Lời mở đầu
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống tại các vùng nông thôn. Việc phát triển nông nghiệp là điều quan trọng góp phần xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế phát triển toàn diện và bền vững, giảm chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Để phát triển nông thôn nhanh chóng và tối ưu thì phát triển kinh tế hộ sản xuất là hướng đi đúng đắn. Trong thời gian qua, thành tựu của kinh tế hộ đã chứng tỏ hướng đi đó là đúng và mang lại hiệu quả nhanh chóng thiết thực.
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Kinh Môn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong những thành công đó có sự đóng góp của ngành ngân hàng đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Kinh Môn là một chi nhánh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, phục vụ chủ yếu trên địa bàn huyện Kinh Môn. Ngân hàng phục vụ chủ yếu cho khách hàng là các hộ nông dân, các tổ chức cá nhân kinh doanh các yếu tố của sản xuất nông nghiệp. Ngân hàng đã đóng góp một phần vào sự phát triển kinh tế của huyện nói chung và của các hộ sản xuất nói riêng. Ngân hàng là nhân tố để giúp các hộ có nguồn vốn làm ăn, có được mức lãi suất ưu đãi để phát triển. Nhiều hộ đã có thu nhập khá hơn sau khi sử dụng nguồn vốn của ngân hàng. Bên cạnh những thành công đã đạt được, ngân hàng vẫn chưa phát huy tối đa tiềm năng để phục vụ cho cuộc sống của nhân dân được tốt hơn. Vì vậy, em lựa chọn đề tài: “Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Kinh Môn.”
Nội dung bài viết được chia làm 3 phần:
Phần 1: Hộ sản xuất trong nền kinh tế nước ta và vai trò tín dụng hộ sản xuất đối với sự phát triển kinh tế hộ.
Phần 2: Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Kinh Môn.
Phần 3: Một số giải pháp kiến nghị mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Kinh Môn.
Chương 1: Hộ sản xuất trong nền kinh tế nước ta và vai trò tín dụng đối với sự phát triển của hộ sản xuất
1.1. Kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm hộ sản xuất.
Hộ sản xuất ra đời và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển cùng nền văn minh lúa nước của dân tộc ta. Kinh tế hộ cũng ra đời và phát triển song song với sự phát triển của cả nền kinh tế trong các giai đoạn. Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế hộ vẫn tồn tại và phát triển song song với các loại hình kinh tế khác. Nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, ổn định đời sống xã hội.
Có nhiều khái niệm về hộ. Theo khái niệm của liên hợp quốc thì hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác. Theo khái niệm của Harris-viện nghiên cứu phát triển trường đại học Tổng hợp Susex cho rằng hộ là đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động.
Một số điểm cần lưu ý khi phân định hộ
Hộ là một nhóm người cùng huyết tộc hay không cùng huyết tộc
Họ cùng sống chung hay không cùng sống chung một mái nhà
Có chung một nguồn thu nhập và ăn chung
Cùng tiến hành sản xuất chung
Hộ phân loại theo ngành nghề có hộ nông dân và hộ phi nông nghiệp.
Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến hộ nông dân.
Hộ nông dân là một hình thức tổ chức sản xuất trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp là chủ yếu bao gồm một hoặc một nhóm người có cùng huyết tộc hoặc quan hệ huyết thống, sống chung một mái nhà, chung nguồn thu nhập, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu phục vụ nhu cầu các thành viên trong hộ.
Kinh tế hộ được hiểu là các mối quan hệ kinh tế của các hoạt động trong hộ.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế hộ sản xuất.
Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế cá thể mang tính tự cấp tự túc, và phát triển hơn là sản xuất hàng hoá nhỏ.
Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế đặc biệt vừa sản xuất vừa tiêu thụ sản phẩm. Quy mô sản xuất của hộ nhỏ, mang nặng tính sản xuất truyền thống: sản xuất các sản phẩm cần thiết phục vụ cho nhu cầu các thành viên trong hộ là chính. Khi các sản phẩm làm ra không được tiêu dùng hết trong gia đình họ mới mang đi trao đổi. Sản phẩm làm ra không vì mục đích trao đổi. Chính vì vậy khối lượng hàng hoá mang đi trao đổi chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng khối lượng sản phẩm làm ra. Khi kinh tế hộ phát triển ở mức độ cao hơn, có sản xuất hàng hoá nhỏ. Khi đó, do có trình độ phát triển cao hơn, khối lượng sản phẩm làm ra nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng của hộ, có sản phẩm dư thừa mang đi trao đổi. Sản xuất hàng hoá nhỏ thể hiện ở quy mô sản xuất và khối lượng sản phẩm làm ra. Qui mô hộ sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, khối lượng sản phẩm bán ra chỉ chiếm khoảng từ 20 – 30% khối lượng sản phẩm nông sản trên thị trường.
Công cụ sản xuất dùng trong hộ chủ yếu là công cụ thủ công, công nghệ khoa học kĩ thuật chưa được ứng dụng nhiều.
Các hộ nông dân chưa có điều kiện để tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại. Họ sản xuất theo phương thức cũ đã có từ hàng ngàn năm để lại, sử dụng công cụ thủ công có từ lâu đời. Vì vậy năng suất lao động thấp, cần nhiều lao động để sản xuất. Từ khi đổi mới, Đảng và nhà nước tạo điều kiện đưa tiến bộ khoa học công nghệ về áp dụng trong nông thôn, thay đổi phương thức sản xuất thủ công sang phương thức sản xuất hiên đại, sử dụng máy móc công nghiệp, giảm số lượng lao động của ngành nông nghiệp để chuyển sang ngành khác. Năng suất lao động cũng được nâng cao, mang lại hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho người nông dân.
Các hộ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu. Sản xuất trong hộ với mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các thành viên trong hộ là chính nên sản xuất kinh doanh của hộ chưa khai thác hết yếu tố sản xuất như đất đai, tư liệu sản xuất…
Trong năm 2002, Việt Nam có tổng số 13.909.485 hộ nông dân thì có 11.256.966 hộ nông dân, chứng tỏ các hộ sản xuất trong ngành nông nghiệp là chính. Người lao động mang tư tưởng sản xuất cũ nên sản xuất hàng hoá chưa được chú trọng, các yếu tố lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác hết tiềm năng. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, các hộ có điều kiện khai thác các yếu tố đó tốt hơn. Chuyên môn hoá, người lao động chỉ chú trọng vào sản xuất một loại sản phẩm nên họ có kinh nghiệm hơn, có thời gian khai thác tìm ra cách làm có hiệu quả cao hơn. Đất đai sử dụng cho cây trồng vật nuôi phù hợp nhất, tận dụng tiềm năng và tăng mùa vụ trên cùng diện tích đất được sử dụng. Công cụ lao động được khai thác với công suất cao, giảm thời gian chiết khấu, giảm chi phí đầu vào, nâng cao hiệu qủa kinh tế.
Rủi ro: sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên.
Đối tượng sản xuât của hộ chủ yếu là các cây con- cơ thể sống. Các loài cây trồng vật nuôi phát sinh, phát triển theo quy luật sinh học. Do là cơ thể sông nên chúng nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh. Mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Do vậy sản xuất dễ gặp rủi ro.
Hộ sản xuất chủ yếu sử dụng lao động tự có trong gia đình. Một số hộ sản xuất hàng hoá có thể thuê thêm lao động nhưng với số lượng ít. Giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong gia đình.
Các ngành nghề của hộ thường đa dạng như nông lâm ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thậm chí bao gồm cả các lĩnh vực công nghiệp may mặc và xây dựng cơ bản.
Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của ngành nông nghiệp sản xuất mang tính thời vụ cao, phụ thuộc vào điều kiện thời tiết. Tính thời vụ biểu hiện ở tính lãng phí nguồn lực laođộng, lãng phí vốn. Để giải quyết vấn để đó thì việc kết hợp nông nghiệp với các ngành nghề phụ là một biện pháp mang lại hiệu quả cao nhất. Trong những ngày nông nhàn, người lao động có thể tham gia sản xuất các ngành nghề phụ khác để tận dụng lao động, tạo công ăn việc làm và thu nhập. Vì vậy ngoài sản xuất nông nghiệp hộ còn có thể sản xuất trong những ngành khác.
Khả năng cạnh tranh trên thị trường kém.
Hộ là đơn vị kinh tế cơ sở, tự hach toán, kinh doanh ở quy mô nhỏ. Song hầu hết các hộ không có kiến thức thị trường, không có sự bảo hộ, hàng hoá không được đăng kí nhãn hiệu. Các hộ sản xuât với quy mô nhỏ nhưng lại không liên kết với nhau, không tạo ra được chỗ đứng trên thị trường nên việc cạnh tranh trên thị trường là rất khó khăn.
Nguồn vốn dùng trong sản xuất chủ yếu là nguồn vốn tự có hoặc vay mượn người thân với qui mô nhỏ.
Chúng ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, thu nhập của nông dân còn rất thấp. Do vậy nguồn vốn tự có của các hộ nhỏ, không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của hộ. Nhưng hiện nay vẫn còn rất ít hộ được tiếp xúc với nguồn vốn của ngân hàng. Đây là nguồn vốn có chi phí rẻ, nhanh chóng và dễ tiếp cận. Cần làm thay đổi quan điểm của người nông dân ngại tiếp xúc với ngân hàng, ngại rườm rà, để người thiếu vốn có vốn để sản xuất.
Từ các đặc điểm trên cho thấy khả năng khai thác tiềm năng kinh tế hộ là rất lớn. Góp phần phát triển không những cho hộ mà còn là động lực phát triển kinh tế cho những ngành, vùng khác. Nhưng tự kinh tế hộ không thể tự mình đứng lên mà cần có sự giúp đỡ của các cơ quan ban ngành đoàn thể, trong đó có ngân hàng. Ngân hàng là người cung ứng vốn nhưng đồng thời cũng cần kết hợp với các cơ quan chức năng khác để giúp người dân thay đổi cách nghĩ cách làm, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh để mỗi đồng vốn bỏ ra cho hiệu quả cao.
1.1.3. Vai trò hộ sản xuất và kinh tế hộ đối với sự phát triển kinh tế của nứơc ta.
Nứơc ta là một nước nông nghiệp với trên 70% dân số sống ở vùng nông thôn. Nông nghiệp phát triển là điều kiện, là cơ sơ nền tảng để cả nền kinh tế phát triển. Kinh tế hộ ở Việt Nam là thành phần chính, giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế nông nghiệp. Nên vai trò của kinh tế hộ ở nước nông nghiệp như nước ta có vai trò quan trọng.
Một là: Sản xuất sản phẩm nông sản đáp ứng nhu cầu cho toàn xã hội, đặc biệt với những nước có trình độ phát triển kinh tế thấp.
Ở nước mà nền kinh tế phát triển thấp thì dân số sống tại các vùng nông thôn chiếm tỉ trọng lớn. Thu nhập của họ chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Sự phát triển của nền nông nghiệp gắn liền với cuộc sống của họ. Họ là những người sản xuất nông sản cho cả xã hội. Khi tạo ra sự ổn định về thực phẩm là nền tảng để phát triển kinh tế ổn định, tạo tâm lí tôt cho người dân, giảm căng thẳng về lạm phát. Đồng thời tạo thu nhập ổn định cho người nông dân.
Hai là: Kinh tế hộ đã góp phần quan trọng trong khai thác nguồn lực tại chỗ như lao động, đất đai, mặt nước, tài nguyên…
Ở mức độ phát triển thấp các yếu tố sản xuất không được khai thác hết tiềm năng, do không biết cách sử dụng. Khi phát triển cao hơn trở thành sản xuất hàng hoá thì các yếu tố sản xuất được khai thác có hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế. Kinh tế hộ càng phát triển mang lại thu nhập và tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng, kéo theo việc khai thác các nguồn lực có hiệu qủa hơn.
Ba là: Kinh tế hộ là một đơn vị kinh tế tự chủ, hộ từng bước thích ứng với kinh tế thị trường, áp dụng khoa học kĩ thuật vào đời sống.
Hộ sản xuất tự hạch toán thu chi, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi trong hoạt động sản xuất. Do vậy hộ được coi là một đơn vị kinh tế tự chủ. Trong thởi kì đổi mới, giống như các thành phần kinh tế khác, hộ cũng từng bước thay đổi để thích nghi với kinh tế thị trường: chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá, chuyển từ sản xuất cái mình có sang sản xuất sản phẩm theo nhu cầu thị trường để nâng cao sức cạnh tranh và tạo đầu ra cho sản phẩm sản xuất. Đồng thời, các hộ thay đổi lối sản xuất cũ sang sản xuất theo các qui trình công nghệ hiện đại, áp dụng máy móc, nuôi trồng cây con có năng suất cao phẩm chất tốt. Qua đó thể hiện sự tiến bộ của người dân trong nhận thức, sớm thích nghi với điều kiện mới.
Bốn là: Kinh tế hộ là thành phần chủ yếu ở nông thôn góp phần xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn theo mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm.
Trong các thành phần kinh tế ở nông thôn có kinh tế trang trại, kinh tế hộ, kinh tế tâp thể và kinh tế nhà nước, song kinh tế hộ đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế hộ thu hút số lượng lao động lớn nhất ở nông thôn và sản xuât ra sản lượng lương thực lớn nhất trong ngành nông nghiệp, nên nó là thành phần kinh tế chủ yếu ở nông thôn. Nền kinh tế nứớc ta còn kém phát triển, ngân sách nhà nước hạn hẹp, việc đầu tư cho hệ thống hạ tầng ở nông thôn trông chờ vào ngân sách nhà nước rất khó khăn. Sự chung sức nhà nước và nhân dân góp phần đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tẩng, vừa phục vụ cho nhu cầu của nhân dân tại địa phương, vừa thúc đẩy sự phát triển chung của toàn xã hội. Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Để có thể thực hiện điều đó yêu cầu hộ nông dân phải có tiềm năng kinh tế, để có thể cùng nhà nước đóng góp xây dựng các công trình hạ tầng. Kinh tế hộ phát triển là điều kiện cần để hộ có khả năng tham gia đóng góp xây dựng cho công trình đó.
Năm là: Kinh tế nông thôn phát triển góp phần khôi phục thuần phong mĩ tục ở nông thôn.
Con người sinh ra cần được chăm sóc và dạy dỗ chu đáo để trở thành con người có ích cho xã hội. Khi hộ có điều kiện về kinh tế, có điều kiện chăm sóc quan tâm tới các thành viên trong gia đình. Bên cạnh đó, người nông dân có điều kiện tiếp thu những cái mới, nâng cao dân trí, là điều kiện để xây dựng làng văn hoá, khu dân cư văn hoá. Thuần phong mĩ tục ở nông thôn được duy trì có chọn lọc, mang lại cuộc sống tinh thần lành mạnh.
Sáu là: Kinh tế hộ là nơi cung cấp nguyên liệu cho các ngành sản xuất, đồng thời cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm rộng lớn cho toàn bộ nền kinh tế.
Kinh tế hộ là nơi cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho ngành công nghiệp chế biến, cung cấp lao động dôi dư cho các ngành kinh tế quốc dân. Trong tương lai, công nghiệp chế biến được phát triển tới trình độ cao hơn, nâng giá trị hàng hoá bán ra. Cơ cấu kinh tế sẽ dần chuyển dịch, công nghiệp và thương mại được xác định là ngành kinh tế đóng góp chủ yếu trong GDP, nguồn lao động dôi dư từ trong nông nghiệp sẽ được chuyển sang ngành công nghiệp và dịch vụ. Thị trường nông thôn là nơi cung cấp nguyên liệu, lao dộng chính cho ngành sản xuất. Với số lượng dân số chiếm tỷ lệ cao, nông thôn là thị trường tiềm năng cho những nhà sản xuất.
Bâỷ là: Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, tích tụ vốn.
Việt Nam là nước nông nghiệp, hiện nay chúng ta đang đứng thứ ba về xuất khẩu xuất khẩu gạo, xuất khẩu cà phê ở vị trí thứ ba, xuất khâủ hạt điều, hạt tiêu…. đều đứng ở vị trí cao. Đó là những con số đáng khâm phục. Song với tiềm năng của nước ta, chúng ta còn có thể xuất khẩu với khối lượng lớn và giá trị cao hơn. Để làm được điều đó cả hai ngành công nghiệp và nông nghiệp cùng phải bắt tay để tạo ra sản phẩm vừa có chất lượng cao vừa có năng suất cao, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô, chú trọng chế biến thành phẩm để thu được lợi nhuận cao hơn.
Như vậy, vai trò kinh tế hộ ở nước ta có vai trò quan trọng. Nó vừa tạo sự phát triển bền vững cho ngành nông nghiệp, đồng thời góp phần tích tụ vốn. Phát triển kinh tế hộ là điều kiện không thể thiếu trong tình hình đất nước đang tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá như hiện nay.
1.2. Tín dụng ngân hàng với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất.
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng ra đời từ những ngày đầu ngân hàng hình thành, nó là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng nhất của ngân hàng truyền thống, song tín dụng có nhiều cách hiểu khác nhau. Một số cách hiểu về tín dụng trong quan hệ tài chính: tín dụng là một số tiền cho vay mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Xem xét tín dụng như một chức năng của ngân hàng thì tín dụng được hiểu là một giao dịch về tài sản giữa ngân hàng và khách hàng, trong đó ngân hàng giao tài sản cho khách hàng trong khoảng thời gian xác định, khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân hàng cả gốc và lãi khi đến hạn thanh toán vô điều kiện.
1.2.2 Phân loại tín dụng.
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng, Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập phân loại theo thời gian, theo hình thức taì trợ
Phân loại theo thời gian
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến khả năng thanh khoản, lợi nhuân, từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới an toàn và sinh lời của ngân hàng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân thành:
Tín dụng ngắn hạn: các khoản tín dụng có thời gian tài trợ từ 12 tháng trở xuống. Các khoản tín dụng đó thường được dùng để tài trợ cho tài sản lưu động, nhu cầu vốn ngắn hạn của khách hàng.
Tín dụng trung hạn: Tín dụng có thời gian tài trợ từ 1 năm đến 5 năm. Khoản tín dụng này được dùng tài trợ chủ yếu cho tài sản cố định, cải tiến kĩ thuật, công nghệ.
Tín dụng dài hạn: Tín dụng có thời gian tài trợ trên 5 năm. Khoản tín dụng này được dùng tài trợ cho các công trình, máy móc có giá trị lớn thời gian khấu hao dài.
Cách phân chia này chỉ có tính chất tương đối, vì nhiều khoản tín dụng không xác định chính xác thời gian tài trợ.
Þ Phân loại theo hình thức tài trợ
Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước cho khách hàng một số tiền để sở hữu thương phiếu chưa đến hạn. Số tiền ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời gian còn lại của thương phiếu và lệ phí chiết khấu.
Quy trình chiết khấu thương phiếu: Sau khi ngừơi bán giao hàng hoá hoặc dịch vụ cho người mua, người bán hoặc người mua lập thương phiếu có chữ kí của người mua hàng và người bán là người giữ thương phiếu. Người bán có quyền mang thương phiếu đó đến ngân hàng để chiết khấu trong thời gian thương phiếu có hiệu lực. Ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ của thương phiếu, sau đó trao tiền cho người bán và nắm giữ thương phiếu. Khi thương phiếu đến hạn thanh toán, ngân hàng mang thương phiếu đó để đòi tiền từ các bên kí tên trên thương phiếu.
Ưu điểm: phương thức này đơn giản, có độ an toàn cao, tính lỏng cao và có thể tái chiết khấu tại ngân hàng trung ương với chi phí thấp.
Hiện nay chiết khấu thương phiếu còn chưa được áp dụng phổ biến ở Việt Nam.
Cho vay: là việc ngân hàng giao cho khách hàng một số tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian theo thoả thuận hoàn trả cả gốc và lãi.
Các hình thức cho vay
Thấu chi: là việc ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp nhận cho khách hàng chi vượt quá số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng trong thời gian và giới hạn xác định.
Ưu điểm; đây là hình thức tín dụng linh hoạt, thủ tục đơn giản. Khách hàng chủ động trong việc sử dụng vốn.
Nhược điểm: Hầu hết các khoản vay này không có bảo đảm, dễ gặp rủi ro nên chỉ cấp cho khách hàng có uy tín, chu kì thu nhập ngắn. Ngoài ra ngân hàng không biết trước khi nào khách hàng cần sử dụng vốn.
Cho vay trực tiếp từng lần: là phương thức cho vay khách hàng và ngân hàng đều làm thủ tục vay vốn trước mỗi lần vay.
Phương thức này áp dụng với khách hàng có nhu cầu vốn không thường xuyên. Mỗi lần vay vốn, khách hàng gửi đơn xin vay vốn và trình bày phương án sử dụng vốn tới ngân hàng. Ngân hàng thẩm định tính khả thi của phương án và kí hợp đồng tín dụng. Trong hợp đồng tín dụng nêu rõ thời gian cho vay, khối lượng cho vay, lãi suất, thời hạn trả nợ và yêu cầu bảo đảm(nếu cần). Ngân hàng thu gốc và lãi vào từng thời hạn nợ. Trong quá trình sử dụng vốn, yêu cầu khách hàng phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả, nếu thấy dấu hiệu vi phạm,ngân hàng có thể thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn.
Ưu điểm: nghiệp vụ đơn giản, ngân hàng kiểm soát các món vay dễ dàng, áp dụng được cho nhiều khách hàng.
Cho vay theo hạn mức: ngân hàng và khách hàng thoả thuận cho khách hàng vay có dư nợ tối đa tại thời điểm tính.
Trong kì khách hàng được phép vay trả nhiều lần, nhưng số dư tối đa không được vượt quá hạn mức.
Phương thức này áp dụng với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, kinh doanh ổn định.
Ưu điểm:thuân tiện cho khách hàng không phải làm thủ tục nhiều lần, chủ động trong quản lí ngân quỹ của khách hàng.
Nhược điểm: khách hàng và ngân hàng không thoả thuận trứơc thời gian vay từng lần. Ngân hàng khó kiểm soát món vay, ngân hàng chỉ có thể phát hiện khoản vay có vấn để khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ không giảm trong thời gian dài.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá của khách hàng.
Đầu kì, khách hàng làm đơn xin vay luân chuyển. Khách hàng và ngân hàng thoả thuận về phương thức vay, hạn mức vay, lãi suất…Người vay cam kết dùng khoản vay đó để trả cho người bán và các khoản thu từ việc bán hàng dùng để trả cho ngân hàng trứơc khi gửi lại vào tài khoản thanh toán.
Ưu điểm: thuận tiện cho khách hàng, thủ tục chỉ cần lập một lần, nhu cầu vốn được đáp ứng nhanh chóng.
Nhược điểm: không có thời hạn tín dụng cụ thể, rủi ro tín dụng khi khách hàng không tiêu thụ được hàng hoá.
Cho vay trả góp là việc ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc nhiều lần trong thời hạn tín dụng.
Đây là hình thức cho vay mới, dùng để tài trợ cho khoản cho vay tiêu dùng, tài sản cố định hoặc lâu dài.
Nhược điểm: Tài sản thể chấp là hàng hoá mua sắm. Khả năng trả nợ phụ thuộc thu nhập của khách hàng, nếu nguồn thu nhập giảm sút thì ngân hàng gặp khó khăn trong thu nợ.
Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Các tổ chức trung gian làm đơn đề nghị vay vốn cho khách hàng gửi đến ngân hàng. Ngân hàng tiến hành phân tích tín dụng, nếu thấy đủ điều kiện sẽ tiến hành giải ngân. Ngân hàng không trực tiếp giải ngân cho khách hàng mà giải ngân thông qua các tổ chức trung gian. Đến kì trả nợ, các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho ngân hàng.
Trong cho vay gián tiếp, các tổ chức trung gian thực hiện một số khâu thay ngân hàng như phát vay, thu nợ... Tổ chức trung gian đứng ra bảo lãnh cho các thành viên khi thành viên không có bảo đảm, hoặc các thành viên của nhóm bảo đảm cho một thành viên khi thành viên đó không đủ tài sản bảo đảm. Tạo điều kiện cho các hộ không có đủ tài sản bảo đảm vẫn có thể vay vốn của ngân hàng.
Ngoài ra ngân hàng cũng có thể cho vay gián tiếp thông qua người bán lẻ. Ngân hàng kí hợp đồng tín dụng với khách hàng chính là người mua. Khi khách hàng của ngân hàng đến mua hàng, người bán lẻ tập trung hoá đơn bán hàng gửi cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng trả tiền cho người bán lẻ. Sau đó ngân hàng thu nợ của khách hàng.
Ưu điểm: hạn chế được rủi ro cho ngân hàng nhờ vốn được sử dụng đúng mục đích, khách hàng bị gíam sát bởi cả ngân hàng và tổ chức trung gian. Giảm chi phí cho vay.
Nhược điểm: nhiều tổ chức trung gian lợi dụng tăng lãi suất cho vay lại hoặc không phát tiền vay cho các thành viên. Người bán lẻ lợi dụng bán hàng không đủ tiêu chuẩn hoặc với giá cao hơn bình thường cho khách hàng.
Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản cho khách hàng thuê, khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi dưới dạng tiền thuê hàng kì.
Có hai loại cho thuê là ngân hàng mua tài sản để cho thuê và ngân hàng mua tài sản của người đi thuê để cho thuê lại.
Qui trình:
Ngân hàng mua tài sản để cho thuê:
Khách hàng có nhu cầu sử dụng tài sản làm đơn đề nghị gửi cho ngân hàng. Ngân hàng kiểm tra thẩm định các điều kiện của dự án, của khách hàng để xem xét cho vay. Khi khách hàng đủ điều kiện cho vay, ngân hàng và khách hàng kí kết hợp đồng tín dụng. Ngân hàng sau khi kí kết hợp đồng sẽ tìm nhà cung cấp để mua tài sản cho thuê. Khách hàng có thể yêu cầu nhà cung cấp về qui cách, chất lượng tài sản, bảo hành. Sau đó ngân hàng giao tài sản cho khách hàng.
Ngân hàng mua lại tài sản của người đi thuê để cho thuê lại.
Khách hàng có tài sản song không có vốn để mua nguyên nhiên vật liệu. Khách hàng tìm đến ngân hàng để bán lại tài sản đó cho ngân hàng và sau đó thuê của ngân hàng.
Bảo lãnh: Ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng của mình nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ đó.
Các loại bảo lãnh ( phân theo mục tiêu)
Bảo lãnh tham gia dự thầu: là việc ngân hàng cam kết trả tiền phạt cho chủ đầu tư thay bên dự thầu nếu bên dự thầu không thực hiện đúng các quy định trong hợp đồng.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: ngân hàng cam kết chi trả tổn thất cho bên thứ 3 nếu khách hàng của ngân hàng không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng và gây ra tổn thất đó cho bên thứ ba.
Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng với bên mua sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho họ nếu bên cung cấp không trả.
Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay: là cam kết của ngân hàng trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn cho người cho vay khi khách hàng không trả.
Bảo lãnh bảo đảm thanh toán: ngân hàng cam kết thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàngkhông trả đủ.
1.3. Vai trò tín dụng ngân hàng với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Trong những năm gần đây, kinh tế nông thôn đã được quan tâm phát triển, trong đó có cả kinh tế hộ. Đảng và nhà nước ta xác định rõ kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ sở, là nền tảng để phát triển kinh tế nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
Để kinh tế hộ phát triển, nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ về khoa học kĩ thuật, giống, chính sách tiêu thụ sản phẩm …trong đó chính sách hỗ trợ về vốn đóng vai trò quan trọng. Nhà nước có nhiều cách thức huy đông vốn để tài trợ cho nông thôn và cho hộ sản xuất như sử dụng các nguồn viện trợ của WB, ADB, kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư vào khu vực kinh tế nông thôn, sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn vay của các tổ chức nước ngoài có quy mô còn nhỏ, không ổn định, mà còn chịu nhiều ràng buộc về chính trị. Các nhà đầu tư vẫn chưa hào hứng đầu tư vào lĩnh vực nông thôn, ngân sách nhà nước còn nhiều eo hẹp, vì vậy nguồn vốn tín dụng của ngân hàng là nguồn vốn chiếm tỉ lệ lớn nhất, và đóng vai trò quan trọng nhất trong đầu tư vào lĩnh vực nông thôn và nông nghiệp.
Một là: tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ cho hộ phát triển sản xuất, là điều kiện để nền kinh tế nông nghiệp nông thôn chuyển dịch sang sản xuất hàng hoá.
Vốn là một trong những yếu tố quan trọng của sản xuất. Bất cứ ngành sản xuất nào, vốn cũng là yếu tố không thể thiếu được. Trong sản xuất nông nghiệp cũng vậy. Hai mươi năm đổi mới vừa qua, chúng ta từ một nước nông nghiệp nhưng sản xuất lương thực không đủ tiêu dùng mà phải nhập khẩu gạo thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới. Đó là do các yếu tố về trình độ người lao động, áp dụng khoa học công nghệ vào cuộc sống và có cả yếu tố vốn. Vốn là điều kiện để khoa học công nghệ đi vào cuộc sống, không có vốn không thể đầu tư mua sắm thiết bị, mua cây con giống có năng suất cao, không đầu tư cho các yếu tố đầu vào của sản xuất, không thể đổi mới phương thức làm việc.
Vốn ngân hàng giúp hộ nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp với nhu cầu của thi trường, có điều kiện cải tạo vườn, giúp cho chính quyền và nhân dân các làng nghề khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, tạo ra các ngành nghề mới thu hút lao động dư thừa ở nông thôn.
Vốn ngân hàng được kết hợp với các nguồn vốn của địa phương và đóng góp của nhân dân để xây dựng các công trình xã hội như điên, đường xá, công trình thuỷ lợi…là cơ sở vật chất cần thiết để nền kinh tế nông thôn có thể phát triển.
Hai là: tín dụng ngân hàng làm giảm tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn,
Ở nông thôn, tình trạng vay nặng lãi đã diễn ra từ lâu đời. Nguyên nhân là do người nông dân không có vốn. Họ phải chấp nhận đi vay với lãi suất rất cao. Trong nhiều trường hợp thu nhập làm ra không đủ trả tiền lãi cho chủ nợ, lãi mẹ đẻ lãi con làm cho người nông dân trở thành con nợ, lâm vào cảnh nghèo nàn không thể vươn lên. Hoặc do cần vốn hộ nông dân phải bán những sản phẩm chưa đến mùa vụ thu hoạch, cho giá trị thấp, chịu thiệt thòi.
Tín dụng ngân hàng ra đời là chỗ dựa cho người nông dân khi thiều vốn. Họ không cần phải đến những chỗ cho vay nặng lãi khi cần vốn, mà được ngân hàng cho vay với mức lãi suất ưu đãi để thu nhập họ làm ra đủ bù đắp cho những chi phí sản xuất, trả lãi cho ngân hàng và vẫn có lợi nhuận.
Ba là: tín dụng ngân hàng là động lực để người nông dân nâng cao ý thức sản xuất kinh doanh.
Nếu nguồn vốn đầu tư không phải là nguồn vốn đi vay, hộ có ý thức kém trong kinh doanh, không nỗ lực để việc sản xuất phải tạo ra lợi nhuận. Nếu nguồn vốn đó đi vay từ ngân hàng, các hộ phải trả lại cho ngân hàng cả vốn và lãi, mà nguồn trả nợ chính được lấy từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh được đầu tư vốn vay đó. Hộ phải cố gắng tối đa để phương án sản xuất đó mang lại lợi nhuận để trả nợ cho ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là động lực thúc đẩy ý thức hộ còn vì sau khi giải ngân, ngân hàng tiếp tục theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn của hộ. Nếu khách hàng không sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận với ngân hàng, hoặc sử dụng vốn không có hiệu qủa, ngân hàng sẽ có biện pháp xử lí thích hợp. Vì vậy khách hàng phải tuân thủ theo mục đích sử dụng vốn và phải cố gắng để đồng vốn đó thực sự sinh lời.
Bốn là: tín dụng ngân hàng giúp những ngành kém phát triển có điều kiện vươn lên, tập trung đầu tư cho ngành kinh tế mũi nhọn.
Trong bản thân ngành nông nghiệp bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau bên trong. Các ngành nghề này phát triển không đều nhau, có những ngành sản xuất đã đạt được trình độ cao song có những ngành trình độ phát triển còn ở trình độ sơ khai, cần sự giúp đỡ của các cơ quan, chính quyền và tổ chức để phát triển. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đóng vai trò quan trọng để phát triển các ngành nghề đó. Nguồn vốn ngân hàng được tập trung cho các ngành kém phát triển, những ngành nghề đó được ưu tiên hơn các ngành khác như cho vay với lãi suất thấp hơn, thời gian vay dài hơn, được ưu tiên giãn nợ khi không trả được ngay. Đồng thời ngân hàng phối hợp với các cấp chính quyền địa phương tổ chức các lớp học về kĩ thuật nuôi trồng, tạo dựng thị trường bao tiêu sản phẩm. Đó là những điều kiện rất tốt để các ngành nghề có thể phát triển đồng đều, không mất cân đối trong nền kinh tế.
Trong các ngành sản xuất của nông nghiệp, có những ngành nghề có tiềm năng phát triển, có tỉ suất sinh lời lớn hơn mức trung bình của ngành, có thể thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp và cả những ngành kinh tế khác cũng phát triển theo, đó là những ngành kinh tế mũi nhọn. Ngân hàng là yếu tố giúp những ngành kinh tế mũi nhọn có thể áp dụng kĩ thuật tiến bộ, điều kiện sản xuất hiện đại, thị trường tiêu thụ ổn định …là điều kiện để ngành phát triển vượt trội. Tạo thu nhập cao cho người sản xuất, cho tạo điều kiện cho các ngành có liên quan phát triển theo.
Năm là: tín dụng ngân hàng giúp cho nền kinh tế phát triển nhưng cũng đồng thời mang lại hiệu quả xã hội khác như có thêm việc làm cho lao động, hạn chế phong tục tập quán lạc hậu của các vùng…
Tín dụng ngân hàng đã mở ra hướng đi cho nhiều vùng quê, tạo thêm nhiều nghề mới, thu hút thêm lao động. Đồng thời, nhận thức của ._.người nông dân được tăng lên, nhận thức đúng về các quan niệm, phong tục, có tư tưởng tíên bộ, nên hạn chế được các tập quán xấu, tư tưởng lạc hậu ăn sâu vào tiềm thức của mọi người.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tín dụng hộ sản xuất
1.4.1. Nhân tố thuộc về môi trường pháp lí.
Môi trường pháp lí là chuẩn mực để mọi ngưòi tuân theo. Một môi trường pháp lí thuận lợi có tác động tích cực tới sự phát triển của kinh tế xã hội, ngược lại, một môi trường pháp lí không ổn định, không đồng bộ là lực cản lớn cho xã hội. Môi trường pháp lí mang lại sự ổn định về kinh tế chính trị xã hội, mang lại công bằng cho tất cả các tổ chức cá nhân, tạo niềm tin vào chính quyền điều hành. Ngân hàng khi hoạt đồng đều phải tuân thủ theo pháp luật của nhà nước. Hoạt động mở rộng tín dụng cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường pháp lí, mặc dù các quy định này nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng như hạn chế cho vay các ngành nghề, hạn chế số tiền vay của một khách hàng… Ngoài ra những chính sách phát triển về nông nghiệp nông thôn khác có ảnh hưởng gián tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, môi trường pháp lí là nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng.
1.4.2. Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế là nơi cung cấp các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất đồng thời là nơi tiêu thụ sản phẩm làm ra cho nông dân. Nếu không có nguyên liệu đầu vào thì không thể sản xuất, không bán được sản phẩm làm ra hoặc bán với giá rẻ thì người nông dân không tiếp tục sản xuất. Để sản xuất phát triển cần có thị trường ổn định.
Hoạt động mở rộng tín dụng cho vay hộ sản xuất phụ thuộc mong muốn phát triển sản xuất của hộ. Nếu hộ không sản xuất, không có nhu cầu về vốn thì ngân hàng cũng không thể cho vay. Hộ mong muốn phát triển mở rộng sản xuất là điều kiện để ngân hàng mỏ rộng cho vay. Vậy môi trường kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới mở rộng tín dụng của ngân hàng.
1.4.3. Nhân tố thuộc về ngân hàng.
Lãi suất ngân hàng.
Lãi suất đựoc hiểu là giá cả của khoản vay. Với người đi vay mong muốn vay với lãi suất thấp còn người cho vay mong cho vay với lãi suất cao. Để có thể dung hoà lợi ích của cả hai bên, mức lãi suất đưa ra phải đảm bảo bù đắp đủ chi phí và mang lại lợi nhuận cho ngườicho vay, nhưng cũng phải bảo đảm nhỏ hơn mức sinh lời của người đi vay. Với ngân hàng cũng vậy. Mức lãi suất mà ngân hàng đưa ra dựa trên cơ sơ lãi suât huy động, chi phí và lợi nhuận của ngân hàng.
Mức lãi suất ngân hàng đưa ra thấp, ngân hàng ngoài việc hạn chế tối đa chi phí còn phải tạo đựoc nguồn huy động với lãi suất thấp. Nhưng với mức lãi suất thấp thì ngân hàng khó huy động đựợc tiền gửi đáp ứng nhu cầu tín dụng.
Mức lãi suất ngân hàng huy động cao thu hút đựơc nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Nhưng với người vay tiền sẽ hạn chế vay. Không tạo ra thu nhập và khó bù đắp chi phi huy động.
Vậy ngân hàng là người trung gian, phải dung hoà lợi ích của ngưòi gửi tiền và ngưòi vay, và phải thu được lợi nhuận.
Bên cạnh đó, ngân hàng luôn phải đối đầu với rủi ro lãi suât do lãi suất trên thị trường biến động. Để đề phòng rủi ro lãi suất, ngân hàng phải chủ động đề phòng, tính toán hợp lí.Trong xu hướng hiện nay, lãi suất có xu hướng tăng. Lãi suất cho vay đặc biệt là lãi suất cho vay dài hạn phải tính toán kĩ.
Kinh tế hộ sản xuất thường không có tỉ lệ sinh lời cao như các thành phần kinh tế khác. Khi cho vay kinh tế hộ thì phải tính đến yếu tố đó. Ngược lại, nguồn vốn huy động để cho vay kinh tế hộ thường là lãi suất cao. Ngân hàng phải tìm ra mức lãi hợp lí. Nếu mức lãi suất cao hạn chế qui mô tín dụng.
Vậy lãi suất ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô tín dụng
Chính sách phát triển của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng đều có những định hướng phát triển, xác định khách hàng mục tiêu cho riêng mình. Nếu định hướng của ngân hàng không tập trung vào thị trường nông thôn, khách hàng mục tiêu không phải là hộ nông dân thì việc tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng đó là rất khó khăn. Trong các ngân hàng thương mại hiện nay chỉ có ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam có chiến lược tập trung vào thị trưòng nông thôn, ưu tiên cho khách hàng là hộ nông dân.
Chiến lược của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn về lâu dài vẫn là phục vụ cho sự phát triển của nông thôn, nông nghiệp. Nhưng trong từng giai đoạn cụ thể mà chiến lược chú trọng vào từng lĩnh vực cụ thể, phù hợp với tình hình. Các chiến lược đó có thể thay đổi theo từng thời kì. Các chiến lược của nngân hàng ảnh hưởng tới cho vay hộ sản xuất:
Chiến lược đa dạng hoá khách hàng. Ngành nông nghiệp là ngành dễ gặp rủi ro. Nếu tập trung vào một nhóm khách hàng, khi họ gặp rủi ro thì ngân hàng khó có khả năng thu hồi nợ. Ngân hàng là người chịu thiệt hại nặng nề nhất, và khó có khả năng đứng vững trên thị trường.
Mục tiêu của ngân hàng là phục vụ cho sự phát triển chung của cả nền nông nghiệp và nông thôn. Do đó không thể tập trung nguồn lực cho nhu cầu vốn của hộ.
Ngân hàng quyết định ưu tiên cho khách hàng truyền thống hay mở rộng khách hàng sang lĩnh vực khác.
Chính sách tín dụng sẽ quyết định vấn đề có mở rộng tín dụng đối với hộ sản xuất hay không. Nếu chính sách tín dụng không ưu tiên cho đối tượng khách hàng là hộ thì khó mở rộng tín dụng đối với hộ.
Khả năng đáp ứng vốn của ngân.
Ngân hàng đóng vai trò trung gian tài chính, chuyển vốn từ người thừa vốn sang ngưòi thiếu vốn. Nguồn vốn mà ngân hàng cho vay phụ thuộc vào khả năng huy động của ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể cho vay khi có vốn huy động. Nếu nguồn vốn huy động không tăng đồng nghĩa với việc không mở rộng tín dụng.
Ngoài khối lượng huy dộng, một điều cần chú ý là thời hạn gửi tiền và thời hạn tín dụng. Ngân hàng chỉ có thể chuyển hoán kì hạn nếu thời hạn tín dụng không chênh lệch quá với thời hạn gởi tiền. Nếu nguồn tiền gửi tiết kiệm chủ yếu là ngắn hạn thì ngân hàng khó đáp ứng nhu cầu cho vay dài hạn của khách hàng, vì điều đó ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng.
đội ngũ cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Họ là người trực tiếp thẩm định trực tiếp báo cáo ngân hàng về tính khả thi của dự án, có ảnh hưởng lớn đến quyết định có cho vay hay không. Qua cán bộ tín dụng, khách hàng sẽ hiểu thêm về ngân hàng. Đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân hàng có trình độ, có kinh nghiệm sẽ bảo đảm thành công cho khoản vay, hạn chế nợ quá hạn. Họ sẽ sớm phát hiện dấu hiệu lừa đảo của khách hàng hay việc làm ăn kém hiệu qủa để báo cáo ngân hàng có biện pháp xủ lý. Thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng cũng ảnh hưởng khách hàng và ảnh hưỏng tới quýêt định giao dịch tiếp với ngân hàng.
Cơ sở vật chất kĩ thuật.
Ngân hàng có mạng lưới rộng lớn sẽ thuận tiện cho khách hàng giao dịch với ngân hàng, giảm chi phí và thời gian đi lại, thu hút nhiều khách hàng hơn. Nhưng bên canh việc mở chi nhánh thu hút thêm khách hàng, ngân hàng phải tính tới chi phí của việc mở chi nhánh như thuê địa điểm, trả lưong cho cán bộ… Với thu nhập đó có đủ bù đắp cho chi phí không.
Chính sách marketing
Hiện nay, các hộ nông dân vẫn chưa thực sự biết nhiều về ngân hàng. Họ ngại giao dịch với ngân hàng, ngại làm thủ tục rườm rà. Ngân hàng cần có chính sách marketing để khách hàng hiểu thêm về ngân hàng, giúp họ biết về các loại hình cho vay, thủ tục, điều kiện vay vốn, để họ có thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng.
1.4.4. Nhân tố từ các hộ gia đình.
Hộ gia đình là một bên của giao dịch, nên hộ có ảnh hưởng tới việc giao dịch giữa hộ và ngân hàng.
Nhu cầu về vốn.
Khách hàng chỉ đi vay khi họ cần vốn. Nếu họ không có nhu cầu về vốn thì ngân hàng không thể cho vay. Đây là yếu tố quyết định việc mở rộng tín dụng của ngân hàng. Nhưng nhu cầu về vốn của khách hàng chỉ được đáp ứng nếu ngân hàng có đủ tiềm năng. Mặt khác phương án sử dụng vốn của ngân hàng phải mang lại hiệu qủa, và nằm trong sự cho phép của pháp luật.
Đối tượng sản xuất.
Đối tượng sản xuất của các hộ chủ yếu là cây, con… Thông thường, ngân hàng cho khách hàng vay phục vụ sản xuất. Trong một số trường hợp do thiên tai, dịch bệnh mà ngân hàng sẽ hạn chế cho vay đối với một số đối tượng cụ thể. Ví dụ hiện nay, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đang hạn chế cho vay nếu đối tượng sản xuất là gia cầm.
Tính tự giác của hộ.
Tính tự giác của hộ là điều kiện để khách hàng cho vay. Tính tự giác ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Nếu khách hàng không có tính tự giác, dù tình hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì ngân hàng gặp khó khăn trong vấn để thu hồi nợ. Nếu hộ có tính tự giác, dù cho sản xuất kinh doanh không có hiệu qủa thì họ cũng có phưong án khắc phục, quyết tâm trả nợ cho ngân hàng.
Bảo đảm tiền vay.
Theo qui đinh của chính phủ nhằm giúp hộ nông dân tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, những khoản vay nhỏ không cần bảo đảm ( hộ gia đình, chủ trang trại vay dưới 20 triệu, hộ nông dân nuôi trồng thuỷ sản được vay dưới 50 triệu thì không cần bảo đảm). Tuy nhiên để làm căn cứ trong xét duyệt cho vay hộ nông dân phải xuất trình cho ngân hàng các giấy tờ liên quan đến việc giao quyền sử dụng đất, ngân hàng được phép giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi cấp tín dụng Các hộ nghèo được áp dụng hình thức cho vay bảo đảm bằng tín chấp. Nhưng phải có sự bảo lãnh của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội
Nhận thức của hộ nông dân.
Trình độ nhận thức của hộ nông dân có ảnh hưởng lớn tới hoạt động tín dụng. Trình độ nhận thức giúp hộ thấy được vai trò quan trọng của nguồn vốn ngân hàng để tiếp cận với ngân hàng. Trình độ của hộ cũng quyết định hiệu quả sử dụng vốn vay, sử dungj nguồn vốn có hiệu qủa và đúng mục đích.
Vậy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới qui mô và chất lưọng tín dụng, có yếu tố từ ngân hàng, từ khách hàng và cả yếu tố từ môi trường xung quanh. Các ngân hàng nắm vững mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố để có biện pháp cụ thể tác động vào nhân tố, để nguôn vốn của ngân hàng tiếp cận đựoc với mọi người dân.
1.5. Chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất.
1.5.1. Khái niệm chung về chất lượng tín dụng.
Nâng cao chất lượng là điều kiện để bất cứ một tổ chức kinh tế nào đứng vững và phát triển trong nền kinh tế. Cũng giống như các tổ chức khác, cần phải đảm bảo chất lượng, trong đó chất lượng tín dụng đóng vai trò lớn, quyết định trực tiếp tới khả năng sinh lời và an toàn của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng (ngưởi gửi tiền và người vay tiền), phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở một số khía cạnh
Với khách hàng, tín dụng phải phù hợp với mục đích sử dụng, kì hạn hợp lí và lãi suất vừa phải, thủ tục đơn giản nhanh chóng song vẫn phải tuân theo nguyên tắc tín dụng.
Với sự phát triển của kinh tế xã hội: tín dụng ngân hàng phục vụ cho sự phát triển của nông nghiệp, lưu thông hàng hoá, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ tư bản.
Với ngân hàng thương mại: thời hạn tín dụng, qui mô, lãi suất phải phù hợp với bản thân ngân hàng. Khoản vay hoàn trả đúng hạn và có lãi, hạn chế rủi ro.
1.5.2. Những chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
Những chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng là thước đo được cụ thể hoá để dễ xác định chất lượng tín dụng. Các chỉ tiêu đánh giá gồm có chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng.Song các chỉ tiêu định tính còn rất khó xác định do nó chỉ mang tính tương đối.Vì vậy các chỉ tiêu định lượng xác định chất lượng tín dụng được dùng phổ biến.
1.5.2.1. Chỉ tiêu tương đối
Chỉ tiêu tương đối phụ thuộc vào người đánh giá. Chỉ tiêu định tính thể hiện chất lượng tín dụng thông qua số hộ vay vốn của ngân hàng trên tổng số hộ trên địa bàn. Qua đó thấy được tầm ảnh hưởng của ngân hàng tới đời sống của nhân dân, thấy được sự quan tâm của các hộ tới ngân hàng. Nếu số hộ đến vay vốn càng đông chứng tỏ ngân hàng có ảnh hưởng càng lớn tới đởi sống của hộ, nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ ngân hàng không được quan tâm và không co ảnh hưởng nhiều, Nhưng tỉ lệ bao nhiêu được coi là cao, bao nhiêu là thấp thì chưa xác định được, tuỳ vào quan điểm của người đánh giá mà cho đó là cao hay thấp. Ngoài ra chất lượng tín dụng thể hiện qua đời sống của các hộ sau khi vay vốn. Nếu đời sống của hộ được nâng cao hơn trứoc khi vay vốn chứng tỏ đồng vốn của ngân hàng có hiệu quả. Nhược điểm là không xác định chính xác mức độ hiệu quả của nguồn vốn là nhiều hay ít.
1.5.2.2. Chỉ tiêu định lượng.
Tỉ lệ dư nợ kinh tế hộ trên tổng dư nợ.
Tỉ lệ dư nợ hộ sản xuất trên tổng dư nợ
=
Dư nợ hộ sản xuất
x 100%
Tổng dư nợ
Tỉ lệ dư nợ kinh tế hộ trên tổng dư nợ phản ánh quy mô cho vay kinh tế hộ trong tổng mức dư nợ. Nếu tỉ lệ càng cao chứng tỏ cho vay hộ sản xuất là phần quan trọng của ngân hàng, nếu tỉ lệ này là lớn nhất thì hộ là khách hàng mục tiêu của ngân hàng. Đồng thời cho thấy sự quan tâm của ngân hàng tới khách hàng là hộ sản xuất.
Tỉ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ qúa hạn là chỉ tiêu phản ánh sự an toàn của ngân hàng. Thông thường chỉ tiêu nợ quá hạn của ngân hàng không đựoc vượt quá 5% trên tổng dư nợ. Nếu tỉ lệ nợ quá hạn lớn hơn 5%, ngân hàng có khả năng đổ vỡ.
Tỉ lệ nợ quá hạn
=
Dư nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Hiện nay chỉ tiêu nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại Việt Nam thường cao hơn 5%. Trong quyết định127 của ngân hàng nhà nước đã đề ra cách tính nợ quá hạn mới, nhằm tiếp cận với cách tính theo tiêu chuẩn quốc tế và hiện đại hoá ngân hàng theo chuẩn quốc tế.
Tỉ lệ nợ quá hạn hộ SX trong dư nợ qúa hạn
=
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất
x 100%
Tổng dư nợ quá hạn
Chỉ tiêu này phản ánh tỉ lệ nợ qúa hạn cho vay hộ sản xuất trong tổng dư nợ quá hạn của ngân hàng. Nếu tỉ lệ này cao chứng tỏ dư nợ quá hạn của ngân hàng có phần đóng góp lớn của dư nợ hộ sản xuất. Nếu tỉ lệ này thấp chứng tỏ dư nợ hộ sản xuất không ảnh hưởng nhiều tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Để nâng cao chất lượng tín dụng cần phải nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
Tỉ lệ hộ có quan hệ vay vốn với ngân hàng.
Tỉ lệ hộ có quan hệ
=
Số hộ có quan hệ tín dụng với ngân hàng
x 100%
Tổng số hộ trên địa bàn.
Tỉ lệ này phản ánh tỉ lệ số hộ đã tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Đồng thời phản ánh số hộ vẫn chưa được tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Từ đó thây được sự quan tâm của các hộ tới ngân hàng và ảnh hưởng của ngân hàng tới đời sống của dân cư trong khu vực. Nếu có nhiều hộ vay vốn của ngân hàng chứng tỏ ngân hàng có ảnh hưởng đến đông số nhân dân, nếu số hộ vay ít, ngân hàng không có ảnh hưởng lớn tới đời sống của khu vực.
Doanh số cho vay bình quân.
Doanh số cho vay bình quân 1 hộ
=
Doanh số cho vay kinh tế hộ
x 100%
Số hộ có quan hệ vay vốn
1.5.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
1.5.3.1. Nhân tố khách quan.
Điều kiện tự nhiên, khí hậu.
Cho vay nông nghiệp khác với các ngành khác, chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, khí hậu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến mùa màng năng suất và chất lượng nông sản. Qua đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng cho ngân hàng. Điều kiện tự nhiên thuận lợi góp phần vào thắng lợi của sản xuất, còn điều kiện tự nhiên không thuận lợi là nguyên nhân gây thất bại sản xuất trên khu vực rộng lớn. Nếu sản xuất thành công, mang lại thu nhập cho người lao động, mang lại nguồn trả nợ ngân hàng. Sản xuất không thành công, người lao động chịu thiệt hại và ngân hàng cũng khó thu hồi được nợ.
Bên cạnh đó, sản xuất và tiêu thụ hàng hoá giao lưu giữa các vùng, đó là điều kiện để dịch bệnh có điều kiện lây lan và phát tán trên diện rộng. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của sản xuất. Ví dụ dịch cúm gia cầm, dịch bệnh lở mồm long móng ở lợn, dịch bệnh ở tôm. Những dịch bệnh đó đã gây tổn thất lớn cho người chăn nuôi. Họ chưa có khả năng trả nợ ngay cho ngân hàng sau những tổn thất đó.
Môi trường kinh tế xã hội
Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng tới việc cung cấp các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm làm ra. Không có yếu tố đầu vào thì không thể sản xuất. Không có đầu ra cho sản phẩm, người sản xuất không thể thu hồi lại vốn và lãi. Khi không thể sản xuất, khách hàng không đến với ngân hàng do họ không có nhu cầu vốn. Nhưng nếu sản phẩm làm ra không tiêu thụ được thì họ không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Môi trường luật pháp.
Ngân hàng nhà nước thường đưa ra những chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Trong từng thời kì và từng giai đoạn mà những chỉ tiêu này khác nhau. Với những chỉ tiêu khác nhau, chất lượng tín dụng của các ngân hàng được đánh giá khác đi.
1.5.3.2. Nhân tố chủ quan.
Nhân tố thuộc về ngân hàng.
Chất lượng thẩm định và công tác kiểm tra giám sát các khoản vay.
Thẩm định để thấy được tính khả thi của dự án, thấy được tư cách đạo đức, trình độ và khả năng quản lí của khách hàng. Nếu thẩm định kĩ, loại bỏ được những dự án không mang lại hiệu quả kinh tế, hạn chế rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch của khách hàng, đồng thời hạn chế nguy cơ thua lỗ của dự án.
Kiểm tra sau giải ngân giúp ngân hàng kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. Có biện pháp xử lý khi khách hàng làm ăn thua lỗ hay sử dụng không đúng mục đích thoả thuận với ngân hàng, hạn chể tổn thất.
Trình độ cán bộ ngân hàng.
Cán bộ tín dụng là người trực tiếp thẩm định và theo dõi các khoản vay. Nếu cán bộ tín dụng có trình độ và kinh nghiệm đánh giá khách hàng chính xác. Nếu đánh giá không chính xác dẫn tới mất khách hàng tốt và cho khách hàng xấu vay.
Nhân tố thuộc về khách hàng.
Khách hàng là nhân tố ảnh hưởng lớn nhất tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Nếu khách hàng là người có trình độ quản lí, trình độ sản xuất, có đạo đức tốt thì khả năng thu hồi được nợ của ngân hàng cao. Ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại, khách hàng không có trình độ quản lí tốt hay không có trình độ sản xuất hoặc cố tình chây ì, lừa đảo ngân hàng thì ngân hàng khó có khả năng thu hồi nợ.
Chương 2: Thực trạng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Kinh Môn
2.1. Giới thiệu chung về chi nhánh.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển nhanh chóng theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay, ngân hàng đóng vai trò then chốt trong việc phát triển của nền kinh tế. Cùng với sự hội nhập và phát triển của đất nước, ngành ngân hàng luôn phaỉ tự cải tiến hệ thống, nâng cao chất lượng phục vụ để có thể đứng vững và cạnh tranh được với các ngân hàng khác. Ngân hàng nông nghiệp trong điều kiện đó luôn cố gắng đổi mới, cải tổ hệ thống, vươn lên là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam. Với vốn điều lệ là 6200 tỷ đồng và 2200 chi nhánh trên khắp cả nước với mục đích phục vụ tốt nhất cho tất cả khách hàng đặc biệt là nông dân, vì sự phát triển của nông thôn Việt Nam.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Kinh Môn là một trong 2200 chi nhánh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, mục đích tạo lập nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện Kinh Môn, cung cấp các hình thức dịch vụ ngân hàng phục vụ cho nhân dân trong huyện góp phần phát triển kinh tế xã hội của huyện Kinh Môn nói riêng và tỉn Hải Dương nói chung.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Kinh Môn được thành lập theo quyết định 90/QĐ- NHNo-02 ngày 13 tháng 3 năm 1997của giám đốc ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, là chi nhánh ngân hàng cấp hai trực thuộc ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Tiền thân là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Kim Môn, ngân hàng được tách ra cùng với quá trình tách huyện Kim Môn thành hai huyện Kinh Môn và Kim Thành.
Ngân hàng có trụ sở tại thị trấn Kinh Môn huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Trong những ngày đầu thành lập, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn cả và phương tiện kĩ thuật và con người của một huyện miền núi. Cùng với sự quyết tâm và cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên, chi nhánh đã vượt lên những khó khăn đó để trở thành một trong những chi nhánh hoạt động hiệu quả nhất của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Dương.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các phòng ban
Hiện nay chi nhánh có 33 cán bộ công nhân viên, làm việc tại hai phòng và một chi nhánh cấp 3 là: phòng tín dụng, phòng kế toán ngân quỹ và chi nhánh cấp 3 Phúc Thành. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các phòng ban là:
Giám đốc: là người chịu trách nhiệm chỉ đạo điều hành toàn bộ các nghiệp vụ kinh doanh theo thẩm quyền của chi nhánh, đồng thời là người chịu trách nhiệm về quyết định cho vay và thực hiện các công việc sau:
+ Xem xét lại các nội dung thẩm định do phòng tín dụng trình lên, qua đó sẽ quyết định cho vay hay không cho vay, nếu không cho vay nói rõ lí do không cho vay và chịu trách nhiệm về quyết định của mình;
+ Thay mặt ngân hàng kí hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay và các hồ sơ do ngân hàng và khách hàng cùng lập;
+ Có các biện pháp xử lí nợ có vấn đề: cho ra hạn nợ, điều chỉnh kì hạn trả nợ nếu khách hàng không trả được nợ nhưng quyết tâm trả nợ và có phương án phục hồi tốt, chuyển nợ quá hạn, thực hiện các biện pháp xử lí đối với khách hàng đối với khách hàng không có phương án khôi phục sản xuất hay cố tình chây ì dây dưa.
Phó giám đốc phụ trách kinh doanh: thay mặt giám đốc quản lí hoạt động về tín dụng, thẩm định, cho vay, thu nợ.
Phó giám đốc phụ trách kế toán – ngân quỹ : thay mặt giám đốc quản lí công tác kế toán sổ sách của cả chi nhánh.
Phòng kế toán ngân quỹ:
Gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 5 kế toán viên, 3 thủ quỹ.
Trưởng phòng kế toán chịu trách nhiệm chung về công việc của phòng, kiểm soát công việc của kế toán viên.
Kế toán cho vay chịu trách nhiệm thực hiện các công việc sau:
Kiểm tra danh mục hồ sơ pháp lí, hồ sơ vay vốn do phòng tín dụng lập, đã được duyệt trước khi giải ngân.
Sau khi kiểm tra các danh mục hồ sơ, kế toán làm thủ tục phát tiền vay cho khách hàng theo quyết định của giám đốc hoặc người được uỷ quyền.
Theo dõi và hạch toán các nghiệp vụ cho vay, thu nợ, thu lãi, chuyển nợ quá hạn của khách hàng.
Kế toán cho vay tiến hành sao kê hợp đồng tín dụng, sổ vay vốn, sao kê nợ đến hạn, quá hạn cung cấp cho cán bộ tín dụng theo quy định của ngân hàng.
Lưu giữ hồ sơ cho vay của ngân hàng.
Kế toán chuyển tiền: thực hiện chuyển tiền điện tử, thanh toán bù trừ qua mạng, làm thủ tục cho khách hàng rút tiền từ tài khoản, rút tiền từ nơi khách chuyển về, mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
Ngoài ra phòng kế toán còn lưu trữ chứng từ, vào sổ sách kế toán, trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch tài chính. Quản lí và sử dụng các quỹ chuyên dùng.
Phòng kinh doanh
Gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 8 cán bộ tín dụng.
Trưởng phòng tín dụng chịu trách nhiệm về công việc:
Trực tiếp phân công cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn các xã trong huyện, kiểm tra đôn đốc cán bộ tín dụng thực hiện đầy đủ quy chế cho vay của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và hướng dẫn của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
Kiểm tra lại nội dung thẩm định của cán bộ tín dụng,nếu thấy cần thiết sẽ tiến hành tái thẩm định hồ sơ vay vốn đó, gia hạn nợ gốc, lãi, điều chỉnh kì hạn nợ gốc lãi cho khách hàng và ghi ý kiến của mình trên các hồ sơ trên.
Cán bộ tín dụng: chịu trách nhiệm về các khoản vay do mình thực hiện và thực hiện các nhiệm vụ:
Trực tiếp tìm kiếm các dự án, phương án khả thi của khách hàng, là cấu nối tiếp xúc giữa ngân hàng với khách hàng, với cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Thu thập thông tin về khách hàng vay vốn, về khách hàng có nhu cầu và có khả năng là khách hàng của ngân hàng, tìm hiểu về các định mức kinh tế, kĩ thuật có liên quan đến khách hàng. Đồng thời lập hồ sơ kinh tế theo địa bàn phụ trách và hồ sơ khách hàng được phân công; xác định nhu cầu vay theo địa bàn, ngành hàng, mở sổ theo dõi cho vay, thu nợ.
Cán bộ tín dụng là người giải thích các quy định thắc mắc của khách hàng, hướng dẫn khách hàng thực hiện qui định về cho vay và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn theo các quy định của ngân hàng.
Thẩm định các điều kiện vay vốn của khách hàng theo quy định, lập báo cáo thẩm định về khách hàng, cùng khách hàng lập hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay;
Thông báo cho khách hàng biết về quyết định cho vay hay từ chối cho vay sau khi có quyết định của giám đốc hoặc người được uỷ quyền;
Thực hiện kỉêm tra trứơc, trong khi cho vay, sau khi cho vay;
Nhận hồ sơ và thẩm định điều kiện cần thiết để gia hạn nợ gốc, lãi, điều chỉnh kì hạn nợ cho khách hàng có nhu cầu.
Đôn đốc khách hàng trả nợ cho ngân hàng đúng kì hạn và đề xuất biện pháp xử lí khi cần thiết, thực hiện những biện pháp xử lí vi phạm tín dụng theo quyết định của giám đốc hoặc người được uỷ quyền.
Lưu giữ hồ sơ theo quy định của ngân hàng
Ngân hàng cấp 3 Phúc Thành: thực hiện đồng thời các nhiệm vụ của phòng tín dụng và phòng kế toán ngân quỹ tại khu vực bắc và nam An Phụ của huyện Kinh Môn.
Sơ đồ :
GIÁM ĐỐC
CHI NHÁNH CẤP 3 PHÚC THÀNH
PGĐ KẾ TOÁN NGÂN QUĨ
PGĐ KINH DOANH
PHÒNG KINH DOANH
PHÒNG KẾ TOÁN-NGÂN QUĨ
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp Kinh Môn.
2.1.3.1. Huy động vốn.
Hoạt động huy vốn trong 3 năm trở lại đây luôn tăng trưởng với tốc độ cao. Năm 2004, tổng nguồn vốn huy động được là 90,47 tỉ tăng 15,27 tỉ so với năm 2003 tương đương 20,3% về số tương đối.
Năm 2005, tổng nguồn vốn huy động được là 130,41 tỉ tăng 39,94 tỉ so với năm 2004 tương đương tăng 44,1 % về số tương đối.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại NHNo&PTNT Kinh Môn.
Đơn vị: tỉ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Tổng nguồn vốn huy động
92.401
106.09
144.915
Tỉ trọng so với năm 2003(%)
100
114.8
156.8.
Nguồn: phòng kế toán-ngân quĩ NHNo&PTNT Kinh Môn
Cơ cấu nguồn vốn ( theo thời gian)
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn tại NHNo&PTNT Kinh Môn năm 2003-2005
Đơn vị: tỉ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
Tỉ trọng 04/03
2005
Tỉ trọng 05/04
Không thời hạn
20,01
26,854
34.2%
34,324
27.8%
TK có kì hạn<12 tháng
13,811
14,022
1.5%
14,911
6.3%
TK có kì hạn từ 12- 24 tháng
24,849
26,93
8.3%
35,764
32.8%
TK có kì hạn > 24 tháng
33.731
34.111
01.1%
51.153
49.9%
tổng nguồn vốn huy động
92.401
106.09
144.915
36.6%
Nguồn: phòng kế toán-ngân quỹ NHNo&PTNT Kinh Môn
Tiết kiệm có kì hạn <12 tháng chiếm tỉ trọng nhỏ nhất trong tổng nguồn vốn huy động, và có xu hướng tăng qua các năm song không có sự biến động nhiều cả về số tương đối và số tuyệt đối. Năm 2003 tiền gửi dưới 12 tháng đạt 13.811 tỷ đồng, năm 2004 tăng lên 14.022 tỉ đồng và năm 2005 tăng lên 14.911 tỉ đồng, tăng so với năm 2003 là 1.1 tỉ đồng tương đương tăng 7.9%.
Tiết kiệm có kì hạn từ 12 đến 24 tháng và trên 24 tháng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2003, tổng nguồn vốn trên 12 tháng đạt 56.516 tỉ đồng chiếm 61% tổng nguồn huy động, năm 2004 đạt 61.041 tỉ đồng tăng 4.525 tỉ so với năm 2003 tương đương 8%, năm 2005 đạt 86.917 tỉ đồng tăng so với năm 2003 là 30.401 tỷ tương đương 1.53 lần, chiếm 60% tổng nguồn vốn. Đây là nguồn vốn trung và dài hạn, có tính ổn định cao, thuận lợi cho ngân hàng trong quản lí và lập kế hoạch. Song lãi suất của nguồn này thường cao hơn các nguồn khác, dẫn tới chi phí huy động cao hơn.
Tiết kiệm không kì hạn chiếm tỉ trọng tương đối trong tổng nguồn vốn huy động.Năm 2003, tiết kiệm không kì hạn đạt 20.01 tỉ đồng, năm 2004 đạt 26.854 tỷ, tăng so với năm trước là 6.844 tỉ tương đương 34%, năm 2005 đạt 34.324 tỉ tăng so với năm trước là 7.47 tỉ đồng tương đương 27.8%. Đây là tiền gửi chủ yếu từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức trên địa bàn huyện với mục đích dùng để thanh toán là chủ yếu, không có thời hạn xác định. Ưu điểm của nguồn này là lãi suất thấp nên chi phí huy động thấp, song không ổn định khó quản lí, không chủ động trong sử dụng vốn.
Nguồn vốn qua các năm tăng cao là do sự tăng trưởng cao của nguồn tiền gửi không kì hạn và có kì hạn trên 12 tháng.Trong những năm vừa qua các doanh nghiệp tổ chức trên địa bàn huyện luôn mở rộng quy mô, tăng cường hợp tác quan hệ với các đối tác bên ngoài, nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng tăng. Đồng thời do nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, người dân tin tưởng vào sự phát triển ổn định của đất nứơc. Và do ngân hàng trong thời gian qua đã đưa ra mức lãi suất hấp dẫn người gửi tiền
Cơ cấu theo loại tiền
Bảng 3: Tình hình huy đông vốn phân theo loại tiền
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Ngoại tệ(qui đổi)
2,063
4,173
8,763
Nội tệ
90.338
101.917
136.152
Tổng nguồn
92.401
106.09
144.915
Nguồn: phòng kế toán-ngân quĩ NHNo&PTNT Kinh Môn
Nguồn vốn huy động bằng nội tệ chiếm tỉ trọng và quy mô lớn trong các năm(năm 2003 chiếm 97,7% trong tổng nguồn vốn huy động được, năm 2004 chiếm 96%, năm 2005 chiếm 93,9%). Quy mô nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn huy động. Cả hai nguồn này đều có xu hướng tăng nhanh cả về số tuyệt đối và số tương đối. Nguồn vốn nội tệ năm 2003 đạt 90.338 tỷ đồng, đến năm 2004 đạt 101.917 tỷ đồng, năm 2005 đạt 136.152 tỷ đồng tăng so với năm 2003 là 45.814 tỉ tương đương 50.7%. Nguồn vốn huy động bằng tiết kiệm ngoại tệ chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động song nó có vai trò to lớn, góp phần tăng ngoại tệ cho thanh toán quốc tế, dự trữ quốc gia. Trong các năm qua nguồn vốn ngoại tệ tăng đều về số tương đối và tuyệt đối ( 2005 tăng 4,59 tỷ đồng về số tuyệt đối tương đương 109,9% về số tương đối so với năm 2004, 2004 tăng 2,11 tỷ về số tuyệt đối tương đương 102,3% về số tương đối so với năm2003).
Có thể coi đây là những thành công của chi nhánh trong việc huy động vốn. Đây là kết quả của sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ ban lãnh đạo và nhân viên của chi nhánh. Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn, là cơ sở cho các hoạt động khác,coi nguồn vốn bằng nội tệ là chủ yếu nhưng đồng thời chú trọng đến nguồn vốn bằng ngoại tê của các tổ chức kinh tế và dân cư. Chi nhánh luôn cố gắng đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền nhanh chóng và chính xác nhất, đồng thời luôn tư vấn cho khách hàng về các thủ tục, về lãi suất và các kì hạn gửi tiền, giúp khách hàng gửi tiền có sự lựa chọn tốt nhất cho riêng mình, đồng thời tạo niềm tin với khách hàng. Do nắm bắt được thời điểm nguồn vốn nhàn rỗi của nhân dân như sau các vụ mùa hay khi người nhà gửi tiề._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36405.doc