Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm qua, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng có những bước phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực của đời sống và kinh tế, xã hội. Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong 10 năm trở lại đây, thu nhập của người dân cũng được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Vì thế nhu cầu hàng hoá cao cấp cũng ngày càng tăng lên trong một bộ phận không nhỏ dân cư. Tuy nhiên thu trên thực tế mức thu nhập bình

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quân trên đầu người ở Việt Nam còn chưa cao, với mức lương như hiện nay thì để có thể tích luỹ một nguồn tài chính đủ lớn nhằm thực hiện các công việc trọng đại trong đời người như mua đất, xây nhà, sửa chữa nhà cửa hay mua ô tô…, họ cần một khoảng thời gian rất dài, có thể hàng chục năm hoặc lâu hơn nữa. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có thể sử dụng các nguồn tài chính có được trong tương lai để chi trả cho nhu cầu trước mắt ? Một trong những giải pháp có thể sử dụng nhằm giải quyết vấn đề này là sự tham gia của các Ngân hàng Thương mại tài trợ vốn cho khách hàng dưới hình thức cho vay trả góp, tức là ngân hàng cho khách hàng vay số tiền cần thiết ở một thời điểm hiện tại và khách hàng sẽ trả dần hàng tháng với số tiền phù hợp với nguồn thu nhập của mình.Cho vay trả góp đã được vận dụng và triển khai ở Việt Nam trong vài năm gần đây và không ngừng phát triển, nhưng vẫn chưa khai thác được hết tiềm năng mà thị trường mang lại. Như vậy, xuất phát về thực trạng về nhu cầu cho vay trả góp trong nền kinh tế, xuất phát từ nhu cầu của mỗi ngân hàng , qua quá trình xem xét, tìm hiểu và quan sát tình hình thực tế trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, em đã quyết định chọn đề tài “Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu, kết luận, nội dung chính được chia làm 3 phần: • Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cho vay trả góp tại Ngân hàng Thương mại. • Chương 2 : Thực trạng mở rộng cho vay trả góp tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2005-2007 • Chương3 : Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY TRẢ GÓP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại Cùng với sự phát triển của nền sản xuất lưu thông hàng hoá, ngân hàng đã hình thành, phát triển và trở thành một nhân tố không thể thiếu trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Có thể nói, ngân hàng là tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, là mạch máu của nền kinh tế giúp nền kinh tế vận hành một cách thông suốt, điều này được chứng minh qua các thành quả và tiện ích to lớn mà ngân hàng đem lại cho sự phát triển của nền kinh tế, xã hội. Có thể định nghĩa về ngân hàng, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận mà có những định nghĩa khác nhau, ngân hàng có thể định nghĩa qua chức năng, nhiệm vụ, hay vai trò của nó trong nền kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng thì : “ Ngân hàng la loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Chính sách, Ngân hàng Hợp tác và các loại hình ngân hàng khác ” Nếu xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Thì : “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất dặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và thanh toán, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại Ngân hàng Thương mại là loại hình kinh doanh đặc biệt , thực hiện kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại gồm : a) Huy động vốn Đây là hoạt động nền tảng tạo cơ sở cho các hoạt động khác của ngân hàng, đảm bảo là ngân hàng có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Huy động tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là nhận tiền gửi và đi vay. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng Thương mại thu hút tiền gửi của khách hàng thông qua các hình thức huy động hết sức đa dạng và phong phú đó là tiền gửi của thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm… của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, dân cư và các tổ chức tín dụng khác. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của mình khi khả năng huy động vốn bị hạn chế, Ngân hàng Thương mại còn phải đi vay. Các hình thức đi vay của Ngân hàng Thương mại bao gồm vay Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn. Ngoài ra Ngân hàng Thương mại còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Để có nguồn vốn nói trên, Ngân hàng Thương mại phải bỏ chi phí vì thế ngân hàng sẽ đưa ra quyết định lựa chọn huy động vốn theo cách nào trên cơ sở tính toán một cách hợp lý về nhu cầu tỷ trọng các nguồn, chi phí từng loại nguồn, để sử dụng tối đa nguồn huy động, nhằm mục tiêu tạo ra lợi nhuận cho mình . b) Hoạt động sử dụng vốn Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ khác nhau nhằm đạt được mục tiêu an toàn và sinh lợi. Ngân hàng thực hiện sự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng trung ương, dự trữ thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh, đáp ứng mục tiêu an toàn. Ngân hàng tiến hành các hoạt động cho vay, đầu tư, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính…nhằm mục tiêu sinh lợi. Trong các hoạt động trên thì cho vay là hoạt động chủ yếu, tạo ra nguồn thu nhập chính thức cho ngân hàng. c) Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Hoạt động này đã và đang đáp ứng nhu cầu của khách hàng, góp phần gia tăng lợi nhuận và phát triển toàn diện các hoạt động của ngân hàng. Cụ thể là : ngân hàng cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước, thực hiện dịch vụ thu hộ-chi hộ, dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng, tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng, tham gia hệ thống thanh toán quốc tế. d) Các hoạt động khác Bên cạnh các hoạt động trên, Ngân hàng Thương mại còn thực hiện các hoạt động góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh vàng và ngoại hối, uỷ thác và nhận uỷ thác, làm đại lý thanh toán, cung ứng dich vụ bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán và cung ứng các dịch vụ như tư vấn tài chính, tiền tệ, tín dụng cho khách hàng, bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê két, cầm đồ… 1.1.3. Hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại 1.1.3.1. Khái niệm về cho vay Hiểu một cách khái quát nhất thì cho vay là một quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể trong nền kinh tế với nhau trong đó chủ thể này chuyển sang cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị ( có thể dưới hình thức hiện vật hoặc tiền tệ trong một thời gian nhất định, sau thời gian này chủ thể đi vay phải hoàn lại một lượng giá trị lớn hơn ban đầu bao gồm cả phần dôi dư mà người ta gọi là lãi cho bên cho vay. Trong nền kinh tế, có rất nhiều chủ thể cho vay, đó có thể là nhà nước, ngân hàng, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp hay cá nhân. Với mỗi loại chủ thể có thể phát sinh nhiều loại cho vay khác nhau như cho vay Nhà nước, cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng…Nhưng trong đó, hoạt động cho vay của ngân hàng là hoạt động cho vay của ngân hàng là hoạt động có tính chuyên nghiệp nhất, phổ biến nhất, là nghiệp vụ cơ bản nhất đem lại thu nhập cho ngân hàng. Ta có thể hiểu : “ Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. ` 1.1.3.2. Nguyên tắc cho vay Theo điều 6 Quyết định 1627/QĐ-NHNN ban hành ngày 31/12/2007 về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng đã quy định 2 nguyên tắc cho vay là Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo : * ) Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoã thuận trong hợp đồng tín dụng *) Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng Nguyên tắc 1: Cho vay đúng mục đích không chỉ là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của ngân hàng. Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay đúng như thoả thuận với ngân hàng, không trái với quy định của phát luật và các quy định của ngân hàng cấp trên. Bất kỳ khoản vay nào của ngân hàng đối với nền kinh tế cũng luôn hướng tới mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Còn với khách hàng, vốn vay cũng phát đáp ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt động để thúc đẩy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ của mình. Trong bất kỳ trường hợp nào khi vay vốn ngân hàng bao giờ khách hàng cũng nêu rõ mục đích sử dụng vốn vay. Khi khoản vay được ngân hàng chấp thuận thì mục đích sử dụng vốn vay sẽ được ghi vào hợp đồng. Ngân hàng sẽ thường xuyên giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng, nếu thấy khách hàng sử dụng không đúng như đã thỏa thuận ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp phù hợp để xử lý Nguyên tắc 2 : Với chức năng là trung gian tín dụng, ngân hàng huy động vốn để cho vay, ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Nên hoàn trả là một đặc trưng trong hoạt động cho vay của ngân hàng, để đảm bảo khả năng thanh toán đồng thời tạo ra nguồn thu, để duy trì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Thực hiện nguyên tắc này, khách hàng chỉ được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định, hết thời hạn cho vay phải đảm bảo trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng 1.1.3.3. Các loại hình cho vay của Ngân hàng Thương mại a) Căn cứ vào thời hạn cho vay Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi của vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Căn cứ vào thời hạn cho vay được chia thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và cho vay dài hạn. Cho vay ngắn hạn : Là khoản vay có thời hạn cho vay dưới 12 tháng. Ngân hàng cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ, phục vụ đời sống của khách hàng và thường là bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp. Các khoản vay ngắn hạn thường có lãi suất thấp, tính linh hoạt cao và độ rủi ro thấp. Cho vay trung hạn : Là các khoản vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Ngân hàng cho vay trung hạn để tài trợ cho tài sản cố định, sửa chữa, mua sắm phương tiện vận tải, cây trồng vật nuôi, trang thiết bị mới, hoặc để thay đổi sản phẩm hàng hoá. Cho vay dài hạn : Là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 60 tháng. Cho vay dài hạn chủ yếu tài trợ cho các công trình xây dựng cơ bản như nhà xưởng, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị sử dụng lớn thời gian sử dụng lâu dài, hoặc để mở rống sản xuất kinh doanh. Các khoản vay trung và dài hạn thường có độ rủi ro cao hơn các khoản vay ngắn hạn để giảm bớt rủi ro ngân hàng thường yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngoài ra ngân hàng còn yêu cầu tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh, hay đời sống. Để bù đắp những rủi ro phải gánh chịu do thời hạn dài thì ngân hàng luôn quy định lãi suất cho vay ngắn hạn, lãi suất này có thể cố định trong suốt thời kỳ vay vốn hoặc có thể biến động theo sự biến động của thị trường b) Căn cứ vào phương thức cho vay Cho vay thấu chi : Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt quá số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Hình thức cho vay này thường chỉ được áp dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu ngắn. Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức và thời gian thấu chi, có thể khách hàng phải trả phí cam kết cho ngân hàng. Trong quá trình hoạt động khách hàng có thể chi vượt quá số dư tiền gửi nhưng mà trong hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng tiến hành thu nợ gốc và lãi. Thấu chi khắc phục được sự không phù hợp về thời gian và quy mô các khoản thu và chi của khách hàng. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn linh hoạt, thủ tục đơn giản phần lớn là không có đảm bảo Cho vay trực tiếp từng lần : Là phương thức cho vay mà mỗi lần vay khách hàng và ngân hàng đều phải làm các thủ tục cần thiết như là hồ sơ vay vốn, xét duyệt cho vay và ký hợp đồng cho vay. Mỗi khoản vay được lập thành một hồ sơ riêng. Hình thức này thương áp dụng đối với những khách hàng áp dụng nhu cầu vay vốn không thương xuyên, không có điều kiện để đựoc cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất mới vay ngân hàng. Tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn của kỳ sản xuất kinh doanh Cho vay theo hạn mức : Là phương thức cho vay mà khách hàng và ngân hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng ( mức dư nợ tối đa ) được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa với tài sản đảm bảo, khả năng về vốn của ngân hàng. Trong phạm vi hạn mức tín dụng còn lại, khách hàng được rút tiền để mua hàng, dự trữ, hợp đồng tài trợ cho các chi phí kinh doanh khác. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, nhưng dư nợ không được vượt quá hạn mức. Cũng có trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức nhưng đến cuối kỳ khách hàng phải trả nợ để mức dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức. Hình thức này thường được áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay trả thường xuyên có đặc điểm sản xuất kinh doanh luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần, có uy tín đối với ngân hàng. Trong dịch vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập ngân hàng mới tiến hành thu nợ nên tạo được sự chủ động về quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, lại gây bất lợi cho ngân hàng trong việc kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn cụ thể. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính. Cho vay luân chuyển : Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay để mua hàng khi doanh nghiệp thiếu vốn và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, nguồn cung cấp hàng hoá, khả năng tiêu thụ. Khách hàng có thể đảm bảo cho các khoản vay bằng các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho ( có cả hoá đơn hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng ) và thu nhập từ bán hàng đều là nguồn dùng để chi trả cho ngân hàng. Hình thức này thường áp dụng với các doanh nghiệp là thương nghiệp, doanh nghiệp có chu kỳ tiêu thụ sản phẩm ngắn ngày, có quan hệ vay trả thương xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển thuận tiện cho khách hàng là thực hiện thủ tục một lần cho nhiều lần vay. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu nợ khi khách hàng gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng. Cho vay trả góp : Là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng trả góc nhiều lần trong thời hạn tính dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường áp dụng đối với khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định. Số tiền trả mỗi lần được tính toán cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng. Hình thức này có mức độ rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp luôn bằng hàng hoá mua trả góp nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. c) Căn cứ vào tài sản đảm bảo Cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng tuy nhiên cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Để hạn chế rủi ro khi khách hàng không trả hoặc hạn chế khả năng trả nợ, ngân hàng thường yêu cầu phải có tài sản đảm bảo Hiện nay việc đảm bảo tiền vay của tổ chức tín dụng được thực hiện theo nghị định 178/1999/NĐCP và nghị định 85/2002/NĐCP, theo đó tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định cho vay có đảm bảo bằng tài sản hoặc không có đảm bảo bằng tài sản và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình Cho vay có đảm bảo bằng tài sản : Là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bằng bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng, hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3. Tài sản đảm bảo tiền vay có thể là bất động sản như là giá trị quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, hoặc là động sản . . - Cho vay thế chấp : là hình thức người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. - Cho vay cầm cố : là hình thức người nhận tài trợ, phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết Cho vay không có tài sản đảm bảo : Là hình thức cho vay của tổ chức dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng không được cam kết bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3 Cho vay không có tài sản đảm bảo bao gồm các trường hợp sau : Cho vay bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội cho các cá nhân hộ gia đình nghèo vay vốn, cho vay không có đảm bảo bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ và cho vay không có tài sản đảm bảo theo sự lựa cho của ngân hàng Ngân hàng cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đối với các khách hàng có đủ điều kiện sau : - Có tín nhiệm với ngân hàng trong việc vay vốn và trả nợ Có dự án đầu tư và phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ, hoặc có phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với đời sống của pháp luật. - Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Cam kết thực hiện bằng tài sản theo yêu cầu của ngần hàng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Ngoài ra còn có một số cách phân chia khác như : + căn cứ vào mức độ cho vay + căn cứ vào khách hàng + căn cứ vào mục đíchh sử dụng vốn vay 1.2. Cho vay trả góp của Ngân hàng Thương mại 1.2.1. Khái niệm cho vay trả góp Cho vay trả góp là một loại hình cho vay tương đối phổ biến hiện nay tại các Ngân hàng Thương mại xuất phát từ thực tế là nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng không đến cùng một lúc. Ngân hàng có thể thoả thuận để khách hàng chi trả một khoản tiền nhất định hàng tháng sao cho phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng và quy định của khách hàng Ta có thể định nghĩa : “ Cho vay trả góp là hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong suốt thời hạn tín dụng đã thoả thuận” Cho vay trả góp được áp dụng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, được áp dụng chủ yếu cho các món vay tiêu dùng, đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu trước mắt vượt quá khả năng thanh toán hiện tại của khách hàng. Phương thức cho vay trả góp thường được áp dụng cho các khoản lớn như cho vay mua nhà, mua ô-tô Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ theo phương thức trả góp có thể được tính theo một trong những phương thức sau đây : - Trả đều : Ngân hàng tính toán một các phù hợp rồi thống nhất với khách hàng, hàng tháng phải trả cho ngân hàng một khoản cố định đến hết thời gian vay. Để làm được điều trên, ngân hàng căn cứ vào mức lãi suất, thời hạn cho vay, số tiền cho vay. Để đưa ra số tiền cụ thể số tiền mà mỗi tháng người vay phải nộp - Trả không đều : Phương thức thanh toán này bao gồm nhiều hình thức khác nhau như thanh toán nợ gốc từng kỳ, lãi trả hàng tháng; Thanh toán gốc đều như lãi thanh toán vào đầu mỗi kỳ; Gốc và lãi trả hàng tháng…Lãi ở đây được tính trên số dư thực tế của khoản vay 1.2.2. Vai trò của hoạt động cho vay trả góp Cho vay trả góp là một hình thức cấp tín dụng bằng tiền để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, sinh hoạt hàng ngày của con người.Ngày nay cho vay trả góp phổ biến ở nhiều nước, mang lại hiệu quả thiết thực cho cả 3 bên: nhà sản xuất, người tiêu dùng và các ngân hàng Đối với khách hàng Việc các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay trả góp đã mang lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng. Nhờ có cho vay trả góp mà người tiêu dùng được hưởng thụ các tiện ích tiêu dùng trước khi họ có thể tích luỹ đủ tiền để chi tiêu, qua đó sẽ góp phần nâng cao mức sống, tạo động lực tích cực để họ làm việc vì tương lai tốt đẹp hơn Khách hàng hoàn toàn có thể sử dụng những sản phẩm mà họ muốn ngay lập tức mặc dù có thể họ không có đủ tiền để đáp ứng. Chúng ta có thể thấy ngay được rất rõ lợi ích của người tiêu dùng trong phương thức mua nhà trả góp. Để có thể có đủ tiền mua một ngôi nhà, một cá nhân phải làm việc cật lực trong một thời gian dài, thậm chí có khi về già mới có thể tiết kiệm đủ. Dịch vụ trả góp giải quyết được tất cả những vấn đề đó, nó là sự kết hợp giữa nhu cầu tiêu dùng ở hiện tại và khả năng thanh toán trong tương lai Việc mở rộng hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng còn làm cho lượng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ tăng lên, doanh thu của các ngành, các doanh nghiệp theo đó cũng tăng lên. Từ đó, thúc đẩy việc mở rộng sản xuất, tạo sự cạnh tranh khiến nhà sản xuất phải cố gắng nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm và cuối cùng người hưởng lợi ích chính là khách hàng b) Đối với ngân hàng Khi cung cấp một loại hình dịch vụ mới, điều đầu tiên mà ngân hàng quan tâm chính là lợi nhuận mà dịch vụ đó đem lại. Hoạt động cho vay trả góp mang lại một khoản lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng. Đây được đánh giá là một hoạt động có mức độ rủi ro cao hơn các loại hình dịch vụ khác, tuy nhiên số lượng món vay lớn sẽ chia sẻ bớt rủi ro. Lãi suất áp dụng đối với loại hình này là cao nhất trong số các loại hình dịch vụ, điều này khiến hoạt động cho vay trả góp có tỷ suất lợi nhuận khá cao Hơn nữa, hoạt động cho vay trả góp sẽ vừa giúp ngân hàng có thêm nhiều khách hàng, vừa tận dụng được nguồn vốn đã huy động được, vừa đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, hạn chế rủi ro. Bằng cách đó ngân hàng có thể nâng cao sức cạnh tranh đồng thời tạo ra sự khác biệt về sản phẩm….và còn rất nhiều lợi ích khác mà hoạt động trả góp mang lại. c) Đối với nền kinh tế Cho vay tiêu dùng dưới hình thức cho vay trả góp đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sản xuất- kinh doanh. Ở Việt Nam, ngay từ năm 1999 chính phủ đã có chủ trương kích cầu, góp phần tạo thế cân đối giữa cung và cầu, tiêu thụ sản phẩm đang ứ đọng tại các doanh nghiệp và vốn tín dụng ngân hàng dư thừa, góp phần ổn định và phát triển xã hội Nhận biết lợi ích của hoạt động này, tại nhiều nước đã hình thành những công ty kinh doanh cho vay trả góp, bán hàng trả góp. Ở nước ta cho vay trả góp ngày càng trở thành một sản phẩm phổ biến được các ngân hàng cung cấp, đem lạ những kết quả khả quan, phù hợp với chính sách của chính phủ trong việc kích cầu, tăng sức mua và khả năng thanh toán cho một bộ phận dân cư trong xã hội. 1.2.3. Đặc điểm của cho vay trả góp Cho vay trả góp chủ yếu tài trợ cho mục đích chi tiêu cá nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay trả góp là nguồn tài chính quan trọng giúp người đi vay có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống. Do đó, cho vay trả góp có những đặc điểm riêng khác với tín dụng ngân hàng nói chung a)Đối tượng Đối tượng của cho vay trả góp là những cá nhân, tổ chức có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi nhân sự. Xuất phát từ nhu cầu đi vay của các chủ thể mà đối tượng của cho vay trả góp chủ yếu là cá nhân, hộ gia đình, có thu nhập cao, ổn định hoặc các hãng kinh doanh có tình hình tài chính lành mạnh. * ) Đối với đối tượng khách hàng là cá nhân, ngân hàng thường căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập để phân đoạn thị trường : -Thu nhập cao : Là những người có địa vị trong xã hội, những người thành đạt như doanh nhân, chủ doanh nghiệp…Xét về số tuyệt đối nhu cầu vay vốn của nhóm đối tượng khách hàng này rất lớn. Hiện nay ,các ngân hang thương mại ở nước ta mới tập trung cho vay trả góp ở đối tượng khách hàng này. - Thu nhập trung bình: Là những người làm công ăn lương, công nhân viên chức, họ là những người có trình độ học vấn cao. Thu nhập ngoài đảm bảo cuộc sống, họ vẫn có khả năng tiết kiệm. Đây là nhóm người mà nhu cần mua sắm ngày càng tăng mạnh theo sự phát triển của cuộc sống. Họ chính là khách hàng tiềm năng cho hoạt động cho vay trả góp. - Thu nhập thấp: Đây là những người có thu nhập không ổn định, hoặc lao động ở trình độ phổ thông. Nhu cầu tín dụng của họ thường không cao. * ) Đối với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp, ngân hàng thường căn cứ vào mục đích của các khoản vay. Các doanh nghiệp khi vay vốn dưới hình thức trả góp thường là để tài trợ cho việc mua ô tô. Vì vậy, mục đích vay của các doanh nghiệp có thể phân thành: - Doanh nghiệp vay phục vụ cho công việc: Đặc điểm của loại hình này là ô tô sau khi mua thường mang tên công ty, doanh nghiệp. Khách hàng thường là các doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong lĩnh vực vận tải, du lịch hay các hãng taxi. Họ thường có nhu cầu vay vốn để mua hàng loạt xe ô tô phục vụ nhu cầu kinh doanh.Số tiền vay thường khá lớn, vì thế ngân hàng cần đặc biệt chú ý tới đối tượng này, cần phải phân tích kỹ đạo đức khách hang, khả năng tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của họ b)Mục đích Hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng xuất hiện nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng khi mà thu nhập và nhu cầu không xuất hiện cùng một lúc. Nhu cầu chi tiêu có thể là mua nhà ở,cá nhân mua ô tô phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc doanh nghiệp mua ô tô phục vụ nhu cầu đi lại,công việc…Mục đích của những khoản này thường rất cụ thể rõ ràng, do đó nó được các ngân hàng đáp ứng nhanh chóng và dễ dàng hơn các khoản vay khác. Đồng thời mục đích của các khoản vay trả góp phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay. c) Quy mô khoản vay Quy mô khoản vay thường nhỏ hơn các khoản vay khác, đặc biệt là so với các món vay phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân là do các món vay trả góp chủ yếu phục vụ mục đích tiêu dùng, các sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu mua thường có giá trị không lớn hoặc dù có giá trị lớn thì khách hàng cũng phải có sự chuẩn bị nhất định về nguồn vốn, ngân hàng chỉ có tác động hỗ trợ hoạt động của họ. Mặc dù quy mô từng món vay thường nhỏ, song số lượng khách hàng đi vay rất đông. Do đó, việc thẩm định cho vay thường phải khác cho vay thông thường, không thể bằng phương pháp phân tích, phán xét cụ thể từng món vay. d) Rủi ro Cho vay trả góp mặc dù có mục đích cụ thể rõ ràng song vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, hoạt động quản lý sau khi cho vay gặp nhiều khó khăn. Khách hàng vô tình hay cố ý không trả lãi hay gốc khi đến hạn, nếu cán bộ tín dụng lơ là sẽ dẫn tới tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên. Việc thu hồi nợ trong cho vay trả góp phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập thường xuyên của khách hàng như tiền luơng, tiền thưởng…cho nên bất kỳ sự thay đổi nào ảnh hưởng tới công việc của khách hàng cũng có thể khiến ngân hàng khó khăn trong việc thu hồi nợ. e) Lãi suất cho vay Cho vay trả góp có độ rủi ro cao do khách hàng thường thể chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người đi vay. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất của ngân hàng. Tuy nhiên, khách hàng vay trả góp thường ít quan tâm tới lãi suất mà thường quan tâm tới số tiền họ phải thanh toán. f) Thời gian trả góp Các khoản vay trả góp thường được thực hiện với số tiền cố định. Lịch hoàn trả được hình thành để hoàn trả đầy đủ gốc và lãi vay. Thời hạn của các món vay thường từ 3 tới 5 năm , mặc dù tín dụng trả góp dài hạn có thể mở rộng tới 20 năm.Các khoản vay này có thể có TSBD hoặc không có TSBD, nhưng những khoản vay có TSBD thường có thời hạn không quá 3 năm. g) Tài sản bảo đảm Theo xu hướng của các nước trên thế giới, các khoản vay trả góp sẽ không cần tài sản đảm bảo. Nhưng do các ngân hàng ở nước ta trình độ quản trị vẫn chưa cao. Hơn nữa,việc quản lý thu nhập của người dân còn hạn chế, ngân hàng không kiểm soát được nguồn trả nợ, nên việc cho vay phần lớn vẫn dựa vào tài sản cố định. Thường tài sản đó chính là tài sản hình thành từ vốn vay của ngân hàng. Tuy nhiên, tài sản đó cũng có thể là tài sản độc lập thuộc sở hữu của khách hàng hoặc bên thứ 3. h) Lợi nhuận thu được Các khoản cho vay trả góp chủ yếu là các khoản cho vay trung và dài hạn. Bên cạnh đó, hoạt động này tỏ ra cao hơn mức lãi suất mà khách hàng phải chịu là không nhỏ. Hoạt động này tỏ ra rất hiệu quả, nên mức lợi nhuận ngân hàng thu về là rất lớn. Nguồn trả nợ của khách hàng được trích từ thu nhập, không nhất thiết phải là kết quả của việc sử dụng những khoản vay đó. Do đó, những khách hàng có việc làm, mức thu nhập ổn định và có trình độ học vấn là những tiêu chí quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay. Với những đặc điểm trên,cho vay trả góp tỏ ra là hoạt động rất có ưu thế trong loại hình cho vay của ngân hàng. Hiện nay, cho vay trả góp đang chiếm tỷ lệ rất lớn trong doanh số cho vay của ngân hàng, đặc biệt là trong cho vay tiêu dùng. Tuy lợi nhuận mà các món vay trả góp mang về cho ngân hàng là rất lớn,song nó cũng có những chi phí khá cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do vậy, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần quản lý chặt chẽ và linh hoạt trong suốt quá trình cho vay để tránh những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra cho ngân hàng. 1.2.4. Các phương thức cho vay trả góp Ta có thể thấy cho vay trả góp là hình thức cho vay trung và dài hạn, cho vay dưới hình thái giá trị là tiền, vừa có thể là cho vay tiêu dùng, vừa có thể là cho vay phục vụ mục đích kinh doanh. Cho vay trả góp có thể được thực hiện qua các phương thức sau: a) Cho vay trực tiếp Đây là hình thức cho vay mà ngân hàng cho vay trực tiếp đối với người tiêu dùng. Ngân hàng sẽ thanh toán cho doanh nghiệp bán lẻ và sau đó thì người tiêu dùng trực tiếp trả tiền cho ngân hàng Bảng1.1: Mô hình cho vay trả góp theo hình t._.hức cho vay trực tiếp Ngân Hàng Người Tiêu Dùng Người bán lẻ (1) (2 ) (3 ) (4 ) Nguồn: Phòng tín dụng trả góp và tiêu dùng Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Ngân hàng ký hợp đồng trực tiếp với người mua về khoản vay để trả tiền cho doanh nghiệp bán lẻ. Trong trường hợp này ngân hàng phải phân tích tình hình thu nhập của khách hàng và yêu cầu taì sản đảm bảo nếu cần.Tài sản đảm bảo có thể hình thành từ vốn vay (nhà, ô tô,…) Doanh nghiệp bán hàng cho khách hàng và ký hợp đồng với khách hàng Doanh nghiệp tấp trung hoá đơn bán hàng đưa lên ngân hàng để ngân hàng thanh toán Người mua trực tiếp trả tiền cho ngân hàng Ưu điểm: Thứ nhất, ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của cán bộ tín dụng. Do đó, các khách hàng cho vay thường có chất lượng cao hơn so với cho vay thông qua doanh nghiệp bán lẻ. Thứ hai, hình thức cho vay trả góp trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, khi có quan hệ trực tiếp, ngân hàng và khách hàng có thể xử lý tốt các phát sinh, có thể thoả mãn quyền lợi của cả ngân hàng và khách hàng Nhược điểm Thứ nhất, ngân hàng khó mở rộng tín dụng với khách hàng vì khách hàng phải thực hiện tiếp xúc với ngân hàng mà số lượng cán bộ tín dụng ngân hàng thì không đủ đáp ứng được nhu cầu. Vì thế ngân hàng khó có khả năng tăng doanh số cho vay. Thứ hai, cho vay trả góp trực tiếp có chi phí cao b) Cho vay gián tiếp Đây là hình thức cho vay mà ngân hàng không trực tiếp ký hợp đồng với người tiêu dùng và thay vào đó ngân hàng sẽ ký kết hợp đồng với chính nhà cung cấp. Cho vay gián tiếp thực ra là mua các khoản nợ để trên cơ sở đó nhà cung cấp bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng. Các cửa hàng bán lẻ sẽ nhận được ngay số tiền ngay sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng. Bảng 1.2 : Mô hình cho vay trả góp theo hình thức gián tiếp Ngân Hàng Người Tiêu Dùng Người bán lẻ (1) (2 ) (3 ) (4 ) (4 ) Nguồn: Phòng tín dụng trả góp và tiêu dùng Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Ngân hàng ký hợp đồng với doanh nghiệp về việc tài trợ ( toàn bộ hay một phần mua hàng cho người mua hàng trả góp). Hợp đồng ký kết giữa ngân hàng và nhà cung cấp quy định rõ điều kiện bán chịu như đối tượng khách hàng được bán chịu, loại hàng được bán chịu, số tiền được bán chịu … Ngân hàng sẽ phân tích tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp và khả năng mở rộng tiêu thụ nếu thực hiện bán trả góp cũng như thu tiền hàng sau khi bán hàng. Nếu mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng không tốt thì khả năng thu hồi trả góp gặp khó khăn Doanh nghiệp bán hàng trả góp cho khách hàng và ký hợp đồng trả góp với khách hàng Doanh nghiệp tập hợp đơn bán hàng đưa lên ngân hàng để ngân hàng thanh toán Doanh nghiệp thu tiền trả góp của người mua và nộp cho ngân hàng Ưu điểm : Theo hình thức này, Ngân hàng sẽ có điều kiện tiếp xúc được với một lượng khách hàng khá đông đảo, khắc phục được tâm lý e ngại của họ khi tìm đến ngân hàng. Điều đó giúp ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong việc cấp tín dụng vì ngân hàng chỉ phải ký hợp đồng với chính nhà cung cấp, giúp ngân hàng nhanh chóng mở rộng doanh số cho vay Nhược điểm : Đó là, Ngân hàng không trực tiếp tếp xúc với khách hàng, do đó không thể nắm được tình hình thực tế của khách hàng, ngân hàng cũng phải đối mặt với tình trạng nhà cung cấp chỉ vì muốn bán được hàng mà không xem xét kỹ lưỡng về khách hàng khi thẩm định. Mặt khác, ngân hàng còn phải chịu rủi ro khi nhà cung cấp khoản vay cho ngân hàng, trong khi hợp đồng giữa ngân hàng và nhà cung cấp lại không có điều khoản được truy đòi. Do những nhược điểm này mà rất nhiều Ngân hàng Thương mại không mặn mà với hình thức cho vay gián tiếp, còn những ngân hàng tham gia vào hoạt động này đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ. Hầu hết các ngân hàng hiện nay đều mới chỉ dừng lại ở hình thức cho vay trả góp trực tiếp, nghĩa là khách hàng sẽ đến ngân hàng sẽ vay, còn ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định để xét duyệt cho vay. Còn hình thức cho vay gián tiếp thì do ngân hàng chỉ làm việc với nhà cung cấp nên đòi hỏi mối quan hệ giữa khách hàng và nhà cung cấp phải thực sự tin tưởng lẫn nhau, cùng với những điều khoản chặt chẽ trong hợp đồng liên kết 1.3. Mở rộng hoạt động cho vay trả góp 1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh và đánh giá mở rộng hoạt động cho vay trả góp a) Doanh số cho vay trả góp Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô cho vay trả góp đối với nền kinh tế. Lợi nhuận của ngân hàng được tạo ra chủ yếu bởi hoạt động tín dụng. Vì vậy, chỉ tiêu này càng lớn cho thấy ngân hàng có khả năng tạo ra lợi nhuận càng cao.Tuy nhiên còn phải căn cứ vào mức độ rủi ro của khoản vay trả góp. Khi so sánh chỉ tiêu này qua các thời kỳ ta sẽ thấy được phần nào xu thế của hoạt động cho vay trả góp. b) Dư nợ và tăng trưởng dư nợ cho vay trả góp Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế theo phương thức trả góp tại một thời điểm nhất định. Dư nợ cho vay trả góp được tính như sau: Dư nợ Dư nợ Doanh số Doanh số thu nợ CVTG = CVTG + CVTG - CVTG Năm nay năm trước năm nay năm nay Tăng trưởng dư nợ cho vay trả góp là chỉ tiêu tương đối, thể hiện bằng nhịp độ gia tăng tổng dư nợ cho vay trả góp năm sau so với năm trước. Đây là chỉ tiêu cơ bản và quan trọng nhất làm căn cứ cho việc đánh giá hoạt động cho vay trả góp. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng càng mở rộng c) Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay trả góp Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng tín dụng, độ rủi ro trong cho vay trả góp của ngân hàng. Một ngân hàng thường không tránh khỏi việc gặp rủi ro nợ quá hạn, có thể do tình hình tài chính không lành mạnh của khách hàng dẫn tới việc trả nợ không đầy đủ hoặc không đúng hạn, hay do khách hàng cố tình không thanh toán khi đến hạn. Do đó, hoạt động cho vay của ngân hàng được coi là mở rộng và hiệu quả khi tỷ lệ nợ quá hạn nằm trong giới hạn cho phép và phải thấp hơn kỳ trước d) Thị phần cho vay trả góp của ngân hàng so với các ngân hàng khác Chỉ tiêu này cho biết mức độ mở rộng về mặt lượng cũng như khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường của ngân hàng. Khi so sánh với các ngân hàng khác đang hoạt động trên cùng thị trường, ngân hàng có thể phân tích tiềm lực và khả năng của minh cũng như đối thủ, xác định mức độ mở rộng và chiếm lĩnh thị trường trng tương lai. Từ đó, ngân hàng sẽ đưa ra những chính sách và hành động cụ thể để phát triển hơn nữa hoạt động cho vay trả góp của mình. e) Mức độ đa dạng hoá các hình thức cho vay trả góp Đây là chỉ tiêu liên quan tới khả năng đáp ứng sản phẩm và thoả mãn nhu cầu của khách hàng của ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể phát triển khi nó cung cấp cho thị trường một số lượng phong phú và đa dạng các sản phẩm cho vay, đặc biệt là cho vay trả góp nhằm thoả mãn những nhu cầu khác nhau của khách hàng. Trong điều kiện hiện nay, khi nhu cầu cho vay trả góp của thị trường ngày càng trở nên sôi động, việc phát triển thị trường cho vay trả góp của các ngân hàng phải hướng tới những tiêu chí về chất lượng phục vụ khách hàng như tính tiện ích và thuận tiện khi sử dụng sản phẩm, mức độ thảo mãn của khách hàng 1.3.2. Các nhân tố ảnh hường tới mở rộng hoạt động cho vay trả góp a ) Các nhân tố chủ quan · Chính sách của ngân hàng Không chỉ hoạt động cho vay trả góp mà tất cả các hoạt động khác của ngân hàng đều chịu sự chi phối trực tiếp từ những văn bản pháp quy, quy chế… của chính ngân hàng đó. Mỗi ngân hàng đều có một chính sách tín dụng riêng bao gồm mức cho vay, lãi suất, tài sản đảm bảo. Một chính sách tín dụng hơp lý của ngân hàng với những phương thức trả nợ gốc và lãi linh hoạt, mức lãi xuất hợp lý, thời hạn cho vay dài, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng tới vay. Từ đó ngân hàng sẽ dễ thành công hơn trong việc mở rộng hoạt động cho vay. Ngược lại nếu chính sách tin dụng của ngân hàng cứng nhắc, không chú ý đến nhu cầu của khách hàng sẽ hạn chế cho vay giảm tính cạnh tranh trong hoạt động của ngân hàng Chất lượng hoạt động của nhân viên tín dụng Chất lượng của nhân viên tín dụng thể hiện trước hết qua thái độ phục vụ khách hàng, trình độ nghiệp vụ và khả năng thẩm định ban đầu đối với khách hàng.thông thường, khách hàng tiếp xúc với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thông qua cán bộ tín dụng đặc biệt là các khách hàng mới. Do vậy, cán bộ tín dụng chính là hình ảnh đại diện cho ngân hàng. Vì thế, một đội ngũ cán bộ tín dụng nhiệt tình, phục vụ khách hàng với thái độ niềm nở sẽ chiếm được tình cảm của khách hàng. Bên cạnh đó, khi tiếp xúc với khách hàng, cán bộ tín dụng với những kinh nghiệm và trình độ chuyên môn sẽ có những đánh giá ban đầu về khách hàng, xác định độ tin cậy, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn. Đạo đức của cán bộ tín dụng, tinh thần trách nhiệm trong công việc cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu các cán bộ tín dụng thiếu những yếu tố này, họ sẵn sang làm tổn haị tới lợi tích của ngân hàng cũng như khách hàng, khi đó ngân hàng có thể sẽ gặp phải những rủi ro rất lớn. Định hướng chiến lược phát triển của ngân hàng Các ngân hàng, nếu muốn mở rộng hoạt động một cách có hiệu quả thì phải có định hướng rõ ràng trong việc phát triển hoạt động cho vay, chính sách phân bổ nguồn vốn hợp lý cho hoạt động này. Chẳng hạn một ngân hàng với định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ sẽ tập trung chủ yếu vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những đối tượng trung lưu trong xã hội. Từ đó, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng tập trung thoả mãn nhu cầu của các đối tượng này. Khi đó, hoạt động ngân hàng sẽ đem lại hiệu quả cao hơn Công tác huy động vốn Các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng chỉ có thể thực hiện được khi công tác huy động vốn có hiệu quả. Nếu một ngân hàng không huy động được đủ số vốn thì khó có thể mở rộng được hoạt động cho vay. Vì vậy, có thể nói rằng huy động vốn có hiệu quả là cơ sở nền tảng cho việc mở rộng hoạt dộng cho vay của ngân hàng. b) Các nhân tố khách quan Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế là nhân tố có tác động lớn tới hoạt động cho vay của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng. Cho vay trả góp phụ thuộc rất lớn vào mức thu nhập thường xuyên của người dân và sự phát triển của doanh nghiệp. nếu nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, thu nhập của người dân được nâng lên, chất lượng cuộc sống được cải thiện, từ đó nhu cầu tiêu dùng và hưởng thụ của người dân sẽ tăng lên bởi họ có thể yên tâm với mức thu nhập ổn định trong tương lai. Hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng nhờ đó sẽ có cơ hội mở rộng và phát triển. Ngược lại khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, người dân sẽ hạn chế nhu cầu chi tiêu, dịch vụ cho vay trả góp sẽ khó có thể phát triển. Môi trường pháp lý Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt nên cũng như mọi chủ thể trong nền kinh tế khác, Ngân hàng Thương mại luôn luôn hoạt động trong một khuôn khổ pháp luật. Pháp luật tác động tới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng. Một môi trường pháp lý ổn định với hệ thống văn bản pháp luật cụ thể , đầy đủ, rõ ràng và xuyên suốt sẽ tạo điều kiện rất lớn tới hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng. Ngược lại những văn bản pháp luật không rõ ràng, rườm rà, thiếu khoa học sẽ tạo ra khe hở khiến nhiều đối tượng xấu lợi dụng để phạm pháp, gây khó khăn trong hoạt động của ngân hàng. Môi trừơng văn hoá xã hội Thói quen, trình độ văn hoá cũng như phong tục tâp quán, bản sắc dân tộc đều có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động cho vay trả góp. Mỗi xã hội đều có những nét đặc thù văn hoá riêng biệt. Nó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới nhu cầu tiêu dùng và hưởng thụ của người dân, từ đó ảnh hưởng tới hoạt động cho vay trả góp. Các nhân tố thuộc về khách hàng Nhóm nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất phải kể tới những yếu tố thuộc về đạo đức của khách hàng. Nó được đánh giá trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Năng lực pháp lý thể hiện ở việc khách hàng không vi phạm các quy định của pháp luật trước trong và sau quá trình xin vay. Độ tín nhiệm của khách hàng là các yếu tố về thu nhập, tài sản đảm bảo, mối quan hệ vay trả của khách hàng với ngân hàng trong các khoản vay trước,…Mỗi ngân hàng không thể có được tất cả các thông tin tuyệt đối chính xác về khách hàng của mình. Do vậy, nếu khách hàng cố ý xử dụng sai mục đích số tiền vay, hoặc không có thiện chí trả nợ thì chắc chắn sẽ gây khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Ngoài ra, khả năng tài chính và tài sản đảm bảo của khách hàng cũng là những nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến khả năng trả nợ của khách hàng Đối thủ cạnh tranh Năng lực của đối thủ cạnh tranh trong ngành cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng. Đặc biệt là các ngân hàng lớn với tiềm lực vốn mạnh, thị trường lớn, có mối quan hệ lâu đời với khách hàng. Do vậy, trong một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ và khốc liệt như hiện nay, mỗi ngân hàng trong quá trình phát triển đều phải xác định được chỗ đứng của mình trong ngành để có những chiến lược phát triển đúng đắn. Những nhân tố chủ quan và khách quan nói trên có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng của ngân hàng. Do vậy, các Ngân hàng Thương mại cần đánh giá được khả năng của mình, những thế mạnh riêng cũng như những điểm yếu còn tồn tại để có những kế hoạch phát triển cụ thể và chiến lược phát triển phù hợp trong từng giai đoạn. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Sau một thời gian dài chuẩn bị các điều kiện cần thiết vào ngày 1/4/1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức ra mắt và đi vào hoạt động theo Nghị định 115/CP ngày 30/12/1962. trên cơ sở tách ra từ cục quản lý ngoại hối ngân hàng TW (nay là NHNN) hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của NHNN.Kể từ ngày đó, thương hiệu Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức ra đời, với tên gọi tiếng Anh là: Bank of Foreign Trade of Viet Nam, viết tắt là Vietcombank. Theo nghị định 115/cp của Hội đồng Chính Phủ: nhiệm vụ của Ngân hàng Vietcombank là kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng quốc tế, cho vay ngoại thương, tham gia quản lý ngoại hối, góp phần bảo vệ tiền tệ và tài sản nhà nước, tăng cường và mở rộng quan hệ quốc tế, chính trị và văn hoá với nước ngoài. Sau khi chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/4/1963, tất cả các Ngân hàng Ngoại thương các nước XHCN và nhều Ngân hàng Thương mại quốc tế cả các nước Tây Âu, Trung Đông, Ấn Độ, Nhật, Hongkong, Singapore, và cả một số nước châu Phi như Algêri, Ai Cập, Mali, Ghine, Madagasca … đã nhanh chóng thiết lập quan hệ đại lý với Vietcombank. Đến nay sau hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, trải qua những thăng trầm theo dòng lịch sử hào hùng của đất nước, lịch sử hình thành và phát triển của Vietcombank chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1963-1975 Trong suốt thời kỳ này miền Bắc luôn ở trong tình trạng chiến tranh. Nguồn chi viện của miền Bắc đóng vai trò quyết định cho sự nghiệp cho sự nghiệp giải phóng ở miền Nam. Trách nhiệm đặt lên vai Vietcombank là phải giải quyết một trong những vấn đề cốt yếu và sinh tử cho bộ máy kháng chiến : tiền, nhất là ngoại tệ mạnh. Trong điều kiện đó, với vốn điều lệ do nhà nước ban hành là 5.000.000 VNĐ, Vietcombank độc quyền trong 5 nội dung sau: Vốn kinh doanh Tín dụng Ngoại Thương Thanh toán quốc tế Quản lý và điều hành tác nghiệp quỹ ngoại tệ của Nhà nước Quản lý ngoại hối Giai đoạn 1975-1988 Ngay sau ngày giải phóng miền Nam, Vietcombank đã nhanh chóng tham gia tiếp quản các ngân hàng cũ, kịp thời hoàn tất các cơ sở pháp lý, thực hiện quyền thế chân vai trò hội viên của Việt Nam tại Quỹ Tiên Tệ Quốc Tế (IMF), Ngân Hàng Thế Giới (WB), Ngân Hàng Phát TRiển Châu Á ( ADB), xác định dứt khoánt quyền sở hữu về tài sản quốc gia đối với các tài sản là hàng hoá, ngoại tệ hiện đang ở bên ngoài. Đất nước thống nhất, tất cả các ngành chính thức được hợp nhất. Ngành ngân hàng cũng tiến hành hợp nhất Bắc- Nam. Hơn nữa, vị trí quốc tế của Việt Nam được nâng cao,do các quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được mở rộng. Phục vụ kinh tế đối ngoại là Vietcombank theo cơ chế kiêm nhiệm của Cục Ngoại Hối thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Lúc này Vietcombank là một ngân hàng duy nhất nắm độc quyền trên 3 phương diện: độc quyền ngoại tệ, cung ứng tín dụng xuất nhập khẩu, độc quyền giao dịch thanh toán quốc tế Vào cuối những năm 80, vốn điều lệ của Vietcombank chỉ còn 500.000 VNĐ Giai đoạn từ 1988 đến nay Ngày 26/3/1988 sau khi xem xét dự án của Ngân hàng Nhà nước trình lên, hội dồng bộ trưởng đã ra quyết định số 53/HĐBT về tổ chức Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, do quyền hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt ký. Ngân hàng Nhà nước được chia thành hai cấp là cấp quản lý và ngân hàng chuyên doanh trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân Hàng Công Thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp Và Phát triển Nông thôn. Ngày 14/11/1990 với sự ban hành của hai pháp lệnh: pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh các tổ chức tín dụng thì Vietcombank từ vai trò độc quyền về kinh doanh ngoại hối tham gia vào môi trường tự do kinh doanh cạnh tranh với các ngân hàng khác bao gồm cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh và là một đơn vị hạch toán độc lập tự chịu trách nhiệm về tài chính và có chức năng kinh doanh trong cơ chế thị trường. Ngày 1/4/1991 Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (SGD) thành lập nhưng vẫn trực thuộc Vietcombank trung ương. Ngày 1/1/2006 SGD tách ra hoạt động độc lập, bên cạnh nhũng thuận lợi về thương hiệu và ưu thế của SGD trước đây, SGD cũng gặp nhiều khó khăn do xáo trộn về tổ chức, nhiều nhiệm vụ mới được thực hiện. Với những nỗ lực cố gắng của BGĐ và cán bộ nhân viên năm 2006 SGD đã nhanh chóng ổn định mô hình tổ chức bắt nhịp ngay với hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống Vietcombank 2.1.2. Bộ máy tổ chức của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Trải qua gần 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối năm 2006, Ngân hàng Ngoại thương đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với 58 Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội ngũ cán bộ gần 6.500 người. Ngoài ra, NHNT còn tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư... Tổng tài sản của Ngân hàng Ngoại thương tại thời điểm cuối năm 2006 lên tới xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND (tương đương 10,4 tỷ USD), tổng dư nợ đạt gần 68 nghìn tỷ VND (4,25 tỷ USD), vốn chủ sở hữu đạt hơn 11.127 tỷ VND, đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo chuẩn quốc tế. Hội Đồng Quản Trị ( HĐQT) thực hiện chức năng quản lý Vietcombank, chịu trách nhiệm về sự phát triển của ngân hàng theo nhiệm vụ nhà nước giao.HĐQT thành lập ban kiểm soát nhằm giúp HĐQT thực hiện kiểm tra, giám sát Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên trong hoạt động điều hành, tài chính, chấp hành luật lệ của ngân hàng, nghị quyết và quyết định của HĐQT, chấp hành pháp luật của nhà nước Tổng giám đốc điều hành trực tiếp hoạt động của ngân hàng dưới sự giúp việc của bộ máy các phòng ban và chịu trách nhiệm trước HĐQT. Về chức năng và nhiệm vụ vủa các phòng ban tại SGD được quy định theo quyết định số 102/TCCB-ĐT ngày 10/10/1998. Sơ đồ tổ chức Sở giao dịch Ngân hàng Ngoai thương Việt Nam: P. quản lý nhân sự P. kế toán tài chính P. quản lý ngân quỹ P. quan hệ khách hàng P. giao dịch P. quản lý nợ P. đầu tư dự án P. quản lý rủi ro P. tín dụng trả góp và tiêu dùng P. Tổ chức P. thanh toán xuất-nhập khẩu P. bảo lãnh P. vay nợ viện trợ P. thanh toán thẻ P. hối đoái P. vốn và kinh doanh ngoại tệ Nguồn : Phòng tổ chức nhân sự Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (giai đoạn 2006-2007) Xét về tổng thể thì năm 2007 là năm khó khăn đối với SGD khi thị phần huy động vốn đã bị thu hẹp so cới 2006 do sự cạnh tranh gay gắt từ các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn cũng như do sự phát sinh của các hình thức đầu tư mới như kinh doanh chứng khoán, đầu tư bất động sản… Bên cạnh đó hoạt động tín dụng của SGD chưa được đẩy mạnh mặc dù trong năm 2007 SGD đã điều chỉnh lãi suất cho vay linh hoạt hơn theo hướng thoả thuận đàm phán với khách hàng, tuy vậy dư nợ vẫn chưa tăng lên nhiều. Mặt khác, thủ tục cho vay, định giá tài sản đảm bảo, điều kiện vay vốn còn khá chặt chẽ cũng hạn chế phần nào tốc độ tăng trưởng dư nợ của SGD. Kết quả sơ bộ các hoạt động nghiệp vụ của SGD trong năm 2007 như sau: Số dư huy động của SGD đạt 37.992,83 tỷ đồng, hoàn thành 89,3% chỉ tiêu huy động vốn mà NHNT TW giao Hoạt động tín dụng của SGD trong năm 2007 đã có những thay đổi tích cực, dư nợ của SGD đạt 3.612,01 tỷ đồng, hoàn thành kế hoạch do Ngân hàng Nhà nước giao, tuy vậy tỷ lệ gữa tín dụng trên tổng nguồn vốn vẫn thấp ( khoảng 9%) Số dư bảo lãnh của SGD ước đạt 1.535,82 tỷ đồng và hoàn thành 104% kế hoạch. 2.1.3.1. Huy động vốn Tính đến 31/12/2007 vốn huy động quy ra VNĐ của SGD đạt 37.992,83 tỷ đồng ,tăng 3.120,56 tỷ đòng (8,95%) so vói năm 31/12/2006. Trong đó vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 54,71 % vốn huy động của SGD và tỷ giá có xu hướng giảm vào dịp cuối năm 2007 nên tống vốn huy động quy ra VNĐ cũng bị giảm. Bảng 2.1 : Huy động vốn tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006-2007 Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2007 31/12/2006 VNĐ USD Quy VNĐ VNĐ USD Quy VNĐ HĐ từ nền KT 17205,24 1290,03 37992,83 14947,1 1231,42 34761,81 1. TG cuả TCKT 13175,94 605,80 22937,77 11124,89 439,71 18200,31 1.1 TG KKH 5346,15 541,98 14079,55 4070,31 398,77 10486,96 1.2 TG CKH 7829,79 63,82 8858,21 7054,58 40,94 7713,35 2. TK & CP, TP 4029,30 684,24 15055,06 3822,21 791,70 16561,50 2.1Tiết Kiệm 3910,27 661,18 14564,54 3409,72 717,29 14951,68 -TK KKH 28,28 10,00 189,47 29,58 9,55 183,20 -TK CKH <12T 2145,70 185,49 5134,72 1888,73 216,77 5376,84 -TK CKH > 12 T 1736,29 465,69 9240,36 1491,41 490,97 9391,64 2.2 CP, TP 119,30 23,05 490,52 412,49 74,41 1609,83 Nguồn : Phòng kế toán Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam a).Huy động vốn VNĐ Vốn huy động từ khách hàng đến 31/12/2007 đạt 17.205,24 tỷ đồng tăng 2.157,5 tỷ (14,34%) so với cuối năm 2006. Trong đó: Tiền gửi của tổ chức kinh tế đạt 13.175,94 tỷ đồng, tăng 17,38% so với 2006 do SGD đã tăng cường việc tiếp xúc khách hàng để thu hút tiền gửi như tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), công ty thông tin di động, quỹ tích bộ tài chính, tổng công ty bảo hiểm dầu khí…các khách hàng là doanh nghiệp vùa và nhỏ vẫn duy trì ổn định quan hệ tiền gửi và sử dụng nhiều dịch vụ thanh toán khác Tiền gửi của dân cư đạt 4029,3 tỷ,tăng 5,42% so với 2006. Trong khi tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng và trên 12 tháng đều tăng (13,61% và 16,42%) thì vốn huy động từ kỳ phiếu ,trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi giảm 293,46 tỷ (71,14%). Nguyên nhân chủ yếu là do SGD chưa có các đợt huy động gối đầu kịp thời khi các đợt huy động VNĐ trước đó đến hạn nên khách hàng đã chuyển sang tiết kiệm có kỳ hạn tại SGD hoặc các ngân hàng khác trên địa bàn có lãi suất và hình thức khuyến mãi hấp dẫn hơn b).Huy động vốn ngoại tệ Vốn huy động từ khách hàng đến ngày 31/12/2007 đạt 1290,03 triệu USD tăng 58,01 triệu USD ( 4,71%) so với cuối năm 2006. Trong đó: Tiền gửi của tổ chức kinh tế ước đạt 605,8tr USD, tăng 37,47% so với năm 2006 do nhiều công ty chuyển tiền về SGD để thực hiện dịch vụ thanh toán như công ty FPT, công ty đầu tư và phát triển dầu khí, công ty thăm dò khai thác dầu khí, công ty xăng dầu… Tiền gửi của dân cư đạt 684,24 triệu USD giảm 13,54 % so với 2006. Do tỷ giá VNĐ/USD trong năm 2007 có xu hướng giảm nên khách hàng cá nhân có xu hướng chuyển từ tiền gửi tiết kiệm USD sang VNĐ để hưởng lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó, một số khách hàng đã rút tiền và chuyển sang ngân hàng khách do lai suất tiền gửi ở Vietcombank thấp hơn đáng kể so với các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng cổ phần cùng địa bàn (khoảng 0,2-0,5%). Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân khác như các sản phẩm huy động của Vietcombank chưa thực sự cạnh tranh so với các ngân hàng khác, thì trường chứng khoán hút một số lượng lớn vốn chuyển sang các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư… 2.1.3.2. Sử dụng vốn Đến cuối năm 2007, dư nợ tín dụng của SGD quy ra VNĐ đạt 3.612,01 tỷ đồng, tăng 44,4% so với năm 2006, chiếm 9% tổng sử dụng vốn của SGD và hoàn thành kế hoạch Vietcombank TW giao. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 2.581,18 tỷ VNĐ tăng 24,63%,trung dài hạn đạt 701,14 tỷ VNĐ tăng 90,8%,cho vay đồng tài trợ đạt 329,43 tỷ đồng VNĐ tăng 426,76% so với cuối năm 2006. Bảng 2.2 : Cho vay trực tiếp nền kinh tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006-2007 Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu 2007 2006 DS Cho vay DS Thu nợ Dư nợ ( quy VNĐ) DS Cho vay DS Thu nợ Dư nợ (quy VNĐ) VNĐ USD VNĐ USD VNĐ USD VNĐ USD TD Ngắn hạn 1051,93 415,79 1335,47 377,92 2074,67 1284,45 336,24 1271,55 323,97 1760,74 TD ND N&V 36,17 1,53 19,27 0,72 49,70 0 0 0 0 0 ĐT dự án 296,13 21,01 34,09 2,74 788,01 52,14 1,73 21,59 2,15 148,76 TD TG 687,02 0 536,71 516,55 542,00 0 589,00 0 385,17 Các PGD 494,06 0 444,07 119,47 361,95 0 322,27 0 101,40 P.KHĐB 166,76 0 203,02 9,60 105,18 0 105,98 0 13,99 Tổng 2732,06 437,33 2572,63 381,39 3557,99 2345,72 337,97 2310,39 326,12 2410,04 Nguồn : Phòng kế toán Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Tín dụng ngắn hạn VNĐ và ngoại tệ Dư nợ cho vay ngắn hạn của SGD chủ yếu tập trung vào kinh doanh thương mại. Trong đó 80% doanh số cho vay có mục đích là kinh doanh hàng nhập khẩu nên khách hàng chủ yếu vay bằng ngoại tệ. Dư nợ cho vay ngắn hạn tăng một phần do hạn mức cho vay tăng và giảm lãi xuất cho vay đối với một số khách hàng truyền thống và có tín nhiệm. Còn lại 20% dư nợ ngắn hạn là cho cá nhân vay bao gồm cho vay thế chấp bất động sản, giấy tờ có giá và cho vay cán bộ công nhân viên Dư nợ tín dụng ngắn hạn bằng VNĐ tới ngày 31/12/2007 đạt 620,95 tỷ VNĐ, giảm 16,48%. Nguyên nhân dư nợ ngắn hạn bằng VNĐ giảm chủ yếu là do lãi suất vay VNĐ cao hơn nhiều so với lãi suất vay USD, trong khi đó tỷ giá biến động không lớn (khoảng 1%/năm) nên các đơn vị chủ yếu nhận vay nợ bằng USD. Mặt khác một số đơn vị thu mua hàng xuất khẩu trong nước cũng vay USD và bán ngoại tệ cho SGD để phục vụ cho quá trình thu mua do họ có nguồn ngoại tệ để trả nợ và đạt hiệu quả cao hơn so với vay bằng VNĐ. Đối với tín dụng ngắn hạn bằng ngoại tệ quy ra USD, dư nợ đến 31/12/2007 đạt 121,29 tr USD, tăng 47% so với năm 2006, vay vốn thanh toán hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng chủ yếu trong doanh số cho vay năm 2007, phần lớn các đơn vị vay để thanh toán hàng nhập khảu như xăng, dầu, phân bón , sắt thép,… để phục vụ sản xuất kinh doanh trong nước. Tín dụng trung và dài hạn VNĐ và ngoại tệ Trong năm 2007, SGD đã giải ngân cho vay 18 dự án mới, trong đó có 7 dự án của khách hàng đã có quan hệ vay vốn ngắn hạn, trung dài hạn tại SGD. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn tính tới 31/12/2007 đạt 335,73 tỷ đồng, tăng 38,15% so với 2006 chủ yếu do giải ngân vốn vay của tổng công ty điện lực VN 227 tỷ VNĐ. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn tính tới 31/12/2007 đạt 22,61 tr USD tăng 192,36% so với 2006 do giải ngân của công ty liên doanh Container Vinashin, công ty sản xuât gia công và XNK Hanel, công ty XNK thủ công mỹ nghệ Aterxport. 2.1.3.3. Các hoạt động khác a )Hoạt động thanh toán xuất khẩu Năm 2007 là năm kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng mạnh nhưng lại là năm tương đối khó khăn đối với hoạt động thanh toán xuất khẩu của SGD với doanh số thông báo và thanh toán L/C, nhờ thu đều giảm đáng kể so với năm ngoái do tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt trong khi số lượng chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài và Thương mại Cổ phần tăng lên đáng kể trên địa bàn Hà Nội Về hoạt động thông báo L/C , trong năm 2007 SGD thực hiện 1722 món giảm 28,28% với doanh thu đạt 234,55tr USD giảm 30,65 %. Về thanh toán L/C và nhờ thu trong năm 2007 thực hiện 2133 món với doanh số đạt 258,87 tr USD giảm 43,63%so với năm 2008.Sự sụt giảm này một phần là do từ tháng 7/2007 doanh số thanh toán L/C và nhờ thu không còn bao gồm các khoản thanh toán trả chậm của Vinfood nữa. b) Hoạt động thanh toán nhập khẩu Năm 2007 tổng kim ngạch thanh toán nhập khẩu của cả 3 phương thức SGD đạt 2562,78 tr USD, tăng 11,78% so với năm 2006. Trong đó thanh toán nhờ thu và chuyển tiền đều tăng tương ứng là 24,78% và 24,72% nhưng thanh toán bằng L/C giảm 1,6% so vơi năm trước c)Thẻ Doanh số thanh toán và phí thu được từ thẻ tín dụng quốc tế đều tăng so với năm trước, tương ứng là 38,89% và 43,13% do tất cả các loại thẻ đều có sự tăng trưởng đặc biệt là Visa, Amex. Số lượng các thẻ tín dụng phát hành mới /gia hạn kỳ hạn và doanh số sử dụng đều tăng tương ứng là 14,12% và 28,41%. Trong năm 2007 số lượng thẻ ATM phát hành và doanh số hoạt động của thẻ ATM tăng mạnh là 24,47% và 51,58%do chủ trương chi trả lương qua tài khoản từ năm 2008. d) Kinh doanh ngoại tệ Trong năm 2007, trạng thái ngoại tệ của SGD luôn được duy trì cân bằng. Trạng thái ngoại tệ đến 31/12/2007 của SGD đối với các loại ngoại tệ khác quy ra USD là 242.679,55 USD 2.1.3.4. Kết quả kinh doanh Bảng 2.3 : Báo cáo kết quả kinh doanh Sở giao dịch Ngân hàng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006-2007 Đơn vị : Tỷ đồng Stt Chỉ tiêu 2007 2006 1 Thu lãi cho vay 242,02 180,81 2 Thu về kinh doanh ngoại tệ 174,12 167,32 3 Thu dịch vụ ngâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7700.doc
Tài liệu liên quan