Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) - Chi nhánh Hoàn Kiếm

Tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) - Chi nhánh Hoàn Kiếm: ... Ebook Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) - Chi nhánh Hoàn Kiếm

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) - Chi nhánh Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Danh mục từ viết tắt VP Bank: Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. VP Bank Hoàn Kiếm: Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Chi nhánh Hoàn Kiếm. NHTM: Ngân hàng thương mại CBNV: Cán bộ nhân viên TCTD: Tổ chức tín dụng TSĐB: Tài sản đảm bảo NHNN: Ngân hàng nhà nước Lời mở đầu Trong hai năm 2004 – 2005, mặc dù phải đương đầu với những khó khăn và thách thức lớn như giá cả biến động mạnh, thiên tai dịch bệnh nghiêm trọng (SARS, cúm gà…) trên diện rộng, nền kinh tế Việt Nam vẫn phát triển với tốc độ cao – GDP bình quân đạt gần 8%. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện đáng kể, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống ngày càng cao, đó là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng nói chung, lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng phát triển. Nếu như ở các nước phát triển, tỷ trọng cho vay tiêu dùng thường chiếm khoảng từ 40 – 50% trên tổng dư nợ thì tỷ lệ này ở Việt Nam mới chiếm khoảng 7% trên tổng dư nợ tín dụng. Qua đó cho thấy, tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện nay và số dân trên 82 triệu người đang mở ra thị trường cho vay tiêu dùng vô cùng rộng lớn và đầy tiềm năng. Tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Chi nhánh Hoàn Kiếm (tên giao dịch là VP Bank Hoàn Kiếm), hoạt động cho vay tiêu dùng trong những năm qua đã không ngừng được mở rộng góp phần cải thiện đời sống của nhân dân. Tuy nhiên sau thời gian học tập, tìm hiểu thực tế tại Chi nhánh VP Bank Hoàn Kiếm em nhận thấy hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng ngày càng gia tăng nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng có thể khai thác. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Chi nhánh Hoàn Kiếm” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Bố cục của Chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận còn có 3 phần: Phần 1: Hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM Phần 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại VP Bank Chi nhánh Hoàn Kiếm Phần 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại VP Bank Hoàn Kiếm. Chuyên đề này được hoàn thành nhờ có sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo PGS. TS Vương Trọng Nghĩa và các Anh chị Phòng Tín dụng Chi nhánh VP Bank Hoàn Kiếm. Em xin chân thành cảm ơn và kính mong được sự góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Chương I: Hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM 1.1. NHTM và các hoạt động 1.1.1 Khái niệm NHTM Ngân hàng - một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Người ta có thể biết đến ngân hàng thương mại với các hoạt động như huy động, cho vay, trung gian thanh toán. Tuy nhiên để có thể có được định nghĩa chính xác về ngân hàng thì có rất nhiều quan niệm khác nhau. Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chúng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp “Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế”. Theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho rằng “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”. Ngân hàng thương mại đã trải qua rất nhiều hình thức song các hoạt động cơ bản của ngân hàng vẫn không thay đổi, bao gồm Hoạt động huy động vốn Hoạt động cho vay Hoạt động thanh toán Một số hoạt động khác 1.1.2 Các hoạt động của NHTM a. Hoạt động huy động vốn Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống còn quan trọng nhất của NHTM. Ở các nước công nghiệp, sự phát triển nhanh của thị trường tài chính đã đem đến nhiều tài sản có lợi tức ổn định và thanh khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt động của ngân hàng trở thành sự cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các ngân hàng ở nước phát triển luôn xuất hiện vấn đề làm sao có đủ vốn cho đầu tư . Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ dựa trên tiền gửi của khách hàng là chủ yếu. Vốn ngân hàng huy động được bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào hay nó đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như NHTW, ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, chính quyền địa phương, vay nước ngoài, doanh nghiệp, dân cư...Chính nguồn vay này đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt động của ngân hàng thương mại. Ngân hàng huy động vốn kinh doanh của mình thông qua việc cung cấp các dịch vụ: tiền gửi thanh toán, tiền gửi kỳ hạn, tiền tiết kiệm... Huy động được vốn rồi, NHTM phải làm gì để hiệu quả hóa những nguồn tài sản này. Hầu hết nguồn hình thành nên tài sản của ngân hàng là vốn vay nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó từng giờ vì vậy để khỏi thiệt hại ngân hàng luôn luôn phải thực hiện các hoạt động đầu tư, cho vay là các tài sản sinh lãi cho ngân hàng. Hoạt động cho vay hay còn gọi là tín dụng là một trong những hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. b. Hoạt động cho vay Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp được chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý... Cho vay là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Để đa dạng hóa hoạt động cũng như tạo ra tính hấp dẫn của dịch vụ cung cấp, ngân hàng đã đưa ra nhiều danh mục cho vay đa dạng. Nếu căn cứ vào thời gian có thể chia tín dụng thành cho vay ngắn, trung, dài hạn. Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê... Theo tài sản đảm bảo cho vốn vay được chia thành cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố và tín dụng không có bảo đảm Nếu theo tính chất rủi ro của hoạt động cho vay, bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Bên cạnh đó có thể phân cho vay thành các hình thức như theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp..), theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định)... Từ cách phân loại trên cho thấy hoạt động cho vay rất phong phú và phức tạp nhiều rủi ro. Để đảm bảo khả năng an toàn cho mình cũng như tiền gửi của khách hàng, đòi hỏi ngân hàng phải đánh giá lợi tức mang lại và những điểm rủi ro của các khoản cho vay và thẩm định mức độ rủi ro, hấp dẫn tương đối giữa các loại cho vay khác nhau. Một hoạt động khác cũng khá đặc trưng của ngân hàng, là điểm để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác là hoạt động thanh toán c. Hoạt động thanh toán Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ thanh toán chi trả lẫn nhau phải dùng hình thức tiền tệ, thanh toán tiền tệ là một yêu cầu khách quan là điều kiện cần nhất để phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội. Thanh toán thường được biểu hiện dưới hai hình thức: - Thanh toán bằng tiền mặt trong đó không có sự xuất hiện của bên thứ ba, tiền đóng vai trò làm phương tiện trao đổi trực tiếp. - Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt với sự có mặt của bên thứ ba là ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán, bao gồm tập hợp các mối quan hệ chi trả tiền tệ được thực hiện bằng cách trích chuyển khoản từ tài khoản của người này sang tài khoản của người khác tại ngân hàng dưới sự kiểm soát của ngân hàng mà không dùng tiền mặt. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ giữ tiền cho khách hàng, cung cấp séc cho khách hàng sử dụng thay vì tiền mặt trong chi trả…với thời gian nhanh chóng, không làm trễ nải ứ đọng tiền của khách hàng. Trong phương thức thanh toán này ngân hàng giúp đảm bảo an toàn việc cất giữ và chi, thu nhanh chóng thuận lợi. Ngân hàng đóng vai trò là nơi tập trung tiền thu góp và phân phát tiền vay mượn và trở thành một cái “chợ tiền” ai đến góp hoặc rút vốn đều thuận lợi. Ngân hàng làm luân chuyển tiền tệ trong không gian và thời gian để sinh lời thông qua việc cung cấp các dịch vụ như: séc, ủy nhiệm chi - ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thanh toán thẻ… Cho đến nay có thể nói ngân hàng là doanh nghiệp cung cấp nhiều dịch vụ nhất, người ta biết đến nó không chỉ là cho vay, là nơi gửi tiền khá an toàn và sinh lợi, hay là hoạt động thanh toán mà còn nhiều hoạt động sinh lời và tiện ích khác nữa. d. Hoạt động khác Bên cạnh hoạt động chính là cho vay, để đảm bảo an toàn và gia tăng thu nhập các ngân hàng tăng cường đa dạng hóa đầu tư thông qua việc đưa ra nhiều dịch vụ mới như: Bảo lãnh, bảo quản tài sản, cho thuê thiết bị trung dài hạn, cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn… Ngân hàng là một doanh nghiệp đa năng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Hệ thống dịch vụ của ngân hàng hiện đại được biết đến với nhiều tiện ích, song cho vay là hình ảnh của ngân hàng khi người ta muốn có vốn để kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu sinh họat. Ngày nay dân chúng biết đến ngân hàng không chỉ là “quĩ vốn” trong kinh doanh mà còn là địa chỉ tin cậy giúp cho các cá nhân và gia đình có được nguồn lực tài chính trong sinh hoạt thông qua dịch vụ cho vay tiêu dùng của ngân hàng. 1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM 1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng Ngay từ thời kì sơ khai dưới hình thức là ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi - thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu là những người giàu nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng. Lúc này các ngân hàng đã nhận thấy được lợi ích to lớn từ các khoản cho vay tiêu dùng và từ đó dịch vụ cho vay tiêu dùng đã có cơ sở phát triển. Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình. Các khoản cho vay là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như mua nhà, mua sắm phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập… trước khi họ có đủ năng lực tài chính để hưởng thụ. 1.2.2 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài trợ chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ…Bên cạnh đó những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch… cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng. Nhìn chung Cho vay tiêu dùng có những đặc điểm như: - Khách hàng vay là cá nhân và các hộ gia đình - Mục đích nhằm phục vụ nhu cầu chi tiêu của cá nhân, hộ gia đình mà không xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay. - Độ rủi ro cao hơn cho vay thương mại, nguồn trả nợ hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập trong tương lai mà người vay dự đoán do đó sức khỏe, tình trạng việc làm của người đi vay luôn luôn tiềm ẩn mang đến rủi ro cho khoản tín dụng (mất việc, tai nạn, mất sức lao động…), bên cạnh đó chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng thường không cao dẫn đến mức độ rủi ro khoản cho vay này cao hơn. - Chi phí cho vay tiêu dùng cao hơn cho vay thương mại: Các khoản vay tiêu dùng thường có qui mô nhỏ (trừ những khoản cho vay mua và sửa chữa nhà) nên chi phí giao dịch lớn (chi phí bố trí cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định, chi phí thu thập thông tin về khách hàng…). - Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn cho vay thương mại, xuất phát từ mục đích của món vay là nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm nên người vay chỉ chú trọng đến độ thoả dụng của việc mua sắm mang lại mà ít chú ý đến lãi suất. Đồng thời do qui mô khoản vay thường nhỏ lẻ nên chi phí cao, độ rủi ro cao hơn do đó lợi tức kỳ vọng khi ngân hàng cho vay tiêu dùng cao hơn cho vay thương mại. Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay tiêu dùng khá cao, xuất phát từ chi phí và rủi ro của cho vay tiêu dùng cao hơn cho vay thương mại. Nguồn trả nợ của khách hàng, món vay tiêu dùng được sử dụng vào nhu cầu tiêu dùng nên nguồn trả nợ độc lập việc sử dụng tiền vay và nguồn này được trích từ thu nhập hàng tháng bao gồm toàn bộ thu nhập của tất cả các thành viên trong gia đình. Nguồn trả nợ của khách hàng có biến động lớn, phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của họ. 1.2.3 Phân loại Căn cứ vào mục đích vay có thể phân loại thành - Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân và hộ gia đình - Cho vay tiêu dùng không cư trú là các khoản vay nhằm phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng, du học, giải trí… Căn cứ vào hình thức có thể chia thành 2 loại (1) Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. Hình thức này ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc khách hàng. Ngân hàng (1) (2) (4) (3) Công ty bán lẻ Người tiêu dùng (1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu… (2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hóa. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. (3) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng, Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ (4) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số đặc điểm: dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay; tiết kiệm và giảm được chi phí khi cho vay; làm cơ sở mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng… Tuy nhiên bên cạnh đó hình thức này cũng có nhược điểm: hình thức cho vay này có độ rủi ro cao do ngân hàng thương mại khi cho vay không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng mà thông qua doanh nghiệp đã bán hàng chịu do đó thiếu sự kiểm soát của ngân hàng (trước, trong và sau khi giải ngân) khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hóa, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng; kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ với hình thức này rất phức tạp. (2) Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau tiến hành cho vay hoặc thu nợ. Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thực hiện qua sơ đồ sau: Công ty bán lẻ Ngân hàng Người tiêu dùng (5) (3) (2) (4) (1) (1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng vay. (2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ. (3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ. (4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. (5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số ưu điểm sau: Khoản vay tiêu dùng từ hình thức này thường có chất lượng cao bởi ngân hàng thẩm định trực tiếp khách hàng khi có nhu cầu vay vốn bằng đội ngũ nhân viên có trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và hệ thống thông tin mà ngân hàng thu thập được ; hình thức này linh hoạt hơn cho vay gián tiếp vì khi quan hệ trực tiếp với khách hàng, ngân hàng dễ dàng xử lý tốt hơn các vấn đề phát sinh…; do đối tượng khách hàng rất rộng nên việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với khách hàng Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay có thể phân loại tín dụng tiêu dùng thành - Cho vay tiêu dùng có cầm cố tài sản, là hình thức mà khoản vay tiêu dùng được đảm bảo bằng tài sản cầm cố. Hình thức này có ưu điểm là ngân hàng nắm giữ trực tiếp được tài sản đảm bảo coi như là nguồn trả nợ thứ hai nếu khách hàng không trả được nợ. Tuy nhiên do tính chất chuyển giao quyền nắm giữ tài sản đảm bảo nên thủ tục phức tạp, ngân hàng phải có kho bãi và người canh giữ làm chi phí cho món vay này tăng lên …do đó hình thức này ít phổ biến. - Cho vay tiêu dùng có thế chấp, tài sản thế chấp có thể hình thành từ vốn vay hoặc tài sản khác. Hình thức này đòi hỏi khách hàng vay tiền phải chuyển các giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu của khách hàng với tài sản đem thế chấp cho món vay cho ngân hàng mà không cần phải giao quyền nắm giữ tài sản cho ngân hàng. Hình thức này có nhiều ưu điểm: ngân hàng không phải trực tiếp quản lý tài sản đảm bảo, khách hàng có thể vẫn vay được vốn mà vẫn sử dụng được tài sản đem thế chấp, thủ tục đơn giản… Tuy nhiên do ngân hàng không trực tiếp quản lý tài sản nên độ rủi ro cao do khách hàng có thể đem tài sản thế chấp đi bán hoặc bảo quản không tốt. Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo thông qua người đại diện (Cho vay tiêu dùng thông qua tín chấp), hình thức này áp dụng với người vay là CBNV có thu nhập ổn định. Theo phương thức này người đại diện là thủ trưởng đơn vị , người có uy tín làm thủ tục vay, nhận tiền vay từ ngân hàng cho người lao động, thu nợ gốc và lãi thay ngân hàng, ngân hàng chỉ làm việc trực tiếp với người đại diện. Ưu điểm nổi bật của cho vay tiêu dùng thông qua tín chấp là vừa đạt hiệu quả kinh tế, vừa đạt hiệu quả xã hội. Về phía ngân hàng, tiết kiệm được nhân công, giảm chi phí đáng kể trong cho vay và thu nợ, hạn chế được rủi ro, bảo đảm thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn, quan trọng hơn là mở rộng được quan hệ và tạo danh tiếng cho mình. Người vay không phải đến ngân hàng, không mất thời gian cho việc làm thủ tục vay và trả nợ, bảo đảm giờ giấc làm việc. Cho vay tiêu dùng thông qua tín chấp là “sợi xích vàng” nối công nhân và doanh nghiệp. Thủ trưởng đơn vị có điều kiện quản lý chặt chẽ hơn nhân viên, đồng thời góp phần thiết thực chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên từ đó gắn kết người lao động với đơn vị mình. Tuy nhiên hình thức này cũng có nhược điểm, do cho vay không có tài sản đảm bảo mà chỉ cần có xác nhận của người đại diện có thẩm quyền nơi công tác nên nhiều người lợi dụng tình trạng quản lý lỏng lẻo của đơn vị xin xác nhận nhiều lần để đi vay ở nhiều nơi gây rủi ro cho ngân hàng. Hạn chế nữa của phương thức này có thể nảy sinh từ người người đại diện lợi dụng quyền lực chiếm đoạt tiền trả nợ của người vay là lí do phương thức cho vay này ít phổ biến. Căn cứ vào phương thức hoàn trả khoản vay, Cho vay tiêu dùng có thể chia làm: (1) Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức Cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc/ và thu nhập từng thời kỳ của người đi vay không đủ khả năng tham gia hết một lần số nợ vay. (2) Cho vay tiêu dùng trả theo định kỳ theo phương thức này tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản Cho vay tiêu dùng trả theo định kỳ chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài. (3) Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là các khoản Cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương pháp này, trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng. Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau: Lãi được tính dựa trên số dư đã được điều chỉnh: Theo phương pháp này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi chu kỳ sau khi khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng. Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo cách này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán. Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân. 1.2.4. Qui trình cho vay tiêu dùng 1.2.4.1 Thủ tục Một khoản tín dụng tiêu dùng được thực hiện thường là sau khi khách hàng phải thực hiện nhiều qui định so với khoản tín dụng khác. Các ngân hàng khác nhau và các khoản tín dụng tiêu dùng ở từng loại khác nhau cũng có những thủ tục cụ thể khác nhau. Do vậy để được vay các cá nhân phải thoả mãn được các qui định này sao cho ngân hàng nắm được những thông tin nhất định và theo một tiêu chuẩn nhất định. Thường thì các thủ tục do các ngân hàng qui định gồm: Đơn xin vay Các tài liệu liên quan tới thông tin về người vay và thuyết minh khoản tín dụng như: - Tài liệu pháp lý: quốc tịch, tuổi, nơi cư trú… - Các tài liệu thông tin: nghề nghiệp, nguồn thu nhập, thu nhập hàng tháng, tình trạng gia đình, học vấn… - Các tài liệu thuyết minh khoản tín dụng: nhu cầu chi phí; mức vốn tự có; nhu cầu tài trợ. Các tài liệu đảm bảo cho khoản tín dụng (nếu có), gồm có các tài liệu minh chứng: tài sản thế chấp, vật cầm cố, cam kết bảo lãnh hoặc các đảm bảo khác như tiền gửi hoặc vàng. 1.2.4.2. Trình tự xét duyệt cho vay Các yếu tố mà ngân hàng xem xét khi đã nhận được các thủ tục hợp lệ: a) Năng lực pháp luật của khách hàng Ngân hàng chỉ thực hiện quan hệ tín dụng tiêu dùng với những cá nhân, khi họ đủ các yếu tố pháp lý. Nghĩa là những cá nhân không thuộc loại sau: Những người vị thành niên: Những người này không cho vay dưới mọi hình thức bởi vì mọi yêu cầu đòi thanh toán đối với họ đều không có giá trị (kể cả trong trường hợp có bảo lãnh) Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang chấp hành án Người rối loạn tâm thần: là những cá nhân không hiểu biết gì về bản chất của giao dịch tín dụng do vậy ngân hàng không cấp tín dụng cho họ. b) Các yếu tố khác Độ tin cậy của người vay. Dựa trên một số tiêu thức để đánh giá: - Hồ sơ quá khứ của khách hàng: cho biết thu nhập và chi tiêu bình quân, thói quen chi tiêu, chất lượng thanh toán séc, quan hệ vay trả, số lượng giao dịch… - Các nhận định thông qua thông tin trao đổi với khách hàng, thông tin qua thủ tục vay hoặc thông tin bên ngoài hay một giới thiệu về khách hàng của người đáng tin cậy cho khách hàng mới. Mục đích tín dụng: khoản tín dụng được cấp cho các mục đích hợp lý. Theo quan điểm của ngân hàng, điều đó mới cho phép khoản vay được hoàn trả và phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng sẽ không tài trợ cho những mục tiêu như: Không hợp pháp, đầu cơ hoặc không nêu được lý do vay mượn Năng lực hoàn trả: đánh giá khả năng trong tương lai người vay có các nguồn tài chính để trả hay không hoặc cao hơn, đánh giá tiềm năng nếu khoản tín dụng có vấn đề xảy ra. Tiêu thức đánh giá: tuổi đời, hoàn cảnh gia đình, số dư tài khoản tiết kiệm, học vấn, nghề nghiệp, sức khoẻ, thu nhập và sự ổn định của thu nhập cũng như khả năng tháo vát của người vay. Các đảm bảo tiền vay: thường được áp dụng đối với các khoản tín dụng tiêu dùng có định kỳ (ứng trước) và đóng vai trò như một nguồn thu nợ có tính bảo hiểm định kỳ. Đảm bảo vững chắc là nhân cách và năng lực hoàn trả của người vay. Các đảm bảo trong tín dụng cá nhân cũng phải mang đầy đủ các thuộc tính như đảm bảo trong tín dụng các công ty và nó có thể bao gồm: Bất động sản: tính pháp lý và giá trị của bất động sản Các chứng khoán Các cam kết bảo lãnh Đảm bảo tiền gửi Các đảm bảo khác Số lượng và kỳ hạn khoản tín dụng Sau khi các yếu tố đã được xem xét, việc cấp tín dụng được tiến hành theo các cách thức tuỳ theo trực tiếp hay gián tiếp đã nêu trên. 1.2.4.3. Theo dõi nợ và thu nợ a) Theo dõi nợ Dưới hình thức nào đi nữa, việc theo dõi khoản tín dụng đã cấp là cần thiết. Quá trình này được tiến hành bằng cách định kỳ (6 tháng hoặc 1 năm 1 lần) hay đột xuất tùy vào biểu hiện từ phía khách vay, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin hoặc trực tiếp kiểm tra. Việc theo dõi này đem lại cho ngân hàng hàng loạt các thông số cần thiết nhằm xử lý kịp thời với từng tình huống khi không quá muộn, đó là: Chất lượng điều hành tài khoản; Sự ổn định về tài chính của người vay; Mục đích cho vay có được chấp hành không; Các đảm bảo; Tiến độ trả nợ; Diễn biến dư nợ trên tài khoản vãng lai; Cần điều chỉnh các mức tín dụng hay không… Khi phát hiện khách hàng cung cấp các thông tin sai lệch hoặc không trung thực ngân hàng có quyền thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ. b) Thu nợ Tùy theo hình thức cấp tín dụng mà quá trình thu nợ diễn ra khác nhau. Các khoản thu bao gồm: tiền gốc, lãi và các chi phí khác liên quan tới dịch vụ ngân hàng (hoa hồng, phí dàn xếp hay cam kết…) Đối với tín dụng theo định kỳ, việc thu nợ được tiến hành theo kỳ hạn ghi trên khế ước; việc tính lãi được thực hiện như một khoản ứng trước tính lãi trên dư nợ gốc. Đối với tín dụng trả góp, được đặc trưng bởi số tiền trả lần đầu 20-30% sau đó dư nợ được trả dần theo các kỳ khoản giống như một khoản tín dụng định kỳ- đây áp dụng các cách tính gốc và lãi trả theo phương pháp trả dần đối với dư nợ 70-80% còn lại. Khi khoản cho vay có vấn đề ngân hàng cần xem xét nguyên nhân của việc không trả được nợ là từ đâu (khách hàng, ngân hàng; thất nghiệp, ốm đau, tai nạn chết, nghĩa vụ quân sự…). Từ đó có các biện pháp xử lý cụ thể tùy thuộc vào nguyên nhân. Thông thường các khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị không lớn người vay có khả năng trả được nên biện pháp thanh lý ít được sử dụng. 1.2.5 Vai trò cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng là dịch vụ đem lại rất nhiều lợi ích cho tất cả các đối tượng tham gia. Đối với NHTM, Cho vay tiêu dùng mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng không thua kém các khoản tài trợ cho thương mại. Trong các tài sản của NHTM thì khoản mục cho vay bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất, ở các nước phát triển thường chiếm tỷ trọng khoảng 60 – 70% và trong đó dư nợ cho vay tiêu dùng thường chiếm tới 40 – 50% là khoản mang lại thu nhập lớn cho Ngân hàng. Cho vay tiêu dùng phát triển góp phần tạo thói quen cho nhân dân khi tiếp cận với các dịch vụ, tiện ích của ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng được coi như là nơi kinh doanh lòng tin của dân chúng. Tín dụng tiêu dùng đáp ứng tốt hơn trong việc thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của khách hàng, từ đó tạo được lòng tin trong dân chúng tạo thói quen cho nhân dân tiếp cận với các dịch vụ tiện ích của ngân hàng. Tín dụng tiêu dùng làm tăng uy tín của ngân hàng đồng thời thúc đẩy tín dụng trung - dài hạn và dịch vụ khác. Mở rộng tín dụng tiêu dùng là hình thức đầu tư giúp ngân hàng đa dạng hoá hoạt động của mình, giảm thiểu rủi ro thông qua đa dạng hoá. Ngân hàng cho vay tiêu dùng tốt giúp mở rộng quan hệ với khách hàng tăng khả năng huy động vốn của ngân hàng… Đối với người tiêu dùng cho vay tiêu dùng giúp cho người tiêu dùng hưởng được các dịch vụ, tiện ích trước khi có đủ nguồn tài chính, đặc biệt trong trường hợp chi tiêu cấp bách như nhu cầu y tế, …thì lợi ích cho vay tiêu dùng càng có ý nghĩa hơn. Cho vay tiêu dùng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, của khách hàng vay, tạo điều kiện cho người dân cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Bên cạnh đó phương thức vay và trả nợ theo hình thức trả góp rất thích hợp với đối tượng khách hàng là người có thu nhập thấp (đặc biệt là đối tượng công nhân viên chức, có thu nhập ổn định). Thông qua đó, người dân có thể tiếp cận vay vốn để mua và sửa chữa nhà cửa, cải thiện cuộc sống cũng như mua sắm đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại như: ti vi, tủ lạnh, xe máy, ô tô… Với kinh tế và xã hội, cho vay tiêu dùng góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của người dân, nâng cao chất lượng cuộc sống góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời là đòn bẩy quan trọng kích thích nền sản xuất phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đặc thù của cho vay tiêu dùng là thủ tục đơn giản, nhanh gọn nên góp phần quan trọng đẩy lùi cho vay nặng lãi góp phần làm lành mạnh các quan hệ tài chính trong xã hội 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng Cho vay tiêu dùng Quan niệm về mở rộng thường được hiểu như khả năng tăng về doanh số, số lượng tức nói đến sự tăng trưởng. Mở rộng Cho vay tiêu dùng là kế hoạch làm tăng doanh số cho vay, tăng tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong Tổng Tài sản có của NHTM là sự đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng về quy mô tín dụng tiêu dùng. Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng và cơ chế ảnh hưởng của các nhân tố đó rất cần thiết. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới có thể thành công trong việc phát triển cho vay tiêu dùng của NHTM. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến qui mô, mức tăng doanh số cho vay tiêu dùng tuy nhiên tựu chung lại bao gồm ba nhân tố cơ bản: - Nhân tố thuộc về khách hàng - Nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng - Nhân tố thuộc về môi trường kinh tế 1.3.1 Các nhân tố thuộc về khách hàng Hoạt động của một ngân hàng nói chung và việc mở rộng cho vay tiêu dùng nói riêng chịu tác động rất lớn bởi các nhân tố thuộc về khách hàng của ngân hàng. Ngân hàng đưa ra các dịch vụ trên cơ sở nhu cầu của khách hàng do đó nếu nhu cầu của khách hàng không có thì hoạt động của ngân hàng sẽ ngừng không thể phát triển được. Trước hết hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng có thể mở rộng hay không phụ thuộc vào quy mô và khả năng tăng trưởng trong nhu cầu vay tiêu dùng từ ngân hàng của khách hàng. Nói như vậy vì nhu cầu này càng lớn hoặc có khả năng tăng trong tương lai thì cho vay tiêu dùng càng có điều kiện mở rộng. Đến lượt nó, quy mô và khả năng tăng trưởng nhu cầu tín dụng tiêu dùng ngân hàng của khách hàng lại phụ thuộc vào những yếu tố sau: Khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng chịu ảnh hưởng bởi quan niệm và sự hiểu biết của khách hàng về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Ở những nước chậm phát triển người dân thường quan niệm đi vay để tiêu dùng là sự biểu hiện của sự túng thiếu hơn là một phương thức bình thường để có được mức sống cao hơn. Do đó họ thường mua sắm dành cho tiêu dùng dựa vào khoản tích lũy được hoặc vay mượn từ bạn bè người thân mà không sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Đây là sự trở ngại ._.rất lớn đối với bất kỳ ngân hàng nào muốn mở rộng cho vay tiêu dùng tại những nơi này. Quy mô nhu cầu khách hàng tiêu dùng những mặt hàng lâu bền, giá trị cao. Phần lớn khách hàng vay tiền ngân hàng là để tài trợ cho việc mua sắm những mặt hàng tiêu dùng lâu bền và giá trị cao vì để có thể mua sắm những mặt hàng này mà không phải mượn, khách hàng thường phải tích luỹ tiền trong một thời gian dài. Do đó, nếu nhu cầu tiêu dùng những mặt hàng này càng lớn thì nhìn chung cho vay tiêu dùng càng dễ mở rộng. Quy mô thu nhập thường xuyên khách hàng.Trong cho vay tiêu dùng, nguồn trả nợ phổ biến là thu nhập thường xuyên của khách hàng, sau khi trừ đi một phần để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu. Thu nhập này có thể dưới dạng tiền lương, tiền công đối với những người đang ở độ tuổi lao hoặc dưới dạng trợ cấp xã hội đối với những đã về hưu. Nhìn chung, thu nhập thường xuyên càng lớn, khả năng trả nợ của khách hàng càng cao, trên cơ sở đó cho vay tiêu dùng càng có điều kiện mở rộng. Hơn nữa, theo các nhà kinh tế học vĩ mô, quy mô thu nhập thường xuyên cùng với của cải tích luỹ được càng lớn thì khách hàng thường có xu hướng lựa chọn tiêu dùng hơn là tiết kiệm. Và như thế quy mô thu nhập thường xuyên không chỉ ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng bằng cách quýêt định khả năng trả nợ của khách hàng mà còn bằng cách ảnh hưởng đến sự lựa chọn của khách hàng giữa tiết kiệm và tiêu dùng. Bên cạnh đó sự lạc quan về tương lai của khách hàng là nhân tố khá quan trọng giúp cho ý định mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng có thể trở thành hiện thực. Bởi vì nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường có xu hướng tăng lên ngay cả trong hiện tại và tương lai nếu khách hàng hy vọng vào thu nhập, công việc của họ theo chiều hướng tốt đẹp trong thời gian tới. Đặc điểm gia đình và hôn nhân như quy mô gia đình, số lượng người trưởng thành, người ăn theo đều ảnh hưởng đến nhu cầu tín dụng tiêu dùng của khách hàng. Gia đình có nhiều người ăn theo thường có nhiêu nhu cầu về các khoản vay tiêu dùng hơn các gia đình khác. Quy mô gia đình lớn thì nhu cầu tín dụng tiêu dùng cũng đa dạng hơn như vay để mua sắm dụng cụ gia đình đắt tiền, vay để mua ô tô, vay để cho đi du học… Đặc điểm nghề nghiệp ảnh hưởng đến loại hình vay tiêu dùng cũng như quy mô và phương thức trả nợ của khách hàng. Những người làm nghề đòi hỏi chuyên môn cao như bác sỹ, luật sư…thường được trả lương cao do đó xu hướng sử dụng vật phẩm xa sỉ cao vì vậy quy mô khoản vay tiêu dùng lớn và thường vay được thông qua thấu chi hoặc thẻ tín dụng. Một nhân tố khác ảnh hưởng không kém đến việc ngân hàng có thể mở rộng cho vay tiêu dùng là phương thức mua sắm hàng hoá của người vay. Một thực tế cho thấy rằng ở các nước sử dụng nhiều tiền mặt để thanh toán, và thường trả ngay thông qua việc tích luỹ đủ tiền mới mua sắm thì quy mô và tốc độ cho vay tiêu dùng của các ngân hàng ở đó rất chậm và ít có cơ hội phát triển. 1.3.2 Nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng Qui mô Cho vay tiêu dùng phụ thuộc rất lớn vào bản thân mong muốn cũng như chính sách mở rộng cho vay tiêu dùng của mỗi ngân hàng, đây là những nhân tố thuộc về chủ quan có vai trò quyết định đến việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Trước hết việc ngân hàng có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng hay không phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của ngân hàng về sự cần thiết và tác dụng của cho vay tiêu dùng. Bởi vì không một ngân hàng nào lại đẩy mạnh phát triển một loại hoạt động nào đó nếu như nó cho rằng hoạt động đó không đem lại lợi ích cho ngân hàng. Điều này cũng đúng đối với hoạt động cho vay tiêu dùng. Hơn nữa một khi ngân hàng đã thấy được tác dụng tích cực của hoạt động cho vay tiêu dùng đối với ngân hàng, thì chắc chắn nó sẽ có phương hướng, chiến lược, chính sách, cũng như biện pháp cụ thể để phát triển hoạt động này kể cả trường hợp việc phát triển này gặp phải những khó khăn thách thức không dễ vượt qua. Hai là tương quan giữa lợi nhuận dự tính từ hoạt động cho vay tiêu dùng và lợi nhuận dự tính từ các hoạt động tài trợ khác. Các nhà ngân hàng có rất nhiều lựa chọn khác nhau trong việc sử dụng nguồn vốn của mình. Để có vốn kinh doanh, ngân hàng phải huy động các nguồn tiền gửi, tiết kiệm của dân cư và phải trả những chi phí nhất định. Do đó vừa đảm bảo có thể trả lãi cho khách hàng vừa đảm lợi nhuận trên cơ sở an toàn và sinh lợi, các ngân hàng muốn cung cấp các khoản vay mang lại tỷ lệ thu nhập dự tính cao nhất sau khi đã tính tới toàn bộ chi phí và rủi ro tổn thất tín dụng. Như vậy một trong những điều kiện quan trọng quyết định việc ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng mà không đầu tư vào hoạt động khác là: lợi nhuận dự tính từ hoạt động cho vay tiêu dùng phải lớn hơn lợi nhuận dự tính từ các hoạt động khác. Xét về mặt chủ quan, lợi nhuận dự tính của cho vay tiêu dùng lại phụ thuộc vào hai yếu tố: Một là thu nhập dự từ hoạt động này dưới hình thức chủ yếu là lãi suất. Hai là khả năng ngân hàng trong việc kiểm soát và hạ thấp chi phí cho vay cũng như ngăn ngừa, hạn chế rủi ro dự tính của hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng tăng giữa các ngân hàng như hiện nay thì lãi suất cho vay thường không do ngân hàng tự quyết định mà nó được xác định ở mức phù hợp với tình hình chung của thị trường tín dụng. Vậy là lợi nhuận dự tính của hoạt động cho vay tiêu dùng chỉ còn phụ thuộc vào yếu tố thứ hai. Tức là, ngân hàng có khả năng giữ chi phí cho vay ở mức hợp lý, hạn chế rủi ro dự tính thì chắc chắn nó sẽ mở rộng cho vay tiêu dùng. Như vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng chính là yếu tố ảnh hưởng đến chi phí và rủi ro của ngân hàng khi cho vay tiêu dùng. Loại hình cho vay tiêu dùng Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại chỉ có thể được mở rộng khi loại hình cho vay tiêu dùng mà nó cung cấp phù hợp với nhu cầu của khách hàng tiềm năng của ngân hàng đó. Tất nhiên, điều này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như trình độ cán bộ ngân hàng, khả năng quản lý, công nghệ ngân hàng…Thông thường một ngân hàng thành công trong việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng có một danh sách các loại hình cho vay tiêu dùng phong phù để khách hàng lựa chọn. Những sản phẩm này còn thường xuyên được biến đổi để đảm bảo khách hàng luôn cảm thấy thoả mãn khi đến giao dịch với ngân hàng. Điều kiện khách hàng phải đáp ứng để có thể vay tiêu dùng từ ngân hàng Cũng giống như hoạt động tín dụng khác, cho vay tiêu dùng đòi hỏi người vay phải thoả mãn một số điều kiện nhất định để có thể vay được từ ngân hàng. Các điều kiện này có ý nghĩa sàng lọc và loại bỏ những khách hàng không có khả năng trả nợ có thể tiếp cận được các dịch vụ của ngân hàng. Nếu điều kiện cho vay được mở rộng thì cơ hội người xin vay được ngân hàng chấp nhận cho vay sẽ lớn hơn, từ đó ngân hàng sẽ cho vay được nhiều hơn. Tuy nhiên, khi điều kiện cho vay được nới lỏng thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro cấp tín dụng cho những người không có khả năng thanh toán nợ như cam kết. Do đó, mở rộng cho vay tiêu dùng có thể được thực hiện bằng cách mở rộng điều kiện cho vay nếu như đi kèm với nó là một cơ chế đảm bảo rằng: lợi ích thu được từ việc cho vay dễ dàng hơn phải lớn hơn những tổn thất ngân hàng phải gánh chịu từ những khoản tín dụng xấu, kém chất lượng Quy mô ngân hàng, thông thường ngân hàng có quy mô lớn thì chi phí huy động vốn sẽ thấp hơn ngân hàng có quy mô nhỏ. Chi phí huy động vốn thấp thì chi phí cho vay tiêu dùng sẽ thấp, lợi nhuận thu được từ cho vay tiêu dùng sẽ lớn hơn, ngân hàng sẽ tích cực cho tiêu dùng hơn. Ngoài ra, vì những ngân hàng quy mô có tiềm lực tài chính mạnh nên có điều kiện áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ, nhờ đó giảm chi phí nhân công, nâng cao năng suất lao động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách quan. Phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng Cán bộ tín dụng có đạo đức và giàu kinh nghiệm luôn là tài sản vô giá đối với mọi ngân hàng. Đạo đức của cán bộ tín dụng ngăn chặn họ không vì lợi ích bản thân mà cho vay đối với những người không có khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, những cán bộ tín dụng giàu kinh nghiệm, giới chuyên môn có thể nhanh chóng xác định nhu cầu và mục đích vay thực sự của khách hàng một cách chính xác. Trên cơ sở đó, cùng khách hàng, đưa ra một hợp đồng tín dụng với những điều khoản vừa chặt chẽ vừa linh hoạt, vừa đáp ứng yêu cầu của khách hàng vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Công nghệ ngân hàng Công nghệ ngân hàng có ảnh hưởng to lớn đến khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng đó. Trước hết, bởi vì công nghệ hiện đại cho phép ngân hàng dùng máy móc thay thế con người, giảm được chi phí nhân công là loại chi phí đắt nhất, từ đó giảm chi phí cho vay tiêu dùng. Hơn nữa công nghệ ngân hàng hiện đại sẽ nâng cao năng suất lao động đẩy nhanh tốc độ giao dịch, tạo nên sự tiện lợi cho khách hàng. Ví dụ, ở những nước phát triển hệ thống tính điểm tín dụng tự động áp dụng đối với khách hàng cá nhân đã giúp cho ngân hàng có thể đưa ra quyết định tín dụng một cách nhanh chóng với chi phí thấp. Công nghệ ngân hàng còn là điều kiện tiên quyết để ngân hàng triển khai những loại hình cho vay tiêu dùng hiện đại, hàm lượng công nghệ cao như cho vay thấu chi, cho vay thông qua thẻ tín dụng. Bên cạnh đó việc áp dụng thành tựu của công nghệ thông tin vào việc theo dõi và quản lý tiền vay có tác dụng to lớn, giảm thiểu chi phí lưu trữ hồ sơ, tạo điều kiện truy vấn thông tin về vốn vay và khách hàng một cách dễ dàng. 1.3.3 Nhân tố thuộc về môi trường Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp đặc biệt rất nhạy cảm với các nhân tố môi trường kinh tế xã hội. Bất cứ một động thái nào của nền kinh tế như khủng hoảng, các chính sách mới…đều ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và hoạt động Cho vay tiêu dùng nói riêng. Môi trường tác động đến nhiều khía cạnh khác nhau của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng như: quy mô, cơ cấu các loại cho vay, mức độ an toàn và lợi nhuận…của Cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên trong phạm vi chuyên đề này, chúng ta chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến khả năng mở rộng Cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Môi trường văn hóa - xã hội Môi trường văn hóa – xã hội là một tập hợp nhiều nhân tố mang tính đặc trưng của từng địa bàn chịu sự chi phối của văn hoá, chính trị, thiên nhiên con người nơi đó. Do đó hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng chỉ có thể tồn tại trong môi trường cho phép nó hoạt động. Môi trường văn hoá xã hội có ảnh hưởng rất lớn đối với việc mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng bởi nhận thức và hành vi của người dân thực sự là sự phản ánh tác động của tập hợp các yếu tố văn hóa – xã hội như lối sống, trình độ dân trí, thói quen, phong tục tập quán…Nhìn chung, rất khó có thể nói hết những ảnh hưởng của yếu tố văn hóa – xã hội tới việc mở rộng cho vay tiêu dùng bởi văn hóa dường như là những yếu tố vô hình chúng có tác động mạnh mẽ đến chúng ta nhưng rất tinh vi, khó nhận biết và định lượng. Tuy nhiên có thể kể ra một số yếu tố cơ bản tác động đến mở rộng cho vay tiêu dùng: Tập quán, thói quen tiêu dùng và tiết kiêm. Ví dụ như: tỷ lệ tiết kiệm của người dân Nhật Bản được xếp vào hàng cao nhất thế giới (30 đến 40% thu nhập quốc dân). Có rất nhiều lý do giải thích tỷ lệ rất cao này nhưng một lý do không thể phủ nhận, theo một nhà kinh tế học, đó là “Người Nhật Bản vốn như thế, họ tiết kiệm và cực kỳ cần mẫn”. Nhật Bản được coi là dân tộc tiết kiệm nhất một phần bởi thiên nhiên khắc nghiệt nghèo nguyên liệu đã tạo cho họ tính cần cù và tiết kiệm hiếm thấy. Ngược lại người Mỹ lại khác, họ chỉ tiết kiệm 10% thu nhập của mình. Do đó, việc mở rộng ở Nhật Bản sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều so với ở Mỹ. Thói quen tiêu dùng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng, bởi người dân thường quan niệm chi tiêu khi nào và trong khả năng có thể thanh toán được ngay hoặc nợ các đại lý bán hàng chứ ít khi nghĩ đến việc đi vay mượn trả lãi ngân hàng để mua sắm, ở những nơi đó tín dụng tiêu dùng cũng khó có cơ hội để phát triển. Quan niệm về ngân hàng: xa lạ hay thân thiết, an toàn tiện lợi hay không an toàn nhiều thủ tục phiền hà. - Cách sử dụng các dịch vụ ngân hàng: Các dịch vụ của ngân hàng có đặc điểm là liên quan hỗ trợ cho nhau, việc sử dụng một loại dịch vụ thường làm phát sinh nhu cầu sử dụng loại dịch vụ khác. Về cho vay tiêu dùng, nếu người dân có thói quen gửi tiền ở ngân hàng và sử dụng thẻ thanh toán thì nhu cầu vay tiêu dùng sẽ lớn, nhất là vay tiêu dùng dưới hình thức thấu chi… Môi trường nhân khẩu học Cơ cấu tuổi của dân cư có tác động đến cơ cấu, loại hình cho vay tiêu dùng đến khả năng có thể mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Bởi dân cư ở các độ tuổi khác nhau có nhu cầu vay tiêu dùng khác nhau. Đối với nhóm dân cư trẻ là độ tuổi đang ở giai đoạn đầu của quá trình tích lũy nên của cải tích lũy được chưa nhiều, kinh nghiệm làm việc còn ít, thu nhập chưa cao, hay thay đổi nơi ở và việc làm, tính ổn định của thu nhập thấp, thu nhập thường xuyên khó xác định. Độ tuổi này có nhu cầu vay tiêu dùng lớn tuy nhiên các món vay thường có quy mô nhỏ và hình thức phổ biến là vay qua thẻ tín dụng. Đối với nhóm dân cư trung niên: Nhu cầu vay tiêu dùng của họ rất lớn để mua nhà, cho con đi du học…Quy mô món vay lớn do họ đã tích lũy được nhiều của cải, kinh nghiệm làm việc nhiều năm, thu nhập cao và ổn định do đó ngân hàng có thể cho vay với quy mô lớn, hình thức vay đa dạng (vay mua nhà trả góp, vay mua ô tô thế chấp bằng chính chiếc xe hình thành từ vốn vay, vay hỗ trợ du học…). Đối với nhóm dân cư lớn tuổi: Nhu cầu tín dụng tiêu dùng giảm dần do người già thường ít sử dụng tín dụng và thực hiện hoàn trả toàn bộ số nợ còn lại. Rõ ràng cơ cấu tuổi của dân cư đặc biệt là dân cư tại địa bàn nơi ngân hàng đóng trụ sở có ảnh hưởng rất lớn đối với việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng chỉ mở rộng cho vay tiêu dùng một cách thành công khi tìm hiểu kỹ nhu cầu của dân cư từ đó có những chính sách cho vay phù hợp. Ví dụ, đối với địa bàn mà dân số có xu hướng trẻ như khu đô thị tập trung nhiều xí nghiệp, trường đại học, khu chung cư…ngân hàng có thể dễ dàng có được các khoản cho vay tiêu dùng. Ngoài ra những thay đổi trong dân số như tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc dân số theo nghề nghiệp, sự di cư…đều dẫn tới sự thay đổi trong nhu cầu cho vay tiêu dùng, do đó ảnh hưởng đến sự mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế và sự biến động của nó có thể tạo ra cơ hội cũng như những thách thức đối với ngân hàng trong việc mở rộng Cho vay tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng làm cho độ thỏa dụng của con người trước các vật phẩm cao hơn vì thế nó có cơ hội để mở rộng đặc biệt ở các nước phát triển Hay nói cách khác, kinh tế ở giai đoạn hưng thịnh, tăng trưởng thường khiến người dân lạc quan hơn, và do đó đi vay tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, khi nền kinh tế sa sút, lạm phát tăng cao, thất nghiệp gia tăng khiến cho người dân có tâm lý tiết kiệm nhiều hơn là tiêu dùng, nhu cầu vay tiêu dùng giảm sút. Để tuân thủ những quy chế pháp luật về cho vay tiêu dùng, ở những nước phát triển các ngân hàng phải xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ hết sức phức tạp. Như thế, việc thực hiện quy chế gây rất nhiều chi phí cho ngân hàng. Tuy nhiên nếu không tuân thủ thì có thể còn dẫn tới việc cán bộ lãnh đạo vi phạm pháp luật khi không tuân thủ quy chế cho vay tiêu dùng hình thức nhẹ dẫn đến doanh nghiệp có thể thua lỗ lớn là nguy cơ dẫn tới việc phá sản, hoặc có thể ngân hàng phải đóng cửa. Môi trường pháp luật Bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào cũng chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nơi doanh nghiệp đó đóng trụ sở. Sự mở rộng cho vay tiêu dùng chịu ảnh hưởng của các đạo luật, các quy định của Chính phủ. Chính phủ có thể nới lỏng hoặc thắt chặt những quy định pháp lý đối với hoạt động của NHTM trong việc cho vay tiêu dùng. Điều này có thể gây trở ngại cho việc phát triển cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Hơn thế nữa, để mở rộng cho vay tiêu dùng ngân hàng phải nắm được những quy định của pháp luật về cho vay tiêu dùng, đồng thời phải thường xuyên cập nhật thông tin về những thay đổi trong những quy định đó để điều chỉnh hoạt động cho vay tiêu dùng cho phù hợp với những quy định mới. Quan trọng hơn, ngân hàng cần phân tích và dự báo chiều hướng thay đổi của môi trường pháp luật. Môi trường khoa học, công nghệ Tiến bộ khoa học kỹ thuật giúp ngân hàng hạ thấp chi phí hoạt động tạo điều kiện thuận lợi cho việc chào bán các sản phẩm tín dụng tiêu dùng. Các tiến bộ kỹ thuật còn tạo thuận lợi cho khách hàng của ngân hàng trong việc vay và trả tiền, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng phát triển thêm được nhiều sản phẩm cho vay tiêu dùng mới mà khách hàng tin cậy. Ví dụ, thẻ tín dụng chỉ có thể phát triển vào cuối năm 1960 với hai chương trình thẻ tín dụng Bank Americard và Master Card khi kỹ thuật computer được cải thiện, giảm chi phí các dịch vụ thẻ tín dụng, mang lại lợi nhuận cho các ngân hàng phát hành thẻ đồng thời lúc đó nghiệp vụ cho vay tiêu dùng thông qua thẻ tín dụng mới phát triển. Chương II. Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại VP Bank Chi nhánh Hoàn Kiếm 2.1 Tổng quan về Chi nhánh Hoàn Kiếm 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Tiền thân của chi nhánh Hoàn Kiếm là phòng giao dịch I, như đứa con đầu lòng của VP Bank Hội sở tách ra ở riêng và hoạt động tại 89 Đinh Tiên Hoàng từ ngày 24/10/1994. Với địa điểm ở trung tâm thương mại, kinh tế, du lịch của quận Hoàn Kiếm và Hà Nội, phòng giao dịch I đã hoạt động và thu hút khá đông khách hàng trong nước và ngoài nước. Đội ngũ nhân viên chỉ có 4,5 người đã làm việc gắn bó, tâm huyết với VP Bank từ ngày đầu thành lập Phòng đến nay. Tinh thần phục vụ khách hàng rất tận tình, cởi mở nên được khách hàng tin tưởng. Phòng đã thu hút được khách hàng không chỉ ở Hà Nội mà ở các tỉnh xa đến giao dịch khá đông, có thời kỳ số khách hàng tới giao dịch hơn 2000 người với số tiền huy động là 70 tỷ đồng, là phòng giao dịch huy động khá lớn của VP Bank. Khách nước ngoài đến đổi tiền tệ, thanh toán séc giao dịch, VISA CARD khá tấp nập, không khí làm việc giữa các nhân viên trong phòng rất chan hoà, đoàn kết, gắn bó với nhau, và với VP Bank đã tạo nên sức mạnh để khắc phục những khó khăn về đời sống và điều kiện vật chất, nơi làm việc chật hẹp, tiện nghi thiếu thốn. Ngay cả lúc VP Bank khó khăn nhất phòng Giao dịch I vẫn duy trì được nhiều khách hàng truyền thống đã gắn bó với VP Bank trong 9 năm qua. Sự kiện 2003, VP Bank lấy lại được lòng tin của Ngân hàng Nhà nước và của nhân dân thông qua khắc phục hậu quả của những năm 1996 - 1997 để lại và không ngừng lớn mạnh. Nợ qúa hạn đã giảm với tỉ lệ đáng kể, L/C trả chậm đã thanh toán triệt để, số dư tín dụng lành mạnh đã tăng lên một cách rõ rệt, các nghiệp vụ ngân hàng được phát triển đa dạng và phong phú hơn. Lợi nhuận của các năm tăng dần, nhất là năm 2002-2003, điều đó chứng minh sức mạnh đoàn kết, thống nhất của tập thể cán bộ nhân viên trong toàn hệ thống VP Bank. Sự phát triển chung của VP Bank đòi hỏi tất cả các cơ sở hoạt động phải được cải thiện, mở rộng khang trang, đàng hoàng hơn. VP Bank Hoàn Kiếm ra đời là một tất yếu của sự chung đó và cũng là sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Từ địa điểm 99 Đinh Tiên Hoàng, phòng GD I chuyển đến 24B Tông Đản cùng nằm trong quận Hoàn Kiếm. Trong ba tháng hoạt động tại 24B Tông Đản chi nhánh Hoàn Kiếm đã tạo được niềm tin cho khách hàng cả cũ và mới. Khi khách hàng đến gửi tiền hay đến vay vốn đều được nhân viên chi nhánh tận tình phục vụ tạo không khí thoải mái, dễ chịu. Vì thế có nhiều khách hàng cũ đã già, về hưu ở các quận khác trong thành phố vẫn tìm đến gửi tiền và giao dịch các nghiệp vụ khác, điều đó đã nói lên trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng ra sức quảng cáo tiếp thị với nhiều biện pháp đa dạng khuyến mại, lãi suất. Song ở đâu tinh thần phục vụ tốt, đạo đức nghề nghiệp được tôn trọng, giữ được lòng tin đối với khách hàng đến giao dịch thì ở đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng. Chính vì thế, tuy là địa điểm mới, thời gian hoạt động chưa dài, Phòng giao dịch Hoàn Kiếm có số dư huy động vốn không những không giảm mà còn tăng lên rõ rệt so với trước khi chuyển đến 24B Tông Đản. Để nâng cao khả năng hoạt động cả về cơ sở vật chất cũng như trình độ nghiệp vụ của cán bộ và nhân viên của phòng Giao dịch Hoàn Kiếm, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc kí quyết định nâng phòng Giao dịch Hoàn Kiếm lên thành chi nhánh cấp II vào ngày 13/8/2003. Là một Chi nhánh hoạt động có uy tín đồng thời với địa điểm hoạt động khá thuận lợi: nhiều khách du lịch nước ngoài, nhiều tổ chức quốc tế đóng trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm do đó rất thuận lợi để các Ngân hàng phát triển, đến nay VP Bank Hoàn Kiếm cung cấp tất cả các dịch vụ mà một ngân hàng được phép theo qui định của NHNN Việt Nam qui định. Các chức năng hoạt động chủ yếu của VP Bank Hoàn Kiếm bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguốn vốn của ngân hàng. Kinh doanh ngoại hối Dịch vụ thanh toán Quốc tế Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng. Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền chuyển tiền trong nước và Quốc tế. Các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 2.1.2 Tổ chức bộ máy Chi nhánh VP Bank Hoàn Kiếm Là một chi nhánh cấp II mới được nâng cấp chưa lâu, bộ máy tổ chức của chi nhánh được tổ chức gọn nhẹ, độc lập, phân cấp rõ ràng phục vụ đắc lực cho Giám đốc quản lý Chi nhánh. Theo đó, tổ chức bộ máy của Chi nhánh tổ chức theo mô hình trực tuyến: Phòng giám đốc Phòng giao dịch Kho quỹ Phòng tín dụng Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức bộ máy Chi nhánh Mô hình tổ chức trên đã cho phép Chi nhánh quản lý được nhân viên một cách hiệu quả nhất trên cơ sở độc lập của các Phòng ban, là nhân tố chủ chốt giúp cho Chi nhánh hoạt động hiệu quả. 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh Kể từ khi trở thành chi nhánh cấp II, VP Bank Hoàn Kiếm đã có những bước tiến đáng kể: Đến cuối tháng 10 năm 2003, số dư nợ là 37,6 tỷ đồng, tăng so với số dư nợ của phòng giao dịch I trước khi sang 24B Tông Đản 28 tỷ đồng. Số dư huy động vốn đạt 71 tỷ đồng tăng so với số dư trước ngày 14/7/2003 của phòng giao dịch I là 11,5 tỷ đồng. Số lượng khách hàng mở tài khoản gửi tiền thanh toán cũng đã tăng lên từ chỗ ở phòng GD I chỉ có hơn 10 khách hàng với số dư trên dưới 500 triệu đồng (trừ tài khoản tiền gửi của công ty vàng bạc đá quý Hà Nội) đến nay khách hàng mới mở tài khoản tiền gửi thanh toán là trên 40 người với doanh số 5 tỷ đồng với số dư cuối tháng 10 năm 2003 là 2,6 tỷ đồng, tuy chưa cao nhưng cũng đã có sự tăng trưởng rõ rệt. Những kết quả hoạt động trong 03 tháng qua của chi nhánh mới chỉ là bước đầu khiêm tốn. Song với sự nhiệt tình tâm huyết và sự đoàn kết thống nhất trong việc chỉ đạo và thực hiện công tác chuyên môn, toàn thể anh em cán bộ trong chi nhánh quyết tâm phấn đấu thực hiện kế hoạch của Ban tổng giám đốc giao. Phát huy kết quả đạt được trong suốt những năm qua, VP Hoàn Kiếm đã không ngừng vươn lên đến nay đã đạt được những kết quả đáng kể. Trong suốt hai năm 2004 – 2005, mặc dù phải đương đầu với những khó khăn và thách thức lớn như giá cả biến động mạnh, thiên tai dịch bệnh nghiêm trọng (SARS, bệnh cúm gà…) trên diện rộng, nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng với tốc độ cao. Mức tăng trưởng GDP 7,6% trong năm 2004 và 8,4% năm 2005 – là mức cao nhất trong vòng 7 năm qua và cùng là mức cao nhất so với bình quân của thế giới. Trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cũng đã và đang tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các đề án cơ cấu lại hoạt động của NHNN và các NHTM theo hướng tăng cường cơ chế giám sát từ xa. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống các TCTD nhắm ổn định tiền tệ, hỗ trợ phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD hội nhập kinh tế quốc tế. Trong năm 2005, do chỉ số giá tiêu dùng tăng cao theo đà của năm 2004, chỉ tiêu lạm phát không đạt được mục tiêu do Quốc hội đề ra, nên NHNN đã có những biện pháp ổn định tỷ giá và thắt chặt tín dụng, như tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cơ bản (lãi suất cơ bản không có bất cứ tác dụng trực tiếp nào, nhưng có thể coi như tín hiệu buộc các ngân hàng quốc doanh hạn chế tăng lãi suất huy động). Tuy nhiên trong một chừng mực nhất định, các NHTMCP lại được hưởng lợi từ tình trạng này do chênh lệch đầu ra - đầu vào được cải thiện hơn trước. Hoạt động huy động vốn Huy động vốn là một hoạt động được VP Bank Hoàn Kiếm đặc biệt quan tâm trong những năm qua. Trong khu vực dân cư, VP Bank Hoàn Kiếm đã thực hiện liên tiếp 3 đợt huy động vốn có bốc thăm trúng thưởng theo chỉ đạo của Ban giám đốc chi nhánh Hà Nội, được người gửi tiền nhiệt tình hưởng ứng. Đặc biệt trong dịp cuối năm 2004 đầu năm 2005, hình thức huy động mới “tiết kiệm VND được bù trượt giá USD” đã được áp dụng tại chi nhánh. Sản phẩm này đáp ứng được tâm lý của khách hàng e ngại sự mất giá của VND so với USD nhưng lại muốn hưởng lãi suất cao của tiền VND. Nhờ vậy kết quả huy động vốn đạt được khá cao. Trong những năm qua mặc dù gặp khó khăn trong việc huy động vốn, do sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, sự thay đổi trong chính sách tiền tệ trong nước và thế giới liên tục biến động…Song Chi nhánh đã làm tốt chính sách khách hàng,cải tiến phong cách phục vụ thuận lợi, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu tiền gửi của nhân dân và các tổ chức kinh tế, vì vậy nguồn vốn liên tục tăng trưởng Bảng 1. Tình hình huy động vốn của VP Bank Hoàn Kiếm Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2004 Năm 2003 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng nguồn vốn huy động (triệu VND) 110,000.0 100% 100,229 100% 98,562.0 100% Tổng huy động trên thị trường I (triệu VND) 110,000.0 100% 100,229 100% 98,562.0 100% Tiền gửi tiết kiệm(triệu VND) 108,000.0 98.2% 95,274 95% 92,649 94% Tiền gửi thanh toán (triệu VND) 2,000.0 1.8% 4,955 5% 5,913 6% Tổng huy động trên thị trưởng II và tiền gửi khác - - - Nguồn: Phòng Giao dịch – Ngân quĩ VP Bank Hoàn Kiếm Huy động vốn năm 2005 tăng 11,6% năm 2003, năm 2004 tăng 2% so với năm 2003, tốc độ tăng trưởng bình quân vốn trong 3 năm là 7%. Về cơ cấu nguồn vốn, Tỉ trọng nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán chiếm 100% tổng nguồn vốn huy động được của Chi nhánh, nguồn từ thị trường II Chi nhánh đã không khai thác được trong những năm qua. Tiền gửi tiết kiệm vẫn là phương thức huy động vốn chủ yếu của Chi nhánh. Bên cạnh đó tiền gửi thanh toán là nguồn vốn rẻ nhất trong mấy năm vừa qua lại có xu hướng giảm, năm 2003 chiếm 6% nguồn vốn huy động được thì đến năm 2004 là 5% và con số này năm 2005 chỉ còn là 2%. Hoạt động tạo vốn là cơ sở để tiến hành hoạt động kinh doanh thì một hoạt động khác cũng không kém phần quan góp phần đưa Chi nhánh trở thành một trong những chi nhánh cấp II xuất sắc hoàn thành trong những năm qua đó là hoạt động tín dụng hay cho vay. Hoạt động cho vay Hoạt động cho vay vẫn luôn là hoạt động chủ yếu đem lại nguồn thu cho ngân hàng. Hai năm 2004- 2005 là năm tình hình đầu tư trong nước có phần chững lại, đặc biệt là hoạt động kinh doanh bất động sản lâm vào tình trạng khủng hoảng, nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Cùng chung bối cảnh đó, VP bank nói chung và chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng cũng gặp không ít khó khăn trong hoạt động cho vay của mình. Tuy nhiên bằng nhiều giải pháp tổng thể được áp dụng chung cho toàn hệ thống như tăng cường đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên, nâng cao chất lượng nghiệp vụ nhằm rút ngắn thời gian phục vụ khách hàng, tăng cường tiếp thị, quảng bá hình ảnh của mình nên Chi nhánh cũng đã đạt được mức tăng trưởng tín dụng tương đối khả quan: Bảng 2. Tình hình hoạt động cho vay của VP Bank Hoàn Kiếm Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1 Doanh số cho vay 59.000 75.000 82.000,0 2 Doanh số thu hồi nợ 13.000 55.500 84.000 3 Dư nợ cuối năm 52.500 72.000 70.000 4 Trong đó: Dư nợ trong hạn 52.500 72.000 1.400 Nguồn số liệu: Phòng Tín dụng VP Bank Hoàn Kiếm Doanh số cho vay của Chi nhánh năm 2005 là 82,000.0 triệu đồng tăng 38.9% so với năm 2003, năm 2004 là 75.000 triệu tăng 27.1% so với cùng kỳ năm trước. Về thời hạn cho vay, chủ yếu tập trung ở các món vay trung và dài hạn. Cơ cấu cho vay theo thời hạn được thể hiện trên đồ thị sau: Thu nhập thuần từ tiền lãi năm 2005 đạt được 2.531,8 triệu đồng tăng 12% so với năm 2003. Tổng dư nợ năm 2005 là 70.000 triệu đồng, so với kế hoạch được giao đạt 93%. Dư nợ tăng với tốc độ chậm do Chi nhánh chủ trương chọn lọc khách hàng, chỉ đầu tư cho vay đối với khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ ngân hàng. Mặt khác, do Chi nhánh tập trung trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng là chủ yếu, hoạt động này phụ thuộc rất nhiêu vào chu kì chi tiêu cũng như thu nhập của khách hàng nên Chi nhánh chủ trương thận trọng trong cho vay ở khối này và tập trung thu hồi nợ. Như đúng với chức năng của một ngân hàng thương mại, VP Bank Hoàn Kiếm đã cho vay đối với mọi thành phần kinh tế với những mục đích sử dụng vốn vay theo qui định của nhà nước. Song trong định hướng phát triển, VPBank đã coi tín dụng tiêu dùng là thị trường mục tiêu của mình. Do đó doanh số cho vay trên toàn hệ thống nói chung và VP Hoàn Kiếm nói riêng cho vay tiêu dùng luôn chiếm tỷ trọng khá cao. Đến ngày 31/12/2005 tỷ trọng cho vay tiêu dùng của Chi nhánh đạt 98% tăng 2.5% so với cùng kỳ năm trước và tăng 5% so với năm 2003 Bảng 3. Cơ cấu cho vay theo mục đích sử dụng vốn vay Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Doanh số cho vay Dư nợ Doanh số cho vay Dư nợ Doanh số cho vay Dư nợ Cho vay các tổ chức kinh tế 59,000 52,500.0 75,000 72,000 82,000.0 70,000.0 I Cho vay tiêu dùng 54,870 51,450 71,625 70,560 80,360 67,900.0 II. Cho vay SXKD 4,130 1050 3,375 1,440 1,640 2,100.0 Nguồn: Phòng Tín dụng Chi nhánh VP Bank Hoàn Kiếm Hoạt động thanh._. ưu thích. Do hàng loạt rào cản gây nên tâm lý này: Vay để tiêu dùng chỉ khi túng quẫn, họ không thích hưởng thụ trong khi vẫn còn gánh nặng nợ nần dù rằng trong tương lai thu nhập của họ có thể đáp ứng khả năng chi trả, sự khó tiếp cận với cán bộ ngân hàng…Do đó để mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng cán bộ tín dụng phải thay đổi quan niệm sai lầm đó bằng thái độ nhiệt tình, chu đáo, tôn trọng khách hàng và làm việc đúng nguyên tắc. Đồng thời phải tạo dựng hình ảnh VP Bank năng động trẻ trung thông qua cách ăn mặc, cử chỉ, lời nói và khả năng giải quyết các thủ tục cho khách hàng, phát triển một số loại hình dịch vụ bổ trợ cho hoạt động cho vay tiêu dùng như thành lập trung tâm môi giới, tư vấn về bất động sản…giúp người vay có thể yên tâm khi họ sử dụng dịch vụ của mình. Thực hiện được tương đối tất cả các yếu tố trên, hình ảnh của VP Bank Hoàn Kiếm chắc chắn sẽ có chỗ đứng trong lòng dân chúng. 3.2.2. Đẩy mạnh việc triển khai phương thức cho vay tiêu dùng trả góp tại VP Hoàn Kiếm. Ngay từ ngày mới đi vào hoạt động và cung cấp dịch vụ cho vay tiêu dùng, VP Hoàn Kiếm tiên phong trong việc cho vay tiêu dùng trả góp và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Song thị phần cho vay tiêu dùng trả góp VP Hoàn Kiếm có được là rất nhỏ so với tiềm năng thị trường. Theo như nhận định của Phòng Tổng hợp tại Hội sở chính VP Bank thì những năm tới, tỷ lệ dân số đô thị trong tổng dân số cả nước sẽ tăng rất nhanh, từ 22% năm 1999 lên khoảng 45% năm 2020 (theo kế hoạch Tổng thể định hướng cho phát triển đô thị đến năm 2020). Sự phát triển nhanh chóng của dân số tại đô thị đặt ra một sức ép ngày càng lớn về vấn đề nhà ở. Trong số hộ gia đình có thu nhập cao ở thành thị, có tới 70% gia đình hàng tháng đạt từ 1.1 triệu đồng đến 4.5 triệu đồng, bình quân vào khoảng từ 220.000 đến 990.000 đồng/người/tháng. Số hộ được xếp vào trong nhóm có thu nhập thấp chiếm khoảng 45% tổng số hộ gia đình tại đô thị. Trong khi đó nhu cầu nhà ở đối với người dân cư trên địa bàn Hà Nội rất lớn, song chủ yếu tập trung ở đối tượng là cán bộ công nhân viên có thu nhập ổn định song không cao, và người dân có thu nhập thấp. Nhu cầu vốn cho nâng cấp, xây nhà mới của cá hộ gia đình là rất lớn, trong khi khả năng tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của họ còn hạn chế. Điều này đòi hỏi các ngân hàng mà cụ thể là VP Bank Hoàn Kiếm cần đẩy mạnh phát triển hình thức cho vay mua nhà trả góp… Bên cạnh đó, hoạt động cho vay tiêu dùng trả góp sẽ mang nhiều lợi nhuận cho VP Bank Hoàn Kiếm hơn bởi các khoản cho vay trả góp thường cao hơn so với các khoản cho vay khác. Nếu lãi suất cho vay trả góp dựa trên toàn bộ số dư ban đầu thì lãi suất thực tế cho vay trả góp sẽ cao hơn lãi suất danh nghĩa do các khoản trả nợ làm giảm dần số dư nợ hàng tháng những lãi phải trả vẫn được tính dựa trên số dư ban đầu. 3.2.3 Phát triển thêm nhiều dịch vụ cho vay tiêu dùng mới Hiện tại dịch vụ cho vay tiêu dùng của Chi nhánh mới chỉ tập trung đáp ứng các nhu cầu truyền thống. Trong thời gian tới Chi nhánh có thể mở rộng thêm các dịch vụ mới như cho vay mua xe máy đắt tiền, vay đi du lịch, vay nhằm đáp ứng các nhu cầu y tế, hỗ trợ tài chính du học… Thời gian sắp tới khi Việt Nam gia nhập WTO, hàng hoá ngoại nhập vào thị trường trong nước chắc chắn sẽ lớn, Chi nhánh cũng có thể mở rộng dịch vụ cho vay tiêu dùng theo hướng cho vay mua sắm các sản phẩm điện tử ngoại nhập, xe máy nhập khẩu. Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng gián tiếp, hiện nay các ngân hàng trong nước nói chung và VP Bank Hoàn Kiếm nói riêng đang chú trọng cho vay tiêu dùng trực tiếp. Họ coi khoản cho vay theo phương thức này an toàn hơn, đây là điều không hoàn toàn chính xác. Có nhiều người có nhu cầu mua sắm song họ ngại phải đến các ngân hàng hoặc không có thời gian để đến các ngân hàng thường xuyên do khách hàng có nhu cầu vay phục vụ cho mục đích tiêu dùng thường là người có thu nhập vừa và cao, vì vậy để mở rộng cho vay tiêu dùng ngân hàng cần có chính sách phù hợp để thu hút lượng khách hàng tiềm năng này. Hiện nay VP Bank Hoàn Kiếm đã thiết lập được mối quan hệ với các hãng bán xe như Toyota Giải phóng, Ford, ISUZU, MISHUBISHI, MESCEDES BENZ, VIDAMCO…để tài trợ cho các khách hàng có nhu cầu mua xe. Tuy nhiên sự tài trợ của Chi nhánh còn khá hẹp, chủ yếu trong lĩnh vực bán ô tô, còn lại trong các lĩnh vực khác thì hầu như chưa có. Mở rộng cho vay mua sắm trang thiết bị nội thất đắt tiền Theo phân tích của Phòng Tổng hợp và phân tích kinh tế nhu cầu mua nhà ở khu chung cư trong một vài năm tới là rất nhiều, do đó mặt hàng tiêu dùng trang thiết bị nhà ở khu chung cư trong thời gian tới là rất lớn. Vì vậy, VP Bank Hoàn Kiếm cần có kế hoạch mở rộng phạm vi hoạt động trên các phân đoạn thị trường mới này. Cho vay tiêu dùng thông qua thẻ tín dụng, tài khoản cá nhân Phát triển dịch vụ cho vay tiêu dùng thông qua tài khoản cá nhân, thẻ tín dụng. Trong đó, khuyến khích khách hàng vay tiêu dùng mở và giao dịch bằng tài khoản của ngân hàng. Thực hiện cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo đối với CBNV Để hướng tới mục tiêu đa dạng hoá loại hình cho vay tiêu dùng, thu hút ngày càng nhiều khách hàng có chất lượng tín dụng tốt, từ đó làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng, đồng thời để khắc phục tình trạng bất hợp lí trong cơ cấu cho vay tiêu dùng của Chi nhánh thì việc phát triển loại hình cho vay tín chấp đối với CBNV thông qua người đại diện cần phải được Chi nhánh đặc biệt chú trọng trong thời gian tới. VP Bank Hoàn Kiếm nên xem xét giải pháp cho vay tiêu dùng thông qua người đại diện trên cơ sở xác định rõ ràng trách nhiệm và quyền lợi của các bên (ngân hàng - đại diện của bên vay - người trực tiếp vay) cũng như việc phối hợp chặt chẽ giữa các bên trong quá trình thẩm định, cho vay, giải ngân và thu nợ. Để có thể áp dụng phương thức này VP Bank Hoàn Kiếm cần xây dựng thành quy trình gồm các bước cụ thể, chặt chẽ và thu thập đầy đủ các thông tin về tình hình sản xuất – kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp mà Ngân hàng định ký kết hợp đồng, tránh tình trạng người đại diện lợi dụng quyền lực chiếm đoạt tiền trả nợ của người vay gây ảnh hưởng xấu đến thu nhập và uy tín của ngân hàng. Giải pháp cho vay tiêu dùng thông qua người đại diện có thể thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Ngân hàng tổ chức họp hội nghị khách hàng gồm thủ trưởng, Chủ tịch công đoàn, thủ trưởng quỹ của các cơ quan, đơn vị để phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định cho vay thông qua người đại diện. Bước 2: Giám đốc ngân hàng cùng với Thủ trưởng đơn vị, chủ tịch công đoàn ký biên bản thỏa thuận cho vay tiêu dùng, trong đó xác định rõ trách nhiệm của các bên và cử người đại diện của bên vay trực tiếp giao dịch với ngân hàng. Bước 3: Đại diện bên vay tổ chức họp CBNV phổ biến cho vay tiêu dùng và các quy định cho vay thông qua người đại diện. Bước 4: CBNV có nhu cầu vay, viết giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án trả nợ (theo mẫu in sẵn của TCTD), có chữ ký cam kết của vợ hoặc chồng, ý kiến xác nhận của thủ trưởng đơn vị và nộp cho người đại diện. Trong giấy đề nghị vay vốn, người vay phải ủy quyền cho người đại diện ký kết hợp đồng tín dụng và toàn quyền trích thu nhập hàng tháng để trả thù đủ nợ gốc và lãi đến hạn cho ngân hàng. Bước 5: Người đại diện tập hợp các giấy đề nghị vay vốn và báo cho ngân hàng biết để cử cán bộ tín dụng xuống đơn vị, cùng với người đại diện thẩm tra khả năng vay và trả nợ củ từng người vay. Sau khi thẩm tra xong, cán bộ tín dụng và người đại diện lập danh sách CBNV có đủ điều kiện vay, có ý kiến xác nhận của thủ trưởng đơn vị để trình với lãnh đạo ngân hàng xét duyệt cho vay. Bước 6: Sau khi có kết quả xét duyệt cho vay, người đại diện ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng. Bước 7: Trên cơ sở hợp đồng tín dụng đã ký, ngân hàng phối hợp với người đại diện phát vốn vay trực tiếp cho người vay tại đơn vị (sau khi người vay lập khế ước nhận nợ). Bước 8: Định kỳ hàng tháng căn cứ vào lịch trả nợ, ngân hàng lập bảng kê danh sách thu nợ gốc và lãi của từng người vay gửi cho người đại diện tiến hành thu nợ (bằng cách trích thu nhập của người vay tại thủ quỹ đơn vị). Để đảm bảo quyền lợi người đại diện, khuyến khích người đại diện làm tốt trách nhiệm hàng tháng ngân hàng có thể trích % lãi thực thu, hỗ trợ tiền tàu xe trong các kỳ trả nợ cho người đại diện. Nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp giữa ngân hàng với cơ quan quản lý lao động, chính quyền địa phương trong quá trình quản lý và thu hồi nợ. Thực hiện tốt điều này cho phép VP Hoàn Kiếm hạn chế được rủi ro do hiện tượng người lao động chuyển việc, nghỉ việc hoặc chuyển nơi ở… 3.2.4. Tăng cường sự chủ động của cán bộ ngân hàng, mở rộng phạm vi hoạt động ra các vùng phụ cận Có thể nói thị trường cho vay tiêu dùng đầy tiềm năng đặc biệt ở khu vực đô thị như Thủ đô Hà Nội, nhưng đồng nghĩa với sự hấp dẫn đó là mức độ cạnh tranh thị trường ngày càng gay gắt. Riêng trong địa bàn của VP Hoàn Kiếm có rất nhiều ngân hàng trong nước có uy tín như Vietconbank, BIDV, ngân hàng nước ngoài như Citybank đều cung cấp mảng dịch vụ này. Do đó muốn thu hút khách hàng cán bộ tín dụng không thể thụ động ngồi chờ khách hàng đến giao dịch mà phải chủ động tìm khách hàng. Bên cạnh đó để mở rộng thị phần cho vay tiêu dùng VP Hoàn Kiếm không chỉ khai thác dân cư trong khu vực địa bàn Hà Nội mà còn phải đi xa hơn sang vùng phụ cận như Hà Tây, Bắc Ninh… 3.2.5. Nâng cao chất lượng thông tin về nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra các yếu tố có liên quan tới cho vay tiêu dùng Để có thể mở rộng cho vay tiêu dùng ngân hàng phải tìm hiểu và nắm rõ những thông tin tổng hợp về tình hình vĩ mô tới hoạt động cho vay tiêu dùng. Đó là những thông tin về chủ trương, chính sách của Chính phủ và NHNN có liên quan, về tình hình biến động kinh tế - xã hội nói chung cũng như lĩnh vực tài chính - tiền tệ nói riêng ở trong nước và quốc tế… Hoạt động cho vay tiêu dùng khá nhạy cảm với sự biến động kinh tế - chính trị - xã hội, do vậy những thông tin tổng hợp vĩ mô như vậy sẽ mang ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển cho vay tiêu dùng của VP Hoàn Kiếm. Đồng thời Chi nhánh cũng cần nghiên cứu, điều tra về tình hình cho vay trong lĩnh vực tiêu dùng của các đối thủ cạnh tranh. Hiện nay, các ngân hàng trong nước, kể cả các ngân hàng quốc doanh hay ngân hàng cổ phần đều tiến hành và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng. Vì vậy, VP Bank Hoàn Kiếm cần thu thập những thông tin về dịch vụ, chiến lược khách hàng của các đối thủ cạnh tranh sau đó tiến hành phân tích, nghiên cứu các ưu nhược điểm trong các dịch vụ của đối thủ cạnh tranh để từ đó rút ra những chiến lược về dịch vụ của mình một cách tốt nhất. Điều tra thu thập và phân tích thông tin về người tiêu dùng cũng là cách thức để VP Bank Hoàn Kiếm có thể mở rộng cho vay tiêu dùng. Ngân hàng có thể thu thập được thông tin của khách hàng thông qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp, điều tra chọn mẫu, qua phương tiện thông tin đại chúng…Mặt khác, Chi nhánh cũng nên tổng hợp các đối tượng khách hàng đã và đang giao dịch với mình, tìm hiểu và phân tích nhóm khách hàng này với mục đích mở rộng quy mô hoạt động. Thông qua đó, Ngân hàng có thể nắm bắt được các thông tin tổng hợp về nhu cầu khác nhau của từng nhóm khách hàng tiêu dùng, đưa ra được các biện pháp điều chỉnh hợp lí trong trường hợp tiếp thu ý kiến phản hồi của khách hàng về ưu nhược điểm của các dịch vụ cho vay tiêu dùng cũng như những phản ánh thái độ phục vụ khách hàng của cán bộ tín dụng. Chính việc thu thập và phân tích thông tin một cách tổng hợp, đầy đủ và chính xác sẽ tạo nên những cơ sở cần thiết ban đầu nhằm giúp cho Chi nhánh có thể thực hiện được những chiến lược đúng đắn đã đề ra nhằm phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng trong tương lai. Bên cạnh công tác thu thập thông tin, Chi nhánh cũng cần chú trọng hoạt động lưu trữ thông tin. Mỗi khách hàng trừ trường hợp khách hàng mới chưa có quan hệ tín dụng với VP Bank phải có hai loại hồ sơ tín dụng; Bộ hồ sơ có hiệu lực: bao gồm các dữ liệu và văn bản hiện đang có/còn hiệu lực Bộ hồ sơ lưu: bao gồm toàn bộ các dữ liệu và văn bản hết hiệu lực. Để có Bộ hồ sơ tín dụng hữu dụng tài liệu phải được cập nhật sắp xếp tại mỗi mục theo thứ tự thời gian với tài liệu gần đây nhất nằm trên cùng. Trừ các hồ sơ hết hiệu lực được lưu trong kho, các bộ hồ sơ còn hiệu lực và hết hiệu lực khác phải được sắp xếp theo thứ tự ABC tại tủ dựng Hồ sơ tín dụng được đặt tập trung tại nơi cán bộ liên quan để tiếp cận và tách rời không gian giao lưu với khách hàng và các đối tượng khác bên ngoài. Nội dung của bộ hồ sơ về cơ bản có đầy đủ các thông tin lịch sử và hiện tại của khách hàng, đủ điều kiện để dựa vào đó, một cán bộ tín dụng bất kì khi đọc đều đánh giá được năng lực tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Ngoài việc quản lý hồ sơ giấy, cần xây dựng kho hồ sơ chung trên máy vi tính, khai thác các chương trình quản lý dữ liệu tiên tiến tạo tiện ích cho việc truy xuất, thống kê dữ liệu. 3.2.6 .Thực hiện chính sách khách hàng linh hoạt Không giống như những sản phẩm thông thường trên thị trường, người mua muốn được sử dụng chúng phải trả tiền ngay và sau đó thuộc quyền sở hữu vĩnh viễn của họ, đối với phần lớn các dịch vụ do ngân hàng cung cấp, khách hàng không phải trả tiền ngay mà sau một thời gian sử dụng nhất định, đến kỳ hạn thỏa thuận trong hợp đồng khách hàng mới phải mang tiền đến trả, do đó chất lượng của hàng hóa, dịch vụ không chỉ được quyết định bởi sự hài lòng khi sử dụng, mà nó còn phụ thuộc vào thái độ của người bán hàng, sự quan tâm của người bán đến lợi ích mà người mua dược hưởng trong suốt quá trình sử dụng. Chính vì vậy, để thu hút khách hàng ngày càng nhiều, VP Bank Hoàn Kiếm cần xây dựng cho được định hướng khách hàng trong đó phải đặt chất lượng phục vụ là yếu tố hàng đầu, coi khách hàng là đối tác và mục tiêu hoạt động, tạo dựng được các mối quan hệ bền vững trên cơ sở hai bên cùng có lợi, coi sự phát triển liên tục cùng khách hàng là nền tảng cho sự sống còn và phát triển của mình. Trước hết thực hiện chính sách giá cả linh hoạt. Ngân hàng tiến hành hoạt động cho vay dựa trên nguồn tiền gửi của dân chúng là chủ yếu, để có được nguồn vốn kinh doanh ngân hàng phải trả lãi suất từng giờ. Do đó lãi suất cho vay cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào lãi suất huy động của các ngân hàng. Từ thực tế trên, VP Bank Hoàn Kiếm cần xây dựng chính sách giá cả hợp lý đối với cả hai hoạt động là huy động và cho vay nhằm đảm bảo lợi nhuận cho cả ngân hàng và quyền lợi cho khách hàng. Về mặt cho vay, ứng dụng lãi suất khá cao và linh hoạt tương ứng với chất lượng dịch vụ cao hơn. Đối với từng đối tượng đến vay, và từng thời kỳ Chi nhánh có thể điều chỉnh lãi suất cho vay dao động trong phạm vi biên độ cho phép. Với khách hàng vay với số vốn lớn, luôn trả nợ đều đặn và đúng hạn, khách hàng truyền thống ngân hàng có thể cho vay với lãi suất thấp hơn (trong phạm vi biên độ giao động), đồng thời tổ chức các buổi hội nghị khách hàng và có quà tặng riêng tới các đối tượng này (quà nên in biểu tượng của VP Bank). Với khách hàng ở xa nhưng họ vẫn tới ngân hàng để vay (mặc dù họ có thể sử dịch vụ của những ngân hàng khác gần hơn) thì cán bộ tín dụng cũng có thể giảm lãi suất cho vay, coi đó như phần chi trả của ngân hàng cho một phần chi phí đi lại của khách hàng, đồng thời cán bộ ngân hàng cũng nên tư vấn cho khách hàng nên sử dụng sản phẩm của hãng nào, sử dụng tiền như thế nào cho đúng mục đích, an toàn và hiệu quả. Thực hiện các chính sách này tạo cảm giác được quan tâm, được chia sẻ đồng thời bắt buộc các cán bộ tín dụng phải tìm hiểu kỹ lưỡng hoàn cảnh của khách hàng trong quá trình thực hiện cho vay, hạn chế được rủi ro cho ngân hàng. 3.2.7. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Công nghệ hiện đại là một trong những tiêu thức để khách hàng đánh giá uy tín và hiệu quả của mỗi ngân hàng, vì vậy việc đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa. Trên cơ sở đổi mới công nghệ, ngân hàng phải tăng được năng suất lao động để rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình nghiệp vụ, xử lý được khối lượng lớn công việc trong một ngày và phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng đồng thời trợ giúp hoạt động quản lý, hạn chế rủi ro trong ngân hàng. Hiện tại trụ sở của Chi nhánh còn khá nhỏ, các phòng ban chật hẹp nhất là nơi giao dịch trực tiếp với khách hàng như Phòng Tín dụng. Khách hàng đến xin vay đông, tuy vẫn có chỗ ngồi trong phòng nhưng đều không thấy thoải mái và đó là điểm bất lợi cho cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách hàng. Bên cạnh đó vị trí đặt trụ sở của Chi nhánh hoàn toàn không thuận lợi cho hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong thời gian tới Chi nhánh nên đề nghị với Hội sở để có thể chuyển đến địa bàn đông dân cư thuận lợi cho hoạt động cho vay tiêu dùng hơn.Ngoài ra hệ thống máy tính tại Phòng Tín dụng có tốc độ xử lý rất chậm; chưa đáp ứng được yêu cầu xử lý nhanh chóng rất nhiều hồ sơ khách hàng cá nhân của các nhân viên. Vì vậy trong thời gian tới Chi nhánh nên xem xét đề xuất bố trì diện tích phòng ban cho hợp lí hơn và đầu tư thay thế máy tính cùng các thiết bị hiện đại khác tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên ngân hàng làm việc hiệu quả hơn. Mục tiêu đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại cho toàn Hệ thống VP Bank song vẫn đảm bảo khả năng thanh toán nhanh chóng thuận lơi và lợi nhuận của ngân hàng, ứng dụng các phần mềm ngân hàng hiện đại giúp VP Bank có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó đòi hỏi VP Bank Hoàn Kiếm cần tổ chức cho cán bộ ngân hàng đi tập huấn để nâng cao trình áp dụng công nghệ. 3.2.8. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Cùng với việc đổi mới công nghệ ngân hàng, thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng làm chủ công nghệ là yêu cầu cấp thiết. Cán bộ ngân hàng được coi là nhân tố quan trọng nhất trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Nhất là trong xu thế hội nhập, hợp tác liên kết như hiện nay thì yêu cầu đặt ra cho đội ngũ cán bộ ngân hàng là rất lớn. Sắp tới khi Việt Nam gia nhập WTO, có sự tham gia của nhiều NHTM nước ngoài vào thị trường ngân hàng chắc chắn sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt hơn do ngân hàng nước ngoài có lợi thế hơn chúng ta về trình độ quản lí và công nghệ, quy mô vốn…Do đó để đứng vững trong giai đoạn mới, nguồn nhân lực của ngân hàng phải được các NHTM Việt Nam nói chung và VP Hoàn Kiếm nói riêng đặt lên hàng đầu. Để mở rộng và nâng cao nghiệp vụ tín dụng nói chung và Cho vay tiêu dùng nói riêng,đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có được những phẩm chất và năng lực để hoàn thành tốt công việc như: có năng lực để giải quyết những vấn đề chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực phân tích, dự đoán các thông tin tín dụng, có uy tín trong quan hệ xã hội, quan hệ vói các đồng nghiệp trong cùng ngân hàng (điều này thể hiện phẩm chất đạo đức và khả năng giao tiếp của cán bộ tín dụng, nó có ảnh hưởng tới việc mở rộng và giữ chân những khách hàng truyền thống của ngân hàng), có năng lực tự nghiên cứu học hỏi, khả năng làm việc độc lập… Trong vài năm qua Chi nhánh đã được bổ sung thêm cán bộ tín dụng song vẫn còn ở trong tình trạng thiếu nhân sự dẫn đến tình trạng kiêm nhiệm. dẫn đến cán bộ tín dụngchịu nhiều áp lực, đồng thời thể hiện sự không chuyên nghiệp. Ngoài ra do tính chất công việc yêu cầu thường xuyên phải đi gặp khách hàng là các cá nhân và hộ gia đình nên nhiều khi trong phòng chỉ có một vài nhân viên, khi khách hàng đến đề nghị vay vốn, nhìn thấp không khí này có tâm lí không muốn vay nữa và tìm đến ngân hàng khác nơi thể hiện được nhịp độ sôi động hơn và chuyên nghiệp hơn. Vì vậy việc bổ sung thêm cán bộ tín dụng cho phòng tín dụng và phân nhiệm rõ ràng là điều cần thiết đểe mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Phẩm chất đạo đức và trình độ của cán bộ tín dụng có vai trò quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Phần lớn nhân viên tín dụng còn rất trẻ, nhiệt tình, thông minh, sáng tạo nhưng vẫn còn thiếu kinh nghiệm. Vì vậy để mở rộng cho vay tiêu dùng, VP Hoàn Kiếm cần có kế hoạch đào tạo và nâng cao trình độ của cán bộ chuyên môn. Cụ thể, tăng cường cử cán bộ, nhân viên, có năng lực tham gia các khoá đào tạo nghiệp vụ do NHNN, các trường đại học, các ngân hàng nước ngoài tổ chức…đề nghị cử cán bộ đi học tập và khảo sát về cho vay tiêu dùng ở nước ngoài. Vừa rồi là một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại VP Bank Hoàn Kiếm, tuy nhiên có thể áp dụng được hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như có phù hợp với chính sách luật pháp của Nhà nước, NHNN và quy định riêng của VP Bank. Sau một thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế của VP Bank Hoàn Kiếm em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau: 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với VP Bank Để mở rộng cho vay tiêu dùng toàn Hệ thống nói chung và VP Hoàn Kiếm nói chung, VP Bank cần hoàn thiện các văn bản quy chế về cho vay tiêu dùng. Hiện nay ngoài các văn bản pháp luật của Cơ quan cấp trên, hoạt động cho vay tiêu dùng của VP Bank đã có một vài văn bản của riêng mình, song có thể thấy các văn bản này vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng khi áp dụng vào thực tế. Trước hết VP Bank chưa tạo sự chủ động cho các Chi nhánh trong cho vay tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng với các khoản vay nhỏ lẻ, rủi ro thấp tuy nhiên các Chi nhánh II hoàn toàn không có quyền phán quyết với bất cứ một hạn mức nào. Tất cả các khoản vay sau khi có kết quả thẩm định đều phải qua Ban tín dụng của VP Bank xét duyệt, thời gian ít nhất 1 ngày làm việc, giám đốc Chi nhánh không được quyền phán quýêt bất cứ hạn mức nào. Trong khi đó một vài ngân hàng trong cùng địa bàn có thể cho Chi nhánh cấp II được quyền cho vay với hạn mức từ 500 triệu đồng đến 3 tỷ, giải quyết nhanh gọn cho khách hàng gây tâm lý thoải mái không phải chờ đợi như của Chi nhánh. Thiết nghĩ với các trường hợp đề nghị vay vốn có tài sản đảm bảo đạt tỉ lệ 50 – 70%, cán bộ thẩm định đã kiểm tra thận trọng, mức vay nhỏ VP Bank nên dành quyền phán quyết cho Chi nhánh tạo điều kiện giải quyết nhanh gọn cho khách hàng. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho vay tiêu dùng, VP Bank cần xem xét giải quyết cho Chi nhánh được thay đổi địa điểm đặt trụ sở đến địa bàn hoạt động nhiều dân cư, các khu tập trung nhiều người như chợ, các xí nghiệp, doanh nghiệp… Bên cạnh đó Hội sở cần trang bị đổi mới trang thiết bị, bổ sung cán bộ tín dụng cho Chi nhánh có đủ năng lực trình độ chuyên môn. Tăng cường đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, ý thức tự giác, trách nhiệm của cán bộ tín dụng của cán bộ tín dụng … Cho vay tiêu dùng là khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp các cá nhân và hộ gia đình trang trải nhu cầu tiêu dùng của mình như nhà ở, trang thiết bị nội thất, xe cộ… Hầu hết các ngân hàng đều đánh giá mảng cho vay này là một thị trường đầy tiềm năng. Nhu cầu này đã được VP Bank nắm bắt và phát triển rất tốt. Tuy nhiên một số lượng khách hàng còn bị bỏ ngỏ do quy chế cho vay còn phức tạp trong thủ tục thẩm định tài sản thế chấp. Trước thực trạng đó, ngày 18/8/2000, NHNN ban hành quyết định số 226/2000/QĐ về cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với các NHTM cổ phần, công ty tài chính cổ phần và ngân hàng liên doanh và thông tư hướng dẫn 06 ngày 04/04/2000. Nhờ vậy các ngân hàng đã mạnh dạn đưa ra dịch vụ cho vay tiêu dùng thông qua tín chấp. Tuy nhiên hình thức cho vay này chưa được áp dụng tại VP Bank. Như trên cho thấy lợi ích của khoản cho vay theo phương thức này, vì vậy Hội đồng quản trị, Ban tín dụng VP Bank nên xem xét để có thể áp dụng hình thức này trên toàn Hệ thống. Thành lập trung tâm thẻ của ngân hàng thông qua đó có thể cho vay tiêu dùng bằng thẻ tín dụng của ngân hàng, hoặc thẻ tín dụng của ngân hàng khác. 3.3.2 Kiến nghị đối với Các cơ quan quản lý Để góp phần giúp cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng của ngân hàng được ổn định và có thể mở rộng, Chính phủ và các Cơ quan quản lý vĩ mô cần tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động này có thể phát triển và mang lại ngày càng nhiều lợi ích cho xã hội. Trước hết cần ban hành Luật tín dụng tiêu dùng, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Nhà nước cũng như NHNN cần tổ chức cho cán bộ ngân hàng đi học tập ở những nước phát triển để nghiên cứu, học hỏi, tham khảo từ đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của mình. Hoàn thiện phát hành giấy chứng nhận sử dụng đất thành thị. Phát triển tập trung một thị trường cầm cố. Đơn giản hoá các thủ tục cầm cố và tạo ra khung pháp lý để thúc đẩy việc thu hồi nợ cầm cố. Thành lập trung tâm thanh toán liên ngân hàng về thẻ. Đây là phương thức tạo ra nhiều thuận lợi cho cả hệ thống NHTM cũng như người dân bớt đi các thủ tục rườm rà trong việc thanh toán thẻ, người dân có thể rút tiền ở bất kì máy rút tiền tự động nào mà không cần quan tâm nó có thuộc hệ thống ngân hàng nơi mình mở tài khoản. Tạo cơ chế khuyến khích các ngân hàng cho vay bán lẻ như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho phép thành lập quĩ dự phòng rủi ro riêng. Thực hiện các chính sách nhằm ổn định môi trường vĩ mô, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP nhằm mục tiêu ổn định thị trường, giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức có lợi cho nền kinh tế. Hiện nay có sự chênh lệch rất lớn trong thu nhập của các tầng lớp dân cư, đặc biệt giữa khu vực thành thị và nông thôn. Thực trạng này làm ảnh hưởng xấu đến khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng bởi dân số nông thôn chiếm phần lớn dân số trong khi đó họ không thể đến ngân hàng vay tiền phục vụ nhu cầu cuộc sống hàng ngày bởi họ không có tài sản đảm bảo có giá trị. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống ở khu vực nông thôn nhằm tăng mức sống dân cư tạo ra cầu hàng hoá… Việc ổn định môi trường kinh tế - chính trị - xã hội sẽ tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế, đồng thời giúp các thành phần kinh tế yên tâm sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều hàng hoá dịch vụ cho xã hội. Nhà nước cần phối hợp với các NHTM trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất xám. Hệ thống ngân hàng luôn đòi hỏi đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, hăng say, nhiệt tình với công việc, luôn cập nhật và bổ sung kiến thức để có thể theo kịp sự phát triển của ngành ngân hàng và sự phát triển mạnh mẽ của kĩ thuật – công nghệ hiện đại. Tạo điều kiện để các ngân hàng có kinh phí cử cán bộ đi học tập ở nước ngoài nhằm nâng cao kiến thức, trình độ phục vụ cho đất nước và ngành Ngân hàng nói riêng. Đối với NHNN – cơ quan đại diện cho Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, trực tiếp quản lý hoạt động của các ngân hàng, có ảnh hưởng rất lớn đối với các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. NHNN cần hỗ trợ, tạo điều kiện cho các NHTM phát triển hoạt động của mình như tạo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh… Sớm hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng trên cơ sở nghiên cứu tình hình thưc tế và có dự đoán chính xác về những xu hướng thay đổi của thị trường...Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, những khoá học cho các NHTM nhằm phổ biến những văn bản, chính sách, chủ trương mới của NHNN.. Phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng từ đó ban hành các Thông tư liên bộ, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển… Linh hoạt hơn trong việc điều hành và quản lí những công cụ của chính sách tiền tệ như công cụ lãi suất, công cụ tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc… Kết luận Như vậy có thể thấy hoạt động cho vay tiêu dùng trong vài năm của VP Bank Hoàn Kiếm đã đạt những bước tiến đáng kể. Tổng dư nợ đều tăng qua các năm, chất lượng tín dụng khá an toàn - tỉ lệ nợ quá hạn thấp… Hoạt động cho vay tiêu dùng của Chi nhánh trở thành nguồn thu chính của ngân hàng, đồng thời giúp cho người tiêu dùng có khả năng chi tiêu trước khi tích luỹ đủ tiền, giúp người dân cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Với xã hội, góp phần kích thích sản xuất phát triển, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, kích thích tăng trưởng phát triển. Tuy nhiên quy mô hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với tiềm năng thị trường có nhu cầu. Nhu cầu vay tiêu dùng trong thời gian tới ở nước ta đặc biệt là Thủ đô Hà Nội rất lớn, là điều kiện thuận lợi để ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Sau một thời gian học tập, tìm hiểu thực tế của VP Bank Hoàn Kiếm em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị với mong muốn góp phần mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của Chi nhánh. Do những hạn chế về mặt thời gian khảo sát thực tế cùng những hạn chế về mặt lý luận và nhận thức, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót mong sự góp ý của Thầy cô. Sinh viên thực hiện: Hà Thị Dịu Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Ngân hàng thương mại – Nhà xuất bản Thống kê Giáo trình Nghiệp vụ tín dụng - Học viện Ngân hàng David – Cox - Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – NXB Chính trị quốc gia năm 1997 F.S Miskin - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – NXB Khoa học kỹ thuật 1999 Peter S.ROSE - Quản trị NHTM – NXB tài chính – năm 2001 Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Nhà xuất bản Thống kê 2002 Quản trị ngân hàng thương mại – NXB Thống kê Các văn bản pháp luật liên quan đến qui chế cho vay của NHNN, VP Bank Tạp chí Ngân hàng 2003 – 2005 Tạp chí Kinh tế phát triển 2003 – 2005 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 2003 – 2005 Tạp chí Dự báo kinh tế 12/2003 Tạp chí và các Website khác liên quan Mục lục bảng biểu Trang Bảng 1. Tình hình huy động vốn của VP Bank Hoàn Kiếm 32 Bảng 2. Tình hình hoạt động cho vay của VP Bank Hoàn Kiếm 34 Bảng 3. Cơ cấu cho vay theo mục đích sử dụng vốn vay 35 Bảng 4. Nợ quá hạn cho vay tiêu dùng thời kỳ 2003-2005 48 Bảng 5. Dự báo nhu cầu hàng tiêu dùng đến năm 2010 51 Bảng 6: Bảng Xếp hạng tín dụng 53 Bảng 7: Bảng đánh giá giá trị TSĐB 54 Biểu 1. Cơ cấu dư nợ theo thời hạn 34 Biểu 2. Tình hình dư nợ cho vay tiêu dùng tại VP Bank Hoàn Kiếm 46 Biểu 3. Cơ cấu cho vay tiêu dùng theo thời hạn 47 MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36508.doc
Tài liệu liên quan