MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Tình hình kinh doanh của SHB 2006 - 2008 34
Bảng 2.2: Tình hình nguồn vốn huy động 2006 – 2008 36
Bảng 2.3: Dư nợ tín dụng tại SHB 2006 - 2008 39
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ theo hình thức cho vay SHB 2006 - 2008 41
Bảng 2.5: Kết quả doanh số toàn hàng của SHB 2006 - 2008 52
Bảng 2.6: Kết quả hoạt động chuyển tiền của SHB – HSC 2006 - 2008 53
Bảng 2.7: Kết quả hoạt động thanh toán nhờ thu tại SHB 2006 - 2008 54
Bảng 2.8: Kết quả hoạt động thanh to
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2198 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động Thanh toán quốc tế (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội (SHB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án TDCT tại SHB – HSC 2006 - 2008 55
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng lợi nhuận SHB 2006 - 2008 35
Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng nguồn vốn huy động 2006 – 2008 37
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng dư nợ tín dụng tại SHB 2006 - 2008 40
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TMQT : Thương mại quốc tế
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
XNK : Xuất nhập khẩu
SHB : Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội
TMCP : Thương mại cổ phần
HSC : Hội Sở Chính
TDCT : Tín dụng chứng từ
TTQT : Thanh toán quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Điều này đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các quốc gia phát triển và mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng. Với chủ trương phát triển nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã đặt hoạt động thương mại quốc tế lên hàng đầu và coi đó là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế và tăng cường mối quan hệ quốc tế của mình.
Đóng góp không nhỏ vào hoạt động thương mại quốc tế chính là hoạt động thanh toán quốc tế. Chất lượng và tốc độ phát triển thương mại quốc tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó thanh toán quốc tế giữ vai trò là hết sức quan trọng. Đặc biệt, đối với các ngân hàng thương mại, thanh toán quốc tế là mắt xích trong việc chắp nối và thúc đẩy các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương, tăng cường nguồn vốn huy động đặc biệt là vốn ngoại tệ.
Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, các ngân hàng thương mại có cơ sở khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, tăng thu nhập và phát triển ổn định trong môi trường cạnh tranh. Do đó, việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế là yêu cầu thường xuyên và bức thiết đối với mỗi ngân hàng thương mại nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung.
Trong quá trình thực tập tại Hội sở chính Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội, em nhận thấy thanh toán quốc tế được ngân hàng xem là một trong những hoạt động chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của mình. Trong những năm qua, hoạt động TTQT của SHB đã được chú trọng phát triển, đóng góp một phần không nhỏ trong kết quả kinh doanh chung của ngân hàng, song bên cạnh đó vẫn còn bộc lộ những mặt yếu kém cần được khắc phục. Bởi vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện, mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế tại Hội sở chính là vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ thực trạng đó, em đã chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình là: “Mở rộng hoạt động Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội”.
Kết cấu khóa luận gồm có 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội – Hội sở chính
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động Thanh toán quốc tế tại SHB – Hội sở chính
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Tiến sĩ Lê Thanh Tâm đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của Thương mại quốc tế
1.1.1. Khái niệm của Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế (TMQT) là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên.
TMQT là một trong những hoạt động chính và cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế. TMQT ra đời từ rất sớm, ban đầu đó chỉ là sự trao đổi hàng hóa đơn thuần giữa các thương gia mang quốc tịch khác nhau. Nguồn gốc của nó liên quan đến việc giảm chi phí sản xuất, mở rộng sản xuất, chuyên môn hóa sản xuất dựa trên cơ sở lợi thế so sánh.
Trong thế giới hiện đại, TMQT giữ vai trò hết sức quan trọng và cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hóa để đạt hiệu quả kinh tế cao trong nền công nghiệp hiện đại. Có thể nói hiện nay, TMQT giữ một vị trí trung tâm trong quan hệ kinh tế quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của Thương mại quốc tế
TMQT có những đặc điểm nổi bật khác với thương mại trong nước những điểm cơ bản sau:
Một là, TMQT là hoạt động buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Hàng hóa có thể di chuyển từ nước này qua nước khác. Nhưng khái niệm này cũng chỉ mang tính chất tương đối bởi mua bán hàng hóa cho người nước ngoài đang sinh sống ở một quốc gia cũng có thể coi là hoạt động xuất khẩu.
Hai là, tham gia vào TMQT là những người có quốc tịch khác nhau, tuy nhiên khái niệm này cũng không chính xác tuyệt đối vì trong điều kiện hiện nay, ở các nước trên thế giới, để phân biệt TMQT và kinh doanh trong nước, người ta sử dụng yếu tố lãnh thổ, nơi cư trú hoặc trụ sở thay vì yếu tố quốc tịch.
Ba là, đồng tiền thanh toán trong TMQT là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên.
Trong thời đại ngày nay, không có nền kinh tế quốc gia nào có thể tồn tại độc lập mà bắt buộc phải tham gia TMQT. Hoạt động TMQT bao gồm những hoạt động sau:
Xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình (nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng).
Xuất nhập khẩu hàng hoá vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế, phần mềm vi tính dịch vụ lắp đặt, chuyển giao công nghệ, du lịch,…).
Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công.
Tái xuất khẩu (nhập hàng rồi xuất sang nước thứ 3, hoặc chỉ thực hiện các dịch vụ vận tải quá cảnh, lưu kho bãi, bảo quản…).
Xuất khẩu tại chỗ như cung cấp hàng hoá dịch vụ cho ngoại giao đoàn, khách du lịch quốc tế…
1.2. Khái quát chung về Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Ngày nay, sự phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng. Có thể xem ngân hàng là mạch máu quan trọng của nền kinh tế. Một nền kinh tế mạnh đồng nghĩa với một hệ thống ngân hàng vững mạnh, và một nền kinh tế trì trệ, kém phát triển một phần bởi hệ thống ngân hàng yếu kém.
Trong hệ thống ngân hàng, ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong những ngân hàng ra đời từ rất sớm, tầm khoảng cuối thế kỷ 18. Ban đầu đó là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, xuất phát từ nhu cầu chuyển đổi, dịch vụ bảo quản và cho vay vàng bạc cổ xưa. Ngày nay, các NHTM đã có những bước tiến vượt bậc so với xuất xứ ban đầu, với nghiệp vụ kinh doanh phong phú và cơ cấu tổ chức rộng lớn, …
Theo www.saga.vn, NHTM được định nghĩa là tổ chức tín dụng thực hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng, đó là huy động và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan hiếm. Hoạt động của NHTM nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt là “vốn – tiền”, trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của NHTM. Hoạt động của NHTM phục vụ mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, mọi loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Theo PGS.TS Phan Thị Lưu Hà, giáo trình “Ngân hàng thương mại”, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2007 “Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997 ban hành ngày 12/12/1997 thì “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Trong đó tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo luật này và các quy định khác của pháp luật liên quan để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Tóm lại, qua các khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại đã được đề cập ở trên, ta có thể khái quát lại như sau: “ NHTM là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt đó là tiền tệ, thông qua hoạt động tín dụng, thanh toán, tiết kiệm… nhằm mục đích chính là đáp ứng nhu cầu về vốn của dân cư để thu lợi nhuận.
1.2.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Trung gian tài chính
Có thể nói, đây là chức năng cơ bản nhất của NHTM, thể hiện tầm quan trọng của nó đối với nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tài chính bằng cách huy động nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội nhằm mục đích kích thích quá trình luân chuyển vốn để tái sản xuất mở rộng, đồng thời đưa tiết kiệm đến với đầu tư trên phạm vi toàn xã hội.
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là chuyển tiết kiệm thành đầu tư thông qua sự tiếp xúc giữa hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Đó là những cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, cần bổ sung vốn và những cá nhân, tổ chức thặng dư chi tiêu, có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức này hoàn toàn độc lập đối với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm những người tiết kiệm sang nhóm những người đầu tư. Nhưng quan hệ tín dụng trực tiếp này bị giới hạn do ràng buộc về quy mô, thời gian, không gian… Từ đó nảy sinh trung gian tài chính. Trung gian tài chính làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư, từ đó cũng khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp được người tiết kiệm và đầu tư, giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp bằng cách sử dụng kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo của hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia nhỏ để tất cả mọi người đều có thể mua thì ngân hàng cung cấp dịch vụ, nhằm chia nhỏ chứng khoán đó thành những khoản nhỏ hơn, phục vụ cho hàng triệu người.
Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản vay, cho vay rủi ro và phát hành chứng khoán ít rủi ro để thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của khách hàng.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện tốt chức năng trung gian tài chính bởi khả năng thẩm định tốt thông tin, từ đó có thể đánh giá và lựa chọn các thị trường, công cụ mang lại lợi nhuận hấp dẫn nhất cho cả khách hàng và ngân hàng.
1.2.2.2. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền - vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính là ngân hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển nhanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu.
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng), các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới.
1.2.2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay của hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán khác nhau như: thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua các ngân hàng càng đạt được hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Bởi vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa đã góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán, không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập góp phần làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế.
1.3. Hoạt động Thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm và điều kiện về hoạt động Thanh toán quốc tế
1.3.1.1. Khái niệm
Trong thời đại hiện nay, quan hệ quốc tế giữa các quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, khoa học kĩ thuật… nhưng trong đó quan hệ kinh tế vẫn chiếm vai trò chủ đạo và là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển, nhu cầu chi trả và thanh toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau càng tăng, từ đây hình thành hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT), mà ngân hàng là cầu nối giữa các bên. Hoạt động TTQT ra đời, trở thành một trong những dịch vụ quan trọng nhất trong mảng kinh doanh đối ngoại của NHTM.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, giáo trình “Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương”, NXB Thống kê, 2007 thì TTQT được định nghĩa là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ ngân hàng của các nước liên quan.
Nếu chỉ đề cập đến các quan hệ thanh toán phát sinh trong lĩnh vực kinh tế và tài chính ta có thể định nghĩa TTQT như sau:
TTQT là việc chi trả các nghĩa vụ yêu cầu về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng, giữa các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng.
TTQT giữ chức năng ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương mại. Nó được hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển ngoại thương của một nước và ngân hàng thương mại được nhà nước giao cho độc quyền làm công tác thanh toán này. Do vậy, các giao dịch thanh toán trong ngoại thương đều phải thông qua ngân hàng. Đây là nghiệp vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn, ứng dụng công nghệ ngân hàng, tạo sự an toàn và hiệu quả đối với NHTM và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
1.3.1.2. Vai trò của Thanh toán quốc tế của NHTM trong TMQT
TTQT là khâu then chốt cuối cùng khép kín một chu kỳ mua bán hàng hóa hay trao đổi dịch vụ. Việc thanh toán tiền hàng được nhanh chóng, chính xác, an toàn là đảm bảo giải quyết được mối quan hệ lưu thông hàng hóa - tiền tệ giữa người mua - người bán. Về mặt kinh doanh, thanh toán tiền hàng thể hiện chất lượng kinh doanh, nói lên hiệu quả kinh tế về tài chính trong hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với NHTM, TTQT thể hiện những vai trò quan trọng như sau:
Một là: TTQT tạo điều kiện thu hút khách hàng, mở rộng thị trường.
Khách hàng tìm đến ngân hàng với mong muốn được thỏa mãn các nhu cầu về dịch vụ tài chính. Trong điều kiện hiện nay, buôn bán kinh doanh, du lịch, đầu tư,… đã vượt ra khỏi biên giới của quốc gia, nhu cầu TTQT đối với các cá nhân, tổ chức ngày càng lớn hơn. Mặt khác, trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, việc đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu của khách hàng là một trong những mục tiêu mà các ngân hàng hướng đến, nhằm thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị trường.
Hai là: TTQT tạo khả năng tăng doanh thu và lợi nhuận.
Khi khách hàng đến với ngân hàng ngày càng nhiều thì lợi ích của ngân hàng ngày càng tăng. Không những doanh thu của ngân hàng tăng lên tuyệt đối mà những khoản thu phí cũng tăng do cung cấp được nhiều hơn các dịch vụ cho khách hàng, điều đó hỗ trợ cho hoạt động khác của ngân hàng thêm phát triển. Từ đó ngân hàng có điều kiện tăng thêm nguồn vốn huy động, tạo điều kiện mở rộng quy mô tín dụng. Trong quá trình tham gia hoạt động TTQT, khách hàng còn phát sinh thêm những nhu nhu cầu dịch vụ khác của ngân hàng như: bảo lãnh thanh toán, tài trợ các hợp động xuất nhập khẩu, thực hiện hợp đồng, mua bán ngoại tệ, tiền mặt ngoại tệ… góp phần phát triển hoạt động TTQT của ngân hàng, tăng thêm thu nhập cho ngân hàng.
Ba là: TTQT tạo điều kiện phân tán rủi ro.
Kinh doanh ngân hàng là một trong những lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu, kinh tế khu vực và kinh tế mỗi quốc gia luôn có nhiều biến động. Diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và các thủ đoạn lừa đảo tinh vi dẫn đến nguy cơ rủi ro ngân hàng phải gánh chịu ngày càng nhiều. Những rủi ro đó là rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động ngoại bảng, rủi ro công nghệ hoạt động và rủi ro quốc gia.
Với thực tế đó thì việc kinh doanh nhiều lĩnh vực, dịch vụ là phương thức hiệu quả nhất để phân tán rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Lợi nhuận thu được từ hoạt động TTQT góp phần hỗ trợ cho ngân hàng khi thị trường biến động, giúp ngân hàng giữ vững được sự ổn định.
Bốn là: Góp phần mở rộng quy mô và mạng lưới Ngân hàng.
Hoạt động TTQT giúp cho hoạt động của ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, hòa nhập cộng đồng ngân hàng thế giới, nâng cao uy tín trên quốc tế. Trên cơ sở đó, ngân hàng phát triển các quan hệ đại lý, khai thác nguồn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để phát triển kinh tế xã hội.
Năm là: Góp phần tạo dựng và nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính quốc tế
Sự phát triển của hoạt động TTQT tại các ngân hàng mà đặc biệt là sự phát triển của các dịch vụ TTQT, trình độ xử lý nghiệp vụ của cán bộ TTQT… đã góp phần tạo dựng niềm tin đối với ngân hàng và cả khách hàng nước ngoài. Vậy hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng mở rộng trên lĩnh vực kinh doanh đối ngoại, hòa nhập hệ thống tài chính ngân hàng toàn cầu, giúp ngân hàng tạo dựng được uy tín đối với quốc tế.
Vậy hoạt động TTQT của các NHTM trong thương mại quốc tế nói riêng và kinh tế đối ngoại nói chung có một vị trí hết sức quan trọng. Nó là mắt xích không thể thiếu trong toàn bộ dây chuyền bắt đầu từ khi chuẩn bị những bước đầu tiên để sản xuất hàng hóa và bước cuối khi thu đồng tiền về tay người xuất khẩu.
1.3.1.3. Điều kiện hoạt động TTQT
Thanh toán quốc tế liên quan đến thanh toán tiền hàng trong ngoại thương nên các bên phải thỏa thuận những điều kiện về thanh toán, gồm: điều kiện về tiền tệ, điều kiện về địa điểm thanh toán, điều kiện về thời gian thanh toán và điều kiện về phương thức thanh toán.
a, Điều kiện về tiền tệ
Trong điều kiện về tiền tệ, các bên thỏa thuận những vấn đề như: đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán và bảo đảm rủi ro tỷ giá.
Trước hết, ta chú ý đến vấn đề phân loại tiền tệ trong TTQT. Để phân loại tiền tệ, có một số tiêu chí như:
Căn cứ phạm vi sử dụng: tiền tệ bao gồm
+ Tiền tệ quốc gia (National currency): đồng tiền của một nước do Ngân hàng Trung ương phát hành theo luật pháp nước đó.
+ Tiền tệ quốc tế (International currency): được hình thành trên cơ sở các hiệp định của các tổ chức tài chính, các khối kinh tế như: SDR, EUR, XOF …
+ Tiền tệ thế giới (World currency): đồng tiền đuợc tất cả các nước trên thế giới công nhận và sử dụng làm phương tiện TTQT. Hiện nay, mới chỉ có vàng được xem là tiền tệ thế giới.
Căn cứ tính chất chuyển đổi: chúng ta có
+ Đồng tiền tự do chuyển đổi (Freely convertible currency): đồng tiền được tự do chuyển đổi không hạn chế sang các đồng tiền khác và ngược lại trong các giao dịch giữa người cư trú và người không cư trú.
+ Chuyển đổi đối nội (Internal convertible): chuyển đổi nội tệ ra ngoại tệ và ngược lại, áp dụng hạn chế cho người cư trú.
+ Chuyển đổi toàn phần (Exterbak convertible): chuyển đổi tự do nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại, cho tất cả giao dịch giữa người cư trú và người không cư trú.
+ Chuyển đổi từng phần: là việc chuyển đổi nội tệ sang các ngoại tệ và ngược lại chỉ áp dụng hạn chế cho một hay một nhóm các giao dịch giữa người cư trú và người không cư trú.
+ Đồng tiền không chuyển đổi (Non - convertible): đồng tiền không được chuyển đổi sang bất kỳ đồng tiền nào khác. Nhưng thực tế, đồng tiền như thế không tồn tại theo nghĩa tuyệt đối.
- Căn cứ vào hình thái tồn tại của tiền tệ:
+ Tiền mặt (cash): gồm tiền giấy và tiền kim loại của từng quốc gia, nhưng trong TTQT ngày nay tiền mặt ít được sử dụng, thay vào đó người ta sử dụng tiền điện tử.
+ Tiền tín dụng (Credit currency): là loại tiền vô hình tồn tại dưới dạng những con số ghi trên tài khoản, sổ sách của ngân hàng, nó được áp dụng rộng rãi trong TTQT.
Căn cứ mức độ sử dụng trong dự trữ và TTQT:
+ Đồng tiền mạnh (Hard currency): đồng tiền tự do chuyển đổi, có giá trị ổn định và đứng sau nó là một nền kinh tế phát triển. Những đồng tiền mạnh hiện nay như: USD, EUR, GBP, JPY …
+ Đồng tiền yếu (Weak currency): đồng tiền không được tự do chuyển đổi, giá trị không ổn định và đứng sau nó là nền kinh tế nhỏ hoặc phát triển chậm. Đồng tiền này chủ yếu lưu thông nội địa và ít được sử dụng trong TTQT như: VND, LAK…
Căn cứ vào mục đích sử dụng trong TTQT:
+ Tiền tệ tính toán (Account currency): là đơn vị tiền tệ dùng để biểu hiện giá cả hàng hóa và tính toán tổng giá trị trong hợp đồng ngoại thương.
+ Tiền tệ thanh toán (Payment currency): là đơn vị tiền tệ được sử dụng để thanh toán công nợ, thanh toán giá trị hợp đồng ngoại thương.
Tóm lại, việc phân loại tiền tệ như thế chỉ mang tính tương đối vì trong thực tiễn hiện nay, việc lựa chọn đồng tiền nào để tính toán và thanh toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ngày nay, việc các bên thanh toán bằng đồng tiền nào không thật sự quan trọng vì thị trường ngoại hối đang ngày càng phát triển, liên kết toàn cầu, cho phép chúng ta chuyển đổi đồng tiền này sang đồng tiền khác một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Trong điều kiện về tiền tệ, ta còn phải nghiên cứu đến điều kiện bảo đảm hối đoái, bao gồm các biện pháp:
Bảo đảm hối đoái bằng vàng.
Bảo đảm hối đoái theo một đơn vị tiền tệ.
Bảo đảm hối đoái theo một “rổ tiền tệ”
Bảo đảm hối đoái giúp các nhà xuất khẩu và nhập khẩu không gặp trở ngại trong việc chuyển đổi tiền tệ theo tỷ giá chéo khi thanh toán. Đồng thời đó còn là biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với nhà xuất khẩu khi có khoản thu bằng ngoại tệ, đối với nhà nhập khẩu khi có khoản thanh toán bằng ngoại tệ.
b, Điều kiện về địa điểm thanh toán
Địa điểm thanh toán là nơi người bán nhận được tiền còn người mua trả tiền. Cả hai bên đều muốn thanh toán tại nước mình để nhanh chóng và an toàn nhưng việc thanh toán có thể tiến hành ở một nước thứ ba, là nước phát hành đồng tiền thanh toán, Thực tế, quy định địa điểm thanh toán phụ thuộc vào :
Tương quan lực lượng giữa hai bên trong quan hệ hợp đồng.
Phương thức thanh toán.
Đồng tiền thanh toán là của nước nào.
c, Điều kiện về thời gian thanh toán
Điều kiện về thời hạn thanh toán quy định khi nào thì người nhập khẩu phải trả tiền cho người xuất khẩu, nên ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ luân chuyển vốn, khả năng hạn chế rủi ro về lãi suất, tỷ giá, thanh khoản … đối với các bên tham gia hợp đồng. Lấy thời điểm giao hàng làm mốc thì thời hạn thanh toán có thể là:
Trả tiền trước: người mua trả cho người bán toàn bộ hoặc một phần tiền hàng trước khi nhận được hàng. Tùy thuộc vào thị trường và tầm quan trọng của hàng hóa, thời hạn sản xuất, mối quan hệ giữa các bên giao dịch… để định xem mức tiền ứng trước nhiều hay ít. Trường hợp này vị thế tài chính của người bán được củng cố và chắc chắn bán được hàng.
Trả tiền ngay: lấy thời điểm chuyển giao quyền sở hữu làm mốc thì thanh toán ngay bao gồm:
+ Việc thanh toán diễn ra ngay khi người xuất khẩu đặt hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua nhưng hàng hóa chưa được bốc lên phương tiện vận tải.
+ Việc thanh toán diễn ra ngay khi người xuất khẩu hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua trên phương tiện vận tải.
+ Việc thanh toán diễn ra ngay khi người xuất khẩu đặt bộ chứng từ hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua.
+ Việc thanh toán diễn ra ngay sau khi nhà nhập khẩu nhận xong hàng hóa tại nơi quy định.
Trả tiền sau: lấy thời điểm chuyển giao hàng hóa làm mốc, trả tiền sau hàm ý người bán giao hàng trước và thu tiền sau. Hay có thể hiểu là, người bán cung cấp cho người mua một khoản tín dụng theo sự thỏa thuận giữa hai bên.
Trong thực tế người ta thường kết hợp cả ba cách trả tiền trên.
d, Điều kiện về phương thức thanh toán
Điều khoản phương thức thanh toán là bộ phận không thể thiếu cấu thành hợp đồng ngoại thương. Lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp là yếu tố chính góp phần hạn chế rủi ro trong TTQT.
Thông thường, trong các giao dịch kinh tế và phi kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú thì nguời thụ hưởng và người trả tiền không thanh toán trực tiếp cho nhau mà thông qua hệ thống ngân hàng. Trong đó, người trả tiền ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình làm thủ tục trả tiền cho người thụ hưởng ở nước ngoài thông qua ngân hàng đại lý, còn người thụ hưỏng ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người mắc nợ ở nước ngoài thông qua một ngân hàng đại lý. Để việc thanh toán diễn ra an toàn và chính xác thì bên ủy thác và ngân hàng nhận ủy thác phải thỏa thuận một phương thức thanh toán quốc tế thích hợp. Phương thức thanh toán quốc tế đó là toàn bộ nội dung, điều kiện và cách thức để ngân hàng tiến hành chuyển tiền và trả tiền giữa người cư trú và người không cư trú. Việc lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp phải được hai bên xuất khẩu và nhập khẩu bàn bạc thống nhất, ghi vào hợp đồng ngoại thương.
1.3.2. Các phương thức TTQT chủ yếu của NHTM
Phương thức TTQT là toàn bộ quá trình, điều kiện, quy định mà người mua thực hiện để trả tiền, nhận hàng còn người bán nhận tiền và giao hàng trong TMQT.
Có nhiều phương thức TTQT khác nhau và lựa chọn phương thức phù hợp để áp dụng phụ thuộc vào yêu cầu của người nhập khẩu. Đó là yêu cầu về chất lượng, số lượng hàng hóa và thời gian được nhận hàng. Bên cạnh đó còn phụ thuộc vào mức độ tin tưởng giữa người mua và người bán.
Hiện nay, người ta áp dụng chủ yếu ba phương thức TTQT sau đây:
1.3.2.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance)
Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Trong phương thức này, người chuyển tiền và người nhận tiền thanh toán trực tiếp với nhau, ngân hàng chỉ đóng vai trung gian thanh toán theo ủy nhiệm và hưởng phí dịch vụ, vì thế ít chịu rủi ro; trừ khi ngân hàng cấp tín dụng cho người có hợp đồng thanh toán. Thanh toán bằng phương thức này chủ yếu áp dụng trong trường hợp hai bên mua bán có uy tín và tin tưởng lẫn nhau.
Có hai phương tiện chuyển tiền là:
- Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – MT): hình thức chuyển tiền mà lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được chuyển bằng thư cho ngân hàng trả tiền.
Phương tiện này chi phí thấp nhưng tốc độ thanh toán chậm, nên hiện nay không còn được sử dụng nhiều.
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraghic Transfer –T/T): hình thức chuyển tiền mà trong đó lệnh thanh toán của ngân hàng chuyển tiền được thể hiện trong nội dung bức điện tín gửi cho ngân hàng trả tiền.
Phương tiện này chi phí cao nhưng tốc độ xử lý nhanh, có lợi cho nhà xuất khẩu.
Các yêu cầu về chuyển tiền
Muốn chuyển tiền phải có giấy phép của Bộ chủ quản hoặc Bộ tài chính. Chuyển tiền trong thanh toán ngoại thương phải có :
- Hợp đồng mua bán ngoại thương
- Bộ chứng từ gửi hàng của người xuất khẩu gửi đến
- Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu (nếu cần)
- Uỷ nhiệm chi ngoại tệ và phí chuyển tiền
Lệnh chuyển tiền gửi đến một ngân hàng thương mại được phép thanh toán quốc tế cần ghi đủ:
- Tên, địa chỉ của người hưởng lợi, số tài khoản nếu người hưởng lợi yêu cầu.
- Số ngoại tệ muốn chuyển cần ghi rõ bằng số và bằng chữ, loại ngoại tệ.
- Lí do chuyển tiền.
- Và các yêu cầu khác.
- Ký tên, đóng dấu.
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản nên khá phổ biến trong những giao dịch TMQT kim ngạch nhỏ.
1.3.2.2. Phương thức thanh toán nhờ thu
Nhờ thu là phương thức thanh toán mà trong đó, bên bán ( nhà xuất khẩu) sau khi giao hàng hay cung ứng dịch vụ, ủy thác cho ngân hàng phục vụ xuất trình bộ chứng từ thông qua ngân hàng đại lý cho bên mua ( nhà nhập khẩu) để được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hoặc chấp nhận các điều kiện và các điều khoản khác.
Các bên tham gia:
- Người xuất khẩu (Drawer): người ký phát hối phiếu.
- Người nhập khẩu (Drawee): người thanh toán hối phiếu.
- Ngân hàng chuyển chứng từ (Remitting Bank): ngân hàng phục vụ người xuất khẩu và nhận sự ủy thác của người bán, làm thủ tục chuyển chứng từ tới ngân hàng phục vụ người nhập khẩu.
- Ngân hàng thu hộ (Collecting Bank): ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của ngân hàng chuyển chứng từ, ở nước người nhập khẩu làm nhiệm vụ thu hộ tiền.
Các ngân hàng chỉ có trách nhiệm thực hiện ủy thác nhờ thu của khách hàng chứ không có bất kỳ nghĩa vụ hay cam kết nào trong việc thanh toán cho nhà nhập khẩu.
Trong phương thức nhờ thu, căn cứ vào tính chất chứng từ, người bán có._. thể yêu cầu làm cơ sở nhờ thu hộ, người ta phân thành hai loại là nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ
Nhờ thu phiếu trơn (Clean collection)
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức nhờ thu mà người xuất khẩu gửi hàng và bộ chứng từ thương mại trực tiếp cho người nhập khẩu, sau đó sẽ ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người mua, căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra.
Trong phương thức này, rủi ro chủ yếu thuộc về người xuất khẩu vì việc thanh toán phần lớn dựa trên chứng từ tài chính. Người xuất khẩu có thể gặp rủi ro như người nhập khẩu không chịu thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ, chậm trễ… Người nhập khẩu cũng có thể gặp rủi ro nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ, người nhập khẩu sẽ phải thanh toán tiền trong khi không biết được việc nhập khẩu của người xuất khẩu có đúng hợp đồng hay không.
Phương thức nhờ thu phiếu trơn có chi phí thấp nhưng rủi ro lớn nên ít được sử dụng.
Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection)
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu (gồm chứng từ hàng hóa và hối phiếu), nhờ ngân hàng thu hộ số tiền trên tờ hối phiếu đó, với điều kiện người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền thì ngân hàng mới trao chứng từ để người nhập khẩu đi nhận hàng.
Có 2 loại nhờ thu kèm chứng từ là :
+ Nhờ thư D/P (Documentary against Payment - Trả tiền trao chứng từ): người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng chỉ trao chứng từ cho người nhập khẩu khi người nhập khẩu đã trả tiền hối phiếu do người ký phát ký.
+ Nhờ thu D/A (Documentary against Acceptance - Chấp nhận trả tiền trao chứng từ): người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng chỉ trao chứng từ cho người nhập khẩu khi người nhập khẩu ký chấp nhận trả tiền hối phiếu do người xuất khẩu ký phát.
1.3.2.3. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary Credit)
Phương thức tín dụng chứng từ (hay thư tín dụng) là một sự thỏa thuận mà trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp quy chế đề ra trong thư tín dụng.
Trong phương thức TDCT, các bên tham gia gồm có:
- Người yêu cầu mở L/C (Applicant): người nhập khẩu hoặc người mua.
- Người thụ hưởng L/C (Beneficiary): người xuất khẩu hoặc người được chỉ định thụ hưởng L/C.
- Ngân hàng phát hành (Issuing Bank): ngân hàng phát hành L/C theo yêu cầu của người xin mở L/C.
- Ngân hàng thông báo (Advising Bank): ngân hàng được ngân hàng phát hành yêu cầu thông báo L/C.
- Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): ngân hàng mà ở đó L/C có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu hoặc chấp nhận thanh toán.
Tùy từng trường hợp còn có thể có thêm ngân hàng xác nhận, ngân hàng hoàn trả…
- Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): ngân hàng cam kết thanh toán cho nhà xuất khẩu thay cho ngân hàng phát hành L/C, áp dụng khi người thụ hưởng không tin tưởng khả năng thanh toán của ngân hàng phát hành L/C.
- Ngân hàng hoàn trả (Reimbursing Bank): ngân hàng được ngân hàng phát hành ủy nhiệm thực hiện thanh toán L/C cho ngân hàng được chỉ đinh thanh toán hoặc chiết khấu, áp dụng khi ngân hàng phát hành và ngân hàng được chỉ định thanh toán không có quan hệ tài khoản.
Các loại thư tín dụng thương mại
Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (irrevocable L/C) là loại thư tín dụng sau khi đã được mở ra và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không sửa đổi hoặc huỷ bỏ trong thời gian hiệu lực của nó, trừ khi có thoả thuận khác của các bên tham gia L/C.
Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (confirmed irrevocable L/C) là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ được một ngân hàng khác xác nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C.
Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi (irrevocable without recourse L/C) là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không còn quyền đòi lại người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào.
Thư tín dụng chuyển nhượng (transferable L/C) là thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó qui định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác. L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu.
Thư tín dụng tuần hoàn (revolving L/C) là loại L/C không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó tự động có giá trị như cũ, và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng trị giá hợp đồng được thực hiện.
Thư tín dụng giáp lưng (back to back L/C) sau khi nhận được L/C do người nhập mở cho mình hưởng, người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho người hưởng lợi khác hưởng với nội dung gần giống như L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/C giáp lưng.
Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C) là loại thư tín dụng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi thư tín dụng kia đối ứng với nó được mở ra. Trong L/C ban đầu thường phải ghi: “ L/C này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã mở một L/C đồi ứng với nó để cho người mở L/C này hưởng” và trong L/C đối ứng phải ghi câu: “L/C này đối với L/C số ...mở ngày... qua ngân hàng ...”
Thư tín dụng dự phòng (stand-by L/C)
Việc ngân hàng mở L/C đứng ra thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu là thuộc khái niệm trước đây về tín dụng chứng từ, nhưng trong thời đại ngày nay không loại trừ khả năng người xuất khẩu nhận được L/C rồi nhưng không có khả năng giao hàng. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu, ngân hàng của người xuất khẩu sẽ phát hành một L/C trong đó cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. L/C như thế gọi là L/C dự phòng.
Thư tín dụng thanh toán dần dần về sau (deferred payment L/C) là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C hay là ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần toàn bộ số tiền của L/C trong những thời hạn qui định rõ trong L/C đó. Đây là loại L/C trả chậm từng phần.
1.3.3. Các chỉ tiêu đo lường việc mở rộng TTQT
Để đánh giá hoạt động TTQT, ta cần xét trên các khía cạnh đó là:
1.3.3.1. Doanh số hoạt động TTQT
Doanh số hoạt động TTQT của NHTM là chỉ tiêu về tổng thu nhập từ tất cả các dịch vụ TTQT như: mở L/C, thông báo L/C, chuyển tiền nước ngoài… của ngân hàng trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô và tốc độ mở rộng hoạt động TTQT của ngân hàng.
Tăng doanh số hoạt động TTQT của ngân hàng cũng chính là mở rộng TTQT.
1.3.3.2. Tỷ trọng thu từ TTQT so với tổng thu nhập của ngân hàng
Tỷ trọng thu từ TTQT so với tổng thu nhập của ngân hàng là con số tương đối, cho biết tỷ lệ đóng góp thu nhập của hoạt động TTQT vào tổng thu nhập của ngân hàng trong thời gian được tính thường là một năm. Tỷ trọng lớn, chứng tỏ TTQT hoạt động hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, vậy TTQT là thế mạnh đối với ngân hàng. Ngược lại, tỷ trọng thấp thể hiện hoạt động TTQT của ngân hàng chưa được mở rộng và phát triển.
Vì vậy, tỷ trọng thu từ TTQT so với tổng thu nhập ngân hàng là một tiêu chí để đánh giá hoạt động TTQT.
1.3.3.3. Thị phần hoạt động TTQT
Thị phần hoạt động TTQT của ngân hàng là cũng là một chỉ tiêu tương đối phản ánh quy mô hoạt động TTQT của ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ lệ doanh số TTQT của ngân hàng so với doanh số TTQT của toàn hệ thống hoặc doanh số TTQT của tất cả NHTM trong cả nước. Tỷ lệ này càng cao có nghĩa là thị phần hoạt động TTQT càng lớn, khối lượng khách hàng sử dụng dịch vụ này của ngân hàng càng nhiều, đó chính là một yếu tố để giúp mở rộng hoạt động TTQT của ngân hàng.
1.3.3.4. Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ TTQT của NHTM cung cấp
Việc gia tăng số sản phẩm dịch vụ của TTQT mà NHTM cung cấp phản ánh mở rộng hoạt động TTQT của ngân hàng, đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu của ngân hàng đối với khách hàng, sự nhanh nhạy của ngân hàng để theo kịp đòi hỏi thực tế cũng như chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Có thể nói, việc đánh giá mở rộng hoạt động TTQT chính xác và toàn diện, cần phải phân tích, căn cứ vào nhiều chỉ tiêu kết hợp nhau, bên cạnh những chỉ tiêu trên còn có các chỉ tiêu như: phí TTQT của ngân hàng trên tổng doanh thu, số tiền, số món trong từng nghiệp vụ của ngân hàng…
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động TTQT
1.4.1. Nhân tố chủ quan
1.4.1.1. Nhân tố con người
Nhân tố chủ quan đầu tiên ảnh hưởng đến hoạt động TTQT là nhân tố con người. Con người chính là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của một NHTM. Môi trường hoạt động TTQT nói riêng và các hoạt động khác của ngân hàng nói chung đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo và quản lý có trình độ năng lực thực sự, sáng tạo trong kinh doanh, phẩm chất đạo đức tốt; đội ngũ nhân viên giỏi về nghiệp vụ, hiểu biết kinh tế, pháp luật, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc.
1.4.1.2. Chính sách đối ngoại của ngân hàng
Nhân tố chủ quan thứ hai tác động đến hoạt động TTQT là chính sách đối ngoại của ngân hàng. Chính sách đối ngoại của ngân hàng là tất cả những chiến lược phát triển đại lý với các ngân hàng nước ngoài, nhằm mục đích mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý và tạo dựng mối quan hệ bền vững.
Trong tình hình kinh tế - xã hội toàn cầu hóa hiện nay, giao lưu kinh tế - văn hóa giữa các quốc gia càng sôi động, do đó nhu cầu TTQT ngày càng tăng và đòi hỏi được đáp ứng trên diện rộng. Vì vậy, ngân hàng cần có chính sách đối ngoại phù hợp, phát triển đại lý để có thể thực hiện TTQT trên khắp thế giới, nhưng vẫn đảm bảo độ nhanh chóng, chính xác, an toàn và không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Từ đây, ngân hàng càng củng cố được vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường tài chính quốc tế.
1.4.1.3. Chính sách phát triển dịch vụ của ngân hàng
Chính sách phát triển dịch vụ của ngân hàng cũng là một trong những nhân tố chủ quan tác động tới hoạt động TTQT của NHTM. Chính sách phát triển dịch vụ phải nằm trong tổng thể chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Nếu ngân hàng không quan tâm đến phát triển dịch vụ thì sẽ đi vào lạc hậu. Ngược lại, một ngân hàng có chính sách phát triển phù hợp, là động lực thúc đẩy sự phát triển của các nghiệp vụ khác như bảo lãnh mở L/C, tài trợ XNK,… Và chính các nghiệp vụ này phát triển cũng ảnh hưởng tích cực trở lại đối với hoạt động TTQT, góp phần mở rộng hoạt động này của ngân hàng.
1.4.1.4. Một số nhân tố chủ quan khác
Ngoài ba nhân tố trên, còn có một số nhân tố chủ quan khác ảnh hưởng hoạt động TTQT của NHTM đó là chính sách khách hàng, trình độ phát triển công nghệ thông tin…
Chính sách khách hàng tốt đồng nghĩa với việc ngân hàng ngày càng tạo được mối quan hệ khăng khít với khách hàng truyền thống, hơn nữa còn thu hút thêm các khách hàng tiềm năng mới, từ đó tăng thị phần và doanh số TTQT, tăng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Bên cạnh đó, ứng dụng rộng rãi các thành tựu công nghệ thông tin hiện đại tạo điều kiện cho giao dịch TTQT nhanh chóng, an toàn, hiệu quả.
1.4.2. Nhân tố khách quan
1.4.2.1. Chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách ngoại thương nói riêng của một nước
Kinh tế đối ngoại chính là một khái niệm của Thương mại quốc tế, do đó nó cũng là quan hệ kinh tế của một quốc gia với các quốc gia khác trên thế giới. Nó bao gồm hoạt động ngoại thương, dịch vụ quốc tế, đầu tư tài chính, chuyển giao công nghệ và nhiều hoạt động kinh tế khác. Do đó, kinh tế đối ngoại được coi là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới.
Chính sách ngoại thương là hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng để điều chính hoạt động ngoại thương của một quốc gia trong một thời gian nhất định, với mục đích đạt được mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Nhiệm vụ của chính sách ngoại thương là điều chỉnh các hoạt động TMQT theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển của đất nước.
Trong chính sách ngoại thương có hai xu hướng là bảo hộ mậu dịch và tự do hóa mậu dịch. Về mặt nguyên tắc thì hai xu hướng này đối nghịch với nhau và có tác động ngược chiều nhau đến TMQT. Nhưng trên thực tế, chúng lại không bài trừ nhau mà thống nhất với nhau, tùy theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, tùy theo điều kiện và đặc điểm cụ thể mà người ta sử dụng kết hợp khéo léo hai xu hướng trên. Nhưng trong từng thời kỳ, nếu sự kết hợp đó thiên về khuynh hướng hướng ngoại thì sẽ tạo điều kiện cho kinh tế ngoại thương phát triển, qua đó gây ảnh hưởng tích cực cho hoạt động TTQT tại ngân hàng.
Việc mở rộng và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại có ý nghĩa to lớn đặc biệt đối với hoạt động TTQT. Kinh tế đối ngoại đặc biệt là ngoại thương phát triển làm phát sinh nhiều nhu cầu thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ với các quốc gia khác. Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển các nghiệp vụ TTQT. Hơn nữa, kinh tế ngoại thương phát triển sẽ yêu cầu nhiều loại hình dịch vụ TTQT phát triển theo để đáp ứng các nhu cầu đa dạng đó.
Thực tiễn cho thấy các nước có nền kinh tế ngoại thương phát triển thì các nghiệp vụ TTQT của ngân hàng cũng phát triển và đa dạng. Ngoài những dịch vụ truyền thống, các ngân hàng tăng thêm các nghiệp vụ TTQT nhằm thỏa mãn các nhu cầu mới phát sinh. Các nguồn thu của ngân hàng về TTQT thường rất lớn. Ngược lại, ở những nước kinh tế đang hoặc kém phát triển thi các dịch vụ ngân hàng nói chung còn nghèo nàn, chủ yếu là các nghiệp vụ đơn giản, truyền thống. Một trong những nguyên nhân đó chính là nền kinh tế thương mại còn kém phát triển, doanh số xuất nhập khẩu còn hạn chế.
1.4.2.2. Chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối là những quy định, pháp lý của Nhà nước trong quản lý ngoại tệ, quản lý chứng từ có giá trị ngoại tệ… cũng như việc trao đổi sử dụng mua bán ngoại tệ trên thị trường nội địa và quan hệ thanh toán, tín dụng với nước ngoài.
Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối là quản lý và kiểm soát luồng vận động của ngoại hối từ nước ngoài vào và trong nước ra. Nó có liên quan trực tiếp đến quan hệ ngoại thương cũng như các quan hệ TMQT khác bằng ngoại tệ. Bên cạnh đó, chính sách quản lý ngoại hối còn quản lý và kiểm soát sự lưu thông của ngoại hối. Vì thế, nó có vai trò quan trọng trong việc ổn định giá trị tiền tệ quốc gia nói riêng và ổn định nền kinh tế nói chung.
Các NHTM với chức năng là trung gian thanh toán, là cửa ngõ ra vào của ngoại tệ, đóng vai trò hải quan kiểm soát luồng tiền ra vào của các quốc gia. Vì thế cho nên các NHTM được phép TTQT được Ngân hàng Nhà nước trao đặc quyền kiểm soát các hoạt động TTQT do khách hàng ủy thác cho họ theo đúng quy định của chế độ quản lý ngoại hối hiện hành. Hiện nay, trên thế giới vẫn tồn tại song song hai chế độ quản lý ngoại hối là chế độ quản lý ngoại hối tự do ở các nước tư bản phát triển và chế độ quản lý thắt chặt ở các nước đang hoặc kém phát triển.
Chế độ quản lý ngoại hối tự do tại các nước tư bản, cho phép đồng tiền quốc gia được tự do tham gia vào thị trường quốc tế, tự do chuyển đổi sang ngoại tệ. Tại các nước Anh, Pháp, Mỹ… việc xuất nhập khẩu tư bản, lưu thông tiền tệ trên thị trường nội địa là hoàn toàn tự do, các chủ thể kinh tế cũng được tự do mở tài khoản ở nước ngoài. Tại những nước này, các luồng ngoại tệ không chịu sự kiểm soát của nhà nước. Do đó, hoạt động TTQT của các NHTM không bị chi phối bởi chính sách ngoai hối. Chế độ này phù hợp với xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới, nhưng chỉ thích hợp với nền kinh tế phát triển cao. Còn ở những nước có nền kinh tế chưa phát triển hoặc kém phát triển như nước ta, thì áp dụng chế độ quản lý ngoại hối thắt chặt. Nhà nước quản lý chặt luồng vận động của ngoại tệ. Trong phạm vi quốc gia, các chủ thể kinh tế không được phép thanh toán với nhau bằng ngoại tệ, trừ một số trường hợp đặc biệt . Người cư trú và không cư trú không được tựu do chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài phải tuân thu nghiêm ngặt chế độ quản lý của Nhà nước.
1.4.2.3. Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này biểu hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia, là hệ số quy đổi của đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác, được xác định bởi mối quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái là một nhân tố nhạy cảm. Sự biến động lên hay xuống của tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng đến hoạt động trong nền kinh tế, trong đó có hoạt động TTQT của ngân hàng.
Khi đồng tiền trong nước mất giá so với ngoại tệ, giá cả hàng hóa trong nước sẽ rẻ đi một cách tương đối so với hàng hóa nước ngoài, và ngược lại, hàng hóa nhập khẩu sẽ bị đắt lên. Do đó, nước có đồng tiền mất giá sẽ có điều kiện tâng cường xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Đối với những nước đang và kém phát triển có nhu cầu nhập khẩu lớn máy móc thiết bị, hàng hóa tiêu dùng… sẽ bị ảnh hưởng lớn trong trường hợp này. Hoạt động nhập khẩu bị co hẹp nhưng hoạt động xuất khẩu không thể tăng lên một cách tương ứng do các mặt hàng xuất khẩu của các nước này chủ yếu là hàng thô, hàng sơ chế. Doanh thu xuất nhập khẩu bị giảm đi rất lớn. Vì thế nó làm hạn chế hoạt động TTQT của các NHTM trong nước.
Khi đồng tiền trong nước đắt lên so với ngoại tệ, giá cả hàng hóa trong nước sẽ đắt lên một cách tương đối và hàng hóa nhập khẩu vào nội địa rẻ hơn. Nước có đồng tiền lên giá sẽ khó khăn hơn khi xuất khẩu và có lợi hơn khi nhập khẩu. Các hoạt động nhập khẩu sẽ được tăng cường. Hoạt động TTQT có điều kiện được mở rộng.
1.4.2.4. Sự thay đổi chế độ kinh tế, chính trị của nước bạn hàng
Hoạt động TTQT chịu ảnh hưởng mãnh mẽ bởi tác động của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Mỗi sự biến động về chế độ chính trị của nước bạn hàng sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết đã thỏa thuận giữa các bên. Sự suy thoái kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng đến tự do hóa thương mại. Những thay đổi về cơ chế, chính sách của một quốc gia như thay đổi quy định về dự trữ ngoại hối, quy định về thuế, phí xuất nhập khẩu… hoặc đơn giản là môi trường pháp lý, nền kinh tế của một quốc gia chưa ổn định và thường xuyên thay đổi khiến cho các bên đối tác không dự đoán trước được tình hình làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, vì vậy gây thiệt hại cho các bên tham gia, trong đó có NHTM.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN HÀ NỘI – HỘI SỞ CHÍNH
2.1. Tổng quan về SHB
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của SHB
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB) tiền thân là Ngân hàng TMCP Nông thôn Nhơn Ái, hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 5703000085 do Sở kế hoạch và đầu tư TP Cần Thơ cấp ngày 10/12/1993 và giấy phép số 0041/NN/GP do NHNN Việt Nam cấp ngày 13/11/1993. SHB chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12/12/1993.
Những ngày đầu đi vào hoạt động, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, SHB với vốn điều lệ ban đầu là 400 triệu đồng, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng chỉ có trụ sở chính đặt tại số 341- Ấp Nhơn Lộc 2 - Thị tứ Phong Điền - Huyện Châu Thành - Tỉnh Cần Thơ nay là Huyện Phong Điền Thành phố Cần Thơ, với tổng số cán bộ nhân viên lúc bấy giờ là 8 người, trong đó chỉ có một người có trình độ đại học, với địa bàn bao gồm vài xã thuộc huyện Châu Thành, đối tượng khách hàng chủ yếu là các hộ nông dân với mục đích vay vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Trải qua 16 năm hoạt động, đến nay vốn điều lệ của SHB đã đạt 2000 tỷ đồng, mạng lưới hoạt động kinh doanh đã có mặt tại các địa bàn thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, TP Hà Nội, TP Đà Nẵng, TP Cần Thơ và Hải Phòng; các tỉnh và thành phố có mức tăng trưởng cao, dân số đông như Quảng Ninh, Vinh, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Lạng Sơn, Lào Cai và các thành phố có khu công nghiệp như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Bắc Ninh, Chu Lai, Quy Nhơn, Bình Dương, Đồng Nai; với nhiều sản phẩm dịch vụ mới tiện ích. Đối tượng khách hàng của SHB đã đa dạng gồm nhiều thành phần kinh tế và hoạt động trong nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau. Hoạt động kinh doanh những năm qua, SHB luôn giữ được tỷ lệ an toàn vốn cao cùng với chính sách tín dụng thận trọng và quy trình hợp lý đảm bảo chất lượng và tài sản tốt với khả năng phát triển danh mục tín dụng khả quan. Vì vậy, kết quả kinh doanh của SHB năm sau luôn cao hơn năm trước, các chỉ tiêu tài chính đều đạt và vượt kết hoạch đề ra, tạo tiền đề thuận lợi để ngân hàng phát triển bền vững.
Ngày 20/1/2006 Thống đốc NHNN Việt Nam đã ký quyết định số 93/QĐ-NHNN chấp thuận cho SHB chuyển đổi mô hình từ Ngân hàng TMCP nông thôn sang Ngân hàng TMCP đô thị, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của SHB, từ đó đã tạo thuận lợi cho ngân hàng có điều kiện nâng cao năng lực tài chính, mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh, đủ sức cạnh tranh và phát triển đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Và cho đến ngày 14/1/2008 đã hoàn thành việc tăng vốn điều lệ lên 2000 tỷ đồng. Với việc tăng vốn này, SHB có khả năng đáp ứng những khách hàng lớn cùng với hạn mức tín dụng lớn, đây là thuận lợi lớn của ngân hàng khi mà nhu cầu về vốn của nền kinh tế đang tăng cao như hiện nay.
Trong năm 2008 SHB đã đạt được nhiều giải thưởng có uy tín như Sao vàng Đất Việt 2008, Doanh nghiệp bán lẻ xuất sắc 2008, Sao vàng Thủ đô 2008, Nhà lãnh đạo xuất sắc 2008 trao cho Tổng giám đốc SHB, Thành tích xuất sắc đóng góp vào sự thành công chung của triển lãm Quốc tế Banking Expo 2008, Ngân Nhà nước Việt Nam xếp loại A năm 2007, Giải “ Nhãn hiệu cạnh tranh - Nổi tiếng quốc gia 2007” do Viện sở hữu trí tuệ trao tặng , Giải “ Thương hiệu mạnh 2007” do Thời báo Kinh tế trao tặng, Thành tích xuất sắc đóng góp vào sự thành công chung của Triển lãm Quốc tế Ngân hàng – Tài chính và Bảo hiểm 2007…
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của SHB – Hội sở chính thời gian qua
Qua 16 năm hoạt động kết quả kinh doanh của ngân hàng luôn năm sau đạt cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân trên 45%, nhiều sản phẩm dịch vụ mới ra đời.
Mặc dù 2008 là một năm đầy khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành tài chính ngân hàng nói riêng, song SHB vẫn đạt mức tăng trưởng khả quan.
Mới chỉ tính đến quý 2/2008 nhưng SHB đã đạt được mức tăng trưởng thu nhập cao. Năm 2006 thu nhập lãi thuần của SHB đạt 261,93% so với năm 2005 và tỷ lệ vào năm 2007 là 331,32%. Mới vào giữa năm 2008, tức là tính đến hết quý 2/2008 nhưng mức tăng trưởng thu nhập của SHB so với cả năm 2007 xấp xỉ 125%. Có thể nói đây là một con số hết sức ấn tượng, đặc biệt đối với một Ngân hàng còn non trẻ trong lĩnh vực Thương mại cổ phần Đô thị như SHB.
2.1.2.1. Kết quả kinh doanh của SHB – Hội sở chính
Ta có thể xem xét rõ hơn kết quả kinh doanh hoạt động của Ngân hàng trong những năm gần đây trong bảng sau và biểu đồ sau:
Bảng 2.1: Tình hình kinh doanh của SHB 2006 - 2008
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
1
Thu nhập lãi thuần
27.002
89.462
160.799
2
Lãi lỗ thuần từ hoạt động dịch vụ
(107)
967
7.412
3
Lãi lỗ thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối
5
2.467
26.023
4
Lãi/lỗ thuần từ kinh doanh chứng khoán/CK đầu tư
-
13.719
(14.167)
5
Lãi/lỗ thuần từ hoạt động khác
3.270
137.722
295.755
6
Thu nhập từ vốn góp mua cổ phần
-
18.000
2.965
7
Chi phí hoạt động
16.120
73.585
190.536
8
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng
4.254
12.518
17.890
9
Lợi nhuận trước thuế
9.797
176.235
268.260
10
Thuế TNDN
2.743
49.346
74.590
11
Lợi nhuận sau thuế
7.054
126.889
194.769
(Nguồn: BCTC đã được kiểm toán 2006, 2007 và BCTC 2008)
Theo Báo cáo tài chính 2008 của SHB được công bố thì kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2008 là lợi nhuận trước thuế đạt gần 269 tỷ đồng, tổng tài sản đạt trên 14.369 tỷ đồng, tổng dư nợ tín dụng là 6.227 tỷ đồng, tổng vốn huy động trên toàn hệ thống đạt 11.768,7 tỷ đồng. So với các năm trước đó, các chỉ tiêu này đều có sự tăng trưởng rõ rệt mà ta có thể thấy được qua bảng 2.1. Biểu đồ sau thể hiện rõ sự tăng trưởng đáng mừng đó của SHB.
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng lợi nhuận SHB 2006 - 2008
Sau khi Thống đốc NHNN Việt nam ký quyết định số 93/QĐ-NHNN chấp thuận cho SHB chuyển đổi mô hình từ Ngân hàng TMCP nông thôn sang Ngân hàng TMCP đô thị, đã đánh một giai đoạn phát triển mới của SHB, là một cột mốc quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của SHB. Điều này thể hiện trong sự tăng trưởng về lợi nhuận của Ngân hàng và quá trình tăng vốn điều lệ của Ngân hàng từ 500 tỷ VNĐ lên 2000 tỷ vào năm 2008. Đây là động lực thúc đẩy SHB về mọi mặt trong quá trình đất nước hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, tạo đà cho SHB phát triển ngày càng nhanh và mạnh hơn nữa.
2.1.2.2. Tình hình nguồn vốn tại SHB – Hội sở chính
Về hoạt động huy động vốn, trong những năm qua SHB đã thu được những thành quả đáng khích lệ, cụ thể như sau:
Bảng 2.2: Tình hình nguồn vốn huy động 2006 – 2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Phân theo kỳ hạn
770.001
100%
9.948.553
100%
16.080.61
100%
-Ngắn hạn
674.220
87,56%
9.328.662
93,77%
15.717.084
94,50%
-Trung, dài hạn
95.781
12,44%
619.891
6,23%
663.477
5,50%
Phân theo cơ cấu
770,001
100%
9.948.553
100%
16.080.561
100%
-Trong nước
770.01
100%
9.948.553
100%
16.080.561
100%
+TCTD
402.000
52,21%
7.091.785
71,28%
4.371.004
29,34%
+Khách hàng khác
368.001
47,79%
2.856.768
28,72%
11.709.557
70,66%
-Nước ngoài
-
0%
-
0%
-
0%
(Nguồn: BCTC đã được kiểm toán 2006,2007 và Báo cáo phòng Nguồn vốn SHB 2008)
Trong những năm gần đây, đặc biệt trong năm 2006 và đầu năm 2007, thị trường chứng kiến cuộc chạy đua huy động vốn của các NHTM. Sự cạnh tranh của các NHTM nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân diễn ra khá quyết liệt, thông qua các dịch vụ chăm sóc khách hàng, lãi suất cạnh tranh và các chương trình khuyến mại có giá trị lớn để thu hút khách hàng. Ngoài ra, thị trường chứng khoán cũng là một kênh huy động vốn đặc biệt thuận lợi của các ngân hàng trong thời điểm này.
Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng nguồn vốn huy động 2006 – 2008
Nguồn vốn huy động của SHB các năm qua đều tăng cao do SHB đã không ngừng mở rộng mạng lưới chi nhánh, đến thời điểm 31/12/2006 tổng vốn huy động đạt 770.001 triệu đồng, năm 2007 đạt 9.948.553 triệu đồng. Tốc độ tăng trưởng vốn hoạt động duy trì ở mức cao, năm 2006 đạt 290% so với năm 2005; năm 2007 tăng 1192% so với tổng nguồn vốn huy động cả năm 2006. Và đến 31/12/2008 tổng nguồn vốn huy động trên toàn hệ thống là 11.768,7 tỷ đồng.
Nguồn vốn huy động phân theo kỳ hạn chủ yếu là huy động ngắn hạn. Năm 2006 nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm 87,56%; năm 2007 chiếm 93,77%. Trong năm 2008, do chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thường xuyên biến động nên lãi suất của các NHTM cũng có sự thay đổi để có tính cạnh tranh. Do lãi suất không ổn định nên khách hàng chủ yếu gửi ngắn hạn. Đó là lý do 6 tháng đầu năm 2008, vốn huy động ngắn hạn của SHB tăng lên, chiếm 95,5% tổng nguồn vốn huy động. Sự chênh lệch quá lớn giữa nguồn vốn huy động ngắn hạn và dài hạn có thể sẽ gây rủi ro cho SHB. Nếu vì lý do nào đó mà sụt giảm lãi suất tiền gửi, khách hàng đồng loạt đến rút tiền thì sẽ làm mất tính thanh khoản của SHB, và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hơn nữa, theo quy định của Nhà nước, các NHTM chỉ được phép dùng một số vốn huy động ngắn hạn đầu tư cho vay trung và dài hạn. Nhưng nếu vượt quá mức an toàn sẽ dẫn tới khả năng mất cân đối vốn hoạt động hằng ngày. Như vậy, vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn sẽ hạn chế việc cho vay trung và dài hạn của SHB. Để giảm thiểu rủi ro, SHB đang có kế hoạch điều chỉnh nguồn vốn huy động theo hướng giảm dần nguồn vốn huy động ngắn hạn và tăng dần nguồn vốn huy động dài hạn để góp phần đảm bảo cho sự kinh doanh ổn định của SHB.
Nguồn vốn huy động phân theo cơ cấu của SHB có sự chuyển dịch. Năm 2006 số vốn huy động từ các TCTD và từ khách hàng khác chiếm tỷ trọng xấp xỉ nhau (52,21% và 47,79%), và đến năm 2007 vốn huy động từ các TCTD chiếm tỷ trọng lớn tới 72,28% tổng nguồn vốn huy động. Việc huy động vốn lớn từ các TCTD không phải là một biện an toàn cho hoạt động kinh doanh của SHB. Đến cuối năm 2008, nguồn vốn huy động từ các TCTD đã được kiểm soát, chiếm 29,34 % tổng nguồn vốn huy động. Còn lại vốn huy động từ các cá nhân và tổ chức kinh tế khác. Việc điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn này đảm bảo cho SHB có được nguồn vốn ổn định cho phát triển kinh doanh.
Hiện nay SHB chưa có vốn nhận từ Chính phủ trong tổng nguồn vốn.
2.1.2.3. Tình hình tín dụng tại SHB – HSC
Trong bối cảnh biến động của nền kinh tế xã hội, thị trường vốn và thị trường trong nước, SHB đã không ngừng nâng cao năng lực tái cơ cấu và hoàn thiện bộ máy hoạt động, sửa đổi quy chế và quy trình nghiệp vụ tín dụng nhằm thích ứng với điều kiện từng vùng miền, ngành nghề kinh doanh. Đưa ra các sản phẩm dịch vụ cho vay hấp dẫn linh hoạt đến nhiều đối tượng khách hàng. Ngoài ra, SHB luôn kiểm soát chất lượng tín dụng, tập trung đầu tư vốn trên cơ sở thận trọng an toàn. Nhờ đó, hoạt động tín dụng của SHB đã đạt được sự tăng trưởng và bền vững. Tại Hội sở chính của SHB, năm 2006 tổng dư nợ SHB đạt 492,984 triệu đồng, năm 2007 đạt 4.283.503 triệu đồng, đến cuối năm con số này đã xấp xỉ 6.227.000 triệu đồng.
Bảng 2.3: Dư nợ tín dụng tại SHB 2006 - 2008
Đơn vị: Triệu đồng
Khoản mục
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Số dư
Tăng(%)
Số dư
Tăng(%)
Số dư
Tăng(%)
Tổng dư nợ tín dụng
492.984
114,5
4.283.503
748,61
6.226.734
145,36
+ TCTD
-
-
-
-
-
-
+Khách hàng khác
492,984
114,5
4.283.503
748,61
6.226.734
145,36
(Nguồn: BCTC đã được kiểm toán 2006, 2007 và báo cáo Phòng tín dụng SHB 2008)
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng dư nợ tín dụng tại SHB 2006 - 2008
Nhìn vào chỉ tiêu dư nợ của SHB ta thấy sự tăng trưởng đáng kể về hoạt động tín dụng của ngân hàng trong những năm vừa qua. Năm 2007 đánh dấu sự chuyển hướng hoạt động: tập trung cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng cho tất c._.t động TTQT.
Trong năm qua, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã lan từ Mỹ sang các nền kinh tế phát triển khác, Việt Nam tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng nằm trong hệ thống tài chính thế giới cũng đã chịu những tác động nhất định. Trong những tháng đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát gia tăng nhanh trong khi thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bắt đầu suy yếu. Chính phủ đã kịp thời triển khai 8 nhóm giải pháp lớn nhằm kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững và đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng trong 6 tháng đầu năm, do biến động giá trên thị trường thế giới, nhập siêu của Việt Nam đã tăng mạnh. Tính tới cuối tháng 6, nhập siêu đã tăng lên tới 14,8 tỷ USD, đe dọa sự bền vững của cán cân thanh toán và gây áp lực lên tỷ giá USD/VND. Tới cuối quý III/2008, Chính phủ đã phần nào thực hiện các giải pháp và đạt được một số kết quả như giảm nhập siêu, kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, sự suy thoái kinh tế toàn cầu đã bắt đầu có tác động tiêu cực tới xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Kinh tế chịu suy thoái dẫn đến TMQT, một bộ phận của nền kinh tế cũng bị tác động tiêu cực theo. Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân mất giá của USD và gây nên lạm phát cao ở nước ta. Ngoài ra, những biến động xấu của nền kinh tế thế giới trong năm qua đã có tác động tiêu cực tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước. Vì vậy nó đã làm giảm đáng kể nhu cầu nhập khẩu hàng hàng hóa và sự sụt giá của hàng xuất khẩu. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới nhu cầu xuất nhập khẩu của khách hàng tại SHB giảm sút, từ đó làm giảm doanh số hoạt động TTQT.
Tỷ giá đô la Mỹ biến động và chính sách tỷ giá không ổn định làm cho ngân hàng và doanh nghiệp xuất nhập khẩu không có phản ứng kịp thời, dẫn đến việc thanh toán và khai thác ngoại tệ thanh toán bị trì trệ, gây tâm lý hoang mang cho cả ngân hàng và khách hàng.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI SHB
3.1. Định hướng phát triển cho hoạt động TTQT của SHB – HSC
Hoạt động TTQT ngày càng trở nên quan trọng và gắn bó mật thiết với các hoạt động kinh doanh khác của NHTM. Định hướng phát triển hoạt động TTQT phải dựa trên cơ sở định hướng phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của SHB nói chung và tại Hội sở chính nói riêng. Để đạt được mục tiêu phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của SHB – HSC phải luôn gắn với phương châm kinh doanh “An toàn – hiệu quả”, đồng thời có những bước chuẩn bị tích cực cho quá trình mở rộng kinh doanh phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Để phấn đấu nâng cao hơn thị phần trong hoạt động TTQT, phát triển mạnh mẽ các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực; trong thời gian tới, định hướng phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của HSC – SHB cần thực hiện tốt các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đổi mới công nghệ thanh toán Ngân hàng. Việc đổi mới công nghệ thanh toán tại SHB được thể hiện trên các mặt:
Tiếp tục kiện toàn và hiện đại hóa hệ thống thanh toán. Thị trường tài chính quốc tế và khu vực là một mạng liên thông toàn cầu, dịch vụ ngân hàng đã liên kết các doanh nghiệp và nhà đầu tư với nhau trên phạm vi toàn cầu. Mỗi giao dịch như thế chỉ tính bằng thời gian rất ngắn nên để chuyển các khoản thanh toán đi và nhận các khoản thanh toán đến từ các ngân hàng đại lý không những chỉ được thiết lập với HSC mà còn cần thẳng tới các chi nhánh để rút ngắn thời gian thanh toán, không phải đi đường vòng.
Cần đa dạng hóa và hiện đại hóa các dịch vụ ngân hàng, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ đã có, tiến hành nghiên cứu và từng bước đưa các sản phẩm mới vào hoạt động: dự án rút tiền tự động, dịch vụ thanh toán thẻ, dự án thanh toán điện tử, dịch vụ phát triển kiều hối, bảo hiểm, thanh toán séc...
SHB tiếp tục triển khai các dự án hiện đại hóa đúng tiến độ. Tăng cường nghiên cứu và đầu tư thêm trang thiết bị mới có trọng điểm vào những nơi cần thiết, đồng thời nâng cấp hệ thống máy tính và mạng truyền tin viễn thông của ngân hàng.
Bên cạnh đó, phát triển các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại để tránh sự đơn giản về nghiệp vụ, nhằm đáp ứng sự phát triển đa dạng của đời sống kinh tế xã hội, các dịch vụ cần sử dụng rộng rãi như: chiết khấu hối phiếu, các dịch vụ mua bán nợ, kinh doanh hối đoái, đại lý ủy thác...
Thúc đẩy chiến lược hướng vào thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai, về nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế: Nghiên cứu mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng có chọn lọc để duy trì quan hệ với các ngân hàng đại lý đã có phát triển thêm các ngân hàng đại lý mới ở những nơi phát sinh nhiều giao dịch. Khảo sát, nghiên cứu để có hướng mở văn phòng đại diện ở nước ngoài. Phát triển khối lượng thanh toán xuất nhập khẩu, thu hút khách hàng, đặc biệt là những khách hàng xuất khẩu lớn để tăng nguồn thu ngoại tệ. Tiếp tục mở rộng và phát triển công tác kinh doanh ngoại tệ, tăng nguồn thu nhập về kinh doanh ngoại tệ, đảm bảo cung ứng đủ ngoại tệ cho nhu cầu khách hàng nhập khẩu và trả nợ nước ngoài.
Ngân hàng dự định sẽ thường xuyên hơn tổ chức các buổi hội thảo, mời các tổ chức tài chính, các ngân hàng để học hỏi và tăng thiết lập mối quan hệ đại lý. Từ đó tạo điều kiện cho ngân hàng nước ngoài biết đến và tin tưởng vào khả năng trong hoạt động TTQT nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của SHB.
Thứ ba, SHB định hướng sẽ tham gia các điều ước quốc tế, các diễn đàn khu vực về quốc tế về tiền tệ, ngân hàng. Từ đó, phát triển quan hệ hợp tác đa phương và song phương trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng nhằm tận dụng nguồn vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý tiến tiến của nước ngoài trong hoạt động thanh toán quốc tế; phối hợp với các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý rủi ro trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
3.2. Một số giải pháp mở rộng hoạt động TTQT
3.2.1. Tiếp tục bồi dưỡng và nâng cao trình độ của cán bộ TTQT
Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển kinh tế. Thực tế đã chứng minh một ngân hàng muốn phát triển và hoạt động hiệu quả thì phải có một đội ngũ quản trị có năng lực, tư duy chiến lược, tinh thông về nghiệp vụ ngân hàng và có tâm huyết với nghề. Trong hoạt động thanh toán quốc tế cũng vậy, năng lực trình độ của các cán bộ làm công tác TTQT có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ. Qua tiếp xúc trực tiếp và đánh giá năng lực của cán bộ ngân hàng, khách hàng sẽ quyết định có nên sử dụng dịch vụ của ngân hàng hay không. Vì vậy, để có đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ, năng lực, hiểu biết sâu sắc về nghiệp vụ thanh toán,
Phòng TTQT của SHB mới đi vào hoạt động ba năm với đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, năng động, sáng tạo nhưng đây cũng chính là một điểm yếu của ngân hàng, vì đội ngũ cán bộ trẻ chưa hoặc ít kinh nghiệm về hoạt động thực tiễn. Trong khi đó, hoạt động TTQT lại khá phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Vì thế yêu cầu đối với thanh toán viên không chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, dày dặn kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực ngoại thương, luật lệ, tập quán quốc tế mà còn phải biết tư vấn cho khách hàng, giúp khách hàng an tâm khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng.
Để làm được như vậy, SHB cần có chiến lược phát triển con người. Đây là chiến lược mang tính lâu dài. Cụ thể, Ngân hàng cần phải thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kiến thức trong việc giải quyết và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTQT. Cử cán bộ đi khảo sát, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, học các nghiệp vụ mới về thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, bồi dưỡng kiến thức về ngoại ngữ, pháp luật, thông lệ quy ước quốc tế để bắt kịp với những thay đổi trong qui trình nghiệp vụ trong hoạt động thanh toán theo tiêu chuẩn quốc tế.
Đồng thời, Ngân hàng tích cực giáo dục triệt để cán bộ nhân viên về văn minh trong giao tiếp và văn hóa kinh doanh. Đề cao khả năng độc lập, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm cao, phẩm chất đạo đức tốt. Với kiến thức và kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, sự am hiểu luật pháp, tập quán của từng nước, nhân viên thanh toán quốc tế có thể tư vấn nhằm phục vụ tốt nhất các yêu cầu của khách hàng.
Bên cạnh đó, SHB cần từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ thông qua chất lượng và hiệu quả công việc được giao. Thực hiện tốt việc phân loại cán bộ, bố trí và sử dụng nhân lực đúng người, đúng việc. Tăng cường số lượng cán bộ gắn với trình độ chuyên môn cho các phòng, tổ nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu công việc.
3.2.2. Thiết lập và mở rộng hệ thống ngân hàng đại lý ở nước ngoài
Thiết lập mạng lưới ngân hàng đại lý để thuận tiện cho việc thanh toán. Thường xuyên củng cố mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài đã có quan hệ lâu dài. Việc thanh toán nhanh chóng và đầy đủ sẽ giúp uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, các mối quan hệ làm ăn sẽ được tăng lên và chặt chẽ hơn.
Xây dựng hệ thống phân loại và chính sách quan hệ đại lý phù hợp để nâng cao uy tín quốc tế, tạo điều kiện tốt nhất cho việc giao dịch tại ngân hàng. Đồng thời khai thác hệ thống thanh toán của ngân hàng đại lý để phục vụ nhu cầu thanh toán của SHB. Ngoài ra, SHB còn học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các ngân hàng nước ngoài. Để phát huy hết vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng đại lý, SHB cần tiếp tục duy trì và củng cố mối quan hệ với các ngân hàng đại lý để giữ vững uy tín của mình trên thị trường.
Bên cạnh đó, SHB cần tìm hiểu, mở rộng những mối quan hệ đại lý với các ngân hàng mới tại nhiều quốc gia khác nhau.
Đối với các ngân hàng nước ngoài, mặc dù đã có sự nhân nhượng và mềm dẻo trong việc thanh toán nhằm giữ uy tín và lôi kéo khách hàng nhưng không để ảnh hưởng đế lợi ích của khách hàng. Từ đó, cân bằng lợi ích bản thân ngân hàng, đối tác và khách hàng để hợp tác các bên cùng có lợi.
3.2.3. Xây dựng chính sách khách hàng và hệ thống tiếp thị nhằm thu hút khách hàng đến với ngân hàng
Mặc dù nước ta đang trong giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai, nhưng sự cạnh tranh diễn ra giữa các ngân hàng đã diễn ra rất khốc liệt. Các NHTM, kể cả Ngân hàng thương mại quốc doanh và Ngân hàng thương mại cổ phần, muốn tồn tại và phát triển, tham gia vào thị trường quốc tế đều phải xây dựng cho mình uy tín thương hiệu để có thể thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của mình. Điểm khác biệt của các Ngân hàng thương mại là đều thực hiện nghiệp vụ như nhau, không có nghiệp vụ nào là độc tôn. Hơn nữa, ngày càng nhiều các ngân hàng nước ngoài lập chi nhánh tại Việt Nam, với công nghệ hiện đại, có đội ngũ chuyên viên và nhân viên đạt chuẩn quốc tế, là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong việc thu hút khách hàng trong lĩnh vực TTQT.
Khách hàng có quyền lựa chọn những ngân hàng tốt nhất, uy tín nhất để giao dịch. Vì thế, việc thúc đẩy các hoạt động Marketing trong ngân hàng, áp dụng các chiến lược Marketing linh hoạt, phù hợp nhằm mục đích từng bước tạo ấn tượng trong mắt khách hàng. Phục vụ khách hàng chu đáo, tận tình, luông mang lại sự thuận lợi, an toàn và hiệu quả nhất trong giao dịch với khách hàng. Để thực hiện tốt hoạt động Marketing, SHB phải chú trọng đến những vấn đề sau:
Nghiên cứu thị trường ngân hàng: Đây là vấn đề đầu tiên cần quan tâm khi ngân hàng muốn thành công trong thị trường mà mình đã và sẽ hoạt động. Nghiên cứu thị trường để nắm bắt thói quen và nhu cầu, tập quán của khách hàng. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng khách hàng lựa chọn ngân hàng giao dịch chủ yếu dựa trên so sánh về thương hiệu, tác phong trong giao dịch của nhân viên ngân hàng, khả năng tài chính, điểm đặt trụ sở (hay chi nhánh) của ngân hàng.
Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thể hiện qua các mặt:
- Vốn tự có của ngân hàng
- Giá trị thương hiệu
- Cơ sở vật chất, giá trị tài sản của ngân hàng.
- Mức độ an toàn trong kinh doanh của ngân hàng.
- Trình độ cán bộ, nhân viên của ngân hàng.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh tổng thể của ngân hàng, cần phải trả lời các câu hỏi sau:
- Hiện nay SHB đang nắm giữ bao nhiêu % thị phần trên địa bàn. Sự thay đổi thị phần trong những năm qua do những nguyên nhân nào và có thể mở rộng thị phần như thế nào trong thời gian tới?
- Chất lượng dịch vụ và giá cả dịch vụ so với mặt bằng chung của các NHTM trên cùng địa bàn hiện nay như thế nào? Ngân hàng đang cung cấp những loại hình dịch vụ nào, có sự khác biệt không? Những sản phẩm nào cạnh tranh được và những sản phẩm nào khó cạnh tranh? Nếu đưa ra các sản phẩm mới, với nhiều tiện ích thì có lôi cuốn khách hàng đến với ngân hàng hay không?
- Khả năng thu hút và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao so với các ngân hàng khác.
Phân tích, dự báo, nghiên cứu thử nghiệm sản phẩm mới trước khi tung ra thị trường. Từ những nghiên cứu và dự báo trên, ngân hàng đưa ra các chính sách thích hợp trong chiến lược Marketing cho hoạt động kinh doanh. Cụ thể, đó là các chính sách:
Chính sách sản phẩm: cung cấp sản phẩm mới đa dạng với nhiều tiện ích cho khách hàng, hạn chế những rủi ro có thể phát sinh, nhanh chóng, chính xác, độ an toàn cao và ngày càng hướng tới tiêu chuẩn quốc tế.
Chính sách giá cả: khách hàng luôn muốn sử dụng sản phẩm có chất lượng cao nhưng giá cả phải hợp lý và hấp dẫn. Vì thế, ngân hàng phải đầu tư đổi mới công nghệ, đưa ra những biện pháp, chính sách khuyến mãi, ưu đãi với khách hàng, giảm phí dịch vụ, ưu đãi đối với khách hàng lớn, có uy tín và quan hệ lâu dài với ngân hàng…
Chính sách phân phối sản phẩm: để có thể cung cấp dịch vụ cho khách hàng một cách nhanh nhất thì yêu cầu ngân hàng phải có mạng lưới rộng khắp, bố trí hợp lý, để khách hàng có thể dễ dàng nhận biết được ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Chính sách tiếp thị, khuyếch trương sản phẩm: sử dụng các phương tiện truyền thông để quảng bá hình ảnh của ngân hàng, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Ngân hàng cần phải lựa chọn phương tiện quảng cáo phù hợp, đầy đủ, ngắn gọn, súc tích gây ấn tượng với khách hàng. Điều đó đòi hỏi nhân viên phải có khả năng giao tiếp tốt, am hiểu các nghiệp vụ để tiếp xúc với khách hàng. Có như vậy, khách hàng mới hiểu được tiện ích từ việc sử dụng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Hơn nữa, cung cách giao tiếp tốt của nhân viên tạo sự tin tưởng, an toàn và thoải mái ở khách hàng khi họ tiếp nhận dịch vụ.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần đẩy mạnh dịch vụ tư vấn cho khách hàng, cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho khách hàng về đối tác, sản phẩm, về các ngân hàng trung gian, ngân hàng đại lý tham gia trong hợp đồng thương mại quốc tế, dự báo được một phần sự biến động của thị trường trong tương lai.
3.2.4. Tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế là hoạt động hàm chứa rất nhiều rủi ro, rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng. Nguyên nhân xảy ra rủi ro một phần khách quan là do sự biến động không lường trước được của thị trường, một phần chính là do bản thân con người gây ra. Như vậy, có thể nói rằng, sự thiếu hiểu biết, kiến thức cộng với khả năng chuyên môn hạn chế đã khiến rủi ra ngày càng gia tăng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và SHB nói riêng. Do đó, để hoạt động kinh doanh ngân hàng được an toàn và phát triển bền vững thì cần phải thực hiện một số giải pháp:
Trước hết, ngân hàng phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản, quy chế, quy trình nghiệp vụ; ban hành đầy đủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ trên nguyên tắc tuân thủ các quy định của nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, hệ thống văn bản chế độ, quy chế, quy trình nghiệp vụ phải được tổ chức nghiên cứu tập huấn và quán triệt để đảm bảo mọi cán bộ phải nắm vững đầy đủ và thực thi chính xác các quy định đó.
Bên cạnh đó, Ngân hàng phải hoàn thiện bộ máy giám sát hoạt động của mình trên cơ sở hình thành một bộ phận độc lập không tham gia vào quá trình tạo ra các rủi ro, có chức năng quản lý, giám sát rủi ro cho các ngân hàng, nhận diện và phát hiện rủi ro, phân tích và đánh giá các mức độ rủi ro trên cơ sở các chỉ tiêu, tiêu thức được xây dựng, đồng thời đề ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro.
Đồng thời, Ngân hàng cần phải có các giải pháp để đối phó với các yếu tố từ bên ngoài như sự thay đổi về cơ chế, chính sách nhà nước, sức ép từ việc thực hiện các cam kết theo thông lệ, các diễn biến phức tạp của cơ chế thị trường, tác động tiêu cực của các thông tin truyền thông bất cân xứng... SHB cần thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam để có thể thực hiện tốt các dự báo thị trường thế giới có liên quan đến hoạt động TTQT nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. Dựa trên dự đoán về sự biến động của giá cả, tỷ giá hối đoái, thay đổi chính sách đối ngoại của các nước bạn hàng… Ngân hàng sẽ tư vấn cho khách hàng các biện pháp phòng tránh hoặc giảm thiểu rủi ro hiệu quả nhất. Để có thể hạn chế tối đa rủi ro hoạt động do những tác động tiêu cực từ những nhân tố bên ngoài, ngân hàng cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
Tuân thủ nội dung các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định của Chính phủ, các bộ ngành có liên quan trong quá trình xây dựng quy chế, quy trình, hướng dẫn nghiệp vụ cũng như trong quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện.
Để thích ứng được với các yếu tố bất ngờ xảy ra trong cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ngân hàng cần phải thường xuyên cập nhật thông tin liên quan từ bên ngoài, kiểm soát được và hiệu chỉnh kịp thời các văn bản nội bộ khi phát sinh các thay đổi hoặc chủ động xây dựng các lộ trình để thực hiện các cam kết theo quy định.
Hướng tới hình thành bộ phận chuyên gia về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, thị trường... Nhiệm vụ của nhóm này là định kỳ đưa ra báo cáo phân tích, đánh giá tổng quan về nền kinh tế trong nước và trên thế giới, xu hướng phát triển và những tác động của nó tới hoạt động của ngân hàng. Từ đó có những hành động kịp thời trong xây dựng, điều chỉnh chính sách và định hướng chiến lược phù hợp.
Hoàn thiện môi trường đầu tư tranh thủ nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính, tổ chức chính phủ và phi chính phủ, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài. Cuối cùng, tuân thủ các điều kiện bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng giúp cho SHB hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình tham gia TTQT.
Hoạt động TTQT đòi hỏi cao về tính an toàn và hiệu quả. Nó đánh giá khả năng và mức độ hội nhập quốc tế của ngân hàng. Càng ngày hoạt động TTQT càng đa dạng, phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Để tránh được những rủi ro trong TTQT có thể ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và quốc tế thì công tác quản lý, điều hành luôn phải sát sao với hoạt động. Không chỉ dừng lại ở phát hiện sai sót mà phải quan tâm đến phát hiện các rủi ro tiềm ẩn trong nghiệp vụ TTQT để kịp thời hạn chế nhằm nâng cao chất lượng TTQT.
Tiếp tục hiện đại hóa cơ sở vật chất, công nghệ phục vụ hoạt động TTQT.
Công nghệ là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh của một ngân hàng thương mại. Công nghệ thanh toán hiện đại chính là cơ sở để một ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng, đa dạng hóa các loại hình hoạt động. Công nghệ ngân hàng hiện đại sẽ cho phép ngân hàng tiết kiệm được thời gian và chi phí bởi nó cho phép thực hiện giao dịch ngay tại chỗ. Từ một địa điểm, nhờ có hệ thống máy tính mà thanh toán viên có thể kiểm tra được các nghiệp vụ thị trường liên ngân hàng, cập nhật thông tin một cách chính xác. Công nghệ thông tin còn giúp cho công tác quản lý thông tin, hồ sơ của khách hàng, hợp đồng tín dụng, từ đó đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Nó cũng là một điều kiện cần thiết khi ngân hàng muốn hòa nhập vào mạng ngân hàng quốc tế. Để thực hiện được điều đó, ngân hàng cần phải:
- Triển khai ứng dụng tốt chương trình hiện đại hóa ngân hàng, tiếp tục nâng cấp và bổ sung các phần mềm mới trong giao dịch với khách hàng, chương trình gửi nhiều nơi rút nhiều nơi, phần mềm kết nối thanh toán, chương trình giao dịch qua mạng Internet, SMS,…nhằm cung cấp dịch vụ tiện ích tốt nhất cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh.
- Áp dụng công nghệ để phát triển có hiệu quả các sản phẩm dịch vụ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền nhanh Western Union, thanh toán qua một tài khoản; ứng dụng các lợi ích của mạng kết nối chuyển mạch tài chính (Banknet), để phục vụ tốt hơn cho hoạt động TTQT.
3.2.5. Một số giải pháp khác
Ngoài các giải pháp trên, còn có các giải pháp khác như: Chú trọng thực hiện tốt công tác quản lý điều hành, đa dạng hóa loại hình TTQT…
Ngày nay, nhu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm dịch vụ và việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới gia tăng nhanh chóng. Ngân hàng cần đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, để không chỉ làm tăng sức cạnh tranh mà còn giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trên cơ sở đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ Ngân hàng sẽ mở rộng hoạt động TTQT cả về chiều rộng và chiều sâu.
Ngân hàng cần hoàn thiện một số điểm như sau:
- Đa dạng hóa các hình thức L/C
- Chỉ đạo thanh toán viên tuân thủ theo quy định về nghiệp vụ TTQT.
- Linh hoạt trong quan hệ ký quỹ bắt buộc, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển vòng quay vốn cho doanh nghiệp. đối với khách hàng truyền thống có thể giảm cước ký quỹ hoặc không cần ký quỹ.
Kết hợp chính sách đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và chính sách giá cả nhằm thu hút khách hàng, ví dụ nếu khách hàng sử dụng dịch vụ TTQT của ngân hàng sẽ được hưởng một số tiện ích khác với giá ưu đãi.
Giữa các nghiệp vụ ngân hàng có mối quan hệ khăng khít với nhau. Sự phát triển một nghiệp vụ này sẽ tạo điều kiện cho nghiệp vụ liên quan phát triển. Hoạt động tín dụng ngoại tệ có một mối quan hệ đặc biệt với hoạt động TTQT. Hầu hết phần lớn phục vụ cho việc TTQT của khách hàng tại SHB là nguồn vốn vay ngân hàng.
Một nghiệp vụ có quan hệ mật thiết với hoạt động TTQT của ngân hàng là hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động thanh toán quốc tế và hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hai hoạt động gắn liền và bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Kinh doanh ngoại tệ vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vừa có tác dụng giải quyết nhu cầu về các loại ngoại tệ cho hoạt động thanh toán quốc tế. Hiện nay, Hội sở chính đang đóng vai trò là đầu mối kinh doanh ngoại tệ mặt của cả SHB. Cùng với sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, hoạt động thanh toán quốc tế của HSC cũng đạt được những kết quả quan trọng, doanh số các năm liên tục tăng cao. Tuy nhiên do biến động của chính sách cũng như thị trường thế giới nên hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng gặp phải một số khó khăn nhất định. Vì vậy, trong thời gian tới, SHB cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh ngoại tệ để có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động thanh toán, đảm bảo an toàn tài sản và tạo tiền đề thúc đẩy hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu. Để phòng tránh rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ, Sở giao dịch cần phải áp dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro trong lĩnh vực này như: hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn (FORWARD), hợp đồng tương lai (FUTURE), hợp đồng mua bán quyền chọn (OPTION), hợp đồng hoán đổi SWAP và nghiệp vụ Acbit... vào kinh doanh ngoại tệ để có thể chủ động hơn trong việc phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại SHB – HSC như đã phân tích ở trên là chưa phát triển mạnh, chưa đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán. Để mở rộng hoạt động TTQT ngân hàng phải có sự quan tâm đúng mức đến phát triển nghiệp vụ này.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và bộ ngành liên quan
Chính phủ tích cực ban hành các hệ thống văn bản pháp quy phối hợp với thông lệ quốc tế và đặc điểm của Việt Nam, làm cơ sở điều chỉnh hoạt động TTQT cho các Ngân hàng thương mại, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động TTQT. Các văn bản pháp lý cần quy định cụ thể các quy chế, quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ giữa các bên tham gia hoạt động TTQT, mối quan hệ pháp lý giữa người bán, người mua và Ngân hàng trong việc thực hiện hoạt động TTQT từ khâu ký kết hợp đồng đến khi kết thúc quá trình thanh toán.
Chính phủ cần chỉ đạo xúc tiến nhanh hơn nữa việc thực hiện chính sách thương mại nhằm khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý chặt chẽ nhập khẩu, đảm bảo ổn định cán cân thanh toán quốc tế.
Cần có sự kết hợp giữa các cơ quan hữu quan: Tổng cục Hải quan, Bộ Công nghiệp, Tòa án Nhân dân,… nhằm tạo ra sự nhất quán trong việc ban hành cũng như thi hành các văn bản pháp lý về TTQT của Việt Nam. Các văn bản này phải phù hợp với điều kiện và đặc điểm kinh tế của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại bằng cách mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, duy trì mở rộng thị phần trên những thị trường quen thuộc, xâm nhập và phát triển các thị trường tiềm năng. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp điều kiện của nước ta, đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ quốc tế. Đẩy nhanh hơn nữa hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại và tiếp cận thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp.
Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, XNK hàng hóa, dịch vụ khai thác triệt để tiềm năng và tài nguyên, nguồn nhân lực, phát triển các hàng hóa dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, công nghệ cao.
Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu, giúp cho các tổ chức sản xuất có điều kiện tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng hóa.
Đẩy mạnh các lĩnh vực thu dịch vụ để thu ngoại tệ về cho đất nước, phát triển các ngành du lịch, xuất khẩu lao động, tài chính tiền tệ.
Tiếp tục cải thi về đầu tư kinh doanh, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn vốn đầu tư đó.
Cải cách mạnh mẽ và triệt để các thủ tục hành chính tạo thông thoáng cho hoạt động XNK. Giảm bớt các thủ tục phiền hà, tiết kiệm thời gian và chi phí giúp đỡ các doanh nghiệp XNK trong quá trình XNK hàng hóa.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước(NHNN) với chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng thương mại, là ngân hàng của các ngân hàng và đóng vai trò định hướng trong các hoạt động của ngân hàng.
NHNN tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng với tư cách là người mua bán cuối cùng và chỉ tham gia khi cần thiết. Việc hoàn thiện và phát triển thị trường này là một trong những điều kiện quan trọng để NHTM mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho TTQT hoạt động một cách hiệu quả. Thông qua thị trường này NHNN điều hành tỷ giá một cách linh hoạt và chính xác nhất.
NHNN cần xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thị trường. Cần nới lỏng các biện pháp quản lý như: công bố tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng, biện pháp quản lý ngoại hối… để chúng trở thành động lực cho tị trường ngoại hối phát triển.
Điều chỉnh linh hoạt biên độ dao động tỷ giá giao dịch USD/VND (hiện nay là 3%) để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế; cùng với cơ chế tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước bằng việc sử dụng công cụ lãi suất điều tiết thị trường ngoại tệ, thúc đẩy hoạt động XNK của nước nhà.
Đa dạng hóa các loại ngoại tệ các phương tiện TTQT được mua bán trên thị trường, đa dạng hóa các hình thức giao dịch như mua bán có kỳ hạn, mua bán quyền chọn, hoán đổi ngoại tệ, phát triển nghiệp vụ vay mượn trên thị trường trong nước và quốc tế.
NHNN cần tính toán xây dựng một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý, có đủ khả năng điều chính thị trường ngoại tệ khi có căng thẳng về tỷ giá, đồng thời có kế hoạch quản lý nguồn ngoại tệ vào ra cũng như hoạt động mặt bằng ngoại tệ tại thị trường tự do, tránh hoạt động đầu cơ, găm giữ ngoại tệ dẫn tới cơn sốt ngoại tệ.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện hiện nay, khi xu hướng hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ thì hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng đóng một vai trò quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Hoạt động thanh toán quốc tế của mỗi ngân hàng thường nảy sinh nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu để tìm ra giải pháp, giúp cho hoạt động này phát triển, tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng thêm thu nhập và tạo thế cạnh tranh vững chắc cho ngân hàng trên thương trường.
SHB là một trong những ngân hàng Thương mại cổ phần quy mô còn nhỏ bé, thời gian hoạt động chưa lâu tại Việt Nam. Hoạt động thanh toán quốc tế của SHB tuy mới hình thành nhưng phát triển với tốc độ nhanh chóng và đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, thanh toán quốc tế cho đến nay vẫn được xem là hoạt động mới mẻ, chưa được hoàn thiện lắm về cả trình độ, công nghệ cũng như kinh nghiệm thực tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán của các NHTM nói chung và SHB nói riêng, em xin đóng góp một vài ý kiến của mình, hy vọng hoạt động kinh doanh đối ngoại trong đó có thanh toán quốc tế tại SHB ngày càng phát triển, góp phần khẳng định và củng cố vị thế của ngân hàng , khi mà sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng diễn ra mạnh mẽ và khốc liệt hơn.
Do sự hiểu biết còn hạn chế, em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp để khóa luận tốt nghiệp có điều kiện bổ sung và hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin một lần nữa gửi lời cảm ơn tới cô giáo Tiến sĩ Lê Thanh Tâm đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fredric S.Mishkin, 2001, Tiền tệ Ngân hàng & Thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
2. PGS.TS.Phan Thị Thu Hà, 2007, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
3. PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo, 2007, Nghiệp vụ Thanh toán quốc tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
4. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2008, Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, NXB Thống kê.
5. GS.TS. Đỗ Đức Bình, 2007, Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB ĐH KTQD
6. www.saga.com.vn
7. www.shb.com.vn
8. Báo cáo tài chính đã được kiểm toán 2006 -2007 của SHB
9. Bản cáo bạch của SHB 2008
10. Quy trình nghiệp vụ Thanh toán quốc tế tại Hội sở chính – SHB.
11. Tạp chí, báo: Tạp chí Ngân hàng, Thị trường tài chính...
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21247.doc