều hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu ở mọi nơi, mọi lúc, mọi quy mô của khách hàng. Như vậy đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước phải có cơ chế linh hoạt mềm dẻo thích ứng kịp thời những biến động của thị trường. - Tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, các hiệp định thương mại đa phương và song phương để tạo cơ hội thâm nhập và khai thác các thị trường có nhu cầu nhập khẩu gạo. - Kinh doanh gạo cũng như mọi hàng hoá khác đều phải phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. Từ đó xây dựng mọi cơ sở nền tảng cho xuất khẩu gạo phù hợp với nhu cầu thị trường và tập quán thương mại. III.2. Phát triển sản xuất Để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản trong đầu tư phát triển, chuyển từ đầu tư tăng diện tích và sản lượng gạo sang đầu tư cho phát triển gạo chất lượng cao hơn trên thị trường thế giới bằng các giải pháp cơ bản sau: Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để tránh sự lai tạp giữa các loại giống lúa khi cùng trồng xen lẫn trong cùng một vùng, cũng có thể quy hoạch từng vùng lúa để phục vụ cho xuất khẩu sang từng thị trường khác nhau. Giảm diện tích gạo có chất lượng thấp, mở rộng diện tích gạo có chất lượng cao, các giống lúa có khẳ năng kháng bệnh và chịu được các điều kiện thiên tai khắc nghiệt như các giống lúa CR203, OM 80 - 81, IR 58, IR 64, các giống lúa lai Trung Quốc và một số giống lúa đặc sản có phẩm chất cao, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Khẩn trương hoàn thiện qu hoạch vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu sản xuất, cung ứng và ứng dụng các giống lúa mới... Tăng cường phối hợp giữa nghiên cứu và khuyến nông các giống lúa chất lượng cao và nâng cao hiệu quả phối hợp hành động với mục tiêu nâng cao năng suất và mở rộng nguồn cung giống lúa, từ đó có thể thu hút nông dân. Củng cố vấn đề quyền sử dụng đất sao cho đất có thể được tập trung dồn thửa nhằm có được quy mô sản xuất lớn hơn song vẫn không ảnh hưởng đến quyền sở hữu. Điều này góp phần giảm chi phí phân loại và giúp cho việc kiểm soát chất lượng gạo. Nới lỏng các quy định về mục đích sử dụng đất, cho nông dân được tự do chọn lựa đối tượng canh tác để tối đa hóa nguồn thu nhập theo tín hiệu thị trường. III.3. Đối với khâu chế biến vận chuyển Một yếu tố quan trọng gây hạn chế chất lượng gạo là công nghệ sau thu hoạch. Chất lượng phơi nắng thóc kém khiến tỷ lệ hạt gẫy vỡ trong xay xát cao. Ở Thái Lan, hong khô thóc được tách thành một giai đoạn riêng trong công nghệ sau thu hoạch, do đó, tỷ lệ hạt gẫy vỡ cao nhất chỉ 25%. Công nghệ sau thu hoạch của Việt Nam kém hiệu quả do quá tập trung vào công đoạn xay xát mà chưa quan tâm đến các công đoạn khác, và một phần do việc đầu tư nâng cấp công nghệ không đem lại lợi tức cao. Đây là khâu rất yếu hiện nay. Vì vậy, trong những năm tới cần tập trung giải quyết theo các hướng: Hoàn thiện công nghệ sau thu hoạch: cần quan tâm đầu tư nâng cấp công nghệ thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch(dùng máy sấy thay cho phơi thóc bằng ánh sáng mặt trời). Tăng cường đầu tư cho công nghệ xay xát, chế biến gạo. Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho việc cung cấp cây giống, khuyến nông, mua, bảo quản, tồn trữ, vận chuyển, bốc xếp... tất cả phải thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn ISO. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và bến cảng phục vụ xuất khẩu gạo, trong đó mở rộng cảng Cần Thơ trở thành cảng chủ yếu để xuất khẩu gạo. Tăng cường dự trữ nhằm giảm thiểu các biến động bất lợi của thị trường thế giới, và các thiệt hại do thiên tai gây ra, xây dựng hệ thống kho dự trữ và tổ chức lại hệ thống mua gom, dự trữ gạo xuất khẩu. Tăng cường quản lý chất lượng gạo xuất khẩu, nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu từ khâu trồng, thu hoạch, bảo quản đến khâu xay xát, chế biến và đóng gói theo tiêu chuẩn thống nhất phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, xây dựng quy chế bắt buộc về áp dụng tiêu chuẩn gạo xuất khẩu. Tư nhân hoá và cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước trong lũnh vực xay xát gạo nói riêng và trong toàn kênh thu mua nói chung, nhờ đó nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống thu mua chế biến của Việt Nam so với các nước xuất khẩu gạo khác. Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực chế biến gạo, cũng như chế biến một số lương thực, thực phẩm khác. Điều này một mặt mở rộng mối quan hệ giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến, mặt khác góp phần cải thiện công nghệ xay xát và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. III.4. Về tổ chức thu mua hàng hóa * Nhà nước cần xây dựng hệ thống tổ chức thu mua lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gắn với chính quyền địa phương trong vùng qui hoạch. Tiến tới hình thành mạng lưới theo mô hình HTX hoặc tổ hợp tác thu mua lúa thống nhất giữa các địa phương theo phương thức và giá sàn quy định của Nhà nước. Giải quyết thoả đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận. Phương thức mua lúa tạm trữ xuất khẩu đối với vùng ĐBSCL cần được nghiên cứu bổ sung để giảm bớt bù lỗ của Nhà nước và đến được tay người sản xuất. * Tổ chức lại hệ thống mua gom gạo xuất khẩu trên cơ sở đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu cũng như người dân, hình thành Quỹ bình ổn giá gạo nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh gạo trong những thời điểm bất lợi của thị trường thế giới. * Hoàn thiện hệ thống chính sách của Nhà nước về đầu tư, tín dụng, tiền tệ, xuất khẩu, thuế, đất đai, bảo hiểm và trợ giá, đào tạo nhân lực và phát huy vai trò của hiệp hội sản xuất và kinh doanh lương thực trong phạm vi cả nước. III.5. Phát triển thị trường Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị trường nước ngoài. Để tăng sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ, không chỉ là tăng năng suất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí, mà còn phải mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường ...Các giải pháp cụ thể, như: Hoàn thiện hệ thống thông tin về tình hình mặt hàng gạo trên thế giới. Tăng cường hỗ trợ trong việc cung cấp các thông tin về biến động thị trường gạo quốc tế, phát triển mạng lưới cung cấp thông tin về thị trường thế giới cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống tham tán thương mại. Đăng ký nhãn mác cho gạo xuất khẩu nhằm bảo vệ thương hiệu của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tích cực tham gia các cuộc đàm phán tiến tới việc mở cửa thị trường gạo ở các nước khác trong Châu á và tiến tới tự do hoá thị trường gạo trên phạm vi toàn cầu. Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ thương mại với các nước thuộc thị trường truyền thống. Khai thác thị trường Trung Quốc: Đây là nước có dân số đông nhất thế giới. Trung Quốc là thị trường có mức tiêu thụ lớn, trong những năm gần đây Trung Quốc nhập khẩu khá nhiều gạo của Việt Nam nhưng chủ yếu là nhập khẩu tiểu ngạch. Đối với thị trường này đòi hỏi Nhà nước phải có sự chỉ đạo đồng nhất trong hoạt động xuất khẩu; thực hiện đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại ở các cấp độ khác nhau (Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện) bảo đảm quan hệ ngoại thương lâu dài và ổn định nhằm tránh những rủi ro và tổn thất. Thị trường các nước ASEAN, trong giai đoạn chuyển đổi thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm lúa gạo của Việt Nam nói riêng, thị trường ASEAN đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn. Tuy nhiên, từ năm 1996 đến nay đã có những thay đổi, xu hướng giảm tỷ lệ xuất khẩu và đặc trưng cơ bản của các nước ASEAN là có cơ cấu sản phẩm nông nghiệp giống nhau nên các nước này nhập khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu là hình thức tạm nhập tái xuất, đặc biệt là Singapo nên không phù hợp với yêu cầu nâng cao giá trị xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặt khác do tác động của CEPT/AFTA ít có tác động đến khối lượng xuất khẩu các sản phẩm nông sản nói chung và sản phẩm lúa gạo nói riêng trong tương lai. Tuy nhiên, thị trường ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam. III.6. Về quản lý và điều hành xuất khẩu gạo Để đáp ứng yêu cầu và tình hình thực tế trong giai đoạn tới, ngày 4/4/2001 Chính phủ đã có quyết định số 46/2001/QĐ - TTg về xuất khẩu - nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005. Theo tinh thần của Nghị quyết này sẽ bãi bỏ cơ chế hạn ngạch xuất khẩu gạo cũng như việc quy định doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu. Đây là một bước đột phá mới trong cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được xuất khẩu gạo chỉ cần có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản. Đối với những hợp đồng xuất khẩu gạo sang thị trường có sự thoả thuận giữa Chính Phủ Việt Nam với Chính phủ các nước(hợp đồng Chính phủ) Bộ NN&PTNT kết hợp với Bộ Thương mại sau khi trao đổi với Hiệp hội Lương thực Việt Nam sẽ chỉ đạo các doanh nghiệp làm đại diện giao dịch ký kết hợp đồng. Sau đó sẽ phân chia số lương ký kết được trên cơ sở lượng lúa hàng hoá của các địa phương để UBND các tỉnh trực tiếp giao cho các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện, có tính đến quyền lợi của các doanh nghiệp ký kết hợp đồng. Cũng theo quyết định này Thủ Tướng Chính phủ sẽ xem xét, quyết định các biện pháp cần thiết có thể nhằm can thiệp một cách có hiệu quả vào thị trường lúa gạo nhằm bảo đảm lợi ích của nông dân ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong nước. Giảm bớt khó khăn với hoạt động sản xuất và lưu thông lúa gạo. Kế hoạch trả nợ và viện trợ của Chính phủ hàng năm sẽ được thực hiện theo cơ chế đấu thầu hoặc theo quyết định của Thủ Tướng Chính phủ. Việc khuyến khích tự do xuất khẩu trong cơ chế thị trường rất có thể phát sinh cạnh tranh vô tổ chức giữa một số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Do vậy việc quản lý theo quyết định 45 cần phải cân nhắc tính toán cho kỹ lưỡng nhằm đảm bảo phát huy cao nhất khẳ năng chủ động của các doanh nghiệp trong xuất khẩu đáp ứng yêu cầu cải tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, trong công tác điều hành xuất khẩu gạo, Chính phủ cần quan tâm đến các vấn đề như: Khắc phục biểu hiện ỷ lại vào Nhà nước hoặc phó thác cho các doanh nghiệp. Chính phủ cần tăng cường đàm phán song phương, đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, công tác thị trường xuất khẩu và nhập khẩu cần được gắn kết chặt chẽ với nhau. KẾT LUẬN Xuất khẩu gạo Việt Nam đã trở thành ngành chủ lực mũi nhọn đối với ngành Nông nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế của cả nước, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tiến nhanh hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ chỗ thiếu đói triền miên và phải nhập khẩu lương thực bình quân hàng năm trên nửa triệu tấn gạo, Việt Nam đã vươn lên trở thành cường quốc đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn lao trong những năm qua, tăng nhanh về số lượng, đảm bảo an ninh lương thực, bên cạnh đó còn là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đóng góp phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu gạo trong 16 năm qua vẫn bộc lộ một số những yếu kém như chưa có quy hoạch tổng thể và kế hoạch cụ thể về sản xuất lúa gạo xuất khẩu; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ chế biến, bảo quản xuất khẩu còn yếu kém; chất lượng lúa gạo vẫn còn thấp so với yêu cầu của thị trường thế giới...do đó sức cạnh tranh của gạo Việt Nam vẫn còn thấp . Vì vậy, để hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam có hiệu quả hơn thì cần tập trung đầu tư thâm canh và áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng và phẩm cấp, tổ chức tốt và khép kín các khâu thu mua, chế biến, marketing bán hàng, đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả cũng như ổn định thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng - Chủ biên , Giáo trình Kinh tế Quốc tế - NXB Lao động xã hội (2004) Nguyễn Sinh Cúc- Chủ Biên, Nông Nghiệp, Nông Thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới- NXB Thống kê (2003). Nguyễn Hữu Khải- Chủ biên, CNH- HĐH Nông Nghiệp Nông Thôn Việt Nam và Chương Trình đẩy mạnh xuất khẩu nông sản - NXB Thống Kê (2003). Lê Thị Vân Anh- Chủ Biên, Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế – NXBLĐ (2003). Nguyễn Trung Quế - Chủ biên, Nông Nghiệp Việt Nam trên con đường CNH - HĐH - NXB TPHCM (2003). Lê Doãn Diên - Chủ biên, Nâng cao chất lượng lúa gạo phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu - NXB Nông nghiệp (2003). Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập KTQT. Kỷ yếu Hội thảo KHQG Bộ Thương mại & Trường đại học Ngoại thương, HN, 2003. Niên Giám Thống Kê các năm. Tổng cục Thống kê Kinh tế –Xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng - hội nhập-phát triển bền vững - NXB Thống kê (2003) Tạp chí Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn – Tháng 12/2005, Tháng 1,2/2006. Thời báo Kinh tế Việt Nam: Kinh tế 2004 - 2005; Số: 67, 72, 73, 74- Tháng 4/2005. Nghiên Cứu Kinh tế Số 284, 310 - Tháng 3/2004. Thông Tin Tài Chính Số 6 - Tháng 3/2004; Số 4, 5, 6-Tháng 2, 3/2005. Kinh tế và Dự báo Số 5/2004. Tạp Chí Thương mại Số 35/2004; Số 1+2/2005; Số 10,11/2005. Tạp Chí Thị Trường Giá Cả Số 3/2004; Xuân 2005. Thông Tấn Xã Việt Nam : Kinh tế Việt Nam và Thế giới – Số 1853, 1865/2005. Đề án chiến lược phát triển thị trường nông lâm thủy sản đến năm 2010 - Viện quy hoạch thiết kế nông nghiệp Trang WEB: vv…. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32509.doc
Tài liệu liên quan