Mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Lời nói đầu Công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước những năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và ổn định, kiềm chế lạm phát ở mức một con số, thị trường trong nước và quốc tế ngày càng được mở rộng… Có được những kết quả này là nhờ một phần không nhỏ vào sự thành công trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam thông qua việc thực hiện tốt chính sách kinh tế mở và tiến hành các biện pháp cải cách kinh tế trên

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ Xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều mặt theo xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá. Nhiều năm trước đây, hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam chưa phát triển đúng với khả năng và phát huy tốt vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế này và một trong những nguyên nhân cơ bản là chúng ta thiếu những nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu trong đó đặc biệt phải kể đến là nguồn tín dụng ngân hàng. Việc phát triển hình thức tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng không chỉ mang lại lợi ích cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội và ngay cả bản thân ngân hàng bởi tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Nhận thức rõ vấn đề đó, từ năm 1997 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam với vai trò là một ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực Đầu tư và Phát triển đã bắt đầu triển khai hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu và bước đầu đã có những thành công nhất định. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và của Sở giao dịch I nói riêng còn nhiều hạn chế, doanh số còn thấp, loại hình dịch vụ này chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, việc thúc đẩy hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu trở thành một đòi hỏi bức xúc đối với Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hiện nay. Trước yêu cầu trên em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Chuyên đề được kết cấu theo 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. chương i Một số vấn đề lý luận cơ bản về nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại i. khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất nhập khẩu trở thành vấn đề quan trọng, thị trường thương mại thế giới mở rộng không ngừng, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư trở thành nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng đủ vốn thu mua chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh ra quan hệ vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của các ngân hàng. Quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp, nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng đem lại cho các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết kỹ thuật và chỗ dựa tài chính trong lĩnh vực quan trọng này. Có thể nói sự ra đời của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu khách quan, gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với nhau. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động hỗ trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú. Vậy ta thử tìm hiểu xem tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là gì? Để hiểu rõ về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu trước hết ta cần biết thế nào là tín dụng? 1.Khái niệm về tín dụng: Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp như: Bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết như sau: Một bên thì trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định. Như vậy chúng ta có thể hiểu tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả lẫn nhau. Theo các nhà kinh tế: tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá. Một định nghĩa khác về tín dụng: Đó là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ hay người cho vay) chu cấp tiền hoặc hàng hoá hoặc dịch vụ dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai ở phía bên kia. Từ các định nghĩa trên ta thấy có yếu tố thời gian vì vậy sẽ có rủi ro, bất trắc và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng tín nhiệm của nhau nên có danh từ tín dụng. 2.Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý, các hành vi tín dụng ngân hàng có cùng một logic kinh tế: hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân hàng đã tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch về pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh, bảo chứng…). Luật ngân hàng các nước định nghĩa tín dụng như sau: “Cấu thành một nghệp vụ tín dụng bất cứ tác động nào mà qua đó, một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng hoặc cam kết bằng chữ ký cho một người này như bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”. Định nghĩa này nêu ra 3 trường hợp: - Cho vay tiền. - Tín dụng dựa trên việc nhượng trái quyền. - Tín dụng chữ ký. Có thể hiểu tổng quát: tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có sự tham gia của các ngân hàng trung gian, đóng vai trò là người trung gian trong hoạt động tín dụng này các ngân hàng sẽ thực hiện hoạt động huy động vốn (vốn này là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế) sau đó sử dụng vốn huy động đó cho vay. Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai thực hiện, chẳng hạn 2 người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian chúng ta thấy một sự chuyên nghiệp đã xảy ra, và ngày nay khi nói đến tín dụng người ta nghĩ ngay tới các ngân hàng. Vì đơn giản đây là một tổ chức có những nghiệp vụ cụ thể, được trang bị hiện đại với sự đáp ứng nhu cầu nhanh nhất. 3.Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu: Tín dụng tài trợ xuất khẩu: là việc cung cấp cho vay để giúp doanh nghiệp thực hiện việc sản xuất, kinh doanh, chế biến hàng xuất khẩu. Mục đích của tín dụng tài trợ xuất khẩu là đẩy mạnh sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu. Đây còn là một kênh tái tạo ngoại tệ để phục vụ hoạt động nhập khẩu của ngân hàng. Tín dụng tài trợ nhập khẩu: là việc cung cấp các khoản vay (ngắn, trung, dài hạn) để giúp doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu cần thiết phục vụ sản xuất kinh doanh. Mục đích của tín dụng tài trợ nhập khẩu là cho vay để giúp các doanh nghiệp nhập nguyên liệu , vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất… II. vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. 1.Sự cần thiết khách quan của hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế. Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không chỉ dựa vào sản xuất trong nước mà còn giao dịch quan hệ với các nước khác. Do khác nhau về điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu… nếu chỉ dựa vào sản xuất trong nước không thể cung cấp đủ hàng hoá, dịch vụ đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ của nền kinh tế mà phải nhập những mặt hàng cần thiết như nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất với chi phí cao hơn. Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi thế kinh tế vốn có, nền kinh tế ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước còn có thể tạo nên thặng dư có thể xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng ngoại tệ cho đất nước để nhập khẩu các mặt hàng còn thiếu và để trả nợ. Như vậy, do nhu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi, giao dịch hàng hoá giữa các nước với nhau hay nói cách khác hoạt động xuất nhập khẩu là yêu cầu khách quan của nền kinh tế. 2.Vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước. 2.1. Đối với nền kinh tế đất nước Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho hàng hoá xuất nhập khẩu lưu thông trôi chảy. Thông qua tài trợ của ngân hàng, hàng hoá XNK theo yêu cầu của thị trường được thực hiện thường xuyên, liên tục đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế. Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế. Doanh nghiệp có sự giúp đỡ của ngân hàng có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá trang thiết bị làm tăng năng suất lao động. Doanh nghiệp phát triển chính là kinh tế đất nước phát triển. Đối với ngân hàng thương mại Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại là hình thức tài trợ thương mại, kỳ hạn gắn liền với thời gian thực hiện từng thương vụ, đối tượng tài trợ là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc uỷ thác. Giá trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn. Tài trợ ngân hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu là hình thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh, bởi vì: Thời gian tài trợ ngắn hạn do gắn với thời gian thực hiện thương vụ. Kỳ hạn tài trợ ngắn phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các ngân hàng thương mại thường là dưới một năm. Điều này giúp ngân hàng tránh rủi ro về thanh khoản. Tài trợ xuất nhập khẩu đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích. Trong nhiều trường hợp, vốn tài trợ được thanh toán thẳng cho bên thứ ba mà không qua bên xin tài trợ như thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý gom hàng cho người xuất khẩu… Rõ ràng việc làm này tránh được tình trạng người xin tài trợ sử dụng vốn sai mục đích, hạn chế rủi ro tín dụng. Tài trợ xuất nhập khẩu nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Đối với người xuất khẩu, khi ngân hàng chuyển bộ chứng từ giao hàng để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài đã chỉ định việc thanh toán phải thông qua tài khoản của người xuất khẩu mở tại ngân hàng. Đối với người nhập khẩu, trong trường hợp có tài trợ, ngân hàng sẽ buộc người nhập khẩu tập trung tiền bán hàng vào tài khoản mở tại ngân hàng. Do vậy nguồn thu để trả các khoản tài trợ được ngân hàng quản lý hết sức chặt chẽ, tránh được tình trạng quay vòng vốn của doanh nghiệp trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy ra rủi ro. Hiệu quả của ngân hàng trong tài trợ xuất nhập khẩu thể hiện qua lãi suất. Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ: lãi cho vay thanh toán, lãi chiết khấu chứng từ, lãi vay bắt buộc (bằng mức lãi quá hạn)… Tiền thu lãi cao thường vì giá trị tài trợ ở mức vừa và lớn. Ngoài ra, thông qua tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng còn mở rộng được mối quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế. Đối với doanh nghiệp Nhờ sự giúp đỡ của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng thời hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Tài trợ xuất nhập khẩu làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá hạ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng làm giảm rủi ro của hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu thường diễn ra ở hai nước khác nhau. Do vậy, sự hiểu biết giữa người mua và người bán không được đầy đủ, chính xác. Nhờ sử dụng tín dụng ngân hàng, Nhà nhập khẩu và xuẩt khẩu sẽ yên tâm nhận đúng số tiền, hàng của mình thông qua các ngân hàng trung gian đứng ra bảo đảm. Đặc biệt, nhờ tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn. Vốn tài trợ của ngân hàng kịp thời, đúng lúc giúp cho doanh nghiệp đảm bảo thực hiện theo hợp đồng từ đó làm cho uy tín của doanh nghiệp được nâng cao trên thị trường thế giới. Tín dụng xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại dựa vào 3 nguyên tắc cơ bản: - Sử dụng vốn vay đúng mục đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Phải hoàn trả nợ gốc và tiền lãi đúng hạn đã thoả thuận. - Tiền vay phải có tài sản tương đương bảo đảm. Cùng với sự phát triển của ngoại thương, nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ngày càng gia tăng. Nó đòi hỏi ngân hàng ngày càng phải hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ tín dụng đáp ứng nhu cầu của các nhà xuất nhập khẩu và sự biến động của nền kinh tế. Ngân hàng cần nắm bắt được nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu để có thể đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và mở rộng hoạt động của mình. Chính từ nhu cầu của các doanh nghiệp mà tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng có một vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. 3.Mối quan hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu với hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng thương mại: 3.1. Khái quát về kinh doanh đối ngoại của ngân hàng thương mại: Kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt. Chất liệu kinh doanh chủ yếu của loại hình này là “quyền sử dụng các khoản tiền tệ”. Nền kinh tế càng phát triển, kinh doanh ngân hàng càng phát triển với nội dung đa dạng và phong phú hơn, mặc dù các hoạt động kinh doanh đó vẫn dựa trên cơ sở kinh doanh quyền sử dụng tiền tệ. Một trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có nguồn gốc xa xưa đó là hoạt động thanh toán hộ khách hàng. Hoạt động thanh toán hộ cho khách là cơ sở cho hoạt động tín dụng ngày nay. Khi khách hàng thiếu tiền, ngân hàng sẽ đứng ra thanh toán hộ và khoản trả hộ đó sẽ là khoản vay của khách hàng. Thanh toán và tín dụng là hai hoạt động chủ yếu của một ngân hàng thương mại, nó là nền tảng của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Bên cạnh hoạt động cho vay và thanh toán, kinh doanh ngân hàng còn phát triển nhiều dịch vụ khác để thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế như bảo lãnh, kinh doanh tiền tệ, tư vấn, chuyển tiền hộ cho khách, cho thuê các phương tiện giữ tiền, kinh doanh chứng kkhoán… Ngoài các hoạt động dựa trên đồng nội tệ, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế liên quan đến đồng ngoại tệ. Hoạt động ngân hàng quốc tế gồm rất nhiều hình thức như thanh toán quốc tế, bảo lãnh vay, trả nợ nước ngoài, tài trợ xuất nhập khẩu, tham gia vào thị trường ngoại hối, tín dụng quốc tế… Thực chất hoạt động ngân hàng quốc tế cũng là các hoạt động kinh doanh tiền tệ đã nêu ở trên nhưng với phạm vi mở rộng khỏi biên giới quốc gia và hoà nhập, giao dịch với các ngân hàng khác trên thế giới. 3.2. Mối quan hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu với hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng Thương mại Trong hoạt động xuất khẩu cũng diễn ra quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá như các ngành kinh tế với mục đích cuối cùng là thực hiện giá trị hàng hoá. Nó chỉ có điểm khác biệt là việc mua bán diễn ra giữa các đối tác có quốc tịch khác nhau, hàng hoá được vận chuyển từ nước này sang nước khác, đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ. Chính vì vậy khâu cuối cùng của hoạt động xuất nhập khẩu là khâu thanh toán cũng có những điểm khác với thanh toán trong nước thực hiện trên cơ sở sau: Người xuất khẩu và người nhập khẩu ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương trong đó quy định các điều kiện về thanh toán quốc tế: - Điều kiện về thời gian. - Điều kiện về địa điểm. - Điều kiện về phương thức thanh toán. Trên cơ sở đó, người xuất khẩu sẽ tiến hành giao hàng, sau đó sẽ ký phát hối phiếu, séc của người nhập khẩu gửi đến ngân hàng nước mình nhờ thu hộ tiền ghi trên các phương tiện thanh toán đó. Các ngân hàng này chuyển các phương tiện thanh toán đến các ngân hàng nước nhập khẩu để thu hộ. Như vậy, cơ sở để hình thành hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng thương mại là hoạt động ngoại thương. Nói đến ngoại thương là nói đến thanh toán quốc tế. Nếu thanh toán quốc tế được thực hiện tốt thì giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu mới được thực hiện tốt, thúc đẩy tài trợ ngoại thương góp phần không nhỏ cho việc đưa ngoại thương phát triển và là yếu tố quan trọng để đánh giá quan hệ kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của một quốc gia. Iii. các hình thức và quy trình tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Để thu hút khách hàng mỗi ngân hàng bên cạnh việc thực hiện theo đúng quy định của pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình. Đối với hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực của mình cùng với mục tiêu thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân tán rủi ro các ngân hàng cũng lựa chọn các hình thức tín dụng khác nhau đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu tài chính. Ngân hàng đã trở thành một người bạn đồng hành không thể thiếu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 1. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu: Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các cơ sở xuất khẩu dưới các hình thức sau: 1.1. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ. Sau khi lập xong bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm… nhà xuất khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuất khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện D/P) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A). Tuy vậy, thời gian để có tiền thanh toán do nhà nhập khẩu trả làm cho xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời. Nhà xuất khẩu lúc này có thể yêu cầu ngân hàng đáp ứng một phần giá trị bộ chứng từ nhờ thu làm đảm bảo. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết khấu chứng từ nhưng có một số điểm cần phân biệt như sau: Ngân hàng không cho vay toàn bộ giá trị hối phiếu mà chỉ đáp ứng trước một phần. Nhà xuất khẩu không phải chịu tỷ lệ chiết khấu 10% chi phí hối phiếu như chiết khấu vì nhà xuất khẩu chỉ cần một phần giá trị hối phiếu. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu từng phần, nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ ngắn hạn phục vụ nhu cầu tiền mặt tạm thời. 1.2. Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ. Trong hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, nhà xuất khẩu là người được hưởng lợi. Khi có toàn bộ chứng từ thanh toán trong tay, nhà xuất khẩu có thể sử dụng L/C để thế chấp mở L/C khác cho người hưởng lợi khác (L/C giáp lưng) hoặc nhà xuất khẩu có thể đến các ngân hàng thanh toán để chiết khấu các hối phiếu của bộ chứng từ thư tín dụng, ngoài ra với một L/C cho phép bán lại chứng từ đòi tiền nhà nhập khẩu hoặc dưới dạng chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu một thư tín dụng trả chậm thì nhà xuất khẩu có thể nhận được một khoản tín dụng từ ngân hàng. Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ khi sử dụng L/C điều khoản đỏ, nhà xuất khẩu sẽ có một khoản tiền ứng trước của nhà nhập khẩu vào thời điểm xác định trước khi xuất trình toàn bộ chứng từ hàng hoá, các điều khoản ứng trước thường được quy định trong một điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện. Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hay ngân hàng xác nhận cấp cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu chịu chi phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng trước, vật bảo đảm của nhà xuất khẩu khi nhận tiền ứng trước. Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước cùng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù hợp). Nếu nhà xuất khẩu vì một lý do nào đó không xuất trình được chứng từ phù hợp với điều kiện của L/C, các ngân hàng cũng có quyền đòi số tiền này ở ngân hàng mở L/C. 1.3. Tín dụng chiết khấu hối phiếu. ở hình thức này ngân hàng mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán tức là mua lại các khoản nợ phải đòi. Lượng tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng là giá trị hối phiếu sau khi trừ đi chi phí chiết khấu và các khoản lệ phí…Chi phí chiết khấu được xác định theo công thức: Tck = M *(1- Lck * t ) – P 36.000 Tck: Giá trị chiết khấu M: mệnh giá hối phiếu P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu Lck: lãi chiết khấu Trong các yếu tố trên, người ta quan tâm nhất đến lãi suất chiết khấu, tỷ lệ này phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thời hạn thanh toán, hình thức và giá trị hối phiếu. Với hình thức này, ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản tín dụng cung ứng. Đối với nhà nhập khẩu thì có ưu điểm đó là khả năng truy đòi được khoản tiền chiết khấu khi hối phiếu không được thanh toán vào ngày đến hạn. Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước, đây là loại tín dụng thông thường nhất trong hoạt động ngoại thương. Quy trình chiết khấu hối phiếu: Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu 1 2 10b 3 4 7 8 10 Ngân hàng nhà NK Ngân hàng nhà XK 10a 10a 10a 5 6 9 10 Ngân hàng Trung ương ở nước nhà xuất khẩu Chú thích: Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối phiếu đòi nợ tới nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối phiếu. Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào tài khoản của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi chi phí chiết khấu và lệ phí nhờ thu). Ngân hàng xuất khẩu đem hối phiếu đến Ngân hàng Trung ương để tái chiết khấu và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu. Khi tới hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị thanh toán. Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị thanh toán. Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài khoản của mình. Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi Có vào tài khoản ở Ngân hàng Trung ương, chi phí hối phiếu sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu đã được thực hiện. Trường hợp nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán, nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho ngân hàng của mình từ đó hối phiếu được chuyển đến Ngân hàng Trung ương. 10a. Ngân hàng Trung ương truy đòi ngân hàng nhà nhà xuất khẩu hoặc có thể truy đòi trực tiếp nhà xuất khẩu. 10b. Mọi vấn đề nhà xuất khẩu phải tự giải quyết với nhà nhập khẩu. Đối với hình thức tín dụng này, vai trò của Ngân hàng Trung ương hết sức quan trọng. Việc tái chiết khấu của Ngân hàng Trung ương tạo điều kiện thu hồi vốn cho các tổ chức tín dụng đặc biệt vào thời điểm phải đảm bảo dự trữ bắt buộc. Một điều lưu ý ở đây là các hỗi phiếu muốn được chiết khấu phải đáp ứng một số điều kiện nhất định về thời hạn thanh toán, khả năng thanh toán… 1.4. Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá. Ngân hàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự chiết khấu hối phiếu. Lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu. Có 2 loại: Chiết khấu có truy đòi: Ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, nếu không được bên nước ngoài thanh toán sẽ quay lại đòi nhà xuất khẩu --> lãi suất thấp. Chiết khấu miễn truy đòi: ngân hàng sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro nếu bên nước ngoài không thanh toán, ngân hàng sẽ không có quyền đòi lại tiền của khách hàng. 1.5. Cho vay thông thường Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để họ sử dụng trong thời gian nhất định. Khi hết hạn người vay phải trả đủ cả gốc và lãi. Cho vay thông thường là hình thức tín dụng cơ sở cho các hình thức tín dụng khác ra đời và phát triển. Ngân hàng sử dụng dưới hai hình thức: cho vay ngắn hạn(<12 tháng) và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường áp dụng đối với những yêu cầu về vốn tạm thời để trang trải những nhu cầu sinh hoạt còn cho vay dài hạn để cung cấp tiền đầu tư vào máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng… Thông thường, các nhà xuất nhập khẩu vay ngắn hạn để chi trả tiền lương, chi phí vận chuyển, thu mua hàng xuất khẩu, trả tiền hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp lại sử dụng tín dụng dài hạn để mua sắm trang thiết bị hiện đại, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Hình thức này có 2 ưu điểm chính sau: Cho vay theo phương thức này được áp dụng trong mọi lĩnh vực, mọi đối tượng, mọi cá nhân trong nền kinh tế khi có nhu cầu đều có thể đến ngân hàng để xin được cấp vốn. Sau khi xem xét hồ sơ thấy khách hàng có đủ mọi yêu cầu trong nguyên tắc tín dụng ngân hàng đều có thể tiến hành cho vay. Cho vay theo phương thức này bao giờ cũng phải có tài sản để bảo đảm cho món vay. Vì vậy nói chung khản vay khá an toàn. Tuy nhiên, hình thức này còn có nhược điểm là: Khó khăn trong việc định giá tài sản tài chính, đặc biệt là khi bán chúng vì giá cả thị trường thường xuyên biến động, hàng hoá, tài sản có thể bị hỏng hóc, mất mát. Có hai hình thức mới phát triển trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu là thanh toán “factoring” và thanh toán “forfaithing”: Factoring là một hình thức tài chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt động mua bán những khoản thanh toán chưa đến hạn và ngắn hạn từ các hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Đặc điểm nổi bật của nghiệp vụ này là tính miễn truy đòi tương đối đối với nhà nhập khẩu hoặc người sở hữu trước đó nếu các chứng từ là bằng chứng cho các khoản nợ không được thanh toán khi đến hạn. Khác với hoạt động mua lại chứng từ thanh toán, hoạt động factoring không sử dụng các tín dụng thư cũng như hối phiếu. Để có thể chào khách hàng bằng cách tài trợ này, gần như tất cả các ngân hàng tiến hành lập cơ sở đặc biệt, chuyên dụng vì factoring không phải là nghiệp vụ ngân hàng. Hoạt động factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời điểm. Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng được những điều kiện sau mới được phép mua bán: Những khoản thanh toán phải tồn tại một cách hợp pháp. Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những khoản thanh toán này. Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày. Những khoản thanh toán phải đủ tư cách pháp lý độc lập với quyền của người thứ ba. Không có việc cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập khẩu hoặc nước nhập khẩu. Forfaithing: kỹ thuật factoring được chuyên môn hoá cao gọi là forfaithing. Về cơ bản nghiệp vụ này giống nghiệp vụ factoring ở những đặc điểm sau: Forfaithing chỉ bao gồm những khoản thanh toán cụ thể, riêng lẻ trong toàn bộ quá trình xuất nhập dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu nói riêng. Thời hạn thanh toán của forfaithing là trung và dài hạn, áp dụng với loại tiền tệ có khả năng chuyển đổi mạnh USD, DEM… Factoring phục vụ xuất nhập khẩu không sử dụng tới chứng từ còn forfaithing dựa vào chúng và sự đảm bảo của ngân hàng. 2. Các hình thức tín dụng tài trợ nhập khẩu Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới các hình thức như cho vay mở L/C, tín dụng chấp nhận hối phiếu… Cho vay mở L/C Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi họ xuất trình toàn bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C. Quy trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ: Nhà nhập khẩu Nhà xuất khẩu (4) (3) (5) (1) (8) Ngân hàng thông báo Ngân hàng phát hành L/C (2) (6) (7) Chú thích: Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gởi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng. Căn cứ vào đơn xin mở L/C ngân hàng mở L/C sẽ lập L/C và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước xuất khẩu thông báo việc mở L/C tới nhà xuất khẩu. Sau khi nhận được thông báo, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho nhà xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hợp đồng. Sau khi giao hàng nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh toán. Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu cầu thanh toán cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng phát hành kiểm tra toàn bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu, nếu thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu sau khi nhận tiền thanh toán. Ngày nhận nợ và tính lãi cho vay mở L/C là ngày nhà nhập khẩu phải thanh toán cho nhà xuất khẩu (ngày đến hạn thanh toán L/C). Đối với nhà nhập khẩu việc mở thư tín dụng đã thể hiện việc ngân hàng cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu vì mọi thư tín dụng đều do ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu. Nhưng thực tế không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Vì vậy ngân hàng mở L/C phải gánh chịu mọi rủi ro khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đến hạn trả tiền. Khi ngân hàng mở L/C trả chậm cho nhà nhập khẩu, ngân hàng đã gián tiếp cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu vì khi có sự chấp nhận bảo lãnh trả tiền của ngân hàng thì nhà xuất khẩu mới đồng ý cho nhà nhập khẩu mua chịu hàng hoá. Nếu nhà nhập khẩu sử dụng vốn tự có để mở L/C đến hạn thanh toán với bên nước ngoài mà nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì họ phải nhận nợ với ngân hàng và chịu lãi suất phạt bằng 150% lãi suất cho vay. Do vậy nhà nhập khẩu thường sử dụng việc vay để mở L/C trên cơ sở hợp đồng đã ký. Khi mở L/C cho nhà nhập khẩu, nếu ngân hàng khống chế số dư có trên tài khoản của khách hàng thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của họ do khoảng cách giữa thời gian mở L/C và thời gian nhận hàng tương đối dài. Vì vậy, để hạn chế r._.ủi ro ngân hàng thường cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng phải kiểm tra khả năng kinh doanh của nhà nhập khẩu, tình hình tài chính, đối tượng nhập khẩu… để có cơ sở vững chắc trước khi mở L/C. Tín dụng chấp nhận hối phiếu Đây là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng dành cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng cam kết chấp nhận các hối phiếu mà khách hàng của mình phải thanh toán. Như vậy, nhà xuất khẩu sẽ được đảm bảo thanh toán khi đến hạn. Hình thức này thường được sử dụng khi người bán thiếu tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua và họ đề nghị bên mua có một ngân hàng đứng ra chấp nhạn trả tiền hối phiếu do họ ký phát. Đây chỉ là một hình thức bảo đảm về mặt tài chính cho nhà nhập khẩu. Nếu đến hạn thanh toán, người mua có đủ tiền thanh toán thì ngân hàng được nhận một khoản phí chấp nhận, thật sự ngân hàng không phải ứng tiền ra. Ngược lại, nếu đến hạn thanh toán mà người mua không có khả năng thanh toán thì ngân hàng phải gánh chịu thiệt hại. Tín dụng chấp nhận hối phiếu đem lại rất nhiều ưu điểm cho hoạt động xuất nhập khẩu: Đối với nhà xuất khẩu, với sự chấp nhận của nhà nhập khẩu, họ có sự bảo đảm chắc chắn về khả năng thanh toán của hối phiếu và họ có thể đem hối phiếu đi chiết khấu lại tại bất kỳ ngân hàng nào. Sự chấp nhận của ngân hàng đã tạo ra khả năng lưu thông cho hối phiếu đồng thời cũng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu được hưởng tỷ lệ chiết khấu ưu đãi. Đối với nhà nhập khẩu, với hình thức này anh ta sẽ tạo được uy tín đối với nhà xuất khẩu nếu nhà nhập khẩu có đủ khả năng thanh toán cho nhà xuất khẩu khi đến hạn. Mặt khác, nhà nhập khẩu cũng có thể đem chiết khấu hối phiếu tại một ngân hàng khác có tỷ lệ chiết khấu thấp hơn và từ khoản thu chiết khấu này nhà nhập khẩu có được mức giá mua ưu đãi nếu thanh toán trước hạn. 2.3. Tín dụng chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ (kỳ phiếu) Hối phiếu tự nhận nợ là dạng hối phiếu khống trong đó ngân hàng tự nhận nợ đối với nhà nhập khẩu. Thông qua hối phiếu này, ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu một khoản tín dụng đạ biệt gọi là tín dụng chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ. Hình thức này giúp cho các nhà nhập khẩu hưởng một khoản ưu đãi do việc thanh toán nhanh trong giao dịch ngoại thương khi ngân hàng phục vụ họ không có đủ vốn. Quy trình chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ: Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu (1) (2) Ngân hàng chi nhánh Ngân hàng nhà xuất khẩu (2) (5) (6) (3) (4) (8) (9) (10) Ngân hàng Trung ương Chú thích: Nhà nhập khẩu ký hợp đồng với nhà xuất khẩu với điều kiện thanh toán khi giao chứng từ. Nhà nhập khẩu có thời gian 90 ngày để chi. Nhà nhập khẩu ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ. Để thực hiện hợp đồng tín dụng này, ngân hàng nhà nhập khẩu thông báo và đề nghị một ngân hàng nước ngoài (phần lớn là ngân hàng chi nhánh của họ) phát hành một hối phiếu tự nhận nợ có thời hạn thanh toán là 90 ngày và được phép thanh toán tại ngân hàng nhà nhập khẩu và chuyển ngay hối phiếu cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng chi nhánh thực hiện đề nghị trên (phát hành hối phiếu tự nhận nợ và chuyển cho nhà nhập khẩu) Nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu tự nhận nợ cho chính ngân hàng phục vụ mình và đề nghị cung cấp hối phiếu. Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ và ghi có vào tài khoản cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu thực hiện thanh toán theo đúng kỳ hạn cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu đem hối phiếu giao cho ngân hàng Trung ương. Đến thời hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương xuất trình hối phiếu cho ngân hàng nước ngoài đề nghị thanh toán. Ngân hàng chi nhánh ở nước ngoài chấp nhận thanh toán trên cơ sở chuyển vốn từ ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu hoặc từ tiền mà nhà nhập khẩu trả. 2.4. Tín dụng ứng trước cho nhà nhập khẩu Với hình thức này, ngân hnàg sử dụng các chứng từ hàng hoá làm vật đảm bảo. Nhà nhập khẩu được cung cấp tín dụng theo hình thức ứng trước khi họ cần phải thanh toán tiền mặt cho nhà xuất khẩu hoặc khi nhà nhập khẩu cần thnah toán bộ chứng từ hàng hoá chưa về đến cảng và doanh nghiệp chưa tiêu thụ được hàng hoá để thu hồi vốn, hình thức này được ngân hàng áp dụng cho mục đích thanh toán ngắn hạn của nhà nhập khẩu. 2.5. Tín dụng theo hiệp định khung: Đây là một hình thức tín dụng dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài nhằm hỗ trợ cho việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của các nước xuất khẩu. Tín dụng theo hiệp định khung là một hình thức tín dụng có điều kiện, các ngân hàng nước xuất khẩu ký kết một hiệp định khung với các ngân hàng nước ngoài cho phép các ngân hàng này sử dụng những khoản tín dụng riêng rẽ nhằm tài trợ cho việc nhập khẩu hàng hoá, máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ từ nước họ (ít nhất 60% giá trị hàng hoá mua bán được sản xuất hoặc có xuất xứ từ nước tài trợ). Hình thức này được các nước phát triển sử dụng để cung cấp tín dụng cho các nước đang phát triển. Đây là một hình thức có nhiều ưu điểm: Đối với nhà xuất khẩu: Họ có điều kiện cạnh tranh với đối thủ nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà nhập khẩu, hàng hoá của họ sẽ được ưa chuộng hơn. Hạn chế được những rủi ro kinh tế, chính trị ở nước ngoài, đặc biệt họ giữ được khả năng tài chính của mình. ổn định cán cân thanh toán. Đối với nhà nhập khẩu: Họ có nhiều thuận lợi, có thể thanh toán từng phần công trình, máy móc thiết bị đã nhập khẩu, đặc biệt có thể sử dụng phần lợi nhuận từ việc tiêu thụ sản phẩm do các máy móc thiết bị nhập khẩu sản xuất ra để thanh toán. Ưu điểm là hình thức tín dụng này thường có thời gian dài, nhà nhập khẩu sẽ dễ dàng thu xếp được khả năng tài chính để thanh toán. Đặc điểm của lãi suất cho vay là có thể sử dụng lãi suất thả nổi hoặc lãi suất cố định. Ngoài ra còn có một khoản phí suất tín dụng bao gồm: - Phí bảo hiểm: Được tính một lần trên giá trị khoản vay. Nếu do người nhập khẩu trả thì có thể được ngân hàng nước nhập khẩu xem xét cho vay thanh toán một lần trước khi giải ngân hoặc trả dần suốt thời gian vay. - Phí cam kết: Được tính theo tỷ lệ % trên doanh số vốn vay còn lại chưa được giải ngân. - Phí quản lý: Tính theo tỷ lệ % trên giá trị hợp đồng vay vốn và phải được thanh toán trước khi giải ngân. Nếu chọn lãi suất cố định thì chỉ phải trả hai loại phí bảo hiểm và phí cam kết, nếu sử dụng lãi suất thả nổi thì phải trả cả ba loại phí trên. 2.6. Tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp Nhà nhập khẩu sau khi ký hợp đồng mua bán với nhà xuất khẩu nếu họ không có đủ tiền thì có thể xin vay ngân hàng theo phương thức đề nghị ngân hàng chuyển trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng đại lý ở nước ngoài. Trong trường hợp nhà nhập khẩu đủ khả năng thanh toán, họ sử dụng hình thức chuyển tiền thì ngân hàng chỉ thực hiện hình thức dịch vụ thông thường và thu phí. Quy trình tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp: Ngân hàng nhập khẩu Ngân hàng đại lý (3) Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu (5) (2) (6) (4) (1) Chú thích: Giao dịch hàng hoá giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu. Nhà nhập khẩu viết đơn yêu cầu chuyển tiền. Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý. Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng đại lý phải hoàn thành việc chuyển tiền. Ngân hàng nhập khẩu báo nợ cho nhà nhập khẩu. Thông thường sau khi nhận hàng hoá ngân hàng đại lý mới chuyển tiền để tránh bị nhà xuất khẩu chiếm dụng vốn. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, ngành ngân hàng trên thế giới đã áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động của mình. Chính vì vậy mà có nhiều hình thức tín dụng còn rất xa lạ đối với chúng ta. Tuy nhiên hy vọng rằng trong tương lai không xa, chúng ta sẽ áp dụng tất cả những nghiệp vụ dụng những công nghệ hiện đại trong hệ thống ngân hàng góp phần đáp ứng nhu cầu tài chính nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất. 2.7. Bảo lãnh Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng..). Từ đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro. Trong ngoại thương, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm rõ khả năng tài chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu, do vậy nhà xuất khẩu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Ngân hàng bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng chứng từ… Trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó với bên nước ngoài. Bảo lãnh có nhiều hình thức khác nhau: - Phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài. - Mở L/C trả chậm - Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận hối phiếu. - Lập giấy cam kết trả nợ nước ngoài. - V..v.. Đối với tái bảo lãnh thì phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài. Các lợi thế của các bên trong nghiệp vụ này: Đối với nhà nhập khẩu: được hưởng một khoản vốn từ nhà xuất khẩu không phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính vào lãi rồi). Chỉ phải trả một khoản phí cho người bảo lãnh. Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm đến hạn sẽ được thanh toán nợ. Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại ngân hàng khác. Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất cứ ngân hàng nào khi tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh có nghĩa là có được sự tín nhiệm về uy tín của bên nhập khẩu và bên xuất khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chi cho vay trừu tượng, nghĩa là ngân hàng không phải bỏ ra một khoản vốn nào cả mà chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng làm cơ sở cho vay. Thủ tục bảo lãnh theo phương thức cho vay thông thường, nghĩa là khi bảo lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin bảo lãnh, nếu nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán thì phải làm thủ tục vay tại ngân hàng, khoản tín dụng này là tín dụng bắt buộc. iv. các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại việt nam hiện nay. Do nền kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng của Việt Nam hiện nay còn đang ở trình độ phát triển thấp, trình độ và kinh nghiệm của cán bộ ngân hàng còn hạn chế. Do vậy, ở Việt Nam hiện nay mới chỉ áp dụng một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu sau: 1. Về tài trợ xuất khẩu. Hiện nay để tài trợ xuất khẩu các ngân hàng thương mại thường cho vay bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ để thu mua hàng xuất khẩu. Tài trợ xuất khẩu hiện nay được áp dụng cụ thể dưới các hình thức sau: 1.1. Tài trợ vốn lưu động: Hình thức này giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng. Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng thông thường được áp dụng trong trường hợp Ngân hàng tài trợ vừa là Ngân hàng thanh toán cho L/C xuất, nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ và được thanh toán tại ngân hàng. Để giám sát và kiểm soát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay đúng mục đích, thông thường Ngân hàng thực hiện tài trợ như sau: Khi vay ngân hàng yêu cầu nhà nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất định cộng thêm với số tiền vay ngân hàng để thu mua hàng hoá, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để tiếp tục vay và được nhập tại kho ngân hàng hoặc nhập kho mà trước đó ngân hàng và nhà xuất khẩu thoả thuận và đồng ý, dưới sự giám sát của ngân hàng, muốn xuất hàng ra khỏi kho phải có sự đồng ý của ngân hàng. Ngân hàng tiếp tục cho vay, khách hàng sẽ dùng số tiền Ngân hàng tài trợ để đi mua hàng, chế biến sản xuất hàng hoá tiếp tục cứ như vậy cho đến khi bằng 100% giá trị hàng xuất. Thông thường ngân hàng chỉ tài trợ khoảng 70% giá trị lô hàng xuất khẩu. Sau khi giao hàng xong, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ phù hợp với những điều kiện quy định trong L/C nộp vào ngân hàng để xin thanh toán tiền. Trên hối phiếu đòi nợ thì ngân hàng sẽ là người hưởng lợi trực tiếp trên hối phiếu. Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ hợp lý chuyển ra nước ngoài đòi nợ ngân hàng mở L/C. Khi nhận được điện chuyển tiền từ phía ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo L/C ghi Có trên tài khoản cho vay để thu nợ. Trường hợp giữa ngân hàng mở và ngân hàng thông báo L/C là đại lý có mở tài khoản tiền gửi cho nhau, việc thực hiện thanh toán bộ chứng từ để thu nợ được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng nên ngân hàng có thể tài trợ mức lãi suất ưu đãi thấp hơn mức lãi suất bình thường. Khi ngân hàng tài trợ không phải là ngân hàng thông báo cũng không phải là ngân hàng thanh toán, rủi ro có thể xảy ra nếu như sau khi được tài trợ doanh nghiệp không xuất được hàng hoặc xuất được hàng nhưng lại gặp rủi ro trong giao nhận hay thanh toán, hoặc khách hàng không dùng số tiền trên vào mục đích xuất hàng như đã cam kết vay với ngân hàng. 1.2. Tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất khẩu Từ lúc giao hàng, nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C cho đến khi được ghi Có trên tài khoản phải trải qua một khoảng thời gian nhất định để xử lý và luân chuyển chứng từ. Nhà xuất khẩu cần tiền có thể thương lượng bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng trước tiền tại ngân hàng đã được chỉ định rõ trong L/C hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào. Hình thức tài trợ này được tiến hành sau khi giao hàng. Để đảm bảo cho khoản tín dụng thu hồi nợ dễ dàng nhanh chóng, ngân hàng thương mại thường yêu cầu các L/C xuất của khách hàng phải được thông báo qua ngân hàng, ngân hàng tài trợ vừa là ngân hàng thông báo hoặc vừa là ngân hàng thanh toán L/C, được thể hiện qua các hình thức sau: - Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu: Khi chiết khấu bộ chứng từ phải hoàn hảo và xuất trình đúng thời gian quy định. Ngân hàng mở L/C phải có uy tín trên thị trường quốc tế và có quan hệ giao dịch thường xuyên với ngân hàng chiết khấu. Tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp ổn định và đảm bảo khả năng thanh toán, có uy tín với ngân hàng. Số tiền chiết khấu phải nằm trong hạn mức tín dụng. Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ phía khách hàng, ngân hàng thẩm định về mục đích vay, tình hình tài chính, khả năng thanh toán… Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ một cách cẩn thận và hợp lý bởi vì nếu bộ chứng từ không hợp lý có thể bị từ chối thanh toán, ngân hàng khó thu hồi nợ. Ngân hàng kiểm tra sự phù hợp trên bề mặt chứng từ so với các điều kiện, điều khoản đã ghi trong L/C. Ngân hàng xem xét quyết định tỷ lệ chiết khấu hiện nay vào khoảng 90% giá trị L/C xuất. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ từng ngân hàng, từng trường hợp cụ thể sẽ quyết định một tỷ lệ chiết khấu. Có hai hình thức chiết khấu: Chiết khấu truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu có quyền đòi tiền nếu bộ chứng từ không được thanh toán. Chiết khấu miễn truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi thanh toán cho nhà xuất khẩu không có quyền truy đòi tiền nếu bộ chứng từ không được thanh toán. Hiện nay đa số ngân hàng thực hiện chiết khấu truy đòi. - ứng trước tiền thanh toán tiền hàng xuất khẩu: Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ điều kiện chiết khấu, có những sai sót ngân hàng không đồng ý chiết khấu thì nhà xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước tiền hàng. Thông thường tỷ lệ ứng trước khoảng 50 – 60% giá trị hàng xuất. Ngân hàng thực hiện thu nợ bằng cách gửi bộ chứng từ ra nước ngoài để đòi nợ, trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi chứng từ đòi tiền mà không nhận được báo Có của ngân hàng nước ngoài, ngân hàng tự động ghi Nợ tài khoản tiền gửi của khách hàng. Nếu trên tài khoản của khách hàng không đủ tiền trong vòng 7 ngày làm việc ngân hàng sẽ chuyển số tiền chiết khấu hoặc ứng trước sang nợ quá hạn. Khi được thanh toán từ phía ngân hàng nước ngoài sẽ thực hiện khấu trừ trực tiếp khoản tiền vay cùng các chi phí có liên quan. 2.Về tài trợ nhập khẩu. Thông thường ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ để nhập nguyên vật liệu, vật tư, hàng hoá máy móc thiết bị, công nghệ… hoặc cho vay bằng VND, trường hợp này rất hiếm vì khi vay VND đổi sang ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu, khách hàng phải mất một khoản tiền do chênh lệch tỷ giá mua, bán của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện với những hình thức sau: 2.1. Hình thức mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu Đây là hình thức thể hiện sự tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu. Hình thức này có một số điều kiện như sau: - Điều kiện để mở L/C tại các ngân hàng thương mại: Phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, đối với các đơn vị nhập uỷ thác phải có hợp đồng uỷ thác nhập khẩu. Đối với những mặt hàng nằm trong danh mục quản lý hàng nhập của Nhà nước, đơn vị phải xuất trình giấy phép nhập khẩu do Bộ thương mại cấp. Đơn vị phải có tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính ổn định và có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng. L/C hàng nhập phải có giá hợp lý, đồng thời chứng minh việc nhập lô hàng trên là hợp lý, phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán lô hàng. Đơn vị phải có tài sản thế chấp đảm bảo cho giá trị của L/C hoặc được bảo lãnh thanh toán bởi một tổ chức đáng tin cậy. Đối với L/C trả chậm, dư nợ bảo lãnh phải nằm trong hạn mức vay vốn nước ngoài được ngân hàng nhà nước duyệt. - Thẩm định hồ sơ mở L/C: Trên cơ sở thẩm định, ngân hàng quyết định mức ký quỹ L/C. Ký quỹ L/C được coi là một hình thức bắt buộc tại ngân hàng thương mại. Ký quỹ nhằm bảo đảm khách hàng nhận hàng và thanh toán L/C. Thông thường mức ký quỹ cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau: Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán của khách hàng càng cao mức ký quỹ càng thấp và ngược lại. Đối tượng khách hàng: khách hàng có uy tín đối với ngân hàng thì mức ký quỹ thấp và ngược lại. Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thường thấp hơn L/C trả ngay, vì mục đích L/C trả chậm là để vay vốn nước ngoài, thời gian khá dài, mức ký quỹ cao sẽ làm ứ đọng vốn của khách hàng. Loại hàng hoá nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động giá cả hàng hoá trên thị trường. Những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trường ổn định, giá cả ít biến động thì mức ký quỹ có thể thấp. Trên cơ sở kết hợp các yếu tố trên, các định mức ký quỹ L/C ngân hàng sẽ quyết định mức ký quỹ cụ thể. Ký quỹ được thực hiện bằng cách trích tài khoản ngoại tệ của khách hàng để chuyển vào tài khoản thanh toán L/C, theo quy định hiện nay thì số tiền ký quỹ được hưởng lãi bằng với lãi tiền gửi thanh toán. Nếu không đủ số dư trên tài khoản ngoại tệ hoặc đối với các đơn vị nhập uỷ thác có thể kèm đơn xin mua ngoại tệ để ký quỹ hoặc có thể làm đơn xin vay ngoại tệ ký quỹ L/C, hiện nay ở nước ta cho vay ký quỹ L/C rất hạn chế. 2.2. Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập Ngân hàng mở L/C tiếp nhận bộ chứng từ từ ngân hàng thông báo L/C, có thời gian là 7 ngày để kiểm tra xử lý chứng từ đưa ra ý kiến thanh toán hoặc từ chối thanh toán. Trong nghiệp vụ này ngân hàng thanh toán dựa vào chứng từ chứ không dựa vào hàng hoá, nên ngân hàng mở L/C phải kiểm tra chứng từ cẩn thận, chứng từ phù hợp ngân hàng sẽ thanh toán tiền (L/C trả ngay hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu- L/C trả chậm). Đối với nhà nhập khẩu, khi hàng vừa cập bến phải nộp tiền cho ngân hàng để thanh toán cho nhà xuất khẩu thì mới nhận được chứng từ để nhận hàng, bán hàng và thu hồi vốn. Đó là khoảng thời gian khá dài, do đó nhà nhập khẩu cần có khoản tài trợ từ ngân hàng, vay ngân hàng để thanh toán hàng nhập khẩu. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định tính hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng tài chính, khả năng trả nợ, thế chấp tài sản để quyết định. Tuy nhiên trên thực tế đối với những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín với ngân hàng thì không ký quỹ mở L/C, không cần tài sản thế chấp vẫn được vay vốn ngân hàng, hàng hoá nhận về đem thẳng đến kho của doanh nghiệp nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.3. Nghiệp vụ bảo lãnh, tái bảo lãnh Hiện nay các ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp, thực hiện tái bảo lãnh cho các ngân hàng khác. Các doanh nghiệp muốn vay vốn nước ngoài phải lập kế hoạch vay vốn nước ngoài đã có sự đồng ý của cơ quan chủ quản và nằm trong hạn mức vay vốn nước ngoài được cơ quan nhà nước duyệt. Có nhiều hình thức bảo lãnh: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh tham gia đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đặt cọc… nhưng thực tế bảo lãnh thực hiện hợp đồng, đấu thầu rất ít sử dụng. Bảo lãnh vay vốn là hình thức chủ yếu tại các ngân hàng, tái bảo lãnh ít được thực hiện. Bảo lãnh ở nước ta chủ yếu để tài trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu vay vốn, được thực hiện dưới các hình thức sau: - Phát hành thư bảo lãnh . - Mở L/C trả chậm. - Ký bảo lãnh trên hối phiếu (Bill of exchange) nhận nợ nước ngoài. - Ký bảo lãnh lệnh phiếu (Promissory Note) nhận nợ nước ngoài. - Ký xác nhận bảo lãnh ngay trên giấy nhận nợ do khách hàng (vay nợ) lập nhận nợ nước ngoài. Như vậy, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu xuất hiện như là một yêu cầu khách quan đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình với hoạt động xuất khập khẩu cũng như đối với nền kinh tế. Với sự phát triển ngày càng đa dạng và phong phú của các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu mà ngân hàng thương mại Việt Nam đã cung cấp, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình, giảm bớt rủi ro trong giao dịch ngoại thương. Chương ii thực trạng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại sở giao dịch i - ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam. I. Vài nét về sở giao dịch i- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển việt nam 1. Quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Sở giao dịch I trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV-Bank for Investment and Development of Viet Nam) được thành lập theo quyết định 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam và quyết định số 349 QĐ/NH5 ngày 16/10/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trụ sở chính của Sở giao dịch theo quy định phải đặt tại Hà Nội, hiện nay là tầng 1,2,4 toà nhà 53 phố Quang Trung, quận Hai Bà Trưng. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch một phần gắn liền với sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV-Bank for Investment and Development of Viet Nam). Chúng ta có thể chia thành 3 giai đoạn chính sau: Giai đoạn 1957- 1990: Đây là giai đoạn hình thành và phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ngày 26 tháng 4 năm 1957, Thủ tướng chính phủ ký Nghị định 177- TTg thành lập “Ngân hàng kiến thiết Việt Nam” tại Bộ Tài Chính thay thế cho “Vụ cấp phát vốn kiến thiết cơ bản”. Ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là thanh toán và quản lý vốn do nhà nước cấp cho kiến thiết cơ bản, nhằm thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế và hỗ trợ công cuộc chiến đấu và bảo vệ tổ quốc. Từ 1957-1981, ngân hàng là một cơ quan của Bộ tài chính. Thời điểm này, hoạt động của ngân hàng nặng về kiểm soát và thanh toán các công trình xây dựng cơ bản hơn là cho vay, nặng về đánh giá và quản lý trước và trong khi cung ứng vốn, coi nhẹ quản lý sau khi cung ứng vốn. Ngân hàng không mang bản chất của một “ngân hàng”. Ngày 24 tháng 6 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 259-CP về việc chuyển Ngân hàng kiến thiết Việt nam trực thuộc Bộ Tài chính thành “Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam” trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với quyết định này ngân hàng được tổ chức thành một doanh nghiệp quốc doanh, nhiệm vụ mới của ngân hàng là thu hút và quản lý các nguồn vốn dành cho đầu tư xây dựng cơ bản các công trình không do ngân sách cấp hoặc không đủ vốn tự có, đại lý thanh toán và kiểm soát các công trình thuộc diện ngân sách đầu tư. Ngân hàng vẫn chưa thực hiện nhiệm vụ kinh doanh. Ngày 14 tháng 11 năm 1990 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thay thế cho Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng cũ. Bây giờ ngân hàng có chức năng huy động vốn trung, dài hạn trong nước và ngoài nước. Nhận vốn từ ngân sách nhà nước và cho vay các dự án chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Giai đoạn 1991-1997: Đây là giai đoạn ra đời và tìm hướng đi cho Sở giao dịch I. Sở giao dịch được thành lập dựa trên: Điều lệ tổ chức, hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ban hành kèm theo quyết định 349 QĐ/NH5 ngày 16/10/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Căn cứ quyết định 76/ QĐ -TCCB ngày 28/3/1991 của Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về việc thành lập Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trong thời gian này, Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một đơn vị phụ thuộc thực hiện cho vay, nhận gửi từ trên xuống. Mọi hoạt động của Sở giao dịch đều mang tính bao cấp thực hiện theo chỉ thị (Sở giao dịch chủ yếu cho vay đối với các dự án phát triển kinh tế do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương chỉ định). Lỗ, lãi không tự hạch toán, và không tự chịu trách nhiệm. Chủ yếu do ngân hàng mẹ đỡ đầu. Giai đoạn 1998 đến nay: Đây là giao đoạn Sở giao dịch I có bước chuyển biến lớn thật sự tách ra trở thành một ngân hàng hạch toán độc lập. Năm 1998- 1999, mặc dù đã chính thức được tách ra nhưng Sở giao dịch I vẫn còn mang dấu ấn của sự bao cấp, chỉ thị. Một số chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh của Sở như: nợ, lợi nhuận, dư nợ, lương, chi phí đều do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đề ra và áp đặt cho Sở. Năm 2000, các chỉ tiêu đề ra trên không còn, tuy vậy một số dự án lớn từ trước vẫn còn kéo dài đến nay. Trong đó có nhiều dự án vẫn còn mang tính bao cấp chỉ thị. Năm 2001, đây là năm mà Sở giao dịch I chính thức trở thành một đơn vị hạch toán độc lập có quyền tự chủ thực sự trong mọi hoạt động kinh doanh . 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở giao dịch I. Sở giao dịch là đơn vị thành viên lớn nhất trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Sở giao dịch là cơ quan đại diện cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương giao dịch với khách hàng. Sở có chức năng chuyển tiếp đến các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc các hoạt động mà chi nhánh chưa thực hiện được như: tiếp nhận viện trợ ODA, thanh toán quốc tế, thu thập thông tin về các ngân hàng và thị trường nước ngoài .v.v.. Thông báo các quyết định của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương đến các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc. Đồng thời tham mưu cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương về các sản phẩm mới, chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, chính sách kinh doanh.v.v.. Ngoài ra, Sở giao dịch I còn cung cấp các dịch vụ ngân hàng đến các Tổng công ty Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư. Sở giao dịch phục vụ các công trình dự án khắp cả nước trong các lĩnh vực: điện lực, dầu khí, viễn thông, xây dựng, công nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, dịch vụ.v.v.. 3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch những năm gần đây 3.1. Các hoạt động chủ yếu của Sở giao dịch: Như đã nói ở phần trên, Sở giao dịch I là cơ quan đại diện của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương đứng ra giao dịch với khách hàng. Do đó, các dịch vụ mà Sở cung cấp cho khách hàng cũng giống như các dịch vụ của các Ngân hàng Thương mại khác. Các dịch vụ chủ yếu của Sở giao dịch bao gồm: - Dịch vụ tín dụng, bảo lãnh: Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và Ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân dưới mọi hình thức như huy động kỳ phiếu, trái phiếu với các loại kỳ hạn, nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều kỳ hạn, nhận tiền gửi thanh toán có kỳ hạn, không kỳ hạn.v.v.. Cho vay trung, dài hạn phục vụ đầu tư phát triển. Cho vay thiết bị theo hình thức thuê tài chính. Cho vay ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học vào sản xuất. Cho vay đồng tài trợ cho các dự án. Cho vay bổ sung vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. Cho vay ngoại tệ phục vụ nhập khẩu nguyên liệu, vật tư cho sản xuất, thi công. Cho vay theo hạn mức tín dụng để mở L/C. Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, chiết khấu bộ chứng từ.v.v.. Dịch vụ bảo lãnh: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh mua thiết bị trả chậm, bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh thanh toán.v.v.. - Dịch vụ thanh toán quốc tế: Các phương thức thanh toán quốc tế có: thư tín dụng (L/C), nhờ thu (D/A, D/P), chuyển tiền nước ngoài, mua bán ngoại tệ, tư vấn thanh toán xuất nhập khẩu, thanh toán séc du lịch, tài trợ ủy thác.v.v.. 3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch 3 năm gần đây. 3.2.1. Về tổng tài sản: Tổng tài sản của Sở giao dịch tăng nhanh trong những năm gần đây. Trong số 73 đơn vị thành viên của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thì Sở giao dịch có tổng tài sản lớn nhất, chiếm 15%. Có được kết quả trên là do Sở luôn luôn tìm cách mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ đến khách hàng, tìm kiếm khách hàng mới và luôn tìm cách hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ của mình. Hơn nữa Sở đã áp dụng quy trình quản lý chất lượng ISO 9001: 2000 để thống nhất các nghiệp vụ, cung cấp các dịch vụ cho khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nhờ đó, khách hàng tin tưởng và sử dụng các sản phẩm dịch vụ của Sở ngày càng nhiều. Tính đến 31/12/2002 tổng tài sản của Sở giao dịch đã đạt 10.569 tỷ đồng, tăng 35% so với năm 2001 và tăng 44,6% so với năm 2000. Như vậy có thể thấy rằng, năm 2002 Sở giao dịch hoạt động rất hiệu quả tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với năm 2001. Bảng 1: Tổng tài sản của Sở giao dịch Đơn vị: tỷ đồng Năm 2000 2001 2002 Tổng tài sản 7.311 7.830 10.569 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I) 3.2.2. Về huy động vốn: Vốn huy động của Sở chủ yếu từ các tầng lớp dân cư. Điều này cho thấy uy tín của Sở giao dịch cũng như của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tăng lên trong những năm gần đây. Tuy nhiên, số vốn huy động được từ các tổ chức còn thấp, cần chú trọng công tác marketing khách hàng, nhất là các khách hàng có tiềm năng tiền gửi lớn như các Quỹ, các Tổng công ty, các Công ty bảo hiểm.v.v.. Tính đến 31/12/2002 vốn huy động của Sở đạ._.ã có khách hàng, hợp đồng hay người mua mở L/C chưa… Nếu nguồn trả nợ được thực hiện bằng tiền án hàng nhập khẩu, thì phải xem mặt hàng đó có được nhập khẩu không, có tiêu thụ được không, giá cả bình quân, phương thức bán hàng, bán buôn hay bán lẻ… Đánh giá uy tín, khả năng phát triển của khách hàng: ở bước này, cán bộ tín dụng cần đánh giá bộ máy điều hành, lý lịch, năng lực của người điều hành vàuy tín của họ trong việc hoàn trả tiền vay. Năng lực của khách hàng bao gồm năng lực về kỹ thuật và năng lực về quản trị. Nếu chỉ xét một trong hai khả năng thì quả là một thiếu sót lớn vì nhiều trường hợp người vay giỏi trong lĩnh vực này nhưng lại yếu kém trong lĩnh vực khác. Nếu đòi hỏi khách hàng giỏi trong cả hai lĩnh vực này thì khá cao, do đó, nếu khách hàng biết yếu kém của mình trong lĩnh vực nào để khắc phục có thể coi là khách hàng có đầy đủ cả hai khả năng.. Một khía cạnh quan trọng khác để đánh giá năng lực hoạt động của khách hàng là lợi nhuận thực hiện. Điều này có nghĩa là cán bộ tín dụng quan tâm đến một số chỉ tiêu cơ bản như doanh số bán, chi phí lợi nhuận tăng giảm, kiểm soát con nợ chặt chẽ không, vốn cổ phần của các chủ sở hữu ra sao. Nếu các điều kiện trên được thoả mãn thì hiển hiên cán bộ tín dụng kết luận rằng doanh nghiệp được quản lý bởi một bàn tay có năng lực và vốn vay sẽ được sử dụng hiệu quả trong bàn tay người đó. Cán bộ tín dụng đánh giá các chỉ tiêu như: Doanh thu thuần / Tổng tài sản Lợi nhuận / Doanh thu, Lợi nhuận / Tổng vốn kinh doanh. ROA = Lợi nhuận / Tổng tài sản. ROE = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có. Chỉ tiêu ROA, ROE rất hữu ích trong việc phân tích một cách chi tiết hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thị phần được tăng lên, các hợp đồn xuất nhập khẩu mới được ký kết cũng là những bằng chứng hữu hình chứng tỏ một sự quản lý tốt. Đối với những quan hệ kinh doanh và vay vốn, trả nợ của khách hàng, cán bộ tín dụng phải phải thu thập cả danh tiếng lẫn tai tiếng để đánh giá chính xác uy tín của khách hàng. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được thể hiện qua 2 chỉ tiêu: Vòng quay vốn kinh doanh = Doanh thu / Số dư tài sản lưu động bình quân. Tốc độ vòng quay vốn kinh doanh = Số ngày trong kỳ / Số vòng quay vốn kinh doanh trong kỳ. Thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Cán bộ lập tờ trình để trình lãnh đạo Ngân hàng . Ký hợp đồng thế chấp, cầm cố và hợp đồng tín dụng. Giải ngân: Khách hàng sau khi ký hợp đồng tín dụng sẽ lập giấy nhận nợ và đến phòng kế toán để xin giải ngân. Phòng kế toán căn cứ vào hợp đồng tín dụng đã ký tiến hành giải ngân cho khách hàng theo các yêu cầu chi trả phát sinh thuộc các đối tượng cho vay của khách hàng. Kiểm tra trong quá trình phát tiền vay: Trong quá trình phát tiền vay, cán bộ tín dụng phải giám sát việc rút vốn của khách hàng. đản bảo vốn vay phát ra đúng mục đích là nhập khẩu hàng hoá đáp ứng phương án kinh doanh hoặc sản xuất, mua hàng xuất khẩu. Đối với vay mở L/C nhập thì cán bộ tín dụng theo dõi quá trình vận chuyển hàng hoá đến khi hàng về đến cảng. Sau khi kiểm tra thấy việc sử dụng vốn lần trước có hiệu quả thì mới phát tiền vốn cho khách hàng. Đồng thời phải thường xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng để sớm phát hiện những lệch lạc trong sử dụng vốn vay, những khó khăn mà khách hàng đang gặp phải để kịp thời cố vấn cho khách hàng, tránh rủi ro mất vốn. Khi có sự cố biểu hiện nguy cơ ảnh hưởng đến vốn vay, cán bộ tín dụng kiên quyết, kịp thời đình chỉ việc phát vốn vay, phong toả tài sản tiền gửi của khách hàng. Kiểm tra sau khi cho vay: ở bước này, cán bộ tín dụng phải kiểm tra chu chuyển vốn vay, khi vốn vay tách ra khỏi vật tư hàng hoá là hết chu kỳ. Nếu cho vay nhập khẩu thì tồn kho vật tư hàng hoá giảm đến đâu, thu hồi vốn vay đến đấy. Nếu cho vay xuất khẩu, khi hàng hoá được giao, cán bộ tín dụng phải giám sát cẩn thận, nếu thu được tiền bán hàng xuất khẩu thì thu hồi nợ ngay. Cán bộ tín dụng đốc thúc khách hàng đẩy mạnh xuất khẩu, bán hàng sớm để thu hồi vốn. Trường hợp lô hàng nhập khẩu được dùng để thế chấp thì giải chấp khi khách hàng nộp tiền tương ứng với số hàng hoá xin giải chấp. Thu nợ, tính lãi, thu lãi. Gia hạn nợ. Xử lý nợ có vấn đề. Thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch hiện nay cần lưu ý đến những điểm sau trong quy trình tài trợ: Trong quá trình xét duyệt cho vay: Nâng cao trình độ thẩm định tài chính dự án đầu tư cho cán bộ tín dụng như phổ biến những kỹ thuật, phương pháp thẩm định mới, tăng cường thu thập xây dựng các chỉ tiêu định lượng như chỉ tiêu kỹ thuật trung bình ngành. Đặc biệt lưu ý đến thẩm định dự án trong điều kiện lạm phát, điều kiện thay đổi tỷ giá, phân tích độ nhạy cảm của kết quả ở đầu ra khi các yếu tố đầu vào thay đổi. Tăng cường chất lượng thẩm định về mặt định tính bằng cách thu thập thêm nhiều thông tin đặc biệt các thông tin về kỹ năng quản trị nhân lực, quản lý công nghệ, tài chính, kỹ thuật marketing. Tiến tới chuyên môn hoá cán bộ tín dụng theo ngành nghề để tạo điều kiện học tập và tìm hiểu thực tế kinh doanh. Nâng cao trình độ thẩm định về mặt kỹ thuật của cán bộ tín dụng, liên kết chặt chẽ với các cơ quan giám định kỹ thuật, cơ quan quản lý về chất lượng của Việt Nam, cần thiết thì thuê chuyên gia nước ngoài để đánh giá mức độ hiện đại của công nghệ, thiết bị, sự phù hợp của công nghệ đối với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp, đánh giá khả năng làm chủ công nghệ của khách hàng đảm bảo việc tăng khả năng cạnh tranh và trả nợ ngân hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng thẩm định tại Sở giao dịch (nguồn vốn – tín dụng –thẩm định) nhằm phân biệt rõ công việc, trách nhiệm. Vừa đảm bảo chia sẻ trách nhiệm nặng nề mà cán bộ tín dụng đảm nhận vừa đảm bảo hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng và các thiệt hại tín dụng khác có thể phát sinh khi đồng ý cho vay. Cụ thể là: Cán bộ tín dụng phối hợp cùng các bộ thẩm định thực hiện việc thẩm định theo các bước sau: Bước 1: Thẩm định lại tính khả thi của phương án trên cơ sở thẩm định bước đầu của các bộ tín dụng, đặc biệt lưu ý về mặt kỹ thuật của dây chuyền công nghệ đối với nhu cầu vay nhập khẩu. Tìm kiếm thông tin, thực hiện so sánh, phân tích các số liệu về hoạt động của khách hàng, về phương án sản xuất để xác minh tính chính xác, hợp lý của các nguồn thông tin. Bên cạnh việc phòng chống rủi ro tín dụng, cán bộ thẩm định cần phải xét đến khả năng thanh khoản, những thiệt hại về mặt tỷ giá, lãi suất, chi phí cơ hội khi đồng ý một món vay. Bước 2: Thẩm định tài sản thế chấp. Xem xét tính pháp lý của giấy tờ sở hữu, tài sản thế chấp, cầm cố và đề xuất mức cho vay hợp lý để đảm bảo an toán vốn vay. Sở giao dịch cần xem xét, bố trí, tuyển dụng các cán bộ làm công tác thẩm định cho phù hợp. Quy định rõ trách nhiệm của từng người, từng công đoạn, có chính sách ưu tiên về phương tiện đi lại, phụ cấp hàng tháng cho cán bộ tín dụng trong việc đi lại, kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay. Bằng việc chuyên môn hoá hơn trong hoạt động tín dụng, Sở giao dịch vừa nâng cao được trách nhiệm của cán bộ, vừa phát huy được khả năng của cán bộ tín dụng và giảm bớt gánh nặng hiện nay, từ đó giúp họ yên tâm công tác nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần phải nghiên cứu về uy tín, khả năng thanh toán và mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng để hướng dẫn cho thanh toán viên trong nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất. Nhằm đề phòng trường hợp thương phiếu khống hoặc bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. Cán bộ tín dụng cần lưu ý đến kỹ thuật mở L/C nhập hàng trả chậm. Đặc iệt là L/C trả chậm dưới một năm vì hoạt động này mới mẻ và chưa có hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cụ thể của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Phối hợp với phòng thanh toán quốc tế nhằm xác định mức ký quỹ hợp lý nhất tạo điều kiện cho khách hàng và phòng chống rủi ro cho ngân hàng ngay cả trường hợp mở L/C bằng vốn tự có. Trong việc quản lý vốn vay: Cán bộ tín dụng nên chú trọng đến kỹ thuật giải ngân để đảm bảo việc sử dụng tiền vay đúng mục đích thông qua điều tra mối quan hệ giữa khách hàng và nhà cung cấp, điều tra tính hợp pháp của các hoá đơn do thực trạng hiện nay rất nhiều hoá đơn được bán trên thị trường, nhiều hoá đơn cũ mà Nhà nước không cho phép lưu hành. Kết hợp kỹ thuật giải ngân với việc quản lý tiền vay điển hình là trong hoạt động mở L/C nhập hàng trả chậm nhằm ngăn ngừa tình trạng doanh nghiệp nhận hàng rồi bán phá giá ngay để lấy tiền đầu tư bất động sản, rồi mở L/C khác tạo vỏ trả nợ sòng phẳng. Đối với cho vay mua hàng trong nước cũng có những trường hợp sử dụng vốn sai mục đích tương tự như vậy. Thường xuyên theo dõi hoạt động kinh doanh của khách hàng thông qua theo dõi biến động số dư tiền gửi của khách hàng đối chiếu với chu kỳ sản xuất kinh doanh. Thực hiện đánh giá xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo những tiêu thức đã được xây dựng, đánh giá mức độ rủi ro của các khoản tín dụng mình đang thực hiện một cách thường xuyên. Về tài sản thế chấp: Cán bộ tín dụng luôn tâm niệm tài sản thế chấp chỉ là biện pháp cuối cùng để ngân hàng thu hồi đủ vốn vay khi rủi ro tín dụng xảy ra. Yếu tố quan trọng để quyết định cho vay là tư cách của khách hàng, tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, tính khả thi của dự án. Xem xét kỹ tình hình công nợ của khách hàng, đảm bảo tài sản thế chấp hợp pháp, chưa bị đem thế chấp cho chủ nợ nào khác làm ảnh hưởng đến việc thu hồi vốn sau này. Cán bộ tín dụng thực hiện nguyên tắc chủ động trong định giá tài sản thế chấp, chú ý đến tốc độ giảm giá của tài sản thế chấp. Đối với cho vay tài trợ xuất nhập khẩu đối tượng thế chấp thường là hàng hoá hoặc gắn liền với hàng hoá trong quá trình lưu thông, do vậy người vay thường thế chấp bằng chính lô hàng hình thành từ vốn vay, cán bộ tín dụng nên nghiên cứu sự khác biệt trong quản lý loại tài sản thế chấp này từ việc lưu kho đến khi giải chấp. 3.Đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng lành nghề trong nghiệp vụ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Đào tạo cho cán bộ tín dụng về kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư, kiến thức về quản lý công nghệ, kiến thức kỹ thuật. Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng thông qua các đợt tập huấn, mở các lớp đào tạo. Thực hiện chuyên môn hoá cán bộ tín dụng làm công tác tài trợ xuất nhập khẩu, đào tạo thêm về nghiệp vụ ngoại thương, về hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng, về luật pháp. Gửi cán bộ đi thực tế tại các chi nhánh mạnh về hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện quản lý cán bộ tín dụng theo nguyên tắc giới hạn dư nợ trên tổng cán bộ tín dụng, nếu chỉ tiêu này vượt mức nhất định thì tuyển thêm cán bộ tín dụng mới. 4. Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn: Là một tổ chức tài chính trung gian, vì vậy muốn đẩy mạnh hoạt động tín dụng, cùng với việc tăng cường vốn tự có, Ngân hàng còn cần thiết phải huy động vốn từ trong và ngoài nước. Để đẩy mạnh huy động vốn VND, Ngân hàng cần: Tạo sự quan tâm đến người gửi tiền: khi gửi tiền vào ngân hàng, người gửi tiền quan tâm đến những mục đích chính là an toàn tiền gửi, thu được lãi cao, gửi tiền với mục đích thanh toán, gửi tiền với mục đích vay vốn… Do vậy, ngoài công cụ cạnh tranh bằng lãi suất, Sở giao dịch nên coi trọng việc sử dụng ba công cụ khác là cạnh tranh về sự đa dạng và chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh việc phát triển các quầy giao dịch một cách hợp lý và thực hiện các biện pháp mang tính khuyếch trương, xây dựng chính sách khách hàng và chính sách tín dụng linh hoạt. Không những đưa ra mức lãi suất cạnh tranh, Ngân hàng cần hoàn thiện công tác huy động vốn theo tiêu chuẩn quốc tế. Cần phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trung và dài hạn với nhiều kỳ hạn khác nhau. Cần quan tâm đến khoản mục đầu tư chứng khoán đặc biệt là chứng khoán thanh khoản nhằm quản lý rủi ro thanh khoản một cách an toàn với chi phí hợp lý. Nghiên cứu áp dụng hệ thống chi trả tiền chủ động, dịch vụ thông tin, chuyển tiền nhanh chóng, thanh toán an toàn, tiếp tục phát huy tinh thần các quầy giao dịch thanh niên kiểu mẫu. Nâng cao trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ, không ngừng nâng cao uy tín của Ngân hàng. Với nguồn vốn ngoại tệ: Nhu cầu nguồn vốn ngoại tệ của Sở giao dịch rất lớn vì hiện nay hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu đang phát triển mạnh. Thực hiện chủ trương vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước đóng vai trò quan trọng, Ngân hàng nên tăng cường phát hành kỳ phiếu, trái phiếu trong và ngoài nước, tận dụng hiệu quả các hiệp định khung, nâng cao chất lượng hoạt động mở L/C trả chậm. Làm tốt chức năng ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều nguồn vốn tài trợ uỷ thác trung dài hạn từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ cho đầu tư phát triển. Tham gia đồng tài trợ cho các dự án xuất nhập khẩu với các ngân hàng nước ngoài để khai thác những nguồn vốn với chi phí thấp. Sử dụng nguồn vốn ODA tạm thời nhàn rỗi để cho vay ngắn hạn xuất nhập khẩu. Nghiên cứu áp dụng các phương thức quản lý rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản vào hoạt động ngân hàng. 5.Nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ có liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Mua bán ngoại tệ sẽ tác động đến trạng thái ngoại tệ của Ngân hàng do vậy tác động đến nguồn vốn ngoại tệ cho xuất nhập khẩu đặc biệt là nhập khẩu. Thanh toán quốc tế ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thông qua việc đáp ứng kịp thời về chi trả của khách, nó là một phần của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu ở khâu thanh toán. Hoạt động thanh toán quốc tế phát triển sẽ tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân hàng, từ đó sẽ làm giảm lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, thúc đẩy được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện việc thanh toán nhanh chóng, kịp thời không chỉ nâng cao uy tín cho Ngân hàng mà còn hạn chế được tổn thất do yếu tố chủ quan và nhờ đó nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng. Để đẩy mạnh được các dịch vụ thanh toán quốc tế cũng như kinh doanh ngoại tệ cần thực hiện những công việc sau: Thanh toán viên phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục nâng cao chất lượng nghiệp vụ nhằm phòng chống tối đa không những rủi ro thanh toán mà toàn bộ rủi ro hợp đồng cho khách hàng có quan hệ tín dụng xuất nhập khẩu của Sở giao dịch. Đặc biệt nâng cao trình độ tư vấn cho khách hàng xuất khẩu trong khâu đàm phán, lựa chọn điều kiện mở L/C, nâng cao tính hợp lệ của bộ chứng từ hàng xuất làm cơ sở cho hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Sở giao dịch. Mở rộng hoạt động ngân hàng đại lý một cách hợp lý đối với các thị trường xuất khẩu lớn. Không ngừng hiện đại hoá công nghệ thanh toán ngân hàng. áp dụng công nghệ tin học vào hoạt động kế toán, thanh toán ngân hàng. Tiến tới nối mạng vi tính với các khách hàng lớn, tạo thuận lợi tối đa trong giao dịch. Phòng kinh doanh ngoại tệ nên tiến hành thu thập các thông tin dự báo tỷ giá trong ngắn hạn, dài hạn. Vận dụng linh hoạt các công cụ trên thị trường ngoại hối nhằm tư vấn và giúp khách hàng, phòng chống rủi ro tỷ giá. Phòng nguồn vốn nên nghiên cứu áp dụng các phương thức quản lý rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất và rủi ro kỳ hạn trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng. 6.Thực hiện chính sách marketing hỗn hợp: Cán bộ phòng nên nhận thức đúng đắn về mục đích, yêu cầu, những công việc cần làm và sự cần thiết của hoạt động marketing để thực hiện hoạt động mới mẻ này có hiệu quả, bài bản, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Xây dựng kế hoạch marketing nghiên cứu thực thi đồng bộ 5 chính sách marketing nhằm thúc đẩy hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng. 6.1.Về chính sách thông tin, tìm hiểu điều tra Phòng thực hiện đầu mối chức năng đầu mối thông tin, thực hiện nhiệm vụ đấp ứng những thông tin cần thiết phất sinh trong hoạt động tín dụng. ứng dụng những tiến bộ mới về công nghệ thông tin vào hoạt động của Sở giao dịch. Tìm hiểu nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp đang có quan hệ thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch. Nghiên cứu nắm bắt ý kiến của ngân hàng đối với các sản phẩm hiện có phục vụ các mục tiêu mở rộng thị phần tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, lôi kéo khách hàng ngoài quốc doanh, áp dụng linh hoạt hình thức cho vay theo hạn mức và cho vay theo món, tiến tới nghiên cứu áp dụng cho vay theo món sử dụng tài khoản vãng lai. Chủ động tìm kiếm khách hàng hướng tới đối tượng các doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu , doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu ở địa phương thuộc mọi thành phần kinh tế. Tiến hành tổng kết, phân loại các đối tượng khách hàng tiềm năng theo các tiêu thức đánh giá về tư cách pháp nhân, tình hình tài chính, ngành nghề kinh doanh, tình hình hoạt động kinh doanh. Phân đoạn khách hàng, phân tích các đặc điểm từng nhóm khách hàng. Đưa ra những giải pháp hỗ trợ cần thiết. Ví dụ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp họ khắc phục những yếu điểm trong quản lý tài chính, lập dự án đầu tư, cung cấp thông tin… 6.2. Về lãi suất và chất lượng dịch vụ: Quy định ngành hàng xuất khẩu nào được hưởng những ưu đãi về lãi suất, phí dịch vụ, dịch vụ tư vấn và các ưu đãi khác. Xây dựng các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua tăng chất lượng dịch vụ. 6.3.Chính sách giao tiếp khuyếch trương Hiện nay, đây là chính sách được sử dụng nhiều nhất. Cán bộ của Sở giao dịch cần sử dụng chính sách này nhằm tạo một hình ảnh về Sở giao dịch kinh doanh đa năng tổng hợp với khả năng đáp ứng nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu của mọi đối tượng khách hàng, có những biện pháp tốt nhất nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu. 7.Tăng cường các hoạt động phối kết hợp giữa các phòng ban của Sở giao dịch, giữa Sở giao dịch và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương: Đối với Sở giao dịch cũng như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương nên thành lập riêng bộ phận ngân hàng hoạt động kinh doanh đối ngoại bao gồm các chức năng thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, marketing nhằm nghiên cứu đưa ra những kế hoạch kinh doanh chung với các định hướng đc cụ thể hoá trong chính sách khách hàng, chính sách tín dụng… Thực hiện việc phân chia công việc một cách cụ thể, phối hợp hoạt động nhịp nhàng. Đồng thời thực hiện phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý cũng như hỗ trợ giữa bộ phận kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương và của Sở giao dịch trong việc xác định ngành hàng tài trợ, đối tượng tài trợ, phương thức tài trợ, tận dụng những sự giúp đỡ về kỹ thuật nghiệp vụ, về công nghệ, thông tin thị trường… iii. những kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 1.Thành lập bộ phận chuyên trách về hoạt động kinh doanh đối ngoại: Sớm thành lập lại phòng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu vì đây là nòng cốt trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng. Phòng tiếp tục thực hiện các biện pháp đã thi hành như thu thập báo cáo, thông tin, đánh giá tình hình định hướng, hỗ trợ các chi nhánh trong việc mở rộng hoạt động mới mẻ này. Tiến tới thành lập trang thông tin tài trợ xuất nhập khẩu trong mạng nội bộ của Ngân hàng. Bước đầu nghiên cứu các hoạt động tài trợ mới như Factoring, Forfaithing đối với ngân hàng nước ngoài. Đẩy mạnh hoạt động của Công ty thuê mua tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Nghiên cứu thành lập công ty Bảo hiểm tín dụng trực thuộc ngành ngân hàng nhằm thúc đẩy việc đa dạng hoá hoạt động tín dụng của các ngân hàng cùng với việc quản lý tốt việc thực hiện dự phòng rủi ro của các ngân hàng. Công ty Bảo hiểm tín dụng trực thuộc ngành ngân hàng sẽ phát huy được tính cộng đồng, tính tương trợ giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng góp phần hạn chế rủi ro cho từng ngân hàng và cả toàn ngành ngân hàng. Sớm thành lập Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất nhập khẩu nhằm cấp tín dụng ưu đãi, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường, gắn xuất khẩu với nhập khẩu. Trong đó chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng xuất khẩu. Nâng cao chất lượng hoạt động trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo cung cấp thông tin một cách đầy đủ, cập nhật về các đối tượng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với các ngân hàng thành viên. Cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác đúng thời hạn. Các tổ chức tín dụng thành viên thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ, thường xuyên, kịp thời cho trung tâm thông tin tín dụng theo định kỳ quý, 6 tháng, một năm. Tổ chức lưu trữ thông tin dưới dạng bảng có hệ thống theo từng kỳ kế toán (3 tháng, 6 tháng, 1 năm), cán bộ sắp xếp thông tin, dữ liệu kiểu so sánh nhằm phân tích, đánh giá xu hướng vận động, phát triển của doanh nghiệp. 2.Ban hành quy định cụ thể cho hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Ngân hàng phải sớm hoàn thiện quy chế cho vay tài trợ xuất nhập khẩu để ban hành chính thức, thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống. Trong đó chú trọng đến quản lý sau khi vay và các hình thức đảm bảo nợ vay. Xây dựng cơ chế có liên quan về quản lý, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế trên cơ sở pháp lệnh của Ngân hàng Nhà nước và vận dụng linh hoạt vào Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Xây dựng chiến lược phát triển cụ thể cho nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu những năm tiếp theo trong toàn hệ thống. Phòng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu chịu trách nhiệm tổ chức cho vay cả ngắn, trung và dài hạn trong toàn hệ thống. Xây dựng hệ thống mẫu biểu báo cáo cho vay tài trợ xuất nhập khẩu toàn hệ thống. Lên kế hoạch về hạn mức tín dụng cho xuất nhập khẩu hàng năm đối với toàn hệ thống và cho từng chi nhánh. IV. Kiến nghị đối với Nhà nước Hoạt động xuất nhập khẩu giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy để thúc đẩy hoạt động này một cách có hiệu quả đồng thời nâng cao được chất lượng tín dụng cho xuất nhập khẩu không chỉ là mối quan tâm của các Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của Nhà nước. Để đạt được mục tiêu nói trên trong giai đoạn trước mắt Nhà nước cần phải: 1.Bổ sung, hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh tế đối ngoại: Các văn bản, cơ chế chính sách quản lý Nhà nước cần phải tinh giản, chính xác và thuận lợi nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp và Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thời gian qua, chính sách và cơ chế quản lý Nhà nước về kinh tế tuy đã có nhiều sửa đổi nhưng vẫn bộc lộ những yếu kém. Minh chứng cho điều này là hàng loạt các vụ án kinh tế lớn có liên quan đến các Doanh nghiệp và Ngân hàng. Sự lừa đảo chiếm dụng vốn của Ngân hàng, của Nhà nước, của các doanh nghiệp, của các cá nhân đã thể hiện sự lỏng lẻo trong quản lý Nhà nước. Việc ban hành các chính sách, chế độ còn nhiều khe hở khiến cho bọn lừa đảo có thể lợi dụng. Tác hại của những vụ việc đó không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Để khắc phục những hạn chế đó Nhà nước cần: Tiến hành nghiên cứu, sửa đổi các chính sách cũ, ban hành các chính sách mới chặt chẽ hơn nhưng lại phải thuận lợi cho các doanh nghiệp và Ngân hàng làm ăn đích thực hơn. Cải tổ hơn nữa bộ máy ngoại thương bao gồm: cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động ngoại thương, các đơn vị chuyên doanh xuất nhập khẩu. Cần phải chia rõ lợi ích của các tổ chức ngoại thương và người trực tiếp làm hàng xuất nhập khẩu. 2. Thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu và quỹ tín dụng xuất khẩu Về quỹ bảo hiểm xuất khẩu: xuất phát từ tính rủi ro cao về giá cả thị trường quốc tế. Để các nhà xuất khẩu yên tâm ổn định sản xuất và một phần giúp đỡ họ khách hàng gặp rủi ro bất lợi, Nhà nước nên sớm thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu. Quỹ này có thể vận động theo nguyên tắc: Bộ thương mại và các cơ quan quản lý có liên quan sẽ tiến hành khảo sát thị trường để định ra một mức giá trị bảo hiểm nhất định sao cho người sản xuất có thể thu hồi vốn đầu tư, trang trải các chi phí và có được một phần lợi nhuận hợp lý. Khi giá thị trường thế giới thuận lợi, giá xuất khẩu cao hơn giá bảo hiểm Nhà nước sẽ thu phần chênh lệch bổ sung vào quỹ. Ngược lại, khi giá thị trường thế giới thấp hơn giá bảo hiểm. Quỹ sẽ trích tiền hỗ trợ cho nhà xuất khẩu để họ có sản phẩm tại mức giá bảo hiểm. Như vậy, với quỹ bảo hiểm xuất khẩu, Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ổn định thu nhập, từ đó gián tiếp tác động đến khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp. Đối với ngân hàng thì điều này là hết sức có ý nghĩa trong việc nâng cao chất lượng của các khoản tín dụng. Về quỹ tín dụng xuất khẩu: Với mục đích hỗ trợ vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các Ngân hàng thương mại tham gia tài trợ xuất khẩu , hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu như EXIM Bank Nhật, EXIM Bank Mỹ, EXIM Bank Hàn Quốc, EXIM Bank Thái Lan… Vì vậy, Chính phủ cần nhanh chóng cho ra đời Quỹ tín dụng xuất khẩu để cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường xuất khẩu và hạn chế rủi ro cho các Ngân hàng thương mại. Về nguyên tắc hoạt động: Quỹ sẽ do Ngân hàng Nhà nước quản lý. Đối với từng dự án cụ thể Quỹ sẽ tài trợ một phần hay toàn bộ. Để tăng hiệu quả, Quỹ nên hỗ trợ một phần với lãi suất ưu đãi, phần còn lại các doanh nghiệp tự đi vay của Ngân hàng. Như vậy, vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và Ngân hàng vừa đạt mục tiêu xuất khẩu. 3. Sắp xếp lại các Doanh nghiệp Nhà nước chuyên doanh xuất nhập khẩu Các Doanh nghiệp Nhà nước chuyên doanh xuất nhập khẩu cần phải được sắp xếp lại, khuyến khích tiết kiệm trong nước, giảm giá thành sản xuất, tăng năng suất lao động trong khu vực làm hàng xuất khẩu. Từ khi quy chế cho vay không cần thế chấp đối với các Doanh nghiệp Nhà nước ra đời, hầu như thị trường tín dụng đổ dồn vào các Doanh nghiệp Nhà nước. Tại Sở giao dịch khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước chiếm tới 80-90%. Trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu cũng không có ngoại lệ, khách hàng chính hiện nay vẫn là các Doanh nghiệp Nhà nước. Chính vì vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Đồng thời với việc sắp xếp lại các Doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ cũng cần đề ra các chính sách khuyến khích tiết kiệm trong nước, giảm giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động trong lĩnh vực làm hàng xuất khẩu. Chẳng hạn như khuyến khích sử dụng nguuyên vật liệu trong nước, đề ra chính sách thi đua, khen thưởng thích đáng để khuyến khích người lao động trong lĩnh vực này… 4. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường trong và ngoài nước Để giúp các doanh nghiệp nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác phục vụ cho việc ra quyết định về sản xuất, đầu tư, đồng thời để định hướng thị trường cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Nhà nước cần xây dựng một hệ thống thông tin thị trường trong và ngoài nước một cách chính xác và đầy đủ. Một việc mà Ngân hàng Nhà nước cần làm ngay là ban hành các văn bản pháp lý về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Hiện nay, các văn bản pháp lý về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu còn sơ sài. Các Ngân hàng chỉ được hướng dẫn theo định hướng chung mà chưa có hệ thống văn bản quy định và hướng dẫn cụ thể. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản pháp lý và hướng dẫn thực hiện về hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu để các Ngân hàng có cơ sở hoạt động, tránh được sự vi phạm pháp luật đồng thời hạn chế được rủi ro và mở rộng, nâng cao được chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của mình. Kết luận Nhìn một cách khái quát qua hơn 15 năm đổi mới, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có kinh tế đối ngoại, hoạt động kinh doanh đối ngoại của các Ngân hàng thương mại Việt Nam dần dần có những khởi sắc. Cũng như các hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng trong nước, chuyển từ cơ chế độc quyền của Ngân hàng Nhà nước sang cơ chế thị trường, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh tiền tệ – tín dụng – ngoại hối, hoạt động kinh doanh đối ngoại của các Ngân hàng thương mại Việt Nam dần dần xác lập được vị thế trên thương trường. Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá với những đặc trưng nổi bật là tự do hoá thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ đã và sẽ chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của hệ thống tài chính- ngân hàng của nhiều quốc gia. Ta có thể khẳng định rằng việc mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng là một hướng đi đúng đắn, có tính quyết định không những giúp Sở giao dịch sớm đạt được mục tiêu đã đặt ra đến năm 2005 mà còn giúp Sở giao dịch đứng vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt, duy trì vị thế của mình trên địa bàn Hà Nội và trong hệ thống ngân hàng. Do đặc điểm hình thành và phát triển của Ngân hàng, do những yếu tố bất lợi về môi trường kinh tế, pháp lý, công nghệ, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch còn mới mẻ, đơn điệu, chủ yếu dưới dạng cổ điển. Điều này tạo nên những trở ngại trong việc phát triển hoạt động này. Tuy nhiên em tin rằng, bằng những nỗ lực tháo gỡ khó khăn về nhận thức và nguồn lực của Sở giao dịch, bằng sự nhanh nhạy trong nắm bắt những cơ hội mới trong nỗ lực chung của các cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị để đẩy mạnh năng lực sản xuất của nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sẽ đạt được những thành tựu đáng kể trong việc mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu hướng tới một Ngân hàng đa năng tổng hợp, phát triển bền vững. Danh mục tài liệu tham khảo Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ GS. TS Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân. NXB Thống Kê 2001 Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương Đinh Xuân Trình, Trường Đại học ngoại thương, NXB Giáo dục Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. David Cox – NXB Chính trị quốc gia 1999 Tiền tệ, tín dụng, ngân hàng – GS .TS Lê Văn Tư. Báo cáo tổng kết của Sở giao dịch I các năm 2000, 2001, 2002. Số liệu của Phòng tín dụng, Phòng thanh toán quốc tế – Sở giao dịch I Các tài liệu khác của Sở giao dịch I và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0184.doc
Tài liệu liên quan