Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta. Đến nay, sau 20 năm đổi mới Việt Nam đã gặt hái được những thành quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội…Bước vào trế kỷ 21, mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực như WTO, AFTA ..., thích nghi với xu thế cạnh tranh và hợp tác đã đặt ra cho chúng ta những thời cơ mới, thách thức mới và nhiệm vụ mớ

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Ngành ngân hàng, với vai trò cực kỳ quan trọng nền kinh tế cũng không nằm ngoài xu thế đó. Hơn nữa, các ngân hàng thương mại còn phải tìm cho mình một hướng đi đúng đắn để có thể giữ vững vị thế của mình, chiến thắng trong cuộc cạnh tranh đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Một hướng đi mà các ngân hàng thương mại Việt Nam đang nỗ lực theo đuổi và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ là thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng. Đó là một hướng đi đúng đắn và đang trở thành xu thế ngày càng phổ biến của các ngân hàng thương mại hiện đại, bởi thị trường cho vay tiêu dùng ở Việt Nam là hiện hữu và đem lại mức lợi nhuận hấp dẫn cho các ngân hàng. Hoạt động cho vay tiêu dùng một mặt giúp các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn và bớt rủi ro hơn, mặt khác nó còn khuyến khích sản xuất và tiêu dùng, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam bắt đầu triển khai nghiệp vụ này từ năm 2001. Đến nay, sau 5 năm hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành hoạt động kinh doanh chủ yếu và mang lại không nhỏ cho ngân hàng.Tuy vậy, để thực hiện thành công loại hình kinh doanh này đòi hỏi ngân hàng phải có sự đầu tư thích đáng về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực…kết hợp với môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhận thức được hướng kinh doanh đó của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam nói riêng, được sự hướng dẫn của thầy giáo – TS Hoàng Xuân Quế, cùng với những kiến thức thực tiễn thu được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam, em đã quyết định chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam”. Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo gồm 3 phần: Chương I: Lý luận chung về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam. Do thời gian nghiên cứu không nhiều, những hạn chế nhất định về hiểu biết, chuyên đề của em không tránh kkhỏi những thiếu xót, em rất mong được sự quan tâm đóng góp của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! DANH SÁCH NHỮNG TỪ VIẾT TẮT. NHNN: Ngân hàng Nhà nước NHTM: Ngân hàng thương mại H ĐQT: Hội đồng quản trị ĐHC Đ: Đại hội cổ đông TS ĐB: Tài sản đảm bảo TCTD: Tổ chức tín dụng LS : Lãi suất LSTK: Lãi suất tiết kiệm CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. Khái niệm ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính trung gian có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế mỗi quốc gia. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế, là địa chỉ tin cậy để các cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội gửi tiền nhàn rỗi của mình, vừa sinh lời lại an toàn cao. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội, thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Những khoản tín dụng của ngân hàng đáp ứng các nhu cầu rất đa dạng, từ nhu cầu vốn để kinh doanh, mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị của doanh nghiệp đến nhu cầu tiêu dùng những sản phẩm cao cấp như mua nhà, mua ô tô mới, mua các tài sản có giá trị lớn, sang trọng của dân cư... Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Ngân hàng còn là công cụ quan trọng trong những chính sách kinh tế của Chính phủ, đặc biệt là chính sách tiền tệ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Bên cạnh đó, ngân hàng còn đứng ra làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế, từ đó giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch, giúp các hoạt động kinh tế diễn ra hiệu quả hơn. Có thể nói, quan niệm về NHTM ở các nước tuy có một số điểm khác nhau nhưng nhìn chung tất cả đều coi NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, là một trung gian tài chính đóng vai trò cầu nối, dẫn vốn từ nhà tiết kiệm đến nhà đầu tư, người tiêu dùng từ đó cung cấp vốn cho nền kinh tế một cách nhịp nhàng, hiệu quả. Tại Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực từ 01/10/1998 đã quy định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.” Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế thì hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp, chịu sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Khái niệm NHTM có thể được hiểu một cách đầy đủ hơn: “Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.” Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Bản thân ngân hàng là một doanh nghiệp mà hoạt động của nó là cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp, với mục đích thu lợi nhuận. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả. Trải qua bao nhiêu năm, các dịch vụ ngân hàng ngày càng được hoàn thiện, mở rộng và phát triển, tuy nhiên nó vẫn bao gồm các hoạt động chủ yếu sau: Hoạt động huy động vốn. Ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ dưới hình thức huy động sau đó cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ khác. Vì vậy, hoạt động huy động vốn tạo nguồn vốn cho ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển và quyết định chất lượng hoạt động của ngân hàng. Yêu cầu đối với hoạt động huy động vốn là phải duy trì cơ cấu hợp lý giữa Nợ - Vốn của chủ để tối đa hóa lợi nhuận ngân hàng với chi phí tối tiểu, đồng thời vẫn đảm bảo an toàn thanh khoản và ngăn ngừa rủi ro cho ngân hàng. Hoạt động huy động vốn bao gồm các hoạt động cơ bản sau: Hoạt động tạo vốn tự có. Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Tuy tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn của ngân hàng là tương đối nhỏ nhưng đây lại là nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn tự có của một ngân hàng thường bao gồm: nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động (từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phần...), các quỹ hoặc từ nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. Hoạt động nhận tiền gửi: Một trong những nguồn taì nguyên quan trọng nhất của NHTM là các khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm của khách hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, với cam kết hoàn trả đúng hạn. Bằng cách đó ngân hàng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Các ngân hàng trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời đẻ kinh doanh. Đồng thời, khi cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi ngân hàng gián tiếp thu “phí” thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng tiền gửi đó. Bởi vì đây là hoạt động mang lại nguồn vốn không nhỏ cho ngân hàng, các ngân hàng đã ra sức cạnh tranh nhau về lãi suất, đa dạng hóa các hình thức huy động nhằm thu hút nhiều hơn nữa luồng tiền gửi trong dân cư. Hoạt động đi vay. Mặc dù tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, song không phải lúc nào nó cũng đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng về quy mô, thời hạn và tính ổn định. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Khi đó, ngân hàng có thể vay mượn từ các nguồn: vay NHNN, vay các tổ chức tín dụng khác, phát hành các giấy tờ có giá... Các hoạt động huy động vốn khác. Ngoài các hoạt động trên, các NHTM còn thực hiện các dịch vụ khác như: dịch vụ ủy thác, thanh toán không dùng tiền mặt... làm hình thành các nguồn vốn như nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán (séc trong qúa trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C....), từ đó làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn. Họat động sử dụng vốn là hoạt động đem lại phần lớn thu nhập, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Yêu cầu đối với hoạt động này là phải duy trì một cơ cấu tài sản hợp lý sao cho ngân hàng thu được mức lợi nhuận tối đa với chi phí tối thiểu mà vẫn đảm bảo tính an toàn trong hoạt động. Để thực hiện mục tiêu này, các NHTM phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng, chính sách đầu tư và quản lý tài sản hợp lý, hiệu quả, tuân thủ theo các quy định của pháp luật và hướng dẫn của NHNN. Hoạt động sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng. Cho vay. Đây là hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản và là hoạt động đem lại nguồn thu lớn nhất để bù đắp chi phí huy động vốn, chi phí quản lý cũng như các khoản chi phí khác. Tuy nhiên rủi ro của hoạt động này lại là rủi ro lớn nhất, phổ biến nhất mà bất kỳ ngân hàng nào cũng phải đối mặt. Do vậy các ngân hàng đã không ngừng mở rộng, hoàn thiện các hình thức cho vay theo hướng mang lại tiện ích nhiều hơn cho người sử dụng vốn đồng thời đảm bảo an toàn và lợi ích của ngân hàng. Hoạt động đầu tư. Mặc dù cho vay là hoạt động chủ yếu và đem lại nguồn thu nhập quan trọng, thường xuyên cho ngân hàng nhưng các ngân hàng không sử dụng toàn bộ vốn huy động được để cho vay. Hầu hết các khoản cho vay có tính thanh khoản thấp nhưng tính rủi ro lại rất cao, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường khi cần thiết để chi trả cho khách hàng. Mặt khác, với tất cả các khoản thu nhập từ hoạt động cho vay ngân hàng đều phải chịu thuế. Điều này buộc các ngân hàng phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình, xây dựng một danh mục đầu tư hợp lý sao cho thu nhập mang lại là lớn nhất, đồng thời giảm được sự tác động của thuế và đảm bảo an toàn thanh khoản. Nhiều ngân hàng đã phân chia từ 1/5 đến 1/3 giá trị danh mục đầu tư vào một loại hình tài sản sinh lời khác đó là đầu tư chứng khoán. Khác với hoạt động tín dụng vốn giao dịch trực tiếp với khách hàng và xuất phát từ nhu cầu của khách hàng, trong hoạt động đầu tư, ngân hàng chủ động lựa chọn và xây dựng cho mình một danh mục chứng khoán. Thông thương đó là các chứng khoán ngắn hạn có tính thanh khoản cao hoặc là các chứng khoán dài hạn để hưởng mức lợi tức cao hơn. Cũng giống như bất kỳ hoạt động sử dụng vốn nào, khi đầu tư vào các chứng khoán ngân hàng kỳ vọng rất lớn về thu nhập có được trong tương lai. Tuy nhiên, do tính rủi ro của nó nên không phải ngân hàng nào cũng sử dụng nó như một công cụ sinh lời duy nhất. Hoạt động trung gian thanh toán và các hoạt động khác. Cùng với sự phát triển kinh tế, hoạt động trung gian thanh toán của các NHTM ngày càng trở nên quan trọng. Các hoạt động này không tạo ra nguồn thu trực tiếp cho ngân hàng mà ngân hàng hưởng lợi từ việc thu phí các haọt động này. Vì thế các hoạt động này không tạo ra thu nhập thường xuyên cho ngân hàng, nhưng quan trọng hơn đó là việc các ngân hàng đã đa dạng hóa hoạt động của mình tạo điều kiện để thu hút khách hàng nhằm cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Có thể nói, ngày nay chính chất lượng của các hoạt động trung gian sẽ quyết định đến hình ảnh và uy tín của ngân hàng cũng như việc củng cố mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Các dịch vụ thanh toán của NHTM như: séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, nhờ thu, chuyển tiền, L/C, thanh toán thẻ... Ngoài ra, các NHTM còn cung cấp các dịch vụ tài chính khác như mua bán ngoại tệ, cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn, cung cấp các dịch vụ môi giới chứng khoán, bảo quản vật có giá, bảo lãnh, bảo hiểm, các dịch vụ đại lý... Ngân hàng xét cho cùng vẫn là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, tiến hành các nghịêp vụ kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và hoạt động trung gian thanh toán là những hoạt động chính, có mối quan hệ mật thiết và hỗ trợ nhau rất nhiều trong việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Trong đó, cho vay là hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu và thường xuyên nhất, các NHTM sẽ tìm cách cho vay càng nhiều càng tốt, càng có lãi. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. 1.2.1.1 Khái niệm cho vay. Theo quyết định 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì hoạt động cho vay được hiểu như sau: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận, với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi.” Cho vay được xem là hoạt động đặc trưng của ngân hàng, là hình thức kinh doanh chủ yếu và đem lại nguồn thu lớn nhất cho ngân hàng. Chỉ có nguồn thu từ hoạt động cho vay mới có thể bù đắp được các chi phí như: chi phí huy động vốn, chi phí quản lý cũng như các chi phí khác... và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. 1.2.1.2 Các loại hình cho vay của ngân hàng thương mại. Tùy thuộc vào các tiêu thức khác nhau để phân chia các khoản cho vay theo từng nhóm khác nhau, cụ thể: Theo mục đích sử dụng tiền vay: Cho vay thương mại: đây là hình thức cho vay của NHTM cho các đối tượng chủ yếu là các doanh nghiệp, nhằm mục đích tài trợ cho các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm các hoạt động như cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp... Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm phục vụ đời sống, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các cá nhân, tổ chức. Theo khách hàng vay: Cho vay đối với các định chế tài chính như các ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác. Cho vay đối với các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Cho vay các cá nhân, hộ gia đình. Theo thời hạn cho vay: Cho vay ngắn hạn: thời hạn từ 12 tháng trở xuống, chủ yếu để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp hoặc cá nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của dân cư. Cho vay trung hạn: thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm, chủ yếu tài trợ cho tài sản cố định hoặc xây dựng các dự án có quy mô nhỏ, thời gian thu hồi vồn nhanh. Cho vay dài hạn: thời hạn trên 5 năm, chủ yếu tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, hoặc các máy móc có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Theo hình thức đảm bảo: Đảm bảo đối vật: cho vay cầm cố, thế chấp, hoặc đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đảm bảo đối nhân: tín chấp, bảo lãnh. Theo phương thức cho vay: Cho vay từng lần. Cho vay theo hạn mức. Cho vay thấu chi. Cho vay luân chuyển. Cho vay hợp vốn. Theo phương pháp hoàn trả: Cho vay có thời hạn: là hình thức cho vay mà trong hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể. Các khoản cho vay có thể chỉ có một kỳ hạn trả nợ, nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hoặc trả nợ làm nhiều lần nhưng không có kỳ hạn cụ thể mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người vay. Cho vay không có thời hạn cụ thể: ngân hàng có thể yêu cầu người đi vay trả nợ vay bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho họ trong một khoảng thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp đồng. Theo lãi suất cho vay: Cho vay theo lãi suất cố định: Lãi suất cho vay được cố định trong suốt thời gian vay. Cho vay theo lãi suất thả nổi: lãi suất cho vay là lãi suất thị trường. Cho vay theo lãi suất cố định có điều chỉnh: chỉ áp dụng đối với các khoản vay trung – dài hạn. Lãi suất được điều chỉnh định kỳ và theo một biên độ nhất định để phù hợp với sự biến động lãi suất của thị trường. Theo xuất xứ tín dụng: Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho khách hàng vay vốn, khách hàng vay trực tiếp trả nợ cho ngân hàng. Cho vay gián tiếp: là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh nhưng vẫn trong thời hạn thanh toán. Các ngân hàng thực hiện dưới hình thức chủ yếu là chiết khấu thương phiếu, mua lại các phiếu bán hàng của các đại lý... Khái niệm cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân, hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 quan niệm này đã thay đổi, các ngân hàng đã hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành đầy tiềm năng. Cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất và dần đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng. Cho vay tiêu dùng ra đời thực chất nhằm giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó là nhu cầu và khả năng thanh toán của cá nhân người tiêu Hiện nay, có nhiều ngân hàng thành công trên lĩnh vực cho vay tiêu dùng mà một trong những nguyên nhân là họ đã tích cực khai thác nguồn tiền gửi trong dân cư và coi đó là nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất. Rất nhiều người dân gửi tiền vào ngân hàng vì họ thấy rằng họ vừa có được một khoản thu nhập từ lãi của khoản tiền gửi này, vừa có thể vay tiền lại từ ngân hàng khi cần thiết. Bên cạnh đó, chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, các nhu cầu chi tiêu của họ cũng phong phú và đa dạng hơn. Nhưng thực tế, nhu cầu và thu nhập của họ không đến cùng một lúc nên không phải lúc nào họ cũng có thể thoả mãn được những nhu cầu tiêu dùng này. dùng. Ngân hàng đã bù đắp những khoản thiếu hụt đó rất nhanh chóng và kịp thời, tất nhiên với sự cam đoan hoàn trả đúng hạn và đầy đủ của cá nhân người tiêu dùng. Hoạt động cho vay tiêu dùng mở ra không những giải quyết được mâu thuẫn cơ bản truyền thống nêu trên mà còn mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng giữ một vị trí quan trọng và ngày càng tỏ ra hữu ích trong ngành ngân hàng nói riêng và trong nền kinh tế nói chung. Có nhiều cách hiểu về cho vay tiêu dùng, nhưng xét về cơ bản nó là hoạt động tín dụng phục vụ mục đích tiêu dùng mà đối tượng chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình. Có thể định nghĩa: “ Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng, trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng, với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định”. Những khoản tiền vay này là nguồn tài chính quan trọng giúp người vay trang trải nhu cầu về nhà ở, mua ô tô, hỗ trợ tài chính… và các nhu cầu khác. Cùng với sự phát triển của thị trường, cho vay tiêu dùng đã trở thành hoạt động kinh doanh chủ đạo và chiếm thị phần lớn trong hoạt động tín dụng của nhiều ngân hàng trên thế giới. Trong những năm tới đây, cho vay tiêu dùng sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng, cũng như trong quản lý ngân hàng. Cho vay tiêu dùng trong tương lai sẽ theo mục tiêu hướng vào sự thuận tiện, ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng nhận được khoản vay sớm hơn trong khi vẫn duy trì được sự kiểm soát đối với món vay tiêu dùng để tránh được những giảm sút đáng kể về chất lượng tín dụng. 1.2.3 Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng. 1.2.3.1 Quy mô mỗi món vay nhỏ nhưng số lượng các món vay rất lớn. Khi các khách hàng tìm đến ngân hàng nhằm thoả mãn nhu cầu vay tiêu dùng của mình, thông thường nhu cầu vay vốn của họ không lớn, thậm chí khá nhỏ. Điều này một phần do giá trị của hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng không quá đắt đỏ. Mặt khác đa số khách hàng vay vốn đã có được sự tích luỹ trước đối với các tài sản có giá trị lớn, ngân hàng chỉ là người có tác động hỗ trợ cho hoạt động tiêu dùng của họ. So với cho vay kinh doanh, giá trị của các món vay tiêu dùng không lớn, nhưng trên thực tế tổng quy mô cho vay tiêu dùng của ngân hàng lại rất lớn. Đó là vì tuy quy mô mỗi món vay tiêu dùng là nhỏ nhưng đây là nhu cầu vay vốn phổ biến, đa dạng và thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư, số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng vay vốn là rất lớn, khiến cho tổng quy mô của cho vay tiêu dùng là rất lớn. 1.2.3.2 Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cứng nhắc. Đối với các khoản cho vay tiêu dùng, thông thường người đi vay quan tâm đến số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ phải trả. Do đó, khác với hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay có lãi suất cho vay được điều chỉnh theo lãi suất thị trường, lãi suất cho vay tiêu dùng thường được ấn định tại một mức nhất định, mà phổ biến nhất là trong cho vay tiêu dùng trả góp. Đối với những khoản cho vay ngắn hạn, lãi suất được ấn định ngay từ đầu và không thay đổi cho đến hết thời hạn vay. Đối với những khoản vay trung dài hạn, lãi suất cho vay thường được điều chỉnh mỗi năm một lần dựa trên cơ sở lãi suất huy động cộng với một biên độ nhất định tuỳ theo từng ngân hàng. 1.2.3.3 Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao. Trên thực tế, cho vay tiêu dùng luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro khá cao. Rủi ro trong cho vay tiêu dùng cao hơn trong cho vay kinh doanh, dưới cả 2 góc độ: Các rủi ro khách quan như: suy thoái kinh tế, mất mùa, thất nghiệp, …Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng, khi mà mọi người dân thấy lạc quan và tin tưởng vào tương lai, họ sẽ có xu hướng tiêu dùng, do đó mà cho vay tiêu dùng được mở rộng. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, nhất là khi tình trạng thất nghiệp tăng lên, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy không tin tưởng, và họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng. Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng còn chịu một số rủi ro chủ quan như: Tình trạng sức khoẻ hay tình trạng công việc của khách hàng, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng, hoặc có thể là do sự ảnh hưởng của các tổ chức trung gian, đặc biệt là đối với các khoản cho vay tiêu dùng tín chấp, không có tài sản đảm bảo cũng đem lại rủi ro không nhỏ cho loại hình cho vay này. Trong cho vay tiêu dùng, hoạt động quản lý sau cho vay đối với khách hàng cũng gặp phải nhiều khó khăn. Chỉ cần cán bộ tín dụng lơ là không theo sát một thời gian, khách hàng sẽ trì hoãn hay cố ý không trả lãi, gốc đến hạn dẫn đến tỉ lệ nợ quá hạn của ngân hàng tăng lên. 1.2.3.4 Chi phí cho một khoản vay tiêu dùng là khá lớn. Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục chiếm tỷ trọng lớn và có chi phí lớn nhất trong danh mục tín dụng của ngân hàng. Tuy quy mô mỗi món vay tiêu dùng thường nhỏ thậm chí không đáng kể, thời gian vay thường không kéo daì, song số lượng các món vay tiêu dùng lại rất lớn. Hơn thế nữa các thông tin mà ngân hàng có được về các cá nhân thường không được cập nhật đầy đủ và chính xác hoàn toàn. Chính điều này đã khiến cho các ngân hàng phải thực hiện rất nhiều bước trong quá trình cho vay, từ lúc tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, giải ngân đến khi thu nợ. Do vậy mà việc thực hiên một khoản cho vay tiêu dùng của ngân hàng đối với khách hàng là rất tốn kém, mất nhiều chi phí cho các khoản cho vay này. 1.2.3.5 Lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng là khá lớn. Tương ứng với mức rủi ro khá cao như vậy, các khoản cho vay tiêu dùng đã mang lại mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của ngân hàng. Thông thường các khoản vay tiêu dùng được định giá rất cao (có mức lãi suất cao) để có thể chi trả được chi phí huy động và bù đắp rủi ro. Thậm chí cao đến mức mà cả lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỉ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì các khoản cho vay tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Hơn nữa, so với các khoản cho vay kinh doanh số lượng các khoản cho vay tiêu dùng lớn hơn rất nhiều khiến cho tổng quy mô của cho vay tiêu dùng là khá lớn, laị có mức lợi nhuận trên mỗi khoản vay tiêu dùng cao như vậy khiến cho toàn bộ lợi nhuận thu về từ hoạt động này là rất đáng kể trong tổng thu nhập của ngân hàng. Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi đối tượng khách hàng trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những nguồn thu chủ yếu của các NHTM, đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng như trong quản lý ngân hàng và vẫn còn tiếp tục hứa hẹn về triển vọng phát triển của loại hình cho vay này trong tương lai. Ở các nước đang phát triển, loại hình cho vay nay cũng đang dần khẳng định được vai trò của mình, đem lại những khoản lợi nhuận không nhỏ trong hoạt động của ngân hàng. 1.2.4 Các phương thức cho vay tiêu dùng. 1.2.4.1 Theo mục đích vay. Căn cứ theo mục đích vay của khách hàng có thể chia hoạt động cho vay tiêu dùng như sau: Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc và cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí, du lịch… 1.2.4.2 Theo phương thức hoàn trả. Căn cứ vào phương thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng có thể chia thành 3 loại như sau: Cho vay trả góp. Đây là hình thức cho vay tiêu dùng phổ biến hiện nay. Với phương thức này, ngân hàng thoả thuận để cho khách hàng chi trả một khoản tiền nhất định định kỳ hàng tháng sao cho phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng. Có thể hiểu: “Cho vay tiêu dùng trả góp là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần theo những kì hạn nhất định trong thời hạn cho vay”. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn như cho vay mua nhà, mua ôtô…hoặc thu nhập từng kỳ của người vay không đủ khả năng thanh toán một lần hết số nợ vay. Đối với cho vay tiêu dùng trả góp, các NHTM thường chú ý đến một số vấn đề cơ bản sau: Loại tài sản được tài trợ: Nếu tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng và thỏa mãn được những nhu cầu của người tiêu dùng về lâu dài, thiện chí trả nợ của họ sẽ tốt hơn. Vì thế, các ngân hàng thường chỉ tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có giá trị lớn hay có thời gian sử dụng lâu dài. Số tiền phải trả trước: ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản mà họ có nhu cầu, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của tài sản, khi đó họ sẽ có ý thức về việc trả nợ ngân hàng. Mặt khác, nó còn giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro tín dụng khi khách hàng không trả được nợ. Số tiền trả trước là nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố: loại tài sản, năng lực tài chính của người đi vay, thị trường tiêu thụ lọai tài sản đó sau khi đã sử dụng... Chi phí của khoản vay: là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng để được sử dụng vốn, chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi phí này phải trang trải được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, bù đắp rủi ro đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thỏa đáng cho ngân hàng. Điều khoản thanh toán: khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng phải chú ý tới các vấn đề như: Số tiền thanh toán mỗi kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập và các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng. Số tiền này có thể được xác định theo các phương pháp sau: Phương pháp gộp: đây là phương pháp tính dễ hiểu, và thường được áp dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp. Công thức tính: Với L = V x r x n T: Số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ. L: Chi phí của khoản vay bao gồm lãi vay phải thanh toán và các chi phí khác liên quan. Để đơn giản ta giả sử chi phí này chỉ gồm có lãi vay. V: Vốn gốc n: Số kỳ hạn trả nợ r: Lãi suất tính cho mỗi kỳ hạn Theo cách tính này thì lãi suất tính cho khách hàng vay không phải là lãi suất thực mỗi khi họ đến thanh toán nợ. Vì vậy, ngân hàng phải tính toán kỹ để đưa ra mức lãi suất hợp lý, đảm bảo cho cả ngân hàng và khách hàng đều có lợi. Phương pháp lãi đơn: theo phương pháp này người đi vay trả vốn gốc từng kỳ đều nhau, lãi mỗi kỳ được tính theo dư nợ cho vay giảm dần. Số tiền trả mỗi kỳ được tính như sau: Tn = (T – Tn-1) x r Tn : Số tiền khách hàng phải trả trong kỳ thứ n Tn-1 : Số tiền khách hàng đã trả trong kỳ thứ (n-1) r: lãi suất khách hàng phải trả. Với cách tính này, lãi suất được tính trên cơ sở lãi suất thực tế của mỗi chu kỳ tính lãi, do vậy có lợi hơn cho khách hàng. Thường thì lãi suất của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất thị trường nên phương pháp này phản ánh chính xác giá cả các món vay của khách hàng. Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền cho vay chưa được thu hồi. Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ theo tháng bởi vì thông thường nguồn trả nợ chính của người vay tiêu dùng là thu nhập nhận được hàng tháng. Thời hạn cho vay không nên quá dài. Do thời hạn cho vay bị giới hạn bởi thời hạn hoạt động của tài sản tài trợ, nếu thời hạn này quá dài dễ làm cho giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh, đồng thời thiện chí trả nợ của người vay cũng như việc thu hồi nợ gặp nhiều rắc rối, do đó mà rủi ro tín dụng cũng tăng lên. Cho vay tiêu dùng phi trả góp. Là các khoản cho vay ngắn hạn của ngân hàng đối với cá nhân và hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời. Theo phương thức cho vay này, số tiền gốc khách hàng sẽ phải thanh toán cho ngân hàng một lần vào cuối kỳ, còn tiền lãi khách hàng trả hàng tháng. Lãi suất áp dụng được cố định trong hợp đồng tín dụng trong suất kỳ hạn vay. Phương thức cho vay này thường á._.p dụng với các khoản vay nhỏ, thời hạn ngắn, đặc biệt là khách hàng có khả năng thanh toán một lần đối với khoản vay. * Cho vay tuần hoàn.. Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, ngân hàng sẽ căn cứ vào thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng để cho vay với một hạn mức tín dụng nhất định và trong một thời hạn đã thoả thuận trước. Nếu khách hàng chi vượt quá hạn mức, ngân hàng sẽ ngừng cung cấp sản phẩm dịch vụ cho họ nhưng với điều kiện ngân hàng phải thông báo trước cho khách hàng trong một thời gian nhất định để tránh tình trạng hiểu nhầm. Ưu điểm của phương thức này là khách hàng chỉ cần phải làm thủ tục vay một lần nhưng có thể vay ngân hàng nhiều lần với số tiền vay khác nhau. Nhờ đó mà chi phí vay của khách hàng được giảm đáng kể so với việc thực hiện nhiều khoản vay khác. Tuy nhiên hạn chế của phương thức này là khách hàng không thể vay một số tiền lớn với thời hạn lâu được. 1.2.4.3 Theo phương thức tài trợ. Căn cứ theo phương thức tài trợ, cho vay tiêu dùng được chia làm 2 loại như sau: Cho vay gián tiếp. Theo một cách đơn giản có thể hiểu cho vay gián tiếp là hình thức tín dụng mà ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc, cấp vốn cho khách hàng và khách hàng cũng không trực tiếp trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng thông qua việc mua lại các khoản nợ phát sinh từ những công ty chuyên cung cấp những sản phẩm hoặc dịch vụ để cho vay với người tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng gián tiếp phát triển cùng với sự ra đời các phương thức tiếp thị mới và cách thức mà người tiêu dùng mua sắm các hàng hoá lâu bền đã khuyến khích hoạt động này phát triển. Người tiêu dùng thường có xu hướng mua sắm hàng hoá trước rồi sau đó mới dàn xếp nguồn tài trợ. Nắm bắt được nhu cầu đó, những công ty bán lẻ và các đại lý đã chấp nhận bán chịu hàng hoá cho khách hàng với điều kiện khách hàng cam kết sẽ hoàn trả trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên không phải đại lý bán hàng nào cũng có đủ năng lực tài chính để giữ tất cả các khoản nợ này và họ buộc phải tìm đến các ngân hàng để tìm nguồn tài trợ. Sự tài trợ này đem lại cơ hội cho ngân hàng để tăng doanh số cho vay mà không có sự gia tăng đáng kể trong chi phí nghiệp vụ. Hơn thế nữa, cho vay gián tiếp tỏ ra an toàn hơn cho hoạt động ngân hàng trong trường hợp ngân hàng có mối quan hệ với các công ty bán lẻ. Mặt khác, trong cho vay gián tiếp các công ty bán lẻ cũng chịu trách nhiệm giám sát khoản vay trong một thời gian nhất định, theo dõi các tài khoản không trả đúng hạn, …Tất cả những việc này giúp cho ngân hàng tiết kiệm được lượng thời gian và chi phí không nhỏ. Tuy vậy, việc tài trợ gián tiếp của ngân hàng cũng có những hạn chế nhất định. Hầu như, ngân hàng gần như chỉ biết được các thông tin về khách hàng thông qua công ty bán lẻ, vì vậy mà không có cơ sở để đánh giá khách hàng của mình. một cách chính xác. Ngân hàng luôn phải đối mặt với các cơ hội lừa đảo, giả mạo có thể xảy ra gây những tổn thất không nhỏ cho ngân hàng. Mặt khác, khách hàng thường có tâm lý bất hợp tác với ngân hàng khi họ biết mình phải chịu một khoản vay của ngân hàng, do những người mua hàng trả góp thường có cảm giác món nợ có thể được xoá bằng việc trả lại hàng nếu hàng hoá không thoả mãn họ, hoặc họ không có khả năng chi trả. Chính vì vậy mà ngân hàng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi nợ. Đây cũng là lý do mà nhiều ngân hàng không tham gia vào hình thức tài trợ này, hoặc có tham gia thì cũng rất hạn chế và phải luôn kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với tất cả các khoản vay. Cho vay trực tiếp. Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc, cho khách hàng vay và trực tiếp thu hồi nợ từ khách hàng. Khác với cho vay gián tiếp cho vay trực tiếp phức tạp hơn, nó đòi hỏi ngân hàng tiến hành cẩn trọng kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định. Kể cả hoạt động giám sát sau cho vay cũng đòi hỏi ngân hàng tiến hành đầy đủ để hạn chế thấp nhất mức rủi ro tín dụng có thể xảy ra. So với cho vay gián tiếp, cho vay trực tiếp tỏ ra linh hoạt hơn rất nhiều và đã hạn chế được nhược điểm duy nhất là khách hàng và ngân hàng không có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với nhau. Mặt khác, các nhân viên tín dụng của ngân hàng là những người được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng, nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng thường có cơ sở và chất lượng cao hơn những công ty bán lẻ. Hơn thế nữa, khi tiếp xúc với khách hàng, nhân viên tín dụng thường chỉ quan tâm là chất lượng của các khoản tín dụng, trong khi các công ty bán lẻ thường chú trọng đến doanh số bán hàng. Bên cạnh đó, nếu ngân hàng giữ được mối quan hệ tốt với khách hàng trong quá trình cho vay, ngân hàng sẽ có cơ hội để gia tăng lượng khách hàng tiềm năng của mình còn khách hàng cũng gặp những thuận lợi nhất định với những khoản vay về sau. 1.2.5 Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng. 1.2.5.1 Đối với người tiêu dùng. Có thể nói, các cá nhân và hộ gia đình là người được lợi trực tiếp từ hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông qua hoạt động này, người tiêu dùng được sử dụng những sản phẩm dịch vụ như mong muốn, từ đó thoả mãn nhu cầu của họ. Thực tế nảy sinh rất nhiều nhu cầu tự nhiên, thiết yếu, nhưng khả năng tài chính của người tiêu dùng lại có hạn do đó họ không thể có một khoản tiền lớn để đáp ứng ngay lập tức. Chính vì vậy, người ta chỉ có thể thụ hưởng những nhu cầu đó khi về già, sau một thời gian tích luỹ nhất định. Khi đó độ thoả dụng từ việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ đã giảm đi rất nhiều. Các khoản cho vay tiêu dùng của ngân hàng đã giúp họ kết hợp được cả nhu cầu hiện tại với khả năng thanh toán trong tương lai. Người tiêu dùng đã quen với việc tìm đến ngân hàng như một địa chỉ tin cậy để đáp ứng nhu cầu của họ khi cần thiết, không chỉ để thanh toán, gửi tiết kiệm mà còn để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Như vậy, chính các cá nhân và hộ gia đình là những người được hưởng lợi nhiều nhất từ những giá trị có được từ hoạt động cho vay tiêu dùng. 1.2.5.2 Đối với ngân hàng thương mại. NHTM là một tổ chức tài chính trung gian, do vậy để có thể cho các cá nhân, hộ gia đình hay các doanh nghiệp vay tiền, ngân hàng cần phải huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Hoạt động cho vay của ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải cố gắng và nỗ lực rất nhiều để đảm bảo cho hoạt động này diễn ra nhanh nhất, an toàn và hiệu quả nhất, đặc biệt nó phải bù đắp được khoản chi phí huy động vốn và tạo ra nguồn thu cho ngân hàng từ khỏan chênh lệch thu chi. Do hoạt động cho vay tiêu dùng đáp ứng được những yêu cầu đó, thị trường cho vay tiêu dùng lại hiện hữu và sinh lời rất cao nên không có lý do gì các ngân hàng lai từ chối cấp tín dụng tiêu dùng, và sẽ là sai lầm nếu các ngân hàng bỏ qua thị trường này. Trên thực tế, cho vay tiêu dùng có lãi suất hấp dẫn và ổn định hơn so với cho vay kinh doanh, đặc biệt là cho vay tiêu dùng trả góp. Mặt khác, về nguyên tắc trong trường hợp khách hàng không trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì họ sẽ phải trả lãi suất phạt lớn hơn rất nhiều . Hơn nữa, số lượng các món vay tiêu dùng lớn nên rủi ro sẽ được phân tán bớt. Vì thế thu nhập từ hoạt động này tạo ra một nguồn thu không nhỏ và có thể bù đắp chi phí hoạt động cho ngân hàng. Hơn nữa, khi thực hiện họat động cho vay tiêu dùng, ngân hàng thương mại có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình. Qua đó giúp cho ngân hàng nâng cao thu nhập đồng thời phân tán rủi ro có thể gặp phải trong hoạt động tín dụng. Xu hướng phát triển của ngân hàng thương mại hiện nay là đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng. Việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, vừa mở rộng được khách hàng, vừa tận dụng được nguồn vốn huy động, vừa đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Bằng cách đó ngân hàng có thể nâng cao sức mạnh trong cạnh tranh, đồng thời tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm dịch vụ của mình. 1.2.5.3 Đối với nền kinh tế xã hội. Khác với hoạt động cho vay kinh doanh, mặc dù hoạt động cho vay tiêu dùng không tạo ra những tác động trực tiếp nhưng nó tạo ra “một cú hích” đối với nền kinh tế. Thông qua việc cấp tín dụng cho người tiêu dùng, ngân hàng đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của họ, tạo điều kiện để họ tái sản xuất sức lao động, nâng cao khả năng làm việc từ đó nâng cao hiệu quả công việc mà họ đảm nhiệm. Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng góp một phần đáng kể trong chính sách kích cầu của nhà nước. Bằng việc kính thích sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế, cho vay tiêu dùng góp phần giúp nhà nước đạt được một số mục tiêu kinh tế xã hội nhất định như: tăng mức sống cho dân cư, tăng GDP, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với các ngành kinh tế, việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ khuyến khích các ngành sản suất, tăng sức mua trong nền kinh tế, từ đó tạo nên sự sôi động cho thị trường hàng hoá tiêu dùng, tạo nguồn sống cho khu vực sản xuất trong nước. Nói tóm lại, hoạt động cho vay tiêu dùng có ý nghĩa quan trọng đối với người tiêu dùng, đối với ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. 1.2.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM. 1.2.6.1 Các nhân tố chủ quan. Việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại trước hết phụ thuộc vào những yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng. Chính sách của ngân hàng. Bất kỳ hoạt động nào của ngân hàng cũng chịu sự chi phối trực tiếp từ những văn bản pháp quy, những thông báo, quy định của ngân hàng đó. Những quyết định này do các cơ quan lãnh đạo cấp trên xét duyệt, thông qua và ban hành. Nếu như những chính sách của ngân hàng là thông thoáng cởi mở thì sẽ có tác dụng khuyến khích rất nhiều, ngược lại nó sẽ hạn chế hoạt động cho vay tiêu dùng nếu quy định quá khắt khe về quy trình, quy chế cho vay. Đồng thời, khi ngân hàng có một chế độ thưởng phạt phân minh đối với cán bộ tín dụng cũng có tác động rất nhiều đến hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung. Trước hết, chế độ này tác động đến phong cách làm việc của cán bộ ngân hàng. Ngoài ra, những khuyến khích vật chất sẽ động viên cán bộ tín dụng quan tâm và dành nỗ lực nhiều hơn, phát huy hết khả năng của mình. Định hướng chiến lược phát triển của ngân hàng. Nếu ngân hàng không có một định hướng toàn diện về phát triển cho vay tiêu dùng thì có nghĩa không có một động lực chính nào để cán bộ tín dụng ngân hàng tập trung năng lực và tâm huyết cho hoạt động này Hệ thống công nghệ của ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng thường cạnh trạnh nhau về chất lượng dịch vụ cung cấp. Trên thực tế, chất lượng của dịch vụ không phụ thuộc hoàn toàn nhưng cũng rất nhiều vào hệ thống công nghệ mà ngân hàng sử dụng. Nếu một ngân hàng có hệ thống công nghệ phát triển, hiện đại thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều công sức của cán bộ tín dụng nói riêng và cán bộ ngân hàng nói chung, từ đó tạo điều kiện cho họ tập trung vào việc phát triển và mở rộng thị trường. Đặc biệt hoạt động tín dụng càng đòi hỏi sự phát triển của công nghệ, để tránh sự nhầm lẫn, sai sót trong suốt quá trình khách hàng có quan hệ với ngân hàng Địa điểm của nơi đặt trụ sở ngân hàng. Đây là yếu tố rất nhỏ nhưng cũng có ảnh hưởng đến tình hình hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng.Trong thời buổi cạnh tranh khốc liệt, khách hàng đặc biệt quan tâm đến vấn đề tiện lợi trong quá trình sử dụng dịch vụ. Vì thế nếu trụ sở ngân hàng đặt ở những nơi trung tâm, đông dân cư sẽ là một lợi thế rất lớn đối với hoạt động ngân hàng, khách hàng sẽ chú ý đến họ trước những ngân hàng khác có cùng dịch vụ cung cấp. Khả năng quản lý của đội ngũ lãnh đạo ngân hàng. Đây cũng là một nhân tố cần nhắc tới khi xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông thường nếu các cấp lãnh đạo của một ngân hàng quan tâm và chú ý nhiều đến hoạt động tín dụng tiêu dùng thì nó sẽ có điều kiện thuận lợi để mở rộng, phát triển. Hơn thế nữa nếu đội ngũ lãnh đạo tỏ ra có năng lực, hết lòng với công việc sẽ được nhân viên cấp dưới nể trọng, làm việc chăm chỉ và phát huy hết khả năng của mình. Kỹ thuật và thủ tục khi tiến hành cho vay. Nhân tố này có tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu thủ tục cho vay quá rắc rối rườm rà khiến cho khách hàng thấy bận tâm và nản lòng vay. Tuy nhiên nếu quá sơ sài trong quá trình kiểm tra cho vay, thủ tục cho vay sẽ dẫn đến những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra với bất kỳ một tổ chức tài chính nào. Do đó với một ngân hàng thương mại vấn đề đặt ra là phải xây dựng được một quy trình, quy chế cho vay sao cho khách hàng cảm thấy thoải mái trong quá trình sử dụng dịch vụ ngân hàng, ngân hàng không phải bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của mình đồng thời cũng không gặp phải những rủi ro đáng tiếc. Chất lượng hoạt động của cán bộ tín dụng. Khả năng thẩm định ban đầu đối với khách hàng. Đây là yếu tố quan trọng ban đầu trong quá trình cho vay của ngân hàng. Thông thường với mỗi cán bộ tín dụng, họ sẽ có cảm nhận đánh giá ban đầu. Với những người có kinh nghiệm họ sẽ thấy được là khách hàng có đáng tin cậy hay không, có thể cho vay được không. Tất nhiên đó chỉ là những cảm nhận ban đầu nhưng nó thuộc về tố chất làm tín dụng của cán bộ đó. Và nếu cán bộ tín dụng có được điều đó thì hoạt động cho vay diễn ra nhanh chóng, an toàn và hiệu quả hơn rất nhiều. Thái độ phục vụ khách hàng. Người cán bộ tín dụng là người đại diện cho ngân hàng khi khách hàng lần đầu tiên đến với ngân hàng với nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Vì thế ấn tượng của khách hàng về ngân hàng phụ thuộc rất lớn bởi thái độ niềm nở, chân tình của người cán bộ tín dụng. Hơn thế nữa trong quá trính cho vay, cán bộ tín dụng tỏ ra nhiệt tình, thật lòng phục vụ sẽ chiếm được cảm tình của khách hàng. Đây cũng là một lợi thế cạnh trnah so với các ngân hàng khác cùng lĩnh vực. Có thể nói sự thành công của mỗi hợp đồng tín dụng có vai trò không nhỏ của chính những người cán bộ tín dụng với thái độ phục vụ hết sức tận tình. Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Với bất cứ một ngành nghề nào cũng có một quy chuẩn đạo đức nhất định. Với hoạt động tín dụng, đạo đức nghề nghiệp được đặt lên hàng đầu. Một người cán bộ tín dụng trước khi có trình độ, kinh nghiệm trong công việc anh ta phải là người trung thực từ đó mới đưa ra những quyết định đúng đắn, có lợi cho ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng. Khả năng tiếp thi và mở rộng thị trường. Không phải bất cứ một cán bộ tín dụng nào cũng có khả năng này. Tuy nhiên nếu không có nó hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng khó có thể phát triển như mong đợi. Tinh thần trách nhiệm. Sự đam mê cũng như tinh thần trách nhiệm trong công việc của cán bộ tín dụng cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông thường khi người ta có hứng thú trong công việc thì người ta mới có thể làm tốt như những gì mình mong muốn. Điều quan trọng là các cấp lãnh đạo ngân hàng cần tạo ra một môi trường làm việc phong phú tạo sự đam mê hứng khởi cho cán bộ tín dụng, như thế công việc mới diễn ra an toàn và hiệu quả. 1.2.6.2 Các nhân tố khách quan. Bên cạnh những nhân tố chủ quan thuộc về bản thân ngân hàng, hoạt động cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khách quan sau: Nhân tố vĩ mô. Môi trường kinh tế, xã hội. Đây là những nhân tố hàng đầu khi nhắc đến ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong một nền kinh tế phát triển, xã hội ổn định, nhu cầu nâng cao chất lượng đời sống dân cư cũng được tăng lên. Khi thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội được cải thiện, các nhu cầu về chi tiêu hay sử dụng cácư sản phẩm dịch vụ chất lượng cao cũng hình thành. Bên cạnh đó, nền kinh tế ổn định cũng có tác dụng khuyến khích các thành phần trong xã hội tích cực đầu tư, tiêu dùng, hạn chế tiết kiệm từ đó thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng. Môi trường văn hoá. Môi trường văn hóa cũng có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Quyết định tiêu dùng của dân cư bị chi phối rất nhiều bởi thói quen, trình độ văn hoá, bản sắc của dân tộc. Mỗi xã hội có những nét đặc thù về văn hoá riêng biệt, nó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Môi trường pháp lý. Có tác động đến tính quy chuẩn, trật tự giúp cho hoạt động cho vay tiêu dùng diễn ra thông suốt và an toàn. Tại nhiều nước trên thế giới luật tín dụng ra đời có tác dụng điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia hoạt động tín dụng, đảm bảo sự phát triển bền vững của hoạt động đồng thời tránh những rắc rối, tổn thất đáng tiếc có thể xảy ra. Môi trường pháp lý ổn định sẽ tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng. Nhân tố vi mô. Ngoài những nhân tố mang tính vĩ mô, hoạt động cho vay tiêu dùng còn bị chi phối, ảnh hưởng của những nhân tố vi mô phi ngân hàng. Nhu cầu, thói quen và đạo đức khách hàng. Với hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng, khách hàng là một khách thẻ có ảnh hưởng không nhỏ đến sự thành công của các quan hệ tín dụng. Trước hết nhu cầu của khách hàng sẽ là độnh lực để khách hàng tìm đến ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ phát triển rất tốt nếu ngân hàng đó đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Nhu cầu của khách hàng chính là cầu của hoạt động cho vay, cầu tăng ắt đòi hỏi phải có cung. Khi cung và cầu là phù hợp thì thị trường đạt điểm hoà vón. Với ngân hàng thì đó là khi mà ngân hàng phát huy tối đa nguồn vốn huy động của mình. Bên cạnh đó thói quen của người tiêu dùng cũng có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến ngân hàng. Khi khách hàng có thói quen sử dụng dịch vụ ở một ngân hàng thì đó sẽ là lợi thế cạnh tranh rất lớn của ngân hàng đó đối với những đối thủ khác. Đạo đức của người đi vay được đánh giá trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Năng lực pháp lý được thể hiện qua việc khách hàng không vi phạm các quy định pháp luật trong, trước và sau quá trình xin vay. Ngoài những yếu tố về thu nhập, tài sản đảm bảo, sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng là nhân tố để đánh giá mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng đó. Hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ diễn ra suôn sẻ nếu tất cả những khách hàng đều đáp ứng những yêu cầu tối thiểu mà ngân hàng đề ra đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Năng lực tài chính của khách hàng. Một khách hàng đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của ngân hàng thì trước hết phải có năng lực tài chính lành mạnh và đủ lớn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Với mỗi cán bộ tín dụng vấn đè quan tâm đầu tiên về khách hàng của mình chính là khả năng trả nợ. Nếu nguồn trả nợ đủ mạnh có thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng nhưng không lành mạnh và ổn định thì cũng cần phải xem xét kỹ lưỡng. Các đối thủ cạnh tranh. Ngoài các nhân tố thuộc về khách hàng, khả năng của các đối thủ cạnh tranh cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Mối ngân hàng trong quá trình phát triển phải xác định được chỗ đứng của mình trong giới ngành để có những chiến lược phát triển đúng đắn. Những nhân tố khách quan và chủ quan trên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng của một ngân hàng thương mại. Để có chiến lược phát triển đúng đắn thì mỗi ngân hàng phải tự mình xem xét và đánh giá những điểm yếu và thế mạnh riêng của mình, từ đó đưa ra những kế hoạch phát triển cụ thể trong từng thời kỳ. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM 2.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM (VPBANK). 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của VPBank. Ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam (tên giao dịch là VPBank) được Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp giấp phép hoạt động số 0042/NH – GP ngày 12/08/1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 04/09/1993 theo giấy phép thành lập số 1535/QĐ - UB ngày 04/09/1993. Vốn điều lệ khi mới thành lập của VPBank là 20 tỷ đồng, với 6 cổ đông sáng lập là các pháp nhân, thể nhân Việt Nam.Sau đó do nhu cầu phát triển, VPBank đã tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ đồng theo quyết định số 193/ QĐ - NH5 ngày 12/09/1994 và tiếp tục tăng lên 174,9 tỷ đồng theo quyết định số 53/QĐ - NH5 vào ngày 18/03/1996 của NHNN tương đương với 174.900 cổ phiếu thuộc sở hữu của 102 cổ đông thể nhân và pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó có một cổ đông nước ngoài là DRAGON CAPITAL nắm giữ 10% vốn điều lệ. Đến cuối năm 2004, VPBank nhận được quyết định số 689/NHNN_HAN của Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho VPBank được nâng vốn điều lệ lên 198,4 tỷ đồng. Trong quý I năm 2005, theo công văn chấp thuận số 134/ NHNN_HAN7 ngày 25/2/2005, NHNN đã chấp thuận cho VPBank nâng vốn điều lệ lên 243,7 tỷ đồng, đã đáp ứng được quy mô và phạm vị hoạt động ngày càng rộng của VPBank, đồng thời thể hiện được tiềm lực của VPBank trong hiện tại và tương lai. Ngày 21/03/2006, VPBank đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược với ngân hàng OCBC Bank (Singapore). Với thỏa thuận này, OCBC Bank cam kết hỗ trợ VPBank về mặt kỹ thuật, công nghệ, đào tạo trong các lĩnh vực: tín dụng, thẻ, các biện pháp quản trị rủi ro và công nghệ thông tin... OCBC Bank chính thức trở thành cổ đông chiến lược lớn nhất của VPBank. Cũng theo thỏa thuận, ngay khi vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng OCBC Bank sẽ sử dụng vốn tự có của mình để mua 10% cổ phần gia tăng của VPBank, tương đương với 250 tỷ đồng. Việc lựa chọn OCBC Bank là cổ đông chiến lược sẽ giúp VPBank mở rộng hợp tác với các ngân hàng nước ngoài, nhanh chóng tiếp nhận công nghệ hiện đại. Đặc biệt nó tạo ra môi trường rất tốt cho cán bộ điều hành của VPBank bắt nhịp được với công nghệ quản trị ngân hàng tiên tiến trên thế giới. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN ký giấy phép số 0018-GCT ngày 16/12/1993 chấp thuận cho VPBank mở chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 19/11/1994, VPBank được phép mở thêm chi nhánh tại Hải Phòng theo giấy phép số 0020/ GCT và ngày 20/7/1995, chi nhánh Đà Nẵng theo giấy phép số 0026/GCT. Đến cuối năm 2004, VPBank được NHNN cho phép mở thêm 3 chi nhánh cấp 1 mới đó là Chi nhánh Hà Nội (trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi hội sở) theo công văn chấp thuận số 1128/NHNN-CNH ngày 6/10/2004; chi nhánh Huế theo công văn chấp thuận số 1106/NHNN- CNH ngày 1/10/2004; chi nhánh Sài Gòn theo công văn chấp thuận số 1350/NHNN-CNH ngày 23/11/2004. Đầu năm 2005, VPBank tiếp tục mở thêm 4 chi nhánh cấp I là chi nhánh Cần Thơ (theo công văn chấp thuận số 227/NHNN-CNH ngày 23/3/2005): chi nhánh Quảng Ninh (theo công văn chấp thuận số 227/NHNN-CNH ngày 23/3/2005); chi nhánh Vĩnh Phúc (theo công văn chấp thuận số 682/NHNN-CNH ngày 16/5/2005); và chi nhánh bắc Giang (theo công văn chấp thuận số 986/QĐ-NHNN ngày 06/7/2005) Tính đến tháng 12 năm 2005, hệ thống VPBank có tổng cộng 31 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 12 chi nhánh cấp I tại các tỉnh, thành phố của đất nước là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Bắc Giang, 15 chi nhánh cấp 2 và 4 phòng giao dịch. Trong 2 năm 2005 và 2006 VPBank dự kiến mở thêm khoảng 20 điểm giao dịch mới tại các tỉnh, thành là trọng điểm kinh tế của đất nước. Cho đến nay, lĩnh vực hoạt động của VPBank tương đối đa dạng, bao gồm các hoạt động: Huy động vốn ngắn – trung – dài hạn của các tổ chức và cá nhân. Huy động gửi góp. Tiếp nhận vốn uỷ thác đàu tư và phát triển của các tổ chức trong nước. Tài trợ ngắn – trung – dài hạn cho các tổ chức và cá nhân Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá. Hùn vốn liên doanh, mua cổ phần theo pháp luật hiện hành. Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng. Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, huy động các nguồn vốn từ nước ngoài và làm dịch vụ thanh toán quốc tế khác. Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong nước và quốc tế dưới nhiều hình thức, đặc biệt là chuyển tiền nhanh Western Union. Để có thể thực hiện tốt các họat động trên VPBank đã thu nhận một đội ngũ đông đảo cán bộ công nhân viên với chính sách đãi ngộ hết sức ưu đãi. Tại thời điểm ban đầu thành lập 12/08/1993 VPBank chỉ hoạt động với 18 người thì tính đến thời điểm 01/2006 số lượng cán bộ, nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống là gần 782 người, tăng 298 người so với năm 2004, trong đó 440 nữ và 342 nam; về trình độ: có 15 người có trình độ trên đại học (tăng 12 người so với năm 2004), 602 người có trình độ đại học (chiếm 78% tổng nhân sự của VPBank); trong năm, có 30 cán bộ được đề bạt vào chức danh trưởng, phó phòng. Với đội ngũ cán bộ, nhân viên năng động, nhiệt tình và có trình độ nghiệp vụ cao, nguồn nhân lực của VPBank luôn được đánh giá cao và sẽ là một trong những tiền đề cho sự phát triển của VPBank về sau. VPBank hiện đang có 61 ngân hàng đại lý tại 31 quốc gia trên thế giới trong đó có những ngân hàng danh tiếng như: ABN ARMO Bank New York (Mỹ), The Bank of New York (Mỹ), Standard Chartered Bank New York (Mỹ), Citi Bank of N.A New York (Mỹ), The Bank of Tokyo – Mitsubishi Ltd (Nhật), … Với hơn 12 năm hoạt động, lịch sử phát triển của VPBank có thể chia ra làm các giai đoạn chủ yếu sau: Giai đoạn 1993 – 1996. Đây là giai đoạn phát triển năng động của VPBank với nhiều thành công trên các mặt của hoạt động kinh doanh. Doanh số của ngân hàng không ngừng tăng nhanh, chỉ trong vòng 4 tháng đầu tiên con số lãi mà VPBank thu được là 101 triệu đồng. Tính đến cuối năm 1994 số lãi đó là 10 tỷ đồng, đặc biệt đến năm 1995 con số này đã được nhân lên gần 3 lần: 29,6 tỷ đồng. Mức lãi kỷ lục đạt được là vào năm 1996 với con số 75,9 tỷ đồng. VPBank trở thành một ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất miền bắc nước ta. Giai đoạn 1996 – 2000. Đây là thời kỳ mà VPBank gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế và phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Do quá chủ quan trước những kết quả đạt được trong những năm đầu, liên tục mắc những sai lầm, quan điểm kinh doanh chưa đúng đắn VPBank đã rơi vào thời kỳ phát triển “bong bóng” . Năm 1996 mặc dù mức lãi đạt kỷ lục song chỉ là con số trên giấy tờ, ngân hàng không có khả năng thu hồi. Vì thế đầu năm 1997 tình hình tài chính của VPBank đã bộc lộ rõ rệt. VPBank đứng trên bờ vực phá sản khi mà tỷ lệ nợ quá hạn lên tới 71% so với tổng số nợ, nợ L/C lên tới 40 triệu USD trong khi khả năng tài chính của ngân hàng không đủ để chi trả. Trước tình hình đó VPBank đã củng cố lại bộ máy tổ chức, cùng với sự can thiệp của NHNN đến cuối năm 1997 tình hình của ngân hàng đã được cải thiện. Khả năng thanh toán mặc dù còn rất thấp nhưng đã nâng dần lên đạt mức trên dưới 30%. Từ sau năm 1997 đến năm 2000, ngân hàng hoạt động dưới sự giám sát chặt chẽ của NHNN, nhất cử nhất động của VPBank đều phải thông qua sự nhất trí của NHNN. Do đó ngân hàng đã dần dần từng bước lấy được vị trí của mình trong lòng khách hàng cũ cũng như những khách hàng tiềm năng. Giai đoạn từ sau 2000 đến nay. Đây là thời kỳ mà VPBank cẩn trọng từng bước đi, tuy chậm mà chắc để lấy lại vị thế của mình trong giới ngân hàng. Năm 2000 đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển của VPBank bằng việc Hội Đồng Quản Trị quyết định lựa chọn mục tiêu chiến lược của VPBank trong 10 năm tới là xây dựng VPBank trở thành ngân hàng bán lẻ điển hình hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực. Với mục tiêu đó, VPBank tiếp tục tập trung vào việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng bán lẻ, hướng tới khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân có nhu cầu kinh doanh và tiêu dùng…Hoạt động của VPBank đã được mở rộng cả về số lượng và quy mô, uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao, VPBank dần dần từng bước chiếm lĩnh thị trường bán lẻ và trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu. Trong năm 2006, VPBank sẽ triển khai dịch vụ thẻ. Đây là một bước đi cần thiết, nó tạo ra một lợi thế cạnh tranh hết sức quan trọng trong cuộc đua nhắm tới khối thị trường ngân hàng bán lẻ. Qua đó, VPBank sẽ mở rộng thị phần, nâng cao vị thế và thương hiệu của mình nhằm thực hiện mục tiêu ngân hàng bán lẻ. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của VPBank. 2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức. Đại hội Cổ đông CN Hà Nội CN Hải Phòng CN Quảng Ninh CN Vĩnh Phúc CN Bắc Giang CN Cần Thơ CN Sài Gòn CN Huế CN TP. HCM CN Đà Nẵng CN Thăng Long Ban kiểm soát P.KTKT nội bộ Phòng thu hồi nợ Phòng Ngân Quỹ Phòng Kế toán Phòng Tổng hợp & Quản Lý CN Phòng TTQT & Kiều hối Trung tâm đào tạo Trung tâm tin học TTDV chuyển tiền WesternUnion Văn phòng của VPBank Các chi nhánh cấpII và phòng giao dịch Ban điều hành Hội sở Hà Nội Hội đồng quản trị Hội đồng Tín dụng Các ban Tín dụng Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của VPBank. 2.1.2.2 Cơ cấu quản trị. Hội đồng quản trị (HĐQT) được bầu tại Đại hội cổ đông (ĐHCĐ) ngày 02/02/2002 với nhiệm kỳ 4 năm, gồm 5 thành viên trong đó có 3 uỷ viên thường trực gồm có Chủ tịch, Phó chủ tịch thứ nhất và một uỷ viên thường trực. Các uỷ ban trực thuộc HĐQT Ban kiểm sóat : Do ĐHCĐ bầu gồm 3 thành viên, trong đó 1 thành viên là cổ đông, 2 thành viên còn lại là thành viên chuyên trách. Hội đồng tín dụng là tổ chức do HĐQT thành lập (Tại Hội sở do Phó chủ tịch thứ nhất làm chủ tịch; tại chi nhánh Hồ Chí Minh do Chủ tịch Hội đồng quản trị làm chủ tịch) Ban tín dụng các chi nhánh cấp I. Hội đồng quản lý tài sản nợ, tài sản có do Tổng Giám Đốc làm chủ tịch Hội đồng tín dụng và ban tín dụng đều có nhiệm vụ xem xét phê duyệt các quyết định cấp tín dụng cho khách hàng nhưng với các giới hạn tín dụng khác nhau. 2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của VPBank trong những năm gần đây. Trong 2 năm gần đây 2004 – 2005 bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước đã có không ít biến động đã tạo ra những điều kiện thuận lợi và cũng không ít khó khăn đối với khu vực tài chính. Hệ thống ngân hàng tiếp tục gặt hái được nhiều thành công trong các lĩnh vực hoạt động. Hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần đều gia tăng vốn điều lệ, và đã có một số ngân hàng bán cổ phần cho cổ đông nước ngoài. Mức độ cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng gay gắ._. với khách hàng, đồng thời cũng tiết kiệm được thời gian và chi phí cho ngân hàng. Thiết kế và hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cho vay tiêu dùng để quá trình cho vay được tiến hành nhanh chóng và an toàn. Hiện nay VPBank đã có một quy trình cho vay tiêu dùng nói chung và các quy chế cho vay đối với từng sản phẩm dịch vụ tương đối chặt chẽ và linh hoạt. Tuy nhiên quy trình này cần cụ thể hơn nữa và thông qua quy trình nhân viên ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng biết được trách nhiệm phải thực hiện ở vị trí của mình, mối quan hệ với các đồng nghiệp khác hoặc hiểu rõ hơn vai trò của mình trong toàn bộ quy trình, từ đó có kế hoạch thực hiện công việc cụ thể. Cần đa dạng hóa hơn các loại hình tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Hiện tại VPBank quy quy định các loại hình tài sản đảm bảo cho các khoản vay với phạm vi tương đối hẹp. Các loại tài sản chủ yếu là bất động sản, ô tô, các giấy tờ có giá theo quy định của NHNN. Việc lựa chọn như vậy một phần đảm bảo tính an toàn cho ngân hàng, mặt khác cũng để cho ngân hàng dễ quản lý. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần đa dạng hóa các loại tài sản đảm bảo hơn nữa cho các khoản vay như hàng hóa, máy móc, thiết bị, các khoản phải thu, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ,… thuộc sở hữu khách hàng. Việc đa dạng hóa các loại hình tài sản đảm bqảo sẽ có nhiều cơ hội thu hút khách hàng hơn. Đi đôi với việc đó thì VPBank cũng phải không ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài sản đảm bảo. 3.2.1.2 Mở rộng mạng lưới chi nhánh. Hiện nay nhu cầu của người dân muốn sử dụng các dịch vụ của ngân hàng là tương đối lớn. Cung cấp đầy đủ các dịch vụ của một ngân hàng phát triển, như thế người tiêu dùng sẽ có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với ngân hàng và có xu hướng sử dựng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng thì ngân hàng phải cung cấp dịch vụ đến càng gần người tiêu dùng càng tốt. Để có thể làm được điều đó thì các ngân hàng phải phát triển hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp, và phân bổ một cách hợp lý. Hệ thống mạng lưới chi nhánh của VPBank hiện nay cũng đã tương đối rộng khắp với 31 điểm giao dịch gồm: Hội sở chính, 12 chi nhánh cấp 1, 14 chi nhánh cấp 2 và 4 phòng giao dịch. Tuy nhiên các điểm giao dịch này lại tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, nhiều nhất là ở thành phố Hà Nội với 11 điểm giao dịch. Đối với các tỉnh, thành phố khác thì chưa có sự hiện diện của VPBank. Thực tế hiện nay các tỉnh và thành phố trực thuộc tỉnh cũng đã và đang phát triển vượt bậc, tại đó nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao. Đây có thể coi là những khách hàng tiềm năng của ngân hàng với số lượng rất lớn như các tỉnh, thành phố: Hải Dương, Bắc Ninh, Nam Định, … Chính vì thế, trong thời gian tới VPBank cần chú trọng việc mở rộng mạng lưới chi nhánh tại các tỉnh thành khác trên cả nước để phát triển mạng lưới kênh cung cấp các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nói chung và các sản phẩm cho vay tiêu dùng nói riêng. Tuy nhiên việc mở rộng thêm các chi nhánh và các phòng giao dịch là rất tốn kém và không thể tiến hành trong một sớm một chiều bởi ngân hàng còn hạn chế về vốn và nhân lực. Đây được coi là giải pháp lâu dài mà VPBank cần phải thực hiện. Song song với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, VPBank cũng phải có lực lượng nhân viên đồng đều và tương xứng với quy mô của ngân hàng khi phát triển phạm vi hoạt động. Nhân viên phải đảm bảo cả về số lượng lẫn trình độ, năng lực và phải đào tạo thường xuyên về nghiệp vụ và chuyên môn nhất là đội ngũ cán bộ tín dụng, có như thế mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngân hàng. 3.2.1.3 Hoàn thiện chiến lược Marketing. Trong tình hình hiện nay, khi mà các ngân hàng không ngừng cạnh tranh nhau về lãi suất và chất lượng dịch vụ cung ứng thì việc mở rộng và phát triển các hoạt động đặt ra cho các ngân hàng những thách thức rất lớn. VPBank hiện tại vẫn chưa có một bộ phận chuyên trách về hoạt động Marketing để nghiên cứu thị trường và phát triển các sản phẩm dịch vụ, mà việc phát triển hoạt động và mở rộng thị trường đều do mỗi bộ phận tự đảm trách. Chính điều này đã hạn chế một số hoạt động của ngân hàng và nó còn đặt lên vai mỗi cán bộ tín dụng những trọng trách không nhỏ, gây ra áp lực đối với công việc của họ. Do đó, VPBank cần thiết phải thành lập phòng marketing mà hoạt động của nó tập trung vào việc xây dựng các chiến lược cụ thể như phân tích thị trường, đánh giá nội lực của ngân hàng từ đó đưa ra những dự báo và xây dựng những chiến lược kinh doanh tổng hợp cho ngân hàng trong thời gian tới. Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng, bộ phận Marketing cần tập trung vào những hoạt động chủ yếu sau: Tiến hành điều tra, thu thập và phân tích thông tin về người tiêu dùng. Đó là các thông tin về nhu cầu của người tiêu dùng, khả năng tài chính và xu hướng sử dụng các sản phẩm tiêu dùng của họ. Phòng Marketing có thể thu thập thông tin qua các cuộc điều tra, phỏng vấn theo từng nhóm đối tượng khách hàng khác nhau, hoặc tổng hợp thông tin từ những khách hàng đã có giao dịch với VPBank. Qua đó sẽ nắm bắt được thông tin tổng hợp về các nhu cầu khác nhau của từng nhóm khách hàng tiêu dùng, đồng thời ngân hàng cũng thu thập được những thông tin phản hồi của người tiêu dùng về ưu, nhược điểm của các sản phẩm cho vay tiêu dùng hiện có của ngân hàng. Từ đó ngân hàng sẽ có chiến lược phát triển chung và phát triển nhóm khách hàng truyền thống. Nghiên cứu, đánh giá về thị trường cũng như tình hình cạnh tranh trong lĩnh vực tiêu dùng. Hiện nay không chỉ các tổ chức tín dụng như ngân hàng mà ngay cả các tổ chức phi tín dụng cũng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng. Do đó, phòng Marketing cần tiến hành nghiên cứu, điều tra về các sản phẩm cho vay tiêu dùng cụ thể hiện có tại các tổ chức tài chính này, phân tích các ưu nhược điểm của các sản phẩm này để từ đó có những chiến lược về sản phẩm hợp lý. Thực hiện các hoạt động xúc tiến hỗn hợp hướng tới khách hàng mục tiêu. Phòng Marketing có nhiệm vụ giới thiệu, xúc tiến việc bán hàng và cung ứng các loại hình sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nói chung và sản phẩm cho vay tiêu dùng nói riêng. Hoạt động này là hết sức cần thiết khi mà sự cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng gay gắt, số lượng các tổ chức tài chính cung ứng sản phẩm tín dụng tiêu dùng ngày càng gia tăng. Ngân hàng nào đi trước, ngân hàng đó sẽ có ưu thế trong việc chiếm lĩnh thị phần. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu của VPBank là phải luôn luôn đi trước một bước trong việc đưa ra các sản phẩm mới có đủ sức cạnh tranh và thực hiện chương trình Marketing cho sản phẩm dịch vụ của mình. Bên cạnh đó, VPBank cũng phải tích cực quảng bá thương hiệu của mình đến với công chúng sao cho họ luôn cảm thấy thỏa mãn và được phục vụ với chất lượng tốt nhất khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ của VPBank. Phòng Marketing cũng cần phối hợp đồng bộ với các phòng ban khác trong ngân hàng để có thể thực hiện các chính sách Marketing một cách hiệu quả và nâng cao chất lượng hoạt động của VPBanknhững Có như vậy hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng mới có thể phát triển hơn mức độ phát triển hiện tại của ngân hàng. 3.2.1.4 Xây dựng, quảng bá thương hiệu của ngân hàng. Có một thực tế là nhu cầu về mục đích tiêu dùng trong dân cư là rất lớn nhưng không có nhiều người tìm đến ngân hàng vay vốn để đáp ứng cho mục đích này. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế này là vì còn một bộ phận không nhỏ dân cư chưa biết đến VPBank, hoặc khách hàng chưa nhận biết được những thông tin đầy đủ và những lợi ích của việc sử dụng những sản phẩm cho vay tiêu dùng. Nguồn thông tin chủ yếu mà khách hàng có thể tiếp cận để biết đến ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp là thông qua báo chí và truyền hình. Tuy nhiên đây lại là nguồn cung cấp thông tin gián tiếp, những người biết đến ngân hàng qua kênh này còn rất hạn chế, đặc biệt là qua đó rất khó để họ có thể hiểu biết cặn kẽ về những sản phẩm cho vay tiêu dùng cũng như những lợi ích mà họ có được khi sử dụng sản phẩm dịch vụ này. Do đó người dân chưa tiếp cận thực sự với loại hình cho vay tiêu dùng. Ngoài ra, ngay cả hiểu biết về loại hình cho vay này và những lợi ích của nó thì không phải ai cũng tìm đến ngân hàng để thỏa mãn nhu cầu của mình. Do thói quen tâm lý mà không ít người có thể sẵn sàng chấp nhận một món nợ ngân hàng cho dù khả năng tài chính trong tương lai của họ có thể chi trả được. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải có chiến dịch quảng bá hình ảnh của mình, tiếp cận gần hơn nữa với ngưới dân để họ có thể gạt bỏ tâm lý trên và sẵn sàng tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu. Trong thời gian vừa qua, VPBank đã xuất hiện nhiều trong các chương trình giải trí của Đài truyền hình Việt Nam với vai trò là người tài trợ như chương trình “Khởi nghiệp”, “Doanh nhân Việt Nam” . VPBank cũng đã phát hành cuốn “Cẩm nang giao dịch VPBank” để giúp khách hàng dễ dàng hiểu rõ hơn về những sản phẩm dịch vụ cũng như quy trình, thủ tục khi đến với VPBank. Tuy nhiên khi VPBank phát triển thêm một số sản phẩm dịch vụ mới thì cuốn Cẩm nang trên không phản ánh kịp thời những hoạt động này. Vì thế VPBank đã chú trọng hơn tới công tác tiếp thị quảng cáo qua các hình thức thư ngỏ, tờ rơi. Ngoài ra, VPBank nên tổ chức những buổi hội thảo, gặp mặt trực tiếp các khách hàng là những khách hàng truyền thống, các doanh nghiệp tiềm năng nhằm đưa ra giới thiệu sản phẩm mới hoặc hướng dẫn những quy trình nghiệp vụ tương đối phức tạp. Ngay trong buổi gặp mặt này, VPBank cũng có thể tìm kiếm thông tin phản hồi từ phía khách hàng, từ đó đưa ra các phương pháp mới hiệu quả hơn, trên cơ sở đó cả khách hàng và ngân hàng thêm hiểu nhau, thúc đẩy quan hệ làm ăn lâu dài. Để chiến dịch quảng cáo của mình đạt hiệu quả, VPBank cần xác định rõ mục tiêu quảng cáo, kế hoách chương trình quảng cáo, đồng thời phải dự trù chi phí quảng cáo để cho hoạt động này có chất lượng tốt và hiệu quả. Việc đẩy mạnh chính sách giao tiếp khuyếch trương như vậy phần nào xóa bỏ những thói quen tâm lý trong dân cư cản trở hoạt động cho vay tiêu dùng, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng, từng bước đưa VPBank trở thành người bạn tin cậy của mọi nhà. 3.2.1.5 Xây dựng văn hóa giao dịch VPBank. Do sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mang tính vô hình, gắn liền với chủ thể cung cấp nên có thể thấy vai trò của nhân viên ngân hàng làm việc trực tiếp với khách hàng là rất quan trọng. Không những thế do đặc thù cuả hoạt động bán lẻ là sự giao dịch trực tiếp giữa khách hàng tiêu dùng và ngân hàng. Vì vậy, uy tín của ngân hàng, thiện cảm của khách hàng đối với ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn, kỹ năng xử lý nghiệp vụ và phong cách, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng. Công nghệ, kỹ thuật hiện đại có thể đầu tư, sản phẩm có thể làm theo thậm chí có thể còn tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh song yếu tố con người cụ thể là văn hóa giao dịch của ngân hàng không dễ có được. Văn hóa giao dịch thể hiện ở sự tận tình chăm sóc khách hàng, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhằm tiết kiệm thời gian giao dịch cho khách hàng và ngân hàng, thực hiện chính xác các quy trình nghiệp vụ. Với phương châm trong định hướng phát triển hoạt động VPBank trong tương lai là “hướng tới khách hàng”, VPBank đã xây dựng văn hóa giao dịch của VPBank: tác phong nhanh nhẹn, thái độ văn minh, lịch sự. Việc giao tiếp với khách hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút khách hàng đến với ngân hàng, đồng thời góp phần tạo nên hình ảnh của ngân hàng. Giao tiếp tốt với khách hàng sẽ khiến họ cảm thấy hài lòng, thỏa mãn khi đến với ngân hàng và nó chính là phương thức quảng cáo tốt nhất cho ngân hàng, tạo nên hình ảnh tốt về ngân hàng với chi phí thấp nhất. Muốn vậy, VPBank cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ngân hàng về cả hai mặt: chuyên môn và phong cách giao dịch, thái độ phục vụ khách hàng. Cụ thể: Cán bộ, nhân viên ngân hàng phải có kiến thức về đánh giá năng lực tài chính của khách hàng dựa trên các thông tin mà khách hàng cung cấp như: mức lương, thu nhập, chi phí, các khoản phải nộp, số ngời ăn theo,… Cán bộ khách hàng cá nhân phải có kỹ năng tiếp thị, giao tiếp tốt, nhiệt tình hướng dẫn và thuyết phục khách hàng làm quen, sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp. Trong thời gian vừa qua VPBank cũng đã quan tâm đến công tác này, thể hiện ở những phong trào thi đua, bình bầu nhân viên xuất sắc, cán bộ giao dịch kiểu mẫu. Đây là cơ hội để nhân viên ngân hàng chứng tỏ tay nghề và bản lĩnh của mình, khẳng định mình trước các đồng nghiệp, trước ban lãnh đạo ngân hàng và trước khách hàng góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng, đồng thời cũng là cơ hội tốt cho ban lãnh đạo để đánh giá, nhận xét năng lực của nhân viên từ đó có chính sách, cơ hội thăng tiến một cách xứng đáng. Đây cũng là hoạt động VPBank cần phát huy và làm tốt hơn nữa trong thời gian tới, để khẩu hiệu “Tận tình – chu đáo phục vụ khách hàng” được in sâu trong tâm trí khách hàng mỗi khi nhắc đến tên VPBank. 3.2.1.6 Phát triển, mở rộng sản phẩm cho vay tiêu dùng . Có thể dễ dàng nhận thấy các sản phẩm cho vay tiêu dùng có thi trường rộng và không ngừng tăng trưởng. Hiện nay các NHTM Nhà nước tuy có cho vay tiêu dùng song còn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhóm các NHTM nước ngoài không cho vay cá nhân, vì thế đây là thị trường của nhóm các NHTM Cổ phần. Chính vì, thế VPBank phải có chiến lược rõ ràng trong cho vay tiêu dùng để cạnh tranh với các NHTM Cổ phần khác, tăng thị phần của mình. So với một số NHTM Cổ phần khác như Techcombank, ACB,… các sản phẩm cho vay tiêu dùng của VPBank còn khá đơn điệu và chưa thực sự tạo được nét khác biệt. Trong các sản phẩm cho vay tiêu dùng của VPBank thì cho vay mua nhà và mua ô tô chiếm tỷ trọng khá cao. Trong khi đó nhu cầu du học ngày càng tăng (đại học và sau đại học), thị trường này rất rộng và có tiềm năng, VPBank nên có những chính sách thay đổi để hoạt động này phát triển hơn. VPBank nên áp dụng những chế độ ưu đãi nhất định đối với khách hàng như: lãi suất thấp, thủ tục cho vay nhanh chóng, đơn giản, quy chế cho vay thông thoáng… từ đó tăng tỷ lệ cho vay du học và tăng tổng quy mô cho vay tiêu dùng của VPBank. Bên cạnh đó hiện nay thị trường thẻ tín dụng cũng rất rộng lớn, do những tiện ích của thẻ mà ngày càng có nhiều người sử dụng thẻ. Các NHTM ngày càng cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thẻ và đua nhau đưa ra nhiều loại thẻ khác nhau. Trong năm 2006 VPBank sẽ đưa ra sản phẩm thẻ của mình, khi đó VPBank có thể phát triển một sản phẩm cho vay tiêu dùng mới đó là cho vay thông qua thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng có thể do VPBank phát hành hoặc là của TCTD khác, VPBank sẽ cho vay theo một tỷ lệ nhất định trên số dư tài khoản trên thẻ. Trước đây, phương thức cho vay tài trợ du học của VPBank là cho vay để mở sổ tiết kiệm hoặc tài khoản tiền gửi, giờ đây VPBank có thể có phương thức cho vay mới đó là cho vay tài trợ du học thông qua thẻ tín dụng. Hiện nay đội ngũ cán bộ nhân viên của VPBank ngày càng đông đảo, VPBank có thể phát triển sản phẩm cho vay tín chấp đối với cán bộ nhân viên. Chính điều này làm cho cán bộ nhân viên cảm thấy VPBank luôn sẵn sàng giúp đỡ họ khi họ có nhu cầu, họ sẽ tin tưởng và nỗ lực làm việc hết mình cho VPBank. 3.2.1.7 Xây dựng chính sách khách hàng. Để thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình, VPBank cần xây dựng một định hướng khách hàng cụ thể, trong đó phải đặt chất lượng phục vụ là yếu tố hàng đầu, coi khách hàng là đối tác và là mục tiêu hoạt động, tạo dựng các mối quan hệ bền vững trên cơ sở hai bên cùng có lợi, coi sự phát triển liên tục cùng khách hàng là nền tảng cho sự phát triển của VPBank. VPBank cần tiến hành việc phân nhóm khách hàng để có thể có những chính sách quản lý phù hợp, có sự định hướng sản phẩm dịch vụ đối với từng nhóm khách hàng này. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, gần đây ở Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều những cá nhân có thu nhập rất cao, mà trong đó chủ yếu là những doanh nhân thành đạt, người Việt Nam đã họăc đang công tác và sinh sống ở nước ngoài. Những người này luôn có nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại, đòi hỏi cao về chất lượng phục vụ, họ sẵn sàng trả chi phí cao để được hưởng dịch vụ tốt. Chính vì thế VPBank nên xây dựnh chính sách khách hàng đặc biệt, tập trung chăm sóc để giữ những khách hàng cá nhân quan trọng nhất, có giao dịch lớn đóng góp nhiều cho lợi nhuận ngân hàng. Chính việc này sẽ thu hút thêm khách hàng có khả năng mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng, đồng thời quảng bá thương hiệu và xây dựng hình ảnh đẹp về VPBank, đánh dấu bước chuuyển mô hình hoạtk động theo hướng khách hàng. Đồng thời ngân hàng xây dựng chính sách quản lý rủi ro, quản lý tài sản đảm bảo, đưa ra tiêu chí chấm điểm, xếp hạng tín dụng, đặt hạn mức đối với khách hàng cá nhân. Xây dựng chính sách khách hàng hoàn thiện sẽ tạo điều kiện cho VPBank xây dựng chiến lược lâu dài trong việc cung ứng sản phẩm dịch vụ, thiết kế đổi mới sản phẩm dịch vụ hướng tới đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, đồng thời củng cố “nền khách hàng” bên vững trong tương lai của VPBank. 3.2.2 Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng. 3.2.2.1 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng là rất quan trọng đối với ngân hàng trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, nó giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro, đảm bảo vốn cho vay phải được thu hhồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Trước khi cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng cần tiến hành thẩm định khách hàng về các mặt: tư cách khách hàng, tình hình tài chính có lành mạnh hay không, có nguồn thu nhập ổn định đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng hay không. Việc nâng cao chất lượng công tác kiểm định khách hàng sẽ quyết định ngân hàng có lựa chọn được khách hàng tốt hay không. Để lựa chọn một cách chính xác và khoa học ngân hàng nên tiến hành phân tích và theo dõi khách hàng theo 4 nhóm tiêu thức: tư cách khách hàng và lịch sử quan hệ tín dụng với ngân hàng, phương án sử dụng vốn vay và kế hoạch trả nợ, tình hình tài chính hiện tại và tương lai, tài sản đảm bảo cho khoản vay. Việc thẩm định khách hàng cũng cần có sự phối hợp giữa các bộ phận, phòng ban của ngân hàng để tăng cường thông tin nội bộ, kết hợp trao đổi thường xuyên với các tổ chức tín dụng khác nhằm nắm bắt chính xác thông tin về khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải không ngừng nâng cao trình độ phân tích và thẩm định khách hàng của cán bộ tín dụng. Trình độ và năng lực của nhân viên thẩm định có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác thẩm định khách hàng, qua đó ảnh hưởng tới chất lượng của khoản cấp tín dụng. Do vậy, nâng cao khả năng và trình độ của cán bộ thẩm định là yêu cầu chung không chỉ đối với VPBank mà còn là của hệ thống NHTM Việt Nam. 3.2.2.2 Tăng cường công tác kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Đây là yêu cầu hết sức quan trọng trong việc quản lý khách hàng và các khỏan cấp tín dụng, nhằm mục đích bảo vệ tốt cơ chế tín dụng, ngăn ngừa các hoạt động kinh doanh trái phép, trái pháp luật, các hành vi lợi dụng và lừa đảo… Kiểm tra trước cho vay: Cán bộ tín dụng phải kiểm tra các điều khoản trong hợp đồng tín dụng có được thực hiện đúng hay không, tính khả thi của dự án đầu tư, thẩm định dự án chặt chẽ nhằm loại trừ những chi phí bất hợp lý, kiểm tra về tài sản đảm bảo. Kiểm tra trong cho vay: Ngân hàng phải xem xét khách hàng có sử dụng tiền vay đúng mục đích hay không, nhanh chóng thu thập các thông tin và các tài liệu có liên quan đến những khoản vay của khách hàng như biên bản nghiệm thu, bàn giao dự án, hóa đơn mua bán, kiểm tra tiến độ thực hiện dự án… Kiểm tra sau cho vay: Sau khi giải ngân tiền vay, ngân hàng vẫn phải tiếp tục kiểm tra khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay thông qua tình hình tài chính, tiêu thụ sản phẩm… đồng thời kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch trả nợ của ngân hàng. 3.2.2.3 Đổi mới công nghệ. Để có thể thực hiện thành công chiến lược ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam nói chung và hoạt động tín dụng tiêu dùng nói riêng đòi hỏi VPBank phải đặc biệt quan tâm đến công nghệ ngân hàng, bởi công nghệ là nền tảng để phát triển các dịch vụ ngân hàng. Tuy vậy hệ thống công nghệ hiện nay của VPBank còn rất hạn chế đã ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hệ thống mạng nội bộ của VPBank còn tỏ ra chưa hiệu quả, chưa cập nhật nhanh chóng đã dẫn đến tình trạng khách hàng đã thanh toán gốc hoặc lãi rồi mà máy tính vẫn chưa báo, dẫn đến gây hiểu lầm giữa ngân hàng với khách hàng, khiến cho khách hàng cảm thấy không hài lòng. Bên cạnh đó, công nghệ còn là một biện pháp để tránh cho ngân hàng rơi vào tình trạng lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh so với các đối thủ trên thị trường. Công nghệ hiện đại là một trong những yếu tố quan trọng khi khách hàng nhìn nhận về ngân hàng, đánh giá uy tín về hiêu jquả của mỗi ngân hàng. Trong năm 2006, VPBank sẽ triển khai và tung ra sản phẩm thẻ. Đây là sản phẩm đòi hỏi phải được xây dựng trên nền tảng công nghệ cao. Các sản phẩm dịch vụ thẻ với tính chuẩn hóa, quốc tế hóa cao là những sản phẩm dịch vụ thực sự có khả năng cạnh tranh quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Chính vì thế, việc triển khai thành công dịch vụ thẻ sẽ khẳng định sự tiên tiến về công nghệ của ngân hàng. Hệ thống công nghệ cần phải đáp ứng được những yêu cầu về: Tính quy mô của hệ thống ứng dụng. Tổ chức hệ thống thông tin khách hàng tập trung. Xử lý thời gian thực. Phân định rõ mục đích của yêu cầu giao dịch và quản lý. Tính tác nghiệp của hệ thống. Thông điệp chủân. Mức độ tham số hóa đa nhánh, đa ngoại tệ, mức độ đa dạng của sản phẩm. Đã được kiểm nghiệm thực tế. Vì vậy việc đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng là rất cần thiết có ý quyết định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trên cơ sở đổi mới công nghệ, ngân hàng sẽ rút ngắn được thời gian thực hiện các quy trình nghiệp vụ, xử lý được khối lượng công việc lớn hơn và chính xác hơn, nó là nền tảng để phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới, tăng năng suất lao động… Từ đó đáp ứng được những nhu cầu đa dạng hơn của khách hàng, đồng thời trợ giúp hoạt động quản lý, hạn chế rủi ro trong ngân hàng. 3.2.2.4 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Không thể đạt được sự tiến bộ thực sự về chất lượng tín dụng nếu không có một đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn giỏi. Điều đó đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải có kỹ năng nghiệp vụ giỏi, phải có sự hiểu biết rộng rãi về nhiều lĩnh vực: xã hội, kinh doanh, pháp luật… Muốn có chất lượng tín dụng tốt, đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong thời kỳ đổi mới thì Ngân hàng phải chú trọng ngay từ khi tuyển dụng cán bộ tín dụng, chỉ đưa những người có đủ năng lực để vào làm nghiệp vụ tín dụng. Do đó cần phải có những định hướng, những yêu cầu đúng đắn đối với một cán bộ tín dụng. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng là phải được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường, đặc biệt là trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, cập nhật nhanh những vấn đề thời sự trong ngành ngân hàng, các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng. Phải có đạo đức và sự liêm khiết cao bởi lẽ nếu người cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm, thiếu những hiểu biết cần thiết, đề xuất đầu tư một dự án không hiệu quả, thiếu tính khả thi thì có thể gây ra những tổn thất rất lớn cho ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh của mình VPBank cần coi đây là một đội quân tinh nhuệ nhất, là bộ mặt của ngân hàng, đảm bảo an toàn và tạo ra nguồn thu cho ngân hàng. Vì thế, VPBank cần phải có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực như: Ngân hàng cần tăng cường cử cán bộ, nhân viên tham dự các khóa học về nghiệp vụ ngân hàng, các vấn đề thời sự trong ngành ngân hàng như: Gia nhập WTO – cơ hội và thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, tự do hóa tài chính... Không chỉ có đào tạo trong nước, VPBank cần cử những cán bộ, nhân viên có trình độ, năng lực tham gia các chương trình đào tạo ở nước ngoài cũng như khảo sát về các sản phẩm dịch vụ và hoạt động ngân hàng ở các nước phát triển. Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung thì việc học hỏi và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn của các nước phát triển là điều kiện cần thiết để phát triển hoạt động ngân hàng trong tương lai. Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các cuộc kiểm nghiệm về trình độ và kiến thức của cán bộ tín dụng nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng, phát hiện những cán bộ có năng lực. Ngân hàng cần có những chính sách như kỷ luật, khen thưởng kịp thời để động viên tinh thần làm việc, khuyến khích tinh thần tự học hỏi cà tạo ra động lực làm việc cho cán bộ nhân viên, giữ nhân viên ở lại với mình, tránh tình trạng chảy máu chất xám. 3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 3.3.1 Đối với Chính phủ. Cho vay tiêu dùng là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt trọng nền kinh tế thị trường cho vay tiêu dùng kích thích sản xuất và tiêu dùng. Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng không chỉ là nhiệm vụ của các NHTM mà các cơ quan Nhà nước cấp cao như Chính phủ cần phải có những biện pháp cụ thể khuyến khích, tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển một cách lành mạnh và tốt đẹp. Hiện nay có sự chênh lệch rất lớn trong thu nhập của các tầng lớp dân cư, nhất là giữa khu vực thành thị và nông thôn. Một bộ phận không nhỏ dân cư sống ở nông thôn có thu nhập thấp, khả năng chi trả cho các nhu cầu tiêu dùng rất hạn chế nhưng họ cũng không thể đáp ứng được các điều kiện của ngân hàng để có thể được cấp tín dụng, chẳng hạn như không có tài sản thế chấp đủ lớn...Điều này đã gây ảnh hưởng không tốt cho các ngân hàng mở rộng đối tượng cho vay nhằm mục đích tiêu dùng của mình. Vì vậy, Chính phủ nên có những biện pháp nhanh chóng kịp thời khuyến khích phát triển kinh tế tại các khu vực này, xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện phát triển những ngành nghề truyền thống... Qua đó thúc đẩy kinh tế tại địa phương phát triển, tạo công ăn việc làm ổn định cho dân cư. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tiếp tục củng cố cơ cấu ngành trong nền kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành dịch vụ ... từ đó sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng mức cung hàng hóa dịch vụ tiêu dùng. Đồng thời, những ưu đãi của Chính phủ góp phần làm giảm chi phí hoạt động cho các doanh nghiệp sản xuất, giảm chi phí đầu ra và tạo điều kiện cho dân cư thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng với giá rẻ. Việc xây dựng một hành lang pháp lý thống nhất điều chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng có tác động rất lớn đối với hoạt động này. Hiện nay, hoạt động cho vay tiêu dùng của các NHTM vẫn thực hiện theo quy chế, quy trình nghiệp vụ riêng của từng ngân hàng đã hạn chế ít nhiều đến sự phát triển của mảng hoạt động này. Trong thời gian tới, Chính phủ cần sớm ban hành Luật tín dụng tiêu dùng điều chỉnh thống nhất hoạt động này trong toàn hệ thống NHTM, để hoạt động cho vay tiêu dùng thực sự phát huy những mặt tích cực của nó. 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước. NHNN cần hoạch định chiến lược phát triển chung về hoạt động cho vay tiêu dùng trong toàn hệ thống NHTM. NHNN đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chiến lược chung cho các NHTM thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng nhằm tạo ra sự thống nhất về quản lý và bình đẳng trong cạnh tranh. Hơn nữa, với mục đích chung là phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng, NHNN cần phối hợp hoạt động của các NHTM một cách đồng bộ, tăng cường hợp tác và trao đổi giữa các ngân hàng, tạo điều kiện cùng nhau phát triển. NHNN cần ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể hoạt động cho vay tiêu dùng, trong đó quy định rõ về các sản phẩm cho vay tiêu dùng, quy trình nghiệp vụ thống nhất... từ đó tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và người tiêu dùng. Hơn nữa, nó còn tạo sự chủ động cho ngân hàng, đặc biệt trong việc giải quyết nợ quá hạn. KẾT LUẬN Hoạt động cho vay tiêu dùng còn khá mới mẻ với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên qua những kết quả ban đầu mà nó mang lại đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng như những thành công đã được chứng thực ở ngân hàng của các nước phát triển, chúng ta đã thấy được tiềm năng và triển vọng phát triển của nó. Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành mục tiêu quan trọng hàng đầu của hầu hết các NHTM hiện đại. Mới bắt tay vào thực hiện, các NHTM Việt Nam nói chung và Ngân hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam nói riêng không thể tránh khỏi những bỡ ngỡ, những vướng mắc, khó khăn ban đầu. Nhưng có như vậy, các ngân hàng mới thấy được sự cần thiết phải nỗ lực, phải chuẩn bị về mọi mặt: vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất,... để có thể mở rộng một cách mạnh mẽ và hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn, nên những phân tích mà em đưa ra chắc chắn còn nhiều thiếu xót. Vì vậy, em rất mong sự góp ý, nhận xét của thầy cô, các anh chị cán bộ nhân viên ngân hàng dể chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là thầy giáo – TS Hòang Xuân Quế cũng như sự giúp đỡ của cán bộ Phòng Phục vụ khách hàng cá nhân Chi nhánh Hà Nội ngân hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu. Em xin chân thành cám ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngân hàng thương mại, Trường ĐH KTQD, PGS.TS Lê Thị Thu Hà, NXB Thống Kê, 2004. Quản trị ngân hàng thương mại, Peter Rose, In lần thứ hai tại Việt Nam, ĐHKTQD, NXB tài chính, 2004. Giáo trình Tín dụng ngân hàng, Trường Học viện Ngân hàng Tiền tệ và ngân hàng thương mại, Minski. In lần thứ 14 tại Việt Nam, 2004. Các văn bản pháp luật Tạp chí ngân hàng, các số năm 2005 và đầu năm 2006. Thời báo ngân hàng, các số đầu năm 2006. Báo cáo th ường niên VPBank 2003, 2004, 2005. Bản tin hoạt động VPBank các số năm 2005 và đầu năm 2006 Các Website: www.sbv.gov.vn www.mof.gov.vn www.gso.gov.vn www.vpb.com.vn www.vietnamnet.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36539.doc
Tài liệu liên quan