Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam

Tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam: MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của VPBank Sơ đồ 2.2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của VPBank chi nhánh Trần Hưng Đạo BẢNG Bảng 2.1: Tình hình dư nợ tín dụng tại VPBank Bảng 2.2: Quy định về mặt thời gian của quy trình CVTG Bảng 2.3: Doanh số CVTG tại VPBank qua các năm Bảng 2.4: Cơ cấu doanh số CVTG theo sản phẩm Bảng 2.5: Dư nợ CVTG tại VPbank Bảng 2.6:Cơ cấu dư nợ CVTG tại VPBank theo sản phẩm Bảng 2.7: Cơ cấu dư nợ CVTG tại VPbank theo thời ... Ebook Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạn Bảng 2.8: Dư nợ CVTG trên vốn huy động Bảng 2.9: Lợi nhuận CVTG tại VPBank Bảng 2.10 : Tỷ trọng nợ quá hạn CVTG Bảng 2.11: Tỷ trọng nợ quá hạn CVTG trên tổng nợ quá hạn Bảng 2.12: Nợ quá hạn CVTG mua ô tô mà mua - xây dựng - sửa chữa nhà Bảng 2.13: Thu nhập bình quân đầu người trên cả nước BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Nguồn vốn huy động Vpbank qua các năm Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nợ xấu tại VPBank qua các năm Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng doanh số CVTG mua ô tô và mua nhà tại VPBank Biểu đồ 2.4: Dư nợ CVTG tại VPBank qua các năm Biểu đồ 2.5: Cơ cấu dư nợ CVTG tại VPBank theo sản phẩm Biểu đồ 2.6 Lợi nhuận CVTG tại VPBank DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHTM: Ngân hàng thương mại CVTG : Cho vay trả góp CBTD : Cán bộ tín dụng TSĐB : Tài sản đảm bảo NV A/O: Nhân viên tín dụng NHNN: Ngân hàng nhà nước LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng đã có những bước đi riêng của mình, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới, tình hình chính trị ổn định nhờ đó mà đời sống người dân cũng không ngừng được nâng cao. Theo điều tra nghiên cứu gần đây nhất về mức thu nhập của các hộ gia đình ở thành thị tại 36 thành phố lớn trong cả nước, tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập trên 3 triệu đồng một tháng tăng từ 36% năm lên 64% năm 2005, và hiện nay trên 75%. Tuy vậy, thực tế lại cho thấy rằng, với mức thu nhập ấy, các hộ gia đình chỉ có thể đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu, còn những công việc hay nhu cầu có chi phí lớn, thì họ phải tích cóp hàng chục năm mới có thể có được. Họ mong muốn làm sao để sử dụng nguồn tài chính sẽ tiết kiệm được trong tương lai phục vụ cho nhu cầu hiện tai, nhằm phát huy tối đa giá trị sử dụng và lợi ích sản phẩm mà họ cần. Một trong những giải pháp có thể sử dụng nhằm giải quyết vấn để trên là sự tham gia của các NHTM. Các NHTM sẽ tài trợ cho các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế bằng hình thức cho vay trả góp. Tức là ngân hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền cần thiết ở hiện tại và khách hàng sẽ thanh toán dần số tiền gốc và lãi vào các thời điểm trong tương lai sao cho phù hợp với nguồn thu nhập của mình và đúng với yêu cầu của ngân hàng. Trải qua nhiều thăng trầm trong quá trình hình thành và phát triển, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) đang ngày càng lớn mạnh và khẳng định vị trí của mình trong ngành ngân hàng Việt Nam. Trong thời đại hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, VPBank đã chọn lối đi riêng cho mình để vượt qua phân khúc thị trường phía trước. Với mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì cho vay trả góp đang là một sản phẩm chủ lực của ngân hàng. Tuy nhiên việc xây dựng và phát triển sản phẩm trong một điều kiện nền kinh tế đang có nhiều biến động, VPBank vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong mở rộng và phát triển loại hình cho vay hấp dẫn này. Vì thế, em đã chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay trả góp tại VPBank Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại VPBank Em xin chân thành cảm ơn ngân hàng VPBank, khoa Ngân hàng - Tài chính trường Đại học Kinh tế quốc dân và đặc biệtt là sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Lê Hương Lan đã hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập và tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này. Do hạn chế về nhiều mặt, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các anh chị công tác tại ngân hàng VPBank. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Có thể định nghĩa ngân hàng qua chức năng, dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề ở chỗ là các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Cách tiếp cẩn thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo cách tiếp cận hiện đại nhất: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. (Ngân hàng thương mại - PGS.TS. Phan Thị Thu Hà) Một số định nghĩa khác lại dựa vào các hoạt động chủ yếu. Ví dụ: Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM Bản chất của NHTM là các trung gian tài chính, vì thế các NHTM có chức năng cơ bản là luân chuyển tài sản, trung gian thanh toán và thông qua hai chức năng này NHTM còn thực hiện chức năng tạo tiền. Với mục tiêu làm gia tăng giá trị tài sản cho các chủ sở hữu, thông qua mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, các NHTM tiến hành các hoạt động kinh doanh và không ngừng phát triển các hoạt động đó. Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, phong phú về chủng loại, tiện ích nhưng cốt lõi đều là hình thức biểu hiện của các hoạt động chủ yếu sau của NHTM Hoạt động huy động vốn. Muốn thực hiện các hoạt động cho vay đáp ứng mục tiêu kinh doanh thu lợi nhuận, các ngân hàng thương mại cần phải huy động được một lượng vốn nhất định. Đây là hoạt động tiền đề có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân các ngân hàng thương mại nói riêng và đối với toàn xã hội nói chung. Ngân hàng mở các dịch vụ tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết trả đúng hạn. Để tìm và thu hút đựơc các khoản tiền gửi, các NHTM thường đưa ra những mức lãi suất huy động khá hấp dẫn như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Sau khi thu hút được các khoản tiền gửi... Hoạt động sử dụng vốn Hoạt động sử dụng vốn của NHTM là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế xã hội, vì thông qua hoạt động này mà hệ thống NHTM cung cấp một khối lượng vốn rất lớn cho nền kinh tế , nhờ đó mà nền kinh tế phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Một số hoạt động cụ thể của hoạt động sử dụng vốn như: Hoạt động tín dụng Nếu các NHTM thực hiện nghiệp vụ huy động vốn để thu hút tiền từ dân cư và các tổ chức trong nền kinh tế thì hoạt động tín dụng sẽ quyết định việc sử dụng nguồn tiền huy động đó. Tín dụng là tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở hầu hết các NHTM. Đồng thời nó cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất của NHTM. Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các NHTM. Điều này thể hiện rõ vị trí trung gian tài chính của các NHTM là người dẫn vốn từ nơi có vốn đến nơi cần vốn, từ đó gia tăng lợi ích chung cho nền kinh tế. Hoạt động bảo lãnh Đây là hoạt động mà ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng, khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ 3. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình để phát hành chứng khoán, mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác... Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ở các ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Cho thuê tài sản Cho thuê tài sản của ngân hàng là hoạt động trong đó ngân hàng mua tài sản cho khách khàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời hạn cho thuê thường chiếm 80% - 90% đời sống kinh tế của tài sản). Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó hoặc trả lại cho ngân hàng. Ngân hàng cũng phải đối đầu với nhiều rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả, không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Ngày nay, các ngân hàng thường có xu hướng tách riêng công ty cho thuê tài sản (leasing) ra hoạt động độc lập với ngân hàng. Hoạt động trung gian Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường tài chính đòi hỏi các NHTM phải không ngừng mở rộng các danh mục đầu tư của mình. Bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống, các NHTM hiện đại đã và đang phát triển nhiều nghiệp vụ khác như thanh toán, tư vấn tài chính, quản lý tiền mặt... Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Với kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi hay các khoản tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Bảo quản vật có giá Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng hay các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận của ngân hàng, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền, dùng để thanh toán cho khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy chứng nhận của ngân hàng. Đó chính là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản. Mua bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua, bán) ngoại tệ. Tức là, một ngân hàng đã đứng ra để mua bán một loại tiền này (chẳng hạn USD, EURO...) để lấy một loại tiền khác (như VNĐ, Yên Nhật...) và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi này có vai trò rất quan trọng, nhất là đối với khách du lịch, vì họ sẽ cảm thấy thuận lợi hơn rất nhiều khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố nơi mà họ đến. Tuy nhiên, mức độ rủi ro của những giao dịch này rất cao, đồng thời nó cũng đòi hỏi một trình độ chuyên môn nhất định. Cung cấp các dịch vụ môi giới chứng khoán Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán có giá mà không phải đến người kinh doanh chứng khoán. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều thành lập ra công ty chứng khoán trực thuộc, phục vụ tốt nhất cho khách hàng của ngân hàng. Cung cấp các dịch vụ uỷ thác tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác đầu tư, uỷ thác phát hành... Thậm chí, các ngân hàng còn đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản cá tài sản có giá. Nhiều khách hàng coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp... Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong truờng hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. 1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái niệm và nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại Khái niệm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Với vai trò là cầu nối, là ngưới dẫn vốn cho các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế. Cùng với hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay của ngân hàng là hoạt động truyền thống và cơ bản nhất, tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng và giúp ngân hàng sử dụng vốn huy động một cách hiệu quả nhất. Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc NHNN Việt Nam về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, hoạt động cho vay được hiểu như sau: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý cấp giấy phép hoạt động. Mọi người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa phương thông qua việc cung cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính doanh ngiệp và của người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng, cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng - để tài trợ cho chi tiêu của doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo cơ hội cho người dân nâng cao đời sống, từ đó tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu, song nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro hơn bất cứ hoạt động nào khác của ngân hàng. Vì vậy NHNN đã quy định phải quản lý tiền cho vay một cách chặt chẽ theo 2 nguyên tắc sau: Thứ nhất, khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích . Khách hàng cam kết phải sử dụng vốn vay theo đúng mục đích đã thảo thoả thuận với ngân hàng, không được trái với quy định của pháp luật nhà nước và quy địng của ngân hàng. Mục đích của việc cho vay phải được ghi trong hợp đồng tín dụng nhằm đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái phép và việc tài trợ đó là phù hợp với quy định của ngân hàng. Thứ hai, khách hàng phải cam kết trả cả vốn lẫn lãi đúng thời hạn. Đây là điều quy định bắt buộc đối với khách hàng nhận tiền vay của ngân hàng đồng thời thời cũng là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. Trong hợp đồng tín dụng luôn ghi rõ thời hạn hoàn trả gốc và lãi, khách hàng phải cam kết hoàn trả đúng thời hạn đó. 1.2.2 Các hình thức cho vay của NHTM Có thể phân loại cho vay theo nhiều tiêu thức khác nhau như dựa vào thời hạn của khoản vay, vào mục đích sử dụng tiền vay, phương thức cho vay, căn cứ vào tài sản đảm bảo và một số tiêu thức phân loại khác. Với mỗi tiêu thức, cho vay lại được phân thành nhiều loại khác nhau . Căn cứ vào thời hạn cho vay Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng. Căn cứ vào tiêu thức này, cho vay được phân thành ba loại gồm cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Cho vay ngắn hạn Là các khoản vay có thời hạn cho vay dưới 1 năm, được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay của NHTM. Cho vay trung hạn Là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu dùng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Cho vay dài hạn Là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 5 năm, tối đa có thể lên tới 20 -30 năm, thậm chí 40 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng các công trình dân dụng, công trình công nghiệp, mua sắm dây chuyền sản xuất, xây dựng các dự án đầu tư cơ bản. Căn cứ vào đối tượng tham gia quy trình cho vay Cho vay trực tiếp Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người vay, và người vay trực tiếp trả nợ cho ngân hàng. Cho vay gián tiếp Là hình thức cho vay thông qua các các tổ chức trung gian như: cho vay qua nhóm sản xuất, qua các tổ hội (hội phụ nữ, hội thương binh, hội nông dân ...), qua các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức đồng tài trợ hoặc những người bán lẻ. Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay Cho vay tiêu dùng Là các khoản vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình mua nhà sủa chữa nhà, mua phương tiện đi lại, học tập, khám chữa bệnh, du lịch... Cho vay sản xuất - kinh doanh Là các khoản cho vay đối với các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế để tiến hành sản xuất, kinh doanh. Căn cứ theo phương thức cho vay Đây là cách phân loại khá phổ biến tại các NHTM. Căn cứ theo tiêu chí này, có các loại cho vay sau: Cho vay theo hạn mức Là hình thức cho vay theo đó ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng được cấp dựa trên Cho vay từng lần Là phương thức vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng lập hồ sơ vay vốn. Việc thẩm định, xét duyệt, quản lý, giám sát tình hình sử dụng vốn vay và thu hồi nợ được thực hiện theo từng hợp đồng tín dụng. Trong phương thức này khách hàng có thể rút vốn một lần hoặc nhiều lần, nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn không được vượt quá số tiền vay ghi trong hợp đồng. Cho vay theo dự án đầu tư Là hình thức cho vay mà ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Tổng nhu cầu vốn dự án - Vốn tự có của chủ dự án tham gia vào dự án - Các vốn chiếm dụng khác Mức cho vay = Cho vay thấu chi Là nghiệp vụ cho vay mà thông qua đó ngân hàng cho phép người vay chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định, trong khoảng thời gian xác đinh phù hợp với quy định của NHNN Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá do đó cả ngân hàng và khách hàng đều phải nghiên cứu kế hoạch luân chuyển hàng hoá để dự đoán ngân quỹ trong thời gian tới. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm. Cho vay trả góp Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường áp dụng với những khoản vay dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc lâu bền. Ngân hàng sẽ thanh toán cho nhà cung cấp về số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Khách hàng có thể trả trực tiếp cho ngân hàng hoặc trả qua nhà cung cấp để họ trả cho ngân hàng. Căn cứ vào tài sản đảm bảo Căn cứ vào tài sản đảm bảo hay căn cứ vào mức độ tín nhiệm với khách hàng, có thể chia hoạt động cho vay của ngân hàng thành 2 loại là cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không có tài sản đảm bảo. Cho vay có tài sản đảm bảo Là loại cho vay dựa trên các tài sản đảm bảo như thế chấp hoặc cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Sự bảo đảm cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán tài sản đó đi khi nguồn thu nợ thứ nhất từ thu nhập của khách hàng không đủ để trả nợ cho ngân hàng. Cho vay không có tài sản đảm bảo Theo loại hình này thì khoản tín dụng được cấp cho khách hàng mà không cần có một tài sản đảm bảo. Nó thường được cấp cho các khách hàng có uy tín lớn, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính lành mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với quy mô vốn của người vay. 1.3 Hoạt động cho vay trả góp của NHTM 1.3.1 Khái niệm cho vay trả góp (CVTG) Cho vay trả góp là một loại hình cho vay tương đối phổ biến tại các NHTM. Đây là hình thức tín dụng rất hữu ích đối với ngành ngân hàng nói riêng và trong nền kinh tế nói chung. Xuất phát từ thực tế là nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng không đến cùng một lúc. Ngân hàng có thể thoả thuận để cho khách hàng chi trả một khoản tiền nhất định hàng tháng sao cho phù hợp với khả năng chi trả của khách hàng và quy định của ngân hàng. Cho vay trả góp là hình thức cho vay trong đó khách hàng sẽ trả nợ (gốc và lãi) cho ngân hàng làm nhiều lần, theo những kì hạn nhất định, trong một thời gian xác định. Theo đúng định nghĩa của NHNN: “CVTG là khoản vay mà toàn bộ tiền lãi được tính theo dư nợ ban đầu, cộng với nợ gốc và chia đều cho cả kì trả nợ” (lãi gộp) Cho vay trả góp được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc đầu tư lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được thoả thuận sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng (tính từ khấu hao, thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kì của người tiêu dùng). 1.3.2 Vai trò của cho vay trả góp Là một hình thức đặc biệt của cho vay tiêu dùng, CVTG là hoạt động tín dụng xuất hiện khi nhu cầu vốn và nhu cầu chi tiêu của các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế và khả năng thanh toán của họ không trùng khớp với nhau, ở đây là không trùng khớp cả về mặt thời gian, và cả vốn. Ra đời từ khá lâu và cho đến nay, CVTG đang đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đối với nền kinh tế: CVTG thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi người vay vốn có được nguồn vốn cần thiết, phục vụ cho nhu cầu của mình một cách kịp thời. Doanh nghiệp có vốn sẽ sản xuất kinh doanh hiệu quả, kịp thời xoay vòng vốn, đóng góp vào thành công chung của nền kinh tế. Với người tiêu dùng, CVTG sẽ góp phần nâng cao mức sống của người dân, không còn là ăn no mặc đủ mà sẽ là ăn ngon mặc đẹp. Hoạt động này đồng thời tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra sự năng động cho nền kinh tế. Khi nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng, nhà ở, nhu cầu nâng cấp sửa chữa nhà tăng lên, các ngành sản xuất dịch vụ liên quan cũng phát triển theo. Các hãng sản xuất ô tô, công ty xây dựng, kiến trúc, công ty sản xuất gạch, xi măng...sẽ có nhu cầu tuyển dụng lao động để mở rộng sản xuất, như vậy tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm đi. Các hãng và các công ty sẽ cạnh tranh nhau gay gắt hơn để đưa ra các sản phẩm đa dạng về mẫu mã, chủng loại, tin cậy về chất lượng phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trong lĩnh vực dịch vụ, hoạt động CVTG tạo điều kiện tốt nhất cho các ngành dịch vụ vận tải và taxi phát triển, kết hợp với các chủ đầu tư khách sạn, khu du lịch cùng tạo điều kiện cho nhau phát triển. Cũng nhờ hoạt động CVTG này, việc mua nhà, sửa chữa nhà của dân cư được giải quyết nhanh gọn hơn, góp phần giúp chính phủ giải quyết vấn đề nhà ở cho dân cư, xã hội bớt đi một vấn đề nhức nhối. Đối với ngân hàng Hoạt động CVTG giúp ngân hàng thu hút thêm nhiều đối tượng khách hàng, mở rộng phạm vi hoạt động, tăng doanh thu cho ngân hàng. Cùng với việc gia tăng huy động vốn, ngân hàng sẽ sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn, sử dụng hiệu quả tối đa nhũng đồng vốn huy động được. Chúng ta biết rằng hoạt động cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM, khoản mục cho vay thường chiếm 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, cùng với xu thế hội nhập thế giới, các ngân hàng đang cạnh tranh ngày càng gay gắt với nhau, không chỉ với các ngân hàng trong nước mà còn phải cạnh tranh với cả những ngân hàng nước ngoài đã phát triển bền vững từ hàng trăm năm nay. Do đó, việc đa dạng hoá và ngày càng nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng là việc làm cần thiết. Nó sẽ giúp các ngân hàng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm dịch vụ của mình, cạnh tranh với các ngân hàng khác, dành lấy thị phần cho riêng mình. CVTG là một trong những sản phẩm như thế. Khi ngân hàng áp dụng hình thức CVTG, hoạt động này mang lại một khoản lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng, nhưng nó lại là hoạt động được đánh giá có mức độ rủi ro thực tế cao hơn so các hoạt động vụ tín dụng khác. Song bù lại, do số lượng món vay trả góp là rất lớn, nên rủi ro lại được san đều cho nhiều khách hàng. Trong khi đó, lãi suất CVTG lại tương đối cao, vì thường áp dụng cho các khoản vay trung dài hạn, đó là lý do nó chiếm một tỷ suất lợi nhuận không nhỏ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với khách hàng Trong khi ngân hàng thu được lợi nhuận, thì tiện ích của hoạt động CVTG mà ngân hàng đem lại cho khách hàng cũng không hề nhỏ. Nhờ có hoạt động CVTG của ngân hàng mà khách hàng giải quyết được nhu cầu tài trợ cấp bách của mình lúc cần thiết. Nếu khách hàng vay vốn là doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ vận tải) sẽ tận dụng nguồn tài trợ trả góp từ phía ngân hàng, mua ôtô trả góp, mua nhà trả góp làm văn phòng đại diện, hay làm trụ sở kinh doanh... Tạo điều kiện kinh doanh hiệu quả hơn mà vốn tự có lại không thể đáp ứng nổi nhu cầu quay vòng vốn. Hoạt động CVTG của NHTM còn giúp cho nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ tăng lên, đặc biệt là các sản phẩm có giá trị lớn như nhà ở, ô tô....làm cho doanh thu của các ngành, các lĩnh vực, doanh nghiệp tăng theo. Nhờ đó mà thúc đẩy mở rộng sản xuất, tạo ra sự cạnh tranh, các ngành nghề, các doanh nghiệp ngày một hoàn thiện mẫu mã và chất lượng sản phẩm dịch vụ, phục vụ tốt hơn cho người tiêu dùng. Còn chính với những ngưòi tiêu dùng, được coi là đối tượng hưởng lợi lớn nhất từ hoạt động CVTG của NHTM. Khi đựơc CVTG người tiêu dùng sẽ đựơc đáp ứng nhu cầu của mình, lợi ích hàng hoá dịch vụ đựơc phát huy tối đa, góp phần nâng cao mức sống cho người dân. Đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện, nhất là tầng lớp dân cư có thu hập thấp hoặc trung bình, sẽ có cơ hội hưởng những lợi ích mà hoạt động CVTG mang lại trước khi tích luỹ đủ tiền để chi tiêu. Đặc biệt là trong các trường hợp khẩn cấp như y tế, giáo dục…tạo cho họ thêm hưng phấn, thêm động lực để lao động sản xuất, tạo ra các hàng hoá dịch vụ mới cho xã hội. Hơn nữa, khách hàng hoàn toàn có thể sử dụng những sản phẩm, dịch vụ như họ mong muốn, mà trên thực tế, nếu không có sự hỗ trợ từ hoạt động CVTG thì khách hàng ngay lập tức khó có thể mua đựoc sản phẩm như mình mong muốn, thậm chí không mua đựợc sản phẩm, dịch vụ mình cần. Ví dụ rất rõ ràng như: một khách hàng nếu chưa có đủ tiền, và giả sử là không có hoạt động CVTG của ngân hàng hỗ trợ. Và khách hàng cần mua nhà, nếu chưa có đủ tiền, một là khách hàng sẽ phải mua một căn nhà nhỏ hơn, vừa với túi tiền, nhưng lại chật chội, không đáp ứng được nhu cầu. Lợi ích mà người tiêu dùng được hưởng giảm đi rất nhiều. Hoặc cũng có thể, người này sẽ phải tích luỹ thêm tiền, tạm thời thuê nhà ở, chờ khi đủ tiền mới mua nhà. Việc làm này càng thiệt hơn, khi mà giá trị của đồng tiền thay đổi theo thời gian, nhất là ở nước ta hiện nay, đồng tiền đang ngày càng mất giá. Cho đến khi có được ngôi nhà, giá trị của nó, lợi ích mà nó đem lại đã mất đi phần nào ý nghĩa. Hoạt động CVTG trả góp đã giải quyết phần nào những bất cập ấy, tạo tâm lý tốt hơn cho người sử dụng, hàng hoá dịch vụ theo đó cũng mang lại độ thoả dụng cao hơn cho khách hàng. 1.3.3 Đặc điểm hoạt động CVTG. CVTG chủ yếu tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình, và một phần tài trợ cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, mà dịch vụ vận tải như chở khách, chở hàng, taxi… là chủ yếu. Các khoản CVTG là nguồn tài chính quan trọng để trang trải các nhu cầu chi tiêu cuộc sống như phương tiện đi lại, nhà ở, các tiện nghi sinh hoạt, các nhu cầu dịch vụ như giải trí, y tế, học tập… khi mà khả năng tài chính của họ trong thời điểm phát sinh nhu cầu chưa cho phép. Chính vì thế, mà hoạt động CVTG có những đặc điểm khác biệt so với một số hoạt động tín dụng nói chung. Về đối tượng Nói chung thì đối tượng của hoạt động CVTG phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của NHNN trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng. Tức là đối tượng CVTG cũng phải là những tổ chức, cá nhân có đủ năng lực pháp luật và hành vi dân sự, chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật; có mục đích sử dụng vốn hợp pháp; có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn đã thoả thuận; có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi và hiệu quả hay có phương án đầu tư phục vụ đời sống khả thi. Có nhiều tiêu thức để phân loại đối tượng CVTG nhưng chủ yếu và phổ biến vẫn là phân loaị căn cứ vào thu nhập của khách hàng và căn cứ vào mục đích sử dụng vốn. Căn cứ vào mức thu nhập của khách hàng Căn cứ vào thu nhập để phân đoạn thị truờng thường áp dụng đối với khách hàng là cá nhân: Khách hàng có thu nhập cao: Họ là những người có địa vị trong xã hội, những người thành đạt, người nổi tiếng như các doanh nhân, ca sĩ, nghệ sĩ, chủ doanh nghiệp… Những người có thu nhập cao này nếu có tham gia kinh doanh hay đầu tư, thường là đầu tư dài hạn thì khi họ tính toán được giữa lợi ích thu được từ đầu tư lớn hơn thậm chí là lớn hơn rất nhiều so với việc bỏ ra một khoản trả lãi cho ngân hàng vì số vốn ấy, thì chắc chắn họ sẽ vay ngân hàng, thay vì thu hồi vốn đầu tư để phục vụ đời sống. ._.Xét về số tuyệt đối, nhu cầu vay của nhóm đối tượng này rất lớn và cho đến nay, đối tượng khách hàng này là mối quan tâm đặc biệt của các ngân hàng, các NHTM cũng đang tập trung vào cho vay đối tượng này. Cá nhân có thu nhập trung bình: Họ là những người làm công ăn lương, công nhân viên chức, có thu nhập ổn định nhưng không cao và có trình độ học vấn. Thu nhập mà họ có được ngoài đủ trang trải cho cuộc sống sinh hoạt vẫn dư một khoản nhỏ để tiết kiệm. Nhóm người này luôn mong muốn có một mức sống tốt hơn hiện tại trong khi tạm thời các khoản tiết kiệm dự phòng hiện tại của họ chưa đủ đáp ứng nhu cầu mua sắm, hay là muốn vay ngân hàng để mua sắm các vật dụng có giá trị lớn, còn khoản dự phòng tiết kiệm sẽ dùng vào các mục đích cấp bách hơn như lúc đau ốm bênh tật, sự cố bất ngờ. Đối tượng này là khách hàng tiềm năng của CVTG mà các ngân hàng hiện nay cũng cần phải chú ý tới, nhằm thu hút khách hàng, mở rộng hoạt động CVTG của mình. Hiện hay các ngân hàng vẫn chưa cho vay đối với đối tượng là cá nhân có thu nhập thấp: Thường thì thu nhập của họ chỉ đủ trang trải những nhu cầu thiết yếu và cơ bản, thậm chí có những đối tượng còn không đủ sống. Mặc dù ai cũng có nhu cầu tiêu dùng, song đối tượng này họ chỉ dám tiêu dùng những sản phẩm thông thường, nhu cầu về sản phẩm chất lượng cao, giá trị lớn đối với họ còn khá xa vời. Nếu cố tình mua bằng được những sản phẩm đó bằng cách vay mượn, thì nguy cơ không trả được nợ là rất lớn, ngân hàng sẽ gặp rất nhiều rủi ro. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn. Khi căn cứ theo tiêu thức này, có thể phân loại đối tượng của CVTG thành 2 nhóm chủ yếu: khách hàng vay để phục vụ mục đích tiêu dùng, khách hàng vay để phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh. Vay phục vụ mục đích tiêu dùng: đối tượng vay có thể là cá nhân hay các hộ gia đình. Nhóm đối tượng này có đặc điểm chung là không thể chi trả một khoản tiền lớn vào một thời điểm xác định trong hiên tại hay trong một thời gian ngắn. Nhưng họ lại muốn thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền, cao cấp hơn như nhà cửa, xe máy, ô tô... Điều đáng nói ở đây là dù họ chưa trả được ngay bây giờ nhưng lại có thu nhập ổn định và định kì có thể trả dần khoản nợ đã vay mượn để chi tiêu. Vay trả góp ngân hàng sẽ là một cách thức hiệu quả để họ có thể đáp ứng tốt nhất những nhu cầu phát sinh mà vẫn có khả năng thanh toán những khoản đó sau này. Vay phục vụ mục đích kinh doanh: Sản phẩm CVTG có thê phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể vay trả góp ngân hàng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực như taxi, dịch vụ vận tải hành khách và hàng hoá, du lịch, khách sạn... Họ sẽ vay vốn ngân hàng để mua hàng loạt ô tô để kinh doanh taxi, vận tải; mua thiết bị để phục vụ cho kinh doanh như mua hàng loạt điều hoà, hàng loạt tủ lạnh để kinh doanh khách sạn. Hay các doanh nghiệp cũng có thể vay trả góp ngân hàng để mua các hàng hoá trên phục vụ một cách gián tiếp cho hoạt động kinh doanh như làm phương tiện đi lại hay trang thiết bị văn phòng. Các sản phẩm này chủ yếu để tạo hình ảnh tốt hơn cho doanh nghiệp hay người chủ doanh nghiệp, từ đó tác động tới hiệu quả kinh doanh. Do đó số tiền vay là khá lớn. Rủi ro của đối tượng khách hàng này cũng cao hơn các nhóm khách hàng khác, vì thế, ngân hàng phải đặc biệt quan tâm đến đối tượng khách hàng này, phân tích, thẩm định tình hình tài chính khách hàng, dự án tài sản đảm bảo cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của đối tượng vay vốn. Quy mô và số lượng khoản vay Quy mô khoản vay thường nhỏ hơn các khoản vay khác. Đặc biệt là CVTG phục vụ cho mục đích tiêu dùng, khi mà mỗi khách hàng chỉ vay tiền để mua một ô tô, hay chỉ xây dựng sửa chữa một căn nhà, mỗi gia đình thường chỉ mua sắm một vài bộ điều hoà, tủ lạnh...Mỗi người vay có số lượng vay tương đối nhỏ, họ chỉ được phép vay 50-60% giá trị chiếc xe hoặc 60 - 70 % chi phí mua sắm sửa chữa nhà. Đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn ngân hàng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh thì dù số lượng khách hàng không nhiều bằng khách hàng cho vay tiêu dùng, nhưng quy mô của mỗi khoản vay lại lớn hơn nhiều. Khi doanh nghiệp tìm tới hoạt động CVTG của ngân hàng, doanh nghiệp thường tiến hành vay để mua sắm hàng loạt: ô tô, xây dựng nhà cửa, nội thất, hoặc nếu không vay hàng loạt thì cũng là mua hàng hoá sản phẩm có giá trị rất lớn như xe nhiều chỗ ngồi, sang trọng lịch sự, xe có giường nằm... Do quy mô lớn của khoản vay mà các ngân hàng đã xem chúng như những dự án đầu tư có quy mô lớn. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế ngày càng phát triển, thị truờng tài chính và chứng khoán ngày càng sôi động, không ngừng tăng trưởng với tốc độ nhanh chóng thì thu nhập của người dân ngày một nâng cao, nhu cầu nâng cao mức sống trở thành tất yếu. Còn đối với các doanh nghiệp thì khi thị trường phát triển, đời sống người dân ngày một cao cũng là khi mà cơ hội kinh doanh của các doanh nhiệp là lớn nhất. Chính sách mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ để ngày một thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng của mình là việc làm cần thiết. Vì vậy, trong những năm vừa qua, số lượng khách hàng đến với hoạt động CVTG của các NHTM tăng lên một cách đột biến khiến cho số lượng khoản vay tăng lên rất nhanh, tổng quy mô của loại hình cho vay này cũng do đó mà tăng lên. Rủi ro của hoạt động CVTG Hoạt động CVTG có độ rủi ro rất cao do hoạt động quản lý sau cho vay gặp rất nhiều khó khăn: Khó theo dõi hoạt động của khách sau vay vì các món vay chủ yếu là vay tiêu dùng, khách hàng thường thế chấp bằng chính hàng hoá khách hàng mua trả góp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu có bất kì sự cố nào ảnh hưỏng đến thu nhập của người vay như đau ốm, mất việc, chết hay là hoạt động kinh doanh không thuận lợi như mong muốn thì khả năng không trả được nợ đúng hạn, thậm chí là mất khả năng trả nợ, vì thế, ngân hàng sẽ khó thu hồi nợ hơn, tồi tệ hơn là có thể bị mất vốn. Hoạt động CVTG là một dạng đăc biệt của hoạt động tín dụng, do đó khi tiến hành CVTG, ngân hàng sẽ phải đối mặt với tất cả các loại rủi ro đặc trưng như: Rủi ro tín dụng: Là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc trả không đày đủ vốn và lãi cho ngân hàng. Rủi ro hối đoái: Là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ mà tỷ giá hối đoái biến động theo chiều bất lợi cho ngân hàng. Rủi ro lãi suất: Thực chất của rủi ro lãi suất chính là rủi ro giá cả. Là khả năng xay ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự kiến. Rủi ro đạo đức: Đây là loại rủi ro mà ngân hàng rất sợ phải đối mặt. Rủi ro này liên quân đến đạo đức của khách hàng và của chính nhân viên ngân hàng. Còn một số rủi ro chung khác nữa như khả năng lỗi công nghệ, khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán... Lãi suất của hoạt động CVTG Đặc trưng của hoạt động CVTG là tài sản đảm bảo lại chính là tài sản mua trả góp, nguồn trả nợ ngân hàng là thu nhập định kì của khách hàng và chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng. Nguồn trả nợ cho ngân hàng là thu nhập định kì của khách hàng vay vốn. Nếu vì bất kì lí do gì khiến cho khách hàng mất đi khả năng thanh toán cho ngân hàng thì tốn thất xảy ra. Hơn nữa các khoản vay trả góp chủ yếu là những khoản vay trung và dài hạn, thời gian có thể kéo dài 15, 20 năm thậm chí lâu hơn. Tính thanh khoản của các khoản vay liên quan đến bất động sản lại rất thấp. Do đó mà CVTG gần như là hoạt động tín dụng có độ rủi ro lớn nhất. Để bù đắp một phần rủi ro ấy, ngân hàng thường cho vay với mức lãi suất bao gồm cả lãi suất cơ bản và lãi suất bù đắp rủi ro. Vì vậy mà lãi suất của hoạt động CVTG rất cao so với các hoạt động cho vay khác. Thường thì lãi suất của hoạt động CVTG luôn ở vị trí cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng, cao hơn từ 3 - 5 lần lãi suất thông thường. Phương thức cho vay trả góp Phương thức cho vay Ta có thể thấy CVTG là hình thức cho vay chủ yếu là trung và dài hạn, cho vay dưới hình thái giá trị là tiền, vừa có thể cho vay tiêu dùng, vừa có thể cho vay phục vụ mục đích kinh doanh. CVTG có thể được thực hiện thông qua 2 phương thức: trực tiếp và gián tiếp. Một là, phương thức CVTG trực tiếp: là những khoản cho vay phục vụ người tiêu dùng mua sắm nội thất, ô tô, hay mua xây dựng sử chữa nhà ở. Tài sản đảm bảo chính là hàng hoá mua trả góp cunả khách hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện thanh toán với nhà kinh doanh thay cho khách hàng, sau đó, khách hàng sẽ trả tiền trực tiếp cho ngân hàng. Các bước tiến hành cụ thể như sau: (1) Ngân hàng kí hợp đồng tín dụng trực tiếpvới người tiêu dùng. Ngân hàng sẽ phân tích kĩ tình hình thu nhập của khách hàng, các thông tin về kháhc hàng cũng như yêu cầu vè tài sản đảm bảo. (2) Nhà kinh doanh bán hàng cho người tiêu dùng (người vay vồn ngân hàng). (3) Nhà kinh doanh tạp trung hoá đơn bán hàng trình lên ngân hàng để được thanh toán. (4) Người vay đến trả nợ trực tiếp cho ngân hàng. Hai là, phương thức CVTG gián tiếp: Với phương thức CVTG này, ngân hàng và những người kinh doanh có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau từ trước. Khách hàng vay vốn đề nghị người kinh doanh cấp cho họ một khoản vay để mua hàng hoá, ngưòi kinh doanh sẽ thông báo đến ngân hàng những thông tin quan trọng về khách hàng của mình như thông tin cá nhân, khả năng tiêu dùng... Ngân hàng sẽ cố gắng hỗ trợ nhà kinh doanh trong việc thực hiện các giao dịch mua bán của họ bằng cách chấp thuận hoặc từ chối đề nghị tín dụng trong khoảng thời gian ngắn nhất. Các ngân hàng sẽ nhận những khoản vay gián tiếp từ phía các nhà kinh doanh trong một “gói”. Trong “gói” này có nhiều khoản vay mua trả góp của nhiều khách hàng tại đại lý bán hàng của nhà kinh doanh. Mỗi khoản vay của nhà kinh doanh cung cấp có chất lượng và độ rủi ro khác nhau. Các nhà kinh doanh đôi khi chấp nhận nhũng khoản vay có độ rủi ro cao vì quy mô khoản vay hoặc giá trị tài sản đảm bảo lớn. Do đó tình trạng sai phạm và tổn thất với những khoản vay gián tiếp gấp 2 lần các khoản vay trực tiếp. Trong phương thức gián tiếp này, ngân hàng có thể tài trợ cho các nhà kinh doanh một phần hay toàn bộ khoản vay. Các hãng kinh doanh, cửa hàng bán lẻ nhận số tiền từ ngân hàng sau khi việc bán hàng diễn ra, sau đó làm đại lý thu tiền cho ngân hàng. Ngân hàng hầu như chỉ làm việc với hãng kinh doanh mà không phải là người mua hàng. Các bước CVTG gián tiếp được thực hiện theo trình tự: (1) Ngân hàng kí hợp đồng với hãng kinh doanh, tài trợ toàn bộ hoặc một phần cho ngưòi mua hàng trả góp. Ngân hàng sẽ phân tích tình hình thu nhập và hoạt động kinh doanh, khả năng tiêu thụ và khả năng thu hồi vốn sau bán hàng. (2) Hãng kinh doanh bán hàng cho người vay vốn và kí hợp đồng trả góp với người tiêu dùng. (3) Hãng kinh doanh tập trung hoá đơn, đưa lên ngân hàng để được ngân hàng thanh toán. (4) Hãng kinh doanh thu tiền của người mua hàng hàng kì, thanh toán lại cho ngân hàng. Phương thức hoàn trả Khi ngân hàng thực hiện một hợp đồng CVTG, ngân hàng sẽ thanh toán cho đại lý bán hàng số tiền mà khách hàng nợ (trong hạn mức tín dụng). Các đại lý bán hàng sẽ nhận ngay tiền bán hàng từ phía ngân hàng, sau đó, chính các đại lý sẽ thu tiền trả góp hộ ngân hàng hoặc là khách hàng sẽ trực tiếp trả tiền cho ngân hàng. Số tiền trả góp khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kì có thể được tính theo các phương thức trả đều hoặc trả không đều. Trả đều tức là ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau một khoản cố định, và hàng kì, khách hàng trả cho ngân hàng đúng số tiền ấy cho đến khi hết nợ. Cách trả nợ như trên còn gọi là trả theo niên kim cố định. Ngân hàng dựa vào khả năng trả nợ của khách hàng, mức lãi suất, thời hạn cho vay và số tiền vay để tính ra niên kim cố định. Còn theo phương thức trả không đều, thì ngân hàng và khách hàng có thể lựa chọn nhiều phương hình thức thanh toán khác nhau như thanh toán nợ gốc từng kì, trả lãi hàng tháng, trả gốc đều nhưng nợ lãi thanh toán đầu kì hoặc cuối kì... lãi dược tính trên số dư nợ thực tế của khoản vay. Lợi nhuận thu được Do rủi ro tiềm ẩn của hoạt động CVTG là rất lớn, lãi suất cho vay rất cao, và hoạt động này tỏ ra ngày càng có hiệu quả hơn khi mà nhu cầu nâng cao mức sống ngày một tăng lên, nhu cầu ăn ở đi lại được nâng lên một mức mới: không những đủ mà còn đẹp, không những có mà phải là có nhiều, có tốt. Hoạt động CVTG đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của người tiêu dùng rất kịp thời và tiện lợi, do đó, ngày càng nhiều khách hàng tìm đến ngân hàng, lợi nhuận ngân hàng thu về là rất lớn. Song cũng cần lưu ý rằng, khả năng xảy ra tổn thất là vô cùng lớn, vì vậy, cán bộ và nhân viên tín dụng cần phải có sự quản lý chặt chẽ khách hàng trong suốt quá trình cho vay, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. 1.4 Mở rộng hoạt động CVTG của NHTM. 1.4.1 Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng hoạt động CVTG của NHTM. Quy mô doanh số CVTG Doanh số CVTG trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay thực tế trong kì. Doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng của nó phản ánh quy mô và xu hướng của hoạt động CVTG là mở rộng hay thu hẹp. Họat động CVTG của ngân hàng là mở rộng khi tốc độ tăng trưởng của doanh số CVTG là dương và ngược lại. Quy mô dư nợ CVTG Dư nợ kì này = Dư nợ kì trước + Doanh số cho vay trong kì - Doanh số thu nợ trong kì Dư nợ CVTG là số tiền mà ngân hàng đang CVTG tính đến một thời điểm cụ thể. Đây là chỉ tiêu tích luỹ qua các thời kì, ngân hàng tính tiền lãi CVTG dựa trên dư nợ tại thời điểm tính lãi, tức là lợi nhuận của ngân hàng có được từ hoạt động CVTG trong kì phụ thuộc vào dư nợ CVTG chứ không phải doanh số CVTG trong kì đó. Doanh số thu nợ CVTG trong kì là tổng các khoản thu nợ CVTG phát sinh trong kì. Nếu doanh số CVTG trong kì tăng lên so với kì trước và lớn hơn doanh số thu nợ CVTG trong kì thì ta có được sự mở rộng CVTG cả dư nợ và doanh số. Tốc độ tăng trưởng dư nợ CVTG Chỉ tiêu này cùng với chỉ tiêu số dư nợ phản ánh sự mở rộng của hoạt động CVTG, một khi tốc độ tăng trưởng dư nợ dương và càng lớn, thì hoạt động CVTG càng được mở rộng và ngược lại. = Tốc độ tăng trưởng dư nợ CVTG *100% Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động Tỷ lệ dư nợ CVTG trên tổng vốn huy động = Chỉ tiêu này đánh giá khả năng sử dụng vốn huy động vào hoạt động CVTG. Chỉ tiêu này cho biết, cứ 100 đồng vốn mà ngân hàng huy động được htì có bao nhiêu đồng được sử dụng để CVTG. Tye lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng càng tập trung nguồn lực cho hoạt động CVTG. Nếu ngân hàng sử dụng vốn cho vay phần lớn từ nguồn cấp trên thì không hiệu quả bằng nguồn vốn huy động được. Do vậy, tỷ lệ này càng gần 1 thì càng tốt cho hoạt động của ngân hàng, khi đó ngân hàng sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn huy động được. Tỷ trọng dư nợ CVTG so với tổng dư nợ Tỷ trọng nợ CVTG so với tổng dư nợ cho biết CVTG chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ. Nó cũng cho biết cơ cấu tín dụng của ngân hàng. Căn cứ vào tỷ trọng này người ta sẽ xem xét mức dộ phát triển của hoạt động CVTG trong tổng dư nợ để vừa đảm bảo an toàn tín dụng vừa khai thác tốt tiềm năng loại hình cho vay này. Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời Tỷ trọng lợi nhuận CVTG trên tổng lợi nhuận Mục tiêu của ngân hàng là lợi lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo an toàn. CVTG tạo được khoản lợi nhuận càng lớn phần nào chứng tỏ chất lượng khoản vay càng cao. = Tỷ trọng này cho thấy vai trò của hoạt động CVTG trong các hoạt động của ngân hàng Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn CVTG là một phần hay toàn bộ số dư nợ (cả gốc và lãi) của khoản vay trả góp đã đến hạn thanh toán với ngân hàng nhưng người vay không thanh toán được mà vẫn chưa được ngân hàng xử lý điều chỉnh kì hạn nợ, gia hạn nợ, xoá nợ... Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn CVTG và tổng dư nợ CVTG tại một thời điểm nhất định, thường là vào cuối tháng, quý, hay năm. Tỷ lệ nợ quá hạn CVTG = Các khoản nợ quá hạn CVTG ngày càng tăng thì ngân hàng sẽ càng gặp khó khăn trong kinh doanh, ngân hàng sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán, lợi nhuận giảm... Tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp thì chất lượng CVTG càng cao và ngược lại. Một tổ chức tín dụng được xếp loại A nếu có tỷ lệ nợ quá hạn <5%, nghĩa là chất lượng tín dụng tương đối tốt, xếp loại B nếu từ 5 - 8% tức là chất lượng tín dụng trung bình và xếp loại C nếu trên 8%, nghĩa là chất lượng tín dụng yếu kém. Các NHTM luôn cố gắng duy trì tỷ lệ này ở mức thấp nhất có thể. 1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự mở rộng hoạt động CVTG của NHTM Các nhân tố chủ quan Việc mở rộng hoạt động CVTG của NHTM trước hết phụ thuộc vào chính nội lực của các ngân hàng. Tự thân mỗi ngân hàng phải khẳng định năng lực của mình, phải chủ động đưa ra chính sách, định hướng chiến lược và biện pháp trước khi trông chờ vào nhu cầu từ bên ngoài tác động. Những nhân tố chủ quan tác động đến ngân hàng là những nhân tố thuộc về nội tại bên trong ngân hàng mà ngân hàng có thể khắc phục và điều chỉnh được. Chính sách của ngân hàng. Không chỉ hoạt động CVTG mà bất kì hoạt động nào của ngân hàng cũng chịu sự chi phối trực tiếp từ những văn bản pháp quy, quy định, quy chế, quy trình của chính ngân hàng đó. Mỗi ngân hàng đều có một chính sách tín dụng riêng bao gồm mức cho vay, lãi suất, tài sản đảm bảo... Một chính sách tín dụng hợp lý của ngân hàng với các phương thức trả nợ gốc và lãi linh hoạt, mức lãi suất hợp lý, thời hạn cho vay dài, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng thì ngân hàng đó chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến vay. Việc thành công trong mở rộng hoạt động cho vay, cụ thể ở đây là hoạt động CVTG sẽ không gặp mấy khó khăn. Tuy nhiên một chính sách tín dụng quá lỏng lẻo và có lợi nhất cho khách hàng lại có thể gây thiệt hại lớn cho ngân hàng, hoặc dẫn tới kết quả hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Ngược lại, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng cứng nhắc, không chú ý đến nhu cầu của khách hàng sẽ hạn chế cho vay, giảm tính cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một chính sách vừa chặt chẽ, vừa khoa học, nhanh gọn và linh hoạt cho cả khách hàng và ngân hàng sẽ giúp ngân hàng vừa thu hút được khách hàng, vừa hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Định hướng chiến lược của ngân hàng Để liên lục phát triển, mọi ngân hàng đều phải xây dựng cho mình một định hướng, chiến lược rõ ràng, vừa tổng hợp, vừa chi tiết đến từng hoạt động, trong đó có cả hoạt động tín dụng. Một ngân hàng có thể lựa chọn lối đi riêng cho mình, một số ngân hàng xác định đi theo hướng phát triển thành ngân hàng đại lý, một số ngân hàng khác lại lấy mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ. Hiện nay ở nước ta, các NHTM nhà nước cùng với ngân hàng ngoại thương vừa cổ phần hoá cuối 2007 đều có xu hướng phát triển thành ngân hàng đa năng. Khi đó, khách hàng chủ yếu và chiến lược của ngân hàng sẽ là các dự án lớn, trung và dài hạn là chủ yếu, các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn. Còn các NHTM cổ phần, điển hình như Sacombank, ACB, VPBank... đều đang hướng tới trở thành các ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt nam sẽ tập trung vào nhóm đối tượng khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tầng lớp trung lưu trong xã hội, cho vay tiêu dùng. Khi phương hướng chiến lược đã rõ ràng, xác định được khách hàng của mình, các sản phẩm dịch vụ của mỗi ngân hàng cũng phải tập trung thoả mãn nhu cầu của khách hàng mình. Khi đó, hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới thật sự đạt hiệu quả cao hơn. Nếu trước đây, hoạt động cho vay tiêu dùng nói chung và hoạt động CVTG nói riêng còn bị xem nhẹ, thì nay gần như mọi ngân hàng đều thi nhau mở rộng và nâng cao chất lượng các sản phẩm của hoạt động này. Các ngân hàng đã và đang xây dựng các chính sách, phương hướng chiến lược riêng cho hoạt động CVTG, thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng trong điều kiện có thể, thu hút ngày càng nhiều hơn khách hàng về phía mình. Lãi suất cho vay Lãi suất cho vay là nhân tố tác động trực tiếp đến thu nhập từ cho vay của ngân hàng. Như vậy lãi suất cao có thể mang lại thu nhập lớn hơn cho ngân hàng nhưng để mở rộng cho vay thì việc nâng cao lãi suất cho vay là kông hợp lý. Vì lãi suất cho vay có ảnh hưởng đến dư nợ dư nợ cho vay thông qua tăng giảm giá trị món vay. Lãi suất cho vay là yếu tố quyết định đến lợi ích kinh tế của khách hàng, họ cần lựa chọn ngân hàng có lãi suất cho vay thấp hoặc có lãi suất phù hợp với nhu cầu của họ. Lãi suất là công cụ điều chỉnh có hiệu lực nhưng rất nhạy cảm, như “con dao 2 lưỡi”: Nếu muốn tăng dư nợ cho vay, ngân hàng hạ thấp lãi suất thì khách hàng sẽ vay nhiều hơn, nhưng lợi nhuận ngân hàng lại giảm xuống. Nếu ngược lại thì ngân hàng lại không thực hiện được mục tiêu mở rộng hoạt động CVTG, nhưng lại đảm bảo được mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng. Bài toán đặt ra cho ngân hàng là phải tính toán được mức lãi suất phù hợp, vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận, vừa thực hiên mở rộng hoạt động CVTG. Chất lượng nhân viên tín dụng Con người là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự thành bại của mội hoạt động nói chung cũng như hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng. Để có khoản tín dụng tốt, thu hút được khối lượng khách hàng lớn thì ngân hàng phải chú trọng từ công tác tiếp xúc, thẩm định hồ sơ, giải ngân, giám sát khách hàng, thu nợ... Do đó trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cũng như nhận thức và đạo đức của cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong sự phát triển và mở rộng hoạt động CVTG của ngân hàng. Thông thường, khách hàng tiếp xúc với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thông qua cán bộ tín dụng đặc biệt là đối với các ngân hàng mới. Cán bộ tín dụng chính là đại diện cho hình ảnh của ngân hàng. Vì thế một đội ngũ cán bộ tín dụng có tác phong chuyên nghiệp, nhiệt tình, thật lòng phục vụ khách hàng với thái độ niềm nở chân tình sẽ chiếm được cảm tình của khách hàng, khiến họ an tâm thoải mái khi quan hệ với ngân hàng. Nhờ vậy mà đôi khi, khách hàng có thể bỏ qua một số tiện ích của một ngân hàng khác để đến với ngân hàng có thái độ giao dịch tốt hơn, đó là lợi thế cạnh tranh rất lớn của mỗi ngân hàng. Một đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt thì không những sẽ là việc khoa học, đúng quy trình nghiệp vụ theo yêu cầu của ngân hàng mà đồng thời khi tiếp xúc nhiều với khách hàng, với kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của mình, cán bộ tín dụng sẽ có những đánh giá ban đầu về thái độ của khách hàng, khách hàng có đáng tin cậy không, có cho vay được hay không, từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn. Một cán bộ tín dụng càng có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết rộng thì thẩm định khách hàng và tài sản đảm bảo càng chính xác, đem lại lợi ich rất lớn cho ngân hàng trong việc phòng chống rủi ro. Đạo đức của cán bộ tín dụng cũng như tinh thần trách nhiệm trong công vịêc cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng nói chung và hoạt động CVTG nói riêng. Bởi nếu thiếu những yếu tố này, thì một nhân viên càng giỏi bao nhiêu càng nguy hiểm cho ngân hàng bấy nhiêu. Khi đó, vì lợi ích cá nhân, họ sẵn sàng làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng. Ngân hàng sẽ gặp phải những rủi ro rất lớn, không thể lường trước được. Nguồn vốn của ngân hàng Nguồn vốn có tác động trực tiếp tới hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động CVTG nói riêng. Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng lớn thì khách hàng tin tưởng ngân hàng hơn, uý tín ngân hàng được nâng cao hơn. Khi ngân hàng có vốn tự có lớn thì mới được phép huy động vốn nhiều, mới có khả năng mở rộng quy mô cho vay, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng, nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên và công nghệ thông tin... Ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển được hoạt động của mình từ đó hoạt động CVTG cũng mở rộng và phát triển theo. Các yếu tố khác Mọi ngân hàng đều phải nắm rõ các thông tin về thị trường, về khách hàng để đạt hiệu quả cao nhất trong các hoạt động kinh doanh của mình, nhất là hoạt động tín dụng. Thông tin về khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cho vay của ngân hàng. Nếu khách hàng có thông tin tốt, chắc chắn ngân hàng sẽ an toàn hơn, việc ra quyết định cũng nhanh chống hơn, việc quản lý khách hàng cũng dễ dàng hơn. Hiện nay, ngân hàng không chỉ quan tâm đến thông tin mà khách hàng cung cấp, ngân hàng có thể căn cứ vào thông tin từ các đối tác của khách hàng và từ trung tâm thông tin khách hàng CIC của NHNN. Công nghệ ngân hàng ảnh hưởng có tín chất quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Một ngân hàng có công nghệ cao sẽ xử lý thông tin nhanh và chính xác hơn, quản lý được hoạt động của cả hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động CVTG của các chi nhánh, phòng giao dịch và hệ thống nói riêng, quản lý được chặt chẽ và tiết kiệm được chi phí, đưa ra các mức lãi suất cạnh tranh. Bên cạnh công nghệ thì mạng lưới chi nhánh hoạt động cũng là nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của ngân hàng, bởi trong môi trường cạnh canh khốc liệt và cuộc sống tiện ích, yếu tố nhanh chóng và tiện lợi được đặt lên gần như hàng đầu. Các nhân tố khách quan Những nhân tố thuộc về khách hàng Khách hàng vay vốn có vai trò quan trọng quyết định đến khả năng mở rộng CVTG của NHTM. Khách hàng cần phải có năng lực tài chính lành mạnh, nguồn thu nhập đủ lớn và ổn định mới có thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng, và đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Thói quen tiêu dùng của dân cư có ảnh hưởng không hề nhỏ đến khả năng mở rộng của NHTM. Ở Việt Nam, dân cư miền Bắc luôn có xu hướng tiết kiệm hơn dân cư miền Nam. Đạo đức của người đi vay cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến mở rộng hoạt động CVTG của các ngân hàng. Nó được đánh giá trên năng lực pháp lý và mức độ tín nhiệm. Năng lực pháp lý là việc khách hàng có thưc hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật hay không ngay cả trước, trong và sau khi cho vay. Mức dộ tính nhiệm chính là khả năng và ý chí trả nợ của khách hàng. Một ngân hàng không thể có đầy đủ những thông tin tuyệt đối chính xác về khách hàng của mình. Do đó không thể giám sát lường trước được mọi hoạt động của khách hàng, nếu khách hàng có khả năng và ý chí trả nợ cho ngân hàng, ngân hàng sẽ hạn chế được rất nhiều rủi ro có thể dẫn tới tổn thất. TSĐB của khách hàng cũng là yếu tố thuộc vê khách hàng có ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động CVTG của NHTM. Nếu khách hàng ngoài đảm bảo bằng chính tài sản hình thành từ món vay mà còn có thêm những TSĐB khác thì độ tín nhiệm càng tăng, khả năng quyết định cho vay cũng lớn hơn. Những nhân tố thuộc về môi truờng Những nhân tố thuộc về môi trường cũng tác động rất lớn đến khả năng mở rộng hoạt động CVTG của ngân hàng như các quy định của nhà nước, tình hình phát triển kinh tế, thị trường, cũng như sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng nơi ngân hàng đang hoạt động CVTG. Môi trường pháp lý Mọi hoạt động nói chung và hoạt động CVTG của ngân hàng nói riêng đều phải chịu sự chi phối có tính chất quyết định bởi các văn bản quy định của nhà nước. Một môi trường pháp lý chặt chẽ và ổn định sẽ là điều kiện tiên quyết thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngược lại một môi trường chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ và thống nhất giữa các văn bản pháp luật, sự rườm rà, phức tạp của các thủ tục giấy tờ hành chính có liên quan sẽ khiến cho các khách hàng gặp phải nhiều khó khăn khi tiếp cận vốn ngân hàng. Những thay đổi trong chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa của chính phủ và NHNN qua các thời kì sẽ gây ra những ảnh hưởng không nhỏ cho các ngân hàng trong quá trình hoạt động CVTG. Xây dựng một chính sách nhất quán, lành mạnh, ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như các NHTM Môi trường kinh tế vi mô Môi trường kinh tế tác động tới hiệu quả cho vay của ngân hàng thông qua các biến số kinh tế như tỉ lệ lạm phát, tỷ giá ngoại tệ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất, giá cả hàng hoá, đặc biệt là sự biến động ảo của giá bất động sản, biến động của thị trường chứng khoán đã gây không ít khó khăn cho cả khách hàng và ngân hàng. Môi trường kinh tế phát triển ổn định làm cho ngưòi dân có thu nhập ngày càng cao, đời sống nâng cao, nhu cầu hưởng thụ tăng lên, kích thích người tiêu dùng mua sắm hàng hoá sản phẩm, tạo điều kiện cho các ngân hàng thực hiện hoạt động CVTG của mình. Môi trường cạnh tranh Hoạt động CVTG đã trở nên phổ biến đối với rất nhiều các tổ chức trung gian tài chính, các công ty bảo hiểm... Khách hàng là người được lựa chọn làm việc với tổ chức nào phù hợp, đem lại lợi ích cao nhất đối với họ. Do đó sức ép cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động này là rất lớn. Để thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng, buộc ngân hàng phải tăng cuờng mở rộng chi nhánh, trang bị nhiều thiết bị hiện đại, không ngừng quảng cáo tiếp thị khuếch trương hình ảnh, uy tín của ngân hàng. Đồng thời phải đưa ra các mức lãi suất cạnh tranh, giảm thiểu các thủ tục rườm rà không cần thiết trong giới hạn an toàn của ngân hàng, tạo điều kiện cho khách hàng được tiếp cận vốn CVTG của ngân hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Môi trường văn hoá Môi trường văn hoá xã hội cũng ảnh hưởng sâu sắc đến mở rộng hoạt động CVTG cua NHTM. Mỗi vùng, mỗi địa phương có một phong tục tập quán riêng, có lối sống và các thói quen sinh hoạt riêng đã làm ảnh hưởng tới việc mở rộng hoạt động CVTG của NHTM. Do đó việc mở rộng phát triển các sản phẩm dịch vụ cũng phải phù hợp với từng nơi đó. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP TẠI VPBANK 2.1 Tổng quan về NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank) 2.1.1 Sự hình thành và phát triển Sự hình thành và phát triển của VPBank VPBank là tên viết tắt của NH thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam Tên giao dịch quốc tế: Vietnam joint - stock commercial bank for private enterprises. Tên giao dịch: Ngân hàng ngoài quốc doanh Trụ sở chính: Số 8 Lê Thái Tổ, P.Hàng Trống, Q.Hoàn Kiếm, Hà Nội Vp bank đã trải qua 3 giai đoạn phát triển: Giai đoạn 1:(1993 - 1996) Hình thành và phát triển Bắt đầu đi vào hoạt động ngày: 04 tháng 09 năm 1993 theo giấy phép số 0042/NH - GP của thống đốc NHNN Việt Nam cấp ngày 12 tháng 08 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm.._.ọng của hoạt động cho vay trả góp tại VPBank Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trên đà tăng trưởng mạnh, GDP bình quân các năm đều đạt trên 8%, riêng năm 2007 đạt 8,5%. Các hoạt động kinh tế xã hội đang diễn ra mạnh mẽ và sôi nổi. Đời sống của người dân ngày một tăng cao. Giờ đây con người ta không chỉ theo đuổi cuộc sống no đủ mà ngày càng hướng đến nhu cầu hưởng thụ cuộc sống tiện nghi, ăn ngon mặc đẹp. Khi cuộc sống đầy đủ hơn, con người muốn tiêu dùng những hàng hoá cao cấp hơn, chất lượng hơn, khi đã có nơi để đi sớm về khuya, nơi để che mưa che nắng, con người ta lại hướng đến một nơi vừa nghỉ ngơi thư giãn, vừa sinh hoạt hàng ngày... nhu cầu tiêu dùng của người dân là không bao giờ có giới hạn. Về hoạt động CVTG mua tô tô: Thị trường ô tô đang ngày một tăng trưởng mạnh nhờ tác động từ nhiều yếu tố đều thuận lợi. Người tiêu dùng, sự phát triển của ngành du lịch, công nghiệp ô tô phát triển, và cả từ phía nhà nước trong các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính phủ vẫn đang có những biện pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp ô tô để đến năm 2010 ngành công nghiệp ô tô trở thành công nghiệp vững mạnh, đáp ứng nhu cầu trong nước cũng như thế giới. Các hãng xe, các nhà kinh doanh xe ô tô và ngân hàng cũng tìm đến nhau, liên kết với nhau ngày một chặt chẽ hơn, với mục đích đôi bên cùng có lợi, và cũng để phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, tỷ lệ người có xe ô tô ở nước ta còn rất thấp, trong khi đó ở Malaisia là 5 ngưòi/xe thì ở Việt Nam là 140 người/ xe. Còn về thị trường bất động sản, sau một thời gian dài, người ta không còn mấy mặn mà với đất đai nhà cửa để chạy theo chứng khoán và thị trường vàng thì nay, khi mà thị trường chứng khoán tụt dốc và mất ổn định chưa từng có với chỉ số VNIndex đã có lúc vượt ngưỡng 1000 điểm nay chỉ còn lại một nửa, giá vàng cũng lên xuống thất thường, thị trường lại quay về với bất động sản. Các ngân hàng cùng với nhà đầu tư, các công ty xây dựng đã vào cuộc, phá tan tảng băng bất động sản trong những năm trước đó. Nhu cầu nhà ở là một trong những vấn đề nóng bỏng và bức xúc của những nước đông dân cư, nhất là một nước đang phát triển như nước ta. Vấn đề này càng trở nên bức bách hơn bao giờ hết tại các thành phố lớn. Dự báo, theo quy hoạch 2025, dân số thành phố Hồ Chí Minh sẽ là 10 triệu người, tỷ lệ khách vãng lai khoảng 25%. Theo các nhà chuyên gia đánh giá, con số thực tế có thể còn cao hơn nữa. Còn tại Hà Nội, chương trình phát triển nhà chung cư, đô thị đã được triển khai. Tính đến năm 20120 thì những dự án nhà chung cư sẽ tạo thêm 10 triệu m2 cho quỹ nhà Hà Nội. Trong khi dân số ngày một tăng lên, người dân định cư ở các thành phố lớn cũng không ngừng tăng lên thì tất yếu thị trường sẽ phải đáp ứng nhu cầu. Nhu cầu nhà ở cao cấp tăng lên khi mức sống tăng. Với những người có mức thu nhập trung bình và thấp, thì nhu cầu nhà ở của họ cũng là một vấn đề cần được các cấp quan tâm. Dưới sự tác động của việc tăng giá xăng dầu, tăng giá cả hàng hoá dịch vụ, lạm phát tăng cao làm cho người dân nhìn thấy rõ mất giá của đồng tiền, nhiều người quyết định mua sắm những tài sản cố định như nhà cửa, ô tô, đồ dùng dân dụng... trước khi không thể mua được vì giá hàng háo tăng lên quá cao. Họ e ngại rằng nếu cứ tích cóp dần dần, sẽ rất lâu sau họ mới được sử dụng tài sản ấy, hơn nữa, trong tình hình như hiện nay, đến lúc họ tiết kiệm đủ tiền, giá cả hàng hoá đã tăng lên một mức cao hơn số tiền họ tiết kiệm được. Nhu cầu vay trả góp lại nảy sinh để phần nào giúp khách hàng thoát khỏi quá trình “rượt đuổi” đó. Không chỉ có 2 sản phẩm ô tô và nhà ở, tất cả các nhu cầu khác cũng ngày một tăng lên như y tế, giáo dục, du lịch, sản xuất kinh doanh... tất cả đều có thể là sản phẩm của hoạt động CVTG và thực tế hiện nay đã có một số ngân hàng thực hiện. 3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động CVTG của VPBank trong thời gian tới. Với mục tiêu chiến lược là trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam, hoạt động cho vay tiêu dùng trong đó có cả CVTG chắc chắn vẫn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sản phẩm dịch vụ của VPBank, nhất là các sản phẩm CVTG mua ô tô và mua xây dựng sửa chữa nhà. VPbank sẽ mở rộng hoạt động CVTG cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Để triển khai và thực hiện tốt mục tiêu này, VPBank đã đưa ra những phương hướng họat động cụ thể như sau: Về quy mô Ngân hàng sẽ chú trọng mở rộng các đối tượng phục vụ, mở rộng thị trường, khai thác thị trường tiềm năng, theo sát với định hướng phát triển kinh tế của Chính phủ như mở rộng thêm một số chi nhánh, phòng giao dịch tại một số vùng kinh tế trọng điểm, các tỉnh thành phố lớn... đối tượng khách hàng được mở rộng thêm sẽ thúc đẩy tăng trưởng dư nợ CVTG, tăng doanh thu từ hoạt động này. Tập trung khai thác tốt thị trường người tiêu dùng là những tầng lớp trung lưu, có thu nhập ổn định và có nhu cầu cao trong việc vay tiền để tiêu dùng, bên cạnh đó cần tận dụng và tìm kiếm cơ hội đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của những tầng lớp nghèo hơn vì số lượng này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dân số Việt Nam. Gia tăng tỷ trọng CVTG trong cơ cấu cho vay. CVTG là loại hình cho vay mang lại nhiều lợi nhuận hơn so với các hoạt động khác nếu tính trên cùng số lượng và thời hạn cho vay vì lãi suất cho vay cao hơn. Do đó cần gia tăng mở rộng loại hình cho vay này, một mặt đem lại nhiều lợi nhuận hơn cho ngân hàng, mặt khác phân tán được rủi ro, khai thác được tối đa mọi đối tượng trong nền kinh tế. Về chất lượng Ngân hàng sẽ đẩy nhanh việc cải tiến quy trình nghiệp vụ, giảm thời gian chờ đợi và phiền toái cho khách hàng; đa dạng hoá sản phẩm tín dụng cá nhân mà trọng tâm là sẽ hình thành hệ thống sản phẩm dịch vụ mang đặc trưng riêng của ngân hàng. Việc đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ trọn gói, nhanh chóng, an toàn tiện lợi cung ứng liên kết giúp khách hàng có thể hưởng lợi ích đầy đủ nhất từ các sản phẩm này. Khi đưa ra một sản phẩm nên có những dịch vụ đi kèm để thoả mãn nhu cầu tốt nhất cho khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh đối với ngân hàng khác. Tăng cường mối quan hệ 3 bên: Các công ty xây dựng hay hãng kinh doanh, ngân hàng và khách hàng. Thiết lập mối quan hệ với các đại lý ô tô, các đại lý bán lẻ hàng hoá khác... Làm chủ công nghệ hiện đại nhằm phát huy tối đa tính khả dụng của công nghệ, đưa ra được các sản phẩm của riêng mình, nâng cao năng lực cạnh tranh cho VPBank. Làm chủ công nghệ lõi Core - banking T24 sẽ giúp ngân hàng ứng dụng công nghệ điện tử, internet - banking, home - banking, phone - banking, thực hiện “đẩy khách hàng ra khỏi ngân hàng” tiết kiệm thời gian, chi phí giao dịch cho cả ngân hàng và khách hàng. Hiện đại hoá trang thiết bị để thuận tiện trong khâu thanh toán, lưu trữ hồ sơ quản lý khách hàng, cung cấp thông tin, đơn giản hoá thủ tục cho vay, tạo sự thuận lợi và thoải mái cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được an toàn. Tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác phát triển thương hiệu, đưa hình ảnh ngân hàng ngày càng trở nên quen thuộc hơn với khách hàng. Tăng cường đào tạo nhân viên, nâng cao chất lượng tuyển dụng đối với nhân viên mới, đảm bảo đủ trình độ để tiếp thu công nghệ mới đáp ứng nhu cầu hội nhập. Tiếp tục tăng vốn điều lệ để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng số lượng chi nhánh mới, và đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong điều kiện tài sản có rủi ro không ngừng tăng lên. Với khả năng và thực lực như hiện nay, Ngân hàng chọn phối hợp giữa 2 chiến lược “chiến lược tạo sự khác biệt” và “chiến lược tập trung” để làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ngân hàng nói chung, cũng như hoạt động CVTG nói riêng. 3.2 Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động CVTG tại VPBank 3.2.1 Hoàn thiện chính sách tín dụng. Mặc dù phải tuân theo một quy trình thống nhất mà NHNN đã quy định để bảo đảm đưa ra quyết định chính xác và kiểm sóat được mục đích sử dụng vốn của khách hàng, ngân hàng nên ngày càng hoàn thiện chính sách tín dụng để thủ tục vay được nhanh gọn, thuận tiện cho khách hàng. Ví dụ như ngân hàng có thể rút ngắn hơn thời gian thẩm định khách hàng bằng cách sử dụng các phương pháp thẩm định chuyên nghiệp, hay sử dụng mạng điện tử online để trình duyệt, chuyển hồ sơ tín dụng giữa các phòng ban bộ phận liên quan đến giải quyết việc CVTG. Bên cạnh đó vẫn phải đảm bảo được sự chặt chẽ trong quá trình cho vay. Đây luôn là một việc làm cần thiết, cho dù chính sách tín dụng của ngân hàng luôn theo sát các quy định của NHNN và thị trường. Hiện nay chính sách tín dụng của ngân hàng khá cụ thể, chi tiết giúp cán bộ tín dụng có căn cứ rõ ràng trong việc xét duyệt và quản lý các khoản vay, song nhiều khi cũng chính vì thế mà khiến cán bộ tín dụng áp dụng một cách máy móc, không linh hoạt trong nhiều trường hợp, đặc biệt còn coi TSĐB là yếu tố quan trọng nhất trong thẩm định. Do đó, việc hoàn thiện chính sách tín dụng luôn là một nhiệm vụ quan trọng. 3.2.2 Tăng cường hơn nữa hoạt động marketing. Trong thời đại kinh tế thị trường mở cửa và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, Marketing là một hoạt động không thể thiếu ở tất cả các doanh nghiệp trong đó có cả ngân hàng. Thương hiệu, uy tín là tài sản vô hình vô giá và phải mất rất nhiều thời gian và công sức để tạo dựng được. Hiểu được điều đó một cách sâu sắc, tập thể và cán bộ nhân viên VPBank không ngừng cố gắng xây dựng cho ngân hàng mình một hình ảnh VPBank luôn hết mình vì lợi ích của khách hàng. Xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý Hiện nay, trong CVTG, VPBank mới chỉ có một số ưu đãi nhất định đối với những khách hàng truyền thống mà chưa có sự phân nhóm rõ nét với những khách hàng tiềm năng (những người có thu nhập ổn định, những gia đình trẻ...) để chủ động tìm đến họ, kích thích nhu cầu tiêu dùng của họ. Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ ngân hàng là dễ bắt chước và bắt chước một cách hợp pháp, vì thế mà rất khó giữ bản quyền. Để thu hút và giữ chân khách hàng, ngân hàng cần chú ý tìm cho mình những bí quyết riêng. Nhất là việc giữ chân một khách hàng cũ còn khó hơn nhiều so với thu hút một khách hàng mới. Do đó ngân hàng cần: - Có chính sách đối xử với mọi khách hàng đã, đang và sẽ có quan hệ giao dịch với ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng xác định và tập trung vào nhóm khách hàng trọng yêu đối với CVTG là cá nhân và hộ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu trong xã hội, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải… Để làm được điều đó, ngân hàng nên có danh mục khách hàng có quan hệ CVTG với ngân hàng, thường xuyên có chính sách quan tâm, khuyến mãi, tặng quà nhân dịp lễ tết… Tích cực thu hút và hướng đến những đối tượng khách hàng mới và khách hàng tiềm năng như có chế độ lãi suất và kì hạn trả nợ linh hoạt, chủ động tìm đến khuyến khích và động viên khách hàng mua trả góp… thay vì chỉ cho vay những khách hàng quen biết và truyền thổng là chủ yếu như hiwnj nay -VPBank cũng đang hạn chế khách hàng đến vay trả góp tại ngân hàng mình khi chỉ cho vay những người có hộ khẩu tại nơi ngân hàng có chi nhánh, nhất là tại các thành phố lơn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Mở rộng phạm vi cho vay trả góp là gải pháp hữu hiệu trong trường hợp này. - Tăng cường hoạt động nghiên cứu khách hàng, tìm hiểu xem khách hàng muốn gì, cần gì và đem lại lợi ích gì cho ngân hàng từ đó mà đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng. - Tăng cường hướng dẫn khách hàng: Nhân viên tín dụng cần tư vấn cho khách hàng sử dụng sản phẩm của ngân hàng, phải nêu rõ cho khách hàng thấy những lợi ích có được từ giao dịch với ngân hàng. Qua công việc này nhân viên tín dụng thể hiện sự quan tâm của ngân hàng tới khách hàng và bảo vệ lợi ích của khách hàng của ngân hàng. Từ đó tạo ra mối quan hệ gắn kết lâu dài với khách hàng và thông tin kịp thời cho khách hàng về những sản phẩm dịch vụ mới có lợi cho khách hàng. Về công tác giới thiệu sản phẩm Dù hiện nay, công tác tạo uy tín và thương hiệu của VPBank đã có những hiệu quả nhất định, song tại VPBank vẫn chưa lập được phòng marketing riêng biệt, và đặc biệt vẫn còn yếu trong khâu marketing sản phẩm dịch vụ, nếu không cải thiện vấn đề này thì sẽ gây ảnh hưởng đến quá trình mở rộng cho vay nói riêng và CVTG nói chung của Vpbank. Trong khi các ngân hàng khác như Techcombank, ACB, Đông Á… có chiến lược Marketing sản phẩm rất tốt trên internet, phương tiện thông tin đại chúng, mang lại sự hài lòng cho khách hàng ngay từ khi bắt đầu tìm hiểu sản phẩm. Trong khi đó cách tiếp thị sản phẩm của VPBank lại là tư vấn trực tiếp với khách hàng, và phát tờ rơi, việc làm này vừa mất nhiều chi phí thời gian và tiền bạc lại không nhanh chóng và tiện ích, hiệu quả lại không cao. Website của ngân hàng (www.vpb.com.vn) giới thiệu còn quá sơ sài về sản phẩm CVTG . Ví dụ như trả góp mua ô tô, Website của ngân hàng chỉ cung cấp những thông tin chung chung, không có gì đặc biệt so với các sản phẩm dịch vụ khác về phạm vi cho vay, điều kiện, mức lãi suất… Bộ phận marketing của VPBank phải chấn chỉnh ngay tình hình này bằng cách đánh bóng sản phẩm, giới thiệu chi tiết và đầy đủ các tiện ích của sản phẩm dịch vụ, đưa sản phẩm đến với khách hàng một cách nhanh chóng tiện lợi ngay từ những điều sơ đẳng ban đầu. Vì thế việc cung cấp thông tin về sản phẩm dịch vụ nhất là những sản phẩm mới phải luôn được chú trọng, phải phát triển hơn việc quảng cáo qua mạng internet, qua website của ngân hàng, qua danh thiếp... Việc tăng cường quảng bá như vậy có thể tháo bỏ được những nếp suy nghĩ cố hữu, cũng như tập quán văn hoá xã hội, tạo thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng. 3.2.3 Phát triển mở rộng đối tượng cho vay trả góp Đối với đối tượng khách hàng là cá nhân, VPBank nên mở rộng hơn phạm vi cho vay. Hiện nay chỉ cho vay vốn với các cá nhân và hộ gia đình có hộ khẩu thường trú tại tỉnh, thành phố hay địa bàn có chi nhánh hoạt động của VPBank thì nay có thể mở rộng đối tượng CVTG bằng cách nới rộng phạm vi cho vay. Thay vì căn cứa vào hộ khẩu, ngân hàng có thể căn cứ vào hợp đồng lao động, chứng minh thư... thu hút nhiều hơn lượng khách hàng là dân nhập cư tại các tỉnh, thành phố lớn. Một đối tượng khách hàng tiềm năng mà ngân hàng cần quan tâm đó là những cá nhân và hộ gia đình có thu nhập thấp. Lý do ở chỗ, dân ta vẫn còn nghèo, người nghèo vẫn chiếm gần 80% dân số cả nước. Phát triển các sản phẩm CVTG đa dạng hơn, VPBank sẽ tạo cơ hội cho nhóm đối tượng này thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, ngày một nâng cao mức sống của mình trong những điều kiện nhất định, vừa phục vụ khách hàng vừa hạn chế rủi ro và thu lợi nhuận cho ngân hàng. Đối với doanh nghiệp, VPBank chủ yếu CVTG đối với các doanh nhiệp kinh doanh vận tải và taxi, là những doanh nghiệp vừa và nhỏ là chủ yếu. Ngân hàng có thể tìm đến những doanh nghiệp kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác với các khoản CVTG đầu tư cho tài sản cố định khác ngoài ô tô, xây dựng nhà cửa... 3.2.4 Mở rộng quan hệ với các đơn vị hỗ trợ hoạt động CVTG của ngân hàng VPBank trong thời gian qua đã kí kết nhiều hợp đồng liên kết với nhiều hãng kinh doanh trong nhiều lĩnh vực như nhà đất, ô tô để hỗ trợ hoạt động CVTG. Trong nhiều hợp đồng có các điều khoản như: Hai bên sẽ giới thiệu khách hàng cho nhau khi khách hàng có nhu cầu vay vốn để mua nhà, mua ô tô; đồng thời, cả hai bên đều sẽ tiến hành thẩm định sơ bộ khả năng tài chính và độ tín nhiệm của khách hàng. Hoạt động này mang đến lợi ích cho cả hai bên. Với các cơ quan nhà nuớc liên quan đến hoạt động tín dụng thì ngân hàng mới chỉ dùng lại ở các cơ quan đăng kí giao dịch đảm bảo, mối quan hệ này đang ở mức các cán bộ tín dụng tự mình thiết lập. Mở rộng quan hệ với các cơ quan chức năng có liên quan đến hoạt động tín dụng sẽ giúp ngân hàng có thêm thông tin về khách hàng, nhờ đó mà công tác thẩm định và theo dõi khách hàng đươc thuận lợi hơn, giúp cho ngân hàng có thêm thông tin về sự thay đổi trong chính sách quản lý của nhà nước. Với cho vay mua nhà: Ngân hàng phải mở rộng và liên kết chặt chẽ hơn với các công ty xây dựng: Kí kết hợp đồng ba bên giữa công ty xây dựng, ngân hàng và khách hàng. NHờ đó, nếu khách hàng có nhu cầu mua nhà nhưng khả năng tài chính chưa thể đáp ứng ngay thì họ có thể nghĩ tới ngân hàng thông qua sự giới thiệu hay sự đồng ý của các công ty xây dựng hoặc phân phối nhà. Với cho vay mua ô tô: Ngân hàng nên triển khai cho vay gián tiếp trên cơ sở vẫn có khả năng giám sát khoản vay. Hiện nay VPBank đa có quan hệ hợp tác với các hãng bán xe lớn như: Toyota, Ford Thăng Long, Mercedes Benz, Isuzu…để các hãng này giới thiệu khách hàng đến ngân hàng vay tiền để mua xe trả góp. Ngân hàng nên có những chính sách để các hãng kinh doanh xe này có thái độ hợp tác bền lâu, và trung thành hơn với VPBank. Vì hiện nay, một hãng xe có thể liên kết với một số ngân hàng khác nhau để thực hiện hoạt động CVTG gián tiếp. Nếu VPBank có chính sách không chính xác, việc tạo lập mối quan hệ không tốt thì sẽ rất dễ dẫn đến mất khách hàng. Ngân hàng và cửa hàng bán lẻ nên kí kết với nhau các hợp đồng, ở đó ngân hàng sẽ đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được mua bán chịu. Ngân hàng cũng đưa ra các văn bản quy định cụ thể phương thức tài trợ giữa ngân hàng và hãng bán lẻ: truy đòi toàn bộ, truy đòi hạn chế, miễn truy đòi hay có mua lại. Nên có các hợp đồng kí kết hợp tác giữa VPBank và các hãng bán lẻ khác ngoài các công ty xây dựng, hãng bán lẻ ô tô như hiện nay. Như thế tức là Vpbank đang mở rộng đối tượng cho vay sang cả những sản phẩm khác, đồng thời nhờ các hợp đồng kí kết ấy, ngân hàng sẽ hạn chế được rủi ro, khắc phục được nhược điểm của hình thức cho vay này. 3.2.5 Thay đổi thủ tục và thể lệ cho vay hợp lý hơn. Có thể nói điều kiện về thủ tục và thể lệ cho vay là một rào cản lớn đối với viêc mở rộng hoạt động CVTG tai VPBank... đó là rào cản về lãi suất, thời hạn vay vốn và tài sản thế chấp. Để có những đổi mới về những điều kiện trên, hội đồng tín dụng và tổng giám đốc phải có những tín toán chi tiết liên quan tới hoạt động của toàn hệ thống cũng như các yêu cầu liên quan khác. Về lãi suất, ngân hàng cần phân bổ nguồn vốn huy động, tích cực tìm kiếm nguồn vốn huy động trung dài hạn để tài trợ cho khoản vay trả góp mua ô tô, nhất là khoản vay trả góp mua nhà. Chỉ có khi nguồn vốn huy động trung và dài hạn tốt, ngân hàng mới có thể đáp ứng nhu cầu của sản phẩm vay trả góp. Đồng thời, ngân hàng cũng cần tính toán hoán đổi lãi suất, hoán đổi kì hạn nguồn để tăng cường vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Có như vậy lãi suất cho vay trung dài hạn mới được cải thiện. Khách hàng sẽ không phải băn khoăn tiền lãi sau mười năm sẽ bằng tiền gốc. Còn về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay cũng liên quan đến việc cơ cấu lại kì hạn nguồn và tìm kiếm nguồn huy động trung và dài hạn. Thực hiện được điều này, ngân hàng có thể chia nhỏ kì hạn nợ, giúp khách hàng có điều kiện vay vốn và trả nợ tốt hơn. Khách hàng có thể vay tới 10, 15 năm thậm chí 20 năm chứ không phải chỉ 5, 7 năm như hiện nay. Ngoài ra ngân hàng cần để người vay chủ động lựa chọn thời gian trả nợ phù hợp với tình hình của khách hàng thay vì việc ngân hàng ấn định thời gian trả nợ như hiện nay. 3.2.6 Nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực Con người là nhân tố vô cùng quan trọng của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh không chỉ phụ thuộc và số lượng mà còn phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực. Trong hoạt động tín dụng, các cán bộ nhân viên tín dụng là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, thực hiện mọi quy trình cho vay từ khâu phân tích, thẩm định, theo dõi và thu hồi nợ, tất cả những công việc ấy không thể có máy móc nào có thể thay thế nổi. Kết quả hoạt động của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tín năng sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Thực tế tại VPBank, qua quá trình tuyển dụng, VPBank phần nào đã lựa chọn ra những cán bộ có trình độ, song phần lớn họ là những người trẻ tuổi, kinh nghiệm làm việc, kĩ năng làm việc vẫn còn nhiều thiếu sót. Vì thế, VPBank phải tổ chức thường xuyên hơn nữa các khoá đào tạo do các cán bộ có kinh nghiệm giảng dạy, kết hợp đào tạo chính quy và đào tạo tại chỗ các kiến thức nghiệp vụ khác như nhà đất, chứng khoán, pháp luật, tin học, ngoại ngữ... để nhân viên tín dụng có thể thực hiện nghiệp vụ của mình một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh việc đào tạo kiến thức, ngân hàng phải luôn nhắc nhở các cán bộ nhân viên rèn luyện về mặt đạo đức nghề nghiệp, một cán bộ tín dụng có đạo đức nghề nghiệp sẽ không vì lợi riêng mà làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng, hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng cũng phải tạo dựng một môi trường văn hoá kinh doanh lành mạnh, vừa đảm bảo tính cạnh tranh vừa thân thiện gần gũi. Để thực hiện tốt công việc này, VPBank phải có chế độ đãi ngộ nhân viên, lương thưởng hợp lý. Thực hiện gắn trách nhiệm của mỗi người với công việc và kết quả làm việc của họ. Song song với quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên là việc bổ sung và tuyển dụng mới cán bộ. Việc làm này phải có định hướng và kế hoạch rõ ràng, tránh trường hợp tuyển dụng theo tình thế và chưa theo kịp với yêu cầu phát triển chung của ngân hàng như hiện nay. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước. Để hoạt động CVTG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh và thật sự có hiệu quả, Chính phủ và các cơ quan, Bộ, ngành cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để hoạt động này có thể mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và những tiện ích tối đa cho khách hàng vay vốn. Chính phủ cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô bởi kinh tế ổn định là điều kiện tốt nhất cho tất cả các ngành kinh tế, nó là nền tảng quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển ổn định của một quốc gia. Hiện nay, khi mà chỉ số giá tiêu dùng, giá cả hàng hoá nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, phôi thép...tăng cao làm cho sản xuất trong nước và đời sống người dân gặp rất nhiều khó khăn, nhất là tầng lớp dân cư có thu nhập trung bình hoặc thấp. Việt Nam cũng đã thật sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những cơ hội và thách thức mới, Chính phủ cần phải có những quyết định phù hợp trong xác định cơ cấu kinh tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển nhanh nhưng phải bền vững. CVTG là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội. Nó là một trong những biện pháp kích cầu của chính sách kinh tế mà nhà nước sử dụng trong cơ chế thị trường. Chính vì vậy, nhà nước cần có sự hỗ trợ, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho loại hình cho vay này phát triển CVTG phụ thuộc rất nhiều vào mức thu nhập thường xuyên của dân cư cũng như sự phát triển kinh tế của từng vùng miền cụ thể. Ngày nay, mặc dù sự tăng trưởng kinh tế ở mức rất cao song chủ yếu vẫn tập trung tại các thành phố lớn, sự chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn vẫn còn rất cao. Do vậy, đại bộ phận dân chúng và các doanh nghiệp ở các vùng nông thôn, xa trung tâm thành thị dù có nhu cầu rất lớn song khó có thể tiếp xúc với các sản phẩm dịch vụ hỗ hợ từ ngân hàng. Từ thực tế ấy, Chính phủ cần nhanh chóng có những biện pháp khuyến khích sự phát triển kinh tế tại các khu vực này, xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình giao thông tạo điều kiện cho những ngành nghề truyền thống tại các địa phương phát triển. Công việc này vừa giúp kinh tế địa phương phát triển, vừa giúp tạo công ăn việc làm và nâmg cao thu nhập cho bộ phận dân cư trong vùng, miền kinh tế đó, từ đó họ có cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn với vốn vay của ngân hàng, trong đó có vốn vay trả góp. Bên cạnh đó, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp như giảm thuế, tạo điều kiện về các thủ tục hành chính... đối với các ngành kinh tế mũi nhọn hay các ngành nghề truyền thống của vùng. Nhờ đó, giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, kích thích sản xuất, tạo điều kiện cho người dân được sử dụng các sản phẩm dịch vụ với giá rẻ hơn. Kích thích tiêu dùng, tăng thu nhập cho dân cư sẽ tạo ra nhu cầu giúp cho ngân hàng có thể phát triển được các dịch vụ của mình. Chính phủ cũng phải có những chính sách nhất định liên quan đến vấn đề bất động sản, một trong những điều mà ngân hàng lo ngại nhất hiện nay, khi mà thị trường bất động sản lên xuống thất thường, việc xác định giá trị thực của căn nhà hay mảnh đất làm tài sản đảm bảo gặp rất nhiều khó khăn và rủi ro. Nếu chính phủ giải quyết được vấn đề này thì các ngân hàng sẽ mạnh dạn hơn trong việc mở rộng hoạt động cho vay, nhất là trong CVTG mua - xây dựng sửa chữa nhà, hay những khoản CVTG có TSĐB là nhà đất. Chính phủ cũng cần đầu tư cho hệ thống giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Bởi một chiến lược chỉ đạo cụ thể của nhà nước, các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các trường đại học khối ngành kinh tế chung, tạo điều kiện phát triển chất lượng hệ thống giáo dục - đào tạo, sẽ cung cấp cho nền kinh tế một đội ngũ lao động cho các ngành kinh tế phát triển. Đặc biệt trong một ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như ngân hàng thì điều này càng có vai trò đặc biệt quan trọng. 3.3.2 Đối với ngân hàng nhà nước Trước hết NHNN cần tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng hơn làm tăng tính chủ động cho các ngân hàng thương mại. Từ đó lành mạnh tính chất cạnh tranh giữa các định chế tài chính ở Việt Nam hiện nay, tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại quốc doanh. Ngân hàng nhà nước cần sớm hoàn thiện các văn bản pháp quy nhằm tạo nền tảng vững chắc cho sự mở rộng và phát triển hoạt động CVTG của các NHTM. Hiện tại, hoạt động CVTG của NHTM chủ yếu hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở những quy định của quyết định 1627 ban hành ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng với các khách hàng và các quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế cho vay đó. Tuy nhiên, do quy định chung trong hoạt động cho vay kinh doanh và cho vay tiêu dùng nên đã hạn chế rất nhiều trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Do đó, NHNN nên có những văn bản cụ thể hướng dẫn riêng cho từng hoạt động tín dụng riêng biệt trong đó có cả CVTG về sản phẩm, hạn mức, khung về tài sản đảm bảo. Để hoạt động CVTG có cơ sở pháp lý vững chắc, không gây khó khăn cho ngân hàng khi thực hiện các quyết định cho vay. Ngoài ra trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) hiện nay tuy đã cung cấp một số thông tin sơ bộ về khách hàng cho các NHTM, nhưng mỗi lần cán bộ tín dụng kiểm tra thông tin khách hàng qua trung tâm này đều mất phí, phí này hạch toán vào chi phí quản lý của ngân hàng trong trường hợp khách hàng không đủ tư cách vay. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động của trung tâm này vẫn chưa mang lại hiệu quả cao, còn tồn tại nhiều sai sót. CIC chỉ cung cấp được một phần nhu cầu của thị trường thông tin tín dụng. Do đó NHNN cần đầu tư hơn nữa cho trung tâm này, đồng thời cập nhật thông tin thường xuyên theo hình thức online để cán bộ tín dụng có được những thông tin chính xác trong quá trình thẩm định tư cách khách hàng. Với vai trò giám sát, hỗ trợ và quản lý các ngân hàng, NHNN cần quan tâm hơn đến công tác thanh tra, kiểm soát đối với các ngân hàng. Việc làm này cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm phát hiện ngăn ngừa những truờng hợp vi phạm quy chế tín dụng, có biện pháp kịp thời xử lý nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi tín dụng và rủi ro thanh khoản. NHNN cũng cần xây dựng chính sách tiền tệ lành mạnh đảm bảo sự minh bạch và đáng tin cậy kết hợp với việc thực thi chính sách tài khóa thận trọng trong đó các chính sách như lãi suất, tỷ giá, tín dụng, cần được xây dựng theo hướng linh hoạt để có thể sử dụng các công cụ thị trường can thiệp dễ dàng khi có biến động trong nước và quốc tế. Chú trọng việc áp dụng các hệ thống chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng. KẾT LUẬN Hiện nay trên thị trường, hoạt động CVTG đã và đang phát triển khá rầm rộ và phổ biến. Sản phẩm này đã được cung cấp bởi hầu hết các ngân hàng trong đó có cả NHTM nhà nước, NHTM cổ phần và cả những ngân hàng nước ngoài. Bởi theo các ngân hàng nhận xét thì dịch vụ CVTG như việc “nhặt từng đồng xu” nhưng lại đem đến doanh số và lợi nhuận khá hấp dẫn, nhất là trong thời buổi đầu ra đang khó khăn, tiền đồng dồi dào. Tại VPBank, hoạt động CVTG đang ngày càng được mở rộng và phát triển thể hiện qua các chỉ tiêu về doanh số, dư nợ, lợi nhuận từ hoạt động CVTG ngày một tăng lên trong khi đó chất lượng tín dụng CVTG cũng đang được cải thiện rất tốt. Song bên cạnh cũng còn tồn tại những vướng mắc cần tháo gỡ về nhiều mặt để có thể vững bước trên con đường phía trước. Nhận thức rõ tính chất khốc liệt của sự cạnh tranh trên thị trường hiện nay, VPBank với những gì đã và đang có, quyết tâm nỗ lực hết mình cho con đường riêng đã lựa chọn. VPBank sẽ cạnh canh với các ngân hàng khác bằng chiến lược của mình, đó là: trọng tâm hoá kết hợp với khác biệt hoá tức là tạo ra sự độc đáo và chất lượng cao trong sản phẩm dịch vụ của mình. Nhưng đồng thời VPBank cũng không ngừng nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới nhằm tạo ra tính đa dạng trong sản phẩm. Đưa đến cho khách hàng một danh mục sản phẩm vô cùng phong phú để lựa chọn sao cho phù hợp với nhu cầu và tình hình tài chính của mình nhất. Dựa trên ý tưởng đó, qua chuyên đề tốt nghiệp tôi đã tìm hiểu thực trạng của hoạt động CVTG tại VPBank và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động CVTG tại VPbank. Do thời gian nghiên cứu có hạn và hạn chế về khả năng phân tích, kiến thức lý luận cũng như thực tiễn, chuyên đề của tôi còn nhiều thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, cùng tất cả các bạn quan tâm đến vấn đề này, để tôi có thể tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện đề tài trong thời gian gần đây. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. T.S Phan Thị Thu Hà (2004), Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê 2. T.S Nguyễn Minh Kiều (2008),Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB thống kê. 3. Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. 4. T.S Nguyễn Hữu Tài (2002), Giáo trình Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ, NXB Tài chính 5. Báo cáo thường niên VPBank 2005, 2006. 6. Tạp chí ngân hàng 2006, 2007 7. Bản tin VPbank tháng 12/2006, tháng 12/2007. 8. Báo cáo tín dụng VPBank 9. www.vpb.com.vn. 10. www.vneconomy.com. 11. www.vnn.com.vn 12. www.acb.com.vn 13. www.techcombank.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11034.doc
Tài liệu liên quan