Mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Nội

LỜI NÓI ĐẦU Trong xu thế hội nhập và phát triển Việt Nam cần nhiều vốn để cất cánh. Để phát triển, chúng ta cần huy động tất cả các nguồn vốn trong nước, huy động tối đa các nguồn vốn từ nước ngoài và lo sử dụng các nguồn lực đó cho có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều pháp nhân có nhu cầu về vốn, trong khi đó lại có những pháp nhân khác có sẵn nguồn tài trợ. Muốn phát triển, ta cần huy động nguồn vốn sẵn có và hướng nó về những ngành thiếu phương tiện tài chính. Trong những nă

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m gần đây, theo xu hướng chung của thế giới, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngày nay, xu hướng hội nhập, hợp tác giữa các nước trên thế giới được coi trọng. Trước tình hình đó đặt ra cho Việt Nam những cơ hội và thách thức mới đòi hỏi phải thiết lập một cơ cấu kinh tế nhiều tầng, năng động. Từ thực tế cho thấy, mô hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cho phép khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ,…Trên cơ sở phát huy sức mạnh toàn dân, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ thu hút đầu tư, cải thiện môi trường, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống cho dân cư, từ đó sẽ tạo động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước… Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp không ít những khó khăn đặc biệt là về vốn. Doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào vốn tự có của mình mà cần phải huy động thêm nguồn vốn bên ngoaì để mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng năng lực cạnh tranh. Do đó, để giúp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có điều kiện phát triển tốt thì một trong những biện pháp quan trọng là cần phải đáp ứng nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời. Nhưng thực tế cho thấy việc các doanh nghiệp này huy động được vốn bên ngoài là khó khăn. Đây là một vấn đề nan giải và được nhiều người quan tâm, đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải có những biện pháp tiếp cận, hỗ trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp này. Việc nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của chi nhánh là cơ sở để rút ra nhận xét về những thành công, hạn chế tồn tại, vướng mắc để từ đó có những đề suất, giải pháp, kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn tại chi nhánh. Từ thực tiễn trên em xin chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội’’. Nội dung của đề tài nghiên cứu gồm 3 chương: Chương 1: Mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại NHTM. Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT HN. Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội. Phạm vi của đề tài chủ yếu tìm hiểu hoạt động cho vay tại chi nhánh đối với các DNNQD. Từ thực tế đó em xin nêu ra một số ý kiến đóng góp để năng cao hiệu quả công tác tín dụng tại ngân hàng. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức, cũng như kinh nghiện thực tế nên chuyên đề này không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em rất mong được sự giúp đỡ, quan tâm của các thầy cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1. MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DNNQD TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Cho vay và các loại hình cho vay của Ngân hàng thương mại. 1.1.1 .Hoạt động cho vay của NHTM Với các hoạt động nghiệp vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế, ngân hàng là một trong những trung gian tài chính có vai trò quan trọng bậc nhất. Theo điều 20, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 đã ghi: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”, trong đó “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất và chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu tổng tài sản của NHTM. Theo điều 49, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 cũng đã quy định:” Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Như vậy nếu phân loại hoạt động tín dụng theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu, và cho thuê tài chính… Trong đó, cho vay là nghiệp vụ đặc trưng nhất của tín dụng và cũng là hoạt động đem lại gần 70% thu nhập của các NHTM ở nước ta hiện nay. Theo điều 3, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN, “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”. 1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM. 1.1.2.1. Vai trò đối với nền kinh tế. Thứ nhất, ngân hàng là kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi phải huy động, khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển, trong đó vốn là yếu tố mang tính quyết định. Bên cạnh việc sử dụng nguồn vốn tự có hoặc tự tích lũy thì phần còn lại được huy động thông qua các kênh trên thị trường vốn. Trong đó, cho vay qua các NHTM là kênh truyền tải vốn quan trọng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Là trung gian tài chính lớn nhất của nền kinh tế, hoạt động cơ bản của NHTM là đi vay và cho vay. NHTM có thể tập trung được một khối lượng vốn lớn từ những nguồn tiết kiệm nhàn rỗi trong dân cư, khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế để đưa chúng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu chi tiêu của những người cần vốn. Thêm vào đó, với khả năng chuyên nghiệp, với vai trò người trung gian về thông tin, NHTM có thể kiểm soát tốt hơn vấn đề thông tin không cân xứng giữa các bên có vốn và cần vốn để khắc phục một cách tốt nhất sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Thứ hai, cho vay thông qua NHTM là kênh phân bổ vốn có hiệu quả trong nền kinh tế. Vì mục tiêu lợi nhuận, tích chất chuyên nghiệp và kinh doanh có tổ chức nên ngân hàng tìm được nơi đầu tư an toàn, hiệu quả và giảm thiểu được rủi ro và tổn thất. Hoạt động tín dụng của NHTM được thể hiện trên cơ sở những nguyên tắc, điều kiện và quy trình tín dụng hết sức chặt chẽ. Thêm vào đó, ngân hàng có một bộ máy chuyên môn được đào tạo và có kinh nghiệm trong việc nghiên cứu các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, những quy định có liên quan đến việc vay vốn, có khả năng thu thập, phân tích thông tin và thẩm định, đánh giá khách hàng. Ngân hàng còn thực hiện kiểm soát và giám sát sử dụng vốn của khách hàng với những thủ tục và quy trình chặt chẽ. Đối với khách hàng, áp lực phải trả nợ ngân hàng buộc họ phải năng động, sáng tạo trong điều hành sản xuất kinh doanh, tìm kiếm cơ hội đầu tư sinh lợi, sử dụng vốn tiết kiệm và khoa học, luôn quan tâm đến biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì thế, khách hàng có thể thu hồi vốn, trả nợ ngân hàng đúng hạn, giữ chữ “tín” với ngân hàng; và thuận tiện hơn trong việc vay vốn, thậm chí là có thể thu hút vốn trên thị trường tài chính. Thứ ba, nghiệp vụ cho vay của NHTM thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Hoạt động tín dụng điều tiết sự dịch chuyển của vốn đầu tư theo ngành kinh tế, do ngân hàng luôn vì mục tiêu lợi nhuận tối đa và bảo đảm an toàn vốn nên sẽ luôn có xu hướng coi trọng đầu tư vào những ngành có lợi thế, có khả năng sinh lợi cao và có xu hướng phát triển tốt, đồng thời hạn chế hoặc không đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp, khó có điều kiện phát triển. Hoạt động cho vay vận động theo hướng đó làm việc dịch chuyển vốn diễn ra phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, góp phần phát huy thế mạnh của những ngành kinh tế mũi nhọn, tiết kiệm nguồn nhân lực xã hội đi đôi với việc thực hiện chính sách phát triển có trọng tâm, trọng điểm từ đó thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế. Hoạt động cho vay cũng tác động đáng kể đến cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp. Đó là việc NHTM mở rộng việc cho vay tới các doanh nghiệp ngoài nhà nước, xóa bỏ sự phân biệt về điều kiện, thủ tục vay vốn, lãi suất cho vay,… nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế. Thứ tư, hoạt động cho vay của ngân hàng góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn và tạo tiền. Nhờ sự ra đời của hoạt động tín dụng ngân hàng mà giờ đây, các nhà sản xuất không cần phải đợi cho hàng hóa của mình sản xuất ra thực hiện hết vòng chu chuyển của nó mới có thể tiến hành chu kỳ tái sản xuất tiếp theo, mà gần như họ có thể làm được việc này vào bất kỳ lúc nào. Xét ở góc độ toàn bộ nền kinh tế, thì tín dụng ngân hàng đã thực hiện vai trò đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của vốn, nhờ đó quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội vì thế mà tăng lên. Bằng khả năng tạo tiền, các NHTM đóng vai trò quan trọng trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương bở vì nó trở thành một kênh quan trọng cung ứng tiền cho lưu thông, hoặc ngược lại, rút bớt tiền khỏi lưu thông. Thứ năm, hoạt động cho vay còn góp phần mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại. Do xu hướng toàn cầu hóa, hoạt động cho vay của NHTM không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà đã được mở rộng và trở thành một bộ phận của hệ thống tài chính thế giới. Các doanh nghiệp được ngân hàng cho vay để sản xuất, chế biến, thu mua, chuyên chở hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài. Còn nhập khẩu, ngân hàng cho vay vốn để thực hiện phương án, dự án của mình. Bằng các hoạt động đa dạng của mình, hoạt động tín dụng đã thể hiện vai trò của mình trong việc thúc đẩy ngoại thương phát triển. 1.1.2.2. Đối với NHTM. Thứ nhất, thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm phần lớn thu nhập của NHTM (khoảng 70%). Do đó, tăng cường mở rộng hoạt động cho vay là biện pháp để tăng doanh thu hữu hiệu của NHTM. Thứ hai, đó cũng là công cụ cạnh tranh giữa các NHTM, nhằm mở rộng thị phần cho vay, thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng trong nền kinh tế. Thứ ba, góp phần tăng uy tín và quy mô cho NHTM. Việc không ngừng mở rộng hoạt động cho vay sẽ tăng thêm thu nhập cho NHTM, tăng nguồn vốn tự có của ngân hàng và là cơ hội để ngân hàng tăng cường đầu tư mở rộng hoạt động của mình. 1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. 1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp ngoài quốc doanh Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999 (sửa đổi năm 2005) đã định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp vốn trong nước mà nguồn vốn thuộc sở hữu tập thể, tư nhân một người hoặc một nhóm người; hoặc thuộc sở hữu Nhà nước nhưng chiếm từ 50% vốn điều lệ trở xuống. Bao gồm các hình thức: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã. 1.2.2. Đặc điểm của DNNQD tại Việt Nam Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đánh giá về sự tồn tại cần thiết và khách quan của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Tiếp theo đó, Luật Công ty và Luật DNTN tạo ra hành lang pháp lý đầu tiên và hết sức quan trọng cho các DNNQD phát triển. Về số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số lượng DNNQD tăng lên nhanh chóng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Nếu như năm 1991 chỉ có 414 doanh nghiệp, thì sau một năm (1992) tăng lên 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15.276 doanh nghiệp, năm 1998 có 39.180 doanh nghiệp và đến năm 1999 tổng số doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài quốc doanh lên đến 45.601. Cùng với các chính sách đổi mới, Luật Doanh nghiệp (1999) (sửa đổi năm 2005) là khâu đột phá trong cải cách kinh tế và hành chính, tạo môi trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các DNNQD phát triển. Do đó, khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển vượt bậc về số lượng doanh nghiệp. Bảng 1.1.Số doanh nghiệp đăng ký mới qua các năm Loại hình DNNQD 1991 - 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 DNTN 29.135 6.412 2.229 6.532 7.085 10.246 11.366 Cty TNHH 15.310 7.304 7.179 12.627 15.120 20.145 20.674 Cty cổ phần 524 726 1.243 2.305 3.715 6.470 6.675 Cty hợp danh 2 0 0 1 7 8 Cty TNHH 1 thành viên 0 0 59 88 125 130 Tổng số 44.962 14.444 21.040 21.523 26.009 36.993 38.144 (Nguồn: Trung tâm thông tin DN – Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Sau 6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, từ 1/1/2000 đến 31/12/2005 đã có 158.153 doanh nghiệp đăng ký mới, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật lên 203.115. Số doanh nghiệp đăng ký trung bình mỗi ngày thời gian này bằng 3,75 lần so với trung bình hàng năm của thời kỳ 1991 – 1999. Số doanh nghiệp mới đăng ký trong 5 năm (2000 – 2005) cao gấp 3 lần so với 9 năm trước, tăng bình quân là 25%, đưa tỷ lệ bình quân số doanh nghiệp hiện nay trên 1 vạn dân là 25. Do đó, tính đến năm 2004 doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 91,55% tổng số doanh nghiệp hiện có. Về quy mô của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mặc dù vậy, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam vẫn có quy mô tương đối nhỏ, chiếm 96% số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) theo tiêu chí được xác định trong Nghị định 90/2001/NĐ-CP về hỗ trợ các DNNVV là: “DNNVV là các đơn vị kinh doanh trong nước có đăng ký kinh doanh, có số vốn dưới 10 tỷ đồng và số lao động thường xuyên không quá 300 người”. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê thì đến hết năm 2004, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vốn dưới 500 triệu chiếm 27,49%, số doanh nghiệp có vốn từ 500 triệu đến 1 tỷ chiếm 19,16% và số doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ chiếm 37,87%, và 15,46% là số doanh nghiệp có vốn từ 5 tỷ trở lên. Bình quân một DNNQD có khoảng 5,03 tỷ đồng vốn. Quy mô về vốn của các DNNQD rất nhỏ so với các doanh nghiệp khác, chỉ bằng khoảng 2,05% so với các doanh nghiệp Nhà nước và bằng 3,83% so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, số vốn đầu tư đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô sản xuất của các DNNQD tăng nhanh, trong 5 năm từ năm 2001 đến 2005 đạt 293.878 tỷ đồng Việt Nam (tương đương khoảng 18,4 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong cùng kỳ). Bên cạnh đó, quy mô lao động của các doanh nghiệp cũng nhỏ, số doanh nghiệp có dưới 10 lao động chiếm tới 52,58%, từ 10 đến dưới 50 lao động chiếm khoảng 36,72%, còn lại là các doanh nghiệp có từ 50 lao động trở lên. Tính đến năm 2005, bình quân một DNNQD có khoảng 29 lao động, trong khi đó một doanh nghiệp nhà nước có khoảng 490 lao động, bình quân một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 331 lao động. Như vậy, phần lớn các DNNQD ở Việt Nam là thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi lẽ, các DNNQD chỉ mới thực sự tồn tại và hoạt động trong thời gian chưa dài do đó còn nhiều hạn chế về khả năng tích lũy và huy động vốn để mở rộng sản xuất và quy mô. Về công nghệ: Trang bị máy móc thiết bị thường cũ kỹ, lạc hậu. Theo số liệu thống kê thì ở các DNNQD chỉ có khoảng 20% thiết bị hiện đại, 55% thiết bị ở mức trung bình còn lại là thiết bị lạc hậu. Một phần là do khả năng tài chính của các DNNQD còn nhiều hạn chế, hơn nữa với nguồn vốn tự có các DNNQD cũng gặp khó khăn trong việc đáp ứng điều kiện để có thể vay vốn trung và dài hạn để đầu tư đổi mới công nghệ và các tài sản cố định khác. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặc dù trong những năm gần đây, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNQD có bước tiến bộ rõ rệt, nhưng nhìn chung hiệu quả kinh doanh còn thấp. Doanh thu thuần của các DNNQDl liên tục tăng trong các năm liên tiếp và năm 2004 đạt bình quân 7,587 tỷ đồng/1 doanh nghiệp. Nhưng so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì đây vẫn là con số khiêm tốn. Thêm vào đó, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn của các DNNQD thấp, 1 đồng vốn hoạt động trong 1 năm tạo ra khoảng 2,3% đồng lãi. Mức tỷ suất lợi nhuận này còn thấp hơn nhiều so với mức lãi suất tiền vay. Với công nghệ lạc hậu, quy mô vốn và lao động nhỏ, các DNNQD sản xuất ra những sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, chưa chiếm lĩnh được thị trường, sản xuất kinh doanh không mang lại hiệu quả… 1.2.3. Vai trò của DNNQD trong nền kinh tế. Đóng góp của các DNNQD vào ngân sách Nhà nước ngày càng nhiều, từ hơn 6% đầu những năm 2000 tăng lên đến 7,5% năm 2005. Ngoài ra, các DNNQD đã đóng góp phần tăng nguồn thu như thuế môn bài, thuế VAT trong nhập khẩu và các loại phí khác. DNNQD phát triển là nhân tố quan trọng kích thích và làm sống động đời sống kinh tế đất nước, tạo áp lực cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước đổi mới hoạt động kinh doanh, góp phần phá bỏ tính độc quyền của một số công ty nhà nước. Đóng góp về xuất nhập khẩu và tăng nguồn thu ngân sách, theo Bộ Thương mại, hiện thời DNNQD trong nước đóng góp khoảng một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. DNNQD là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng, ở các địa phương, DNNQD đóng vai trò chủ yếu về xuất khẩu. DNNQD chính là nơi thu hút, tạo việc làm cho xã hội: đã tạo ra khoảng 2 triệu chỗ làm mới. Sự phát triển của DNNQD không chỉ góp phần tạo việc làm mà còn có tác dụng đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang mất cân đối và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. DNNQD góp phần quan trọng trong việc tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia của DNNQD. Bên cạnh đó, DNNQD phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của các loại thị trường như: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ. 1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của các DNNQD. 1.2.4.1. Ưu điểm. DNNQD vừa năng động, vừa nhạy bén, dễ thích ứng với thay đổi của thị trường. Đây là ưu thế vượt trội của doanh nghiệp này, với quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ. DNNQD dễ dàng tìm kiếm và đáp ứng các yêu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hóa. Mặt khác, DNNQD thường có mối quan hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu dùng nên có phản ứng nhanh nhạy với sự kiện và sự biến động của thị trường. Với cớ sở vật chất kỹ thuật không lớn, DNNQD có thể đổi mới linh hoạt hơn, dễ dàng chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra hậu quả nặng nề cho xã hội. DNNQD có khả năng tạo ra một lượng cung hàng hóa và dịch vụ có thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời với giá cả hợp lý cho những nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Chính nhờ tính linh hoạt và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường mà loại hình doanh nghiệp này có khả năng đổi mới. Do đó, tự nó đã thể hiện các chức năng kinh tế to lớn đối với xã hội. DNNQD có thể tạo lập dễ dàng, đem lợi nhuận với chi phí cố định thấp. Để thành lập một DNNQD chỉ cần mốt số vốn ban đầu thấp, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng không lớn. Với ưu thế nhỏ gọn, năng động, dễ quản lý, không cần nhiều vốn, các DNNQD linh hoạt trong việc học hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường kinh doanh tác động lên. DNNQD có thể phát huy tiềm lực trong nước. Thành công lớn của DNNQD là nắm bắt được các điều kiện cụ thể của đất nước về tài nguyên và lao động. Đối với các doanh nghiệp lớn, việc sử dụng các nguồn lực sẵn có tại địa phương thường gặp khó khăn do trữ lượng tháp không đảm bảo cho các doanh nghiệp sản xuất lớn. Ngược lại, các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ lại có lợi thế trong việc sử dụng lao động tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có, phát huy hết tiềm lực trong nước cho sản xuất kinh doanh. Mặt khác, đối với các nước đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sự phát triển DNNQD là cách thức tốt nhất để sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Với lượng vốn và trình độ kỹ thuật công nghệ của mình, DNNQD có thể sản xuất một số mặt hàng thay thế nhập khẩu, phù hợp với sức mua của dân chúng, góp phần ổn định đời sống dân cư, ổn định xã hội, tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. 1.2.4.2. Nhược điểm Bên cạnh sự phát triển và những đóng góp trên, DNNQD Việt Nam trong những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Đó là: Phần lớn quy mô các doanh nghiệp nhỏ, đại đa số (trên 85%) có mức vốn dưới 1 tỷ đồng. Trừ số doanh nghiệp vừa và lớn có công nghệ sản xuất khá hiện đại, còn lại hầu hết là công nghệ lạc hậu, sản xuất thủ công, bán cơ khí và cơ khí không có khả năng cạnh tranh trên thị trường . Dẫn đến tình trạng kinh doanh không ổn định, không có định hướng lâu dài. DNNQD hiện nay rất thiếu vốn sản xuất, phải vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao và thời gian ngắn, khó tiếp cận các nguồn tín dụng của các NHTM, nhất là nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp; nhiều doanh nghiệp của tư nhân thiếu thông tin để tiếp cận với các nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước. Khó khăn của bản thân các DNNQD trong việc duy trì hiệu quả kinh doanh trong khoảng thời gian dài và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nguyên nhân chính của tình trạng này là: DNNQD mới ở tình trạng thấp; tổ chức quản lý trên thực chất, theo kiểu gia đình; loại hình công ty TNHH có phát triển nhưng quy mô sản xuất nhỏ, trình độ công nghệ thấp, khả năng tích tụ vốn và huy động vốn thấp, trình độ và kỹ năng quản lý yếu, không thu hút được lao động có tay nghề cao được đào tạo cơ bản; nhiều doanh nghiệp kinh doanh không có chiến lược, mang nặng tính “chụp giật”, kinh doanh không ổn định; tính lien kết, tinh thần hợp tác trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp còn thấp, nên khó tạo được sức mạnh chung trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng cơ sở. Các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, năng suất lao động thấp. Có thể nói, DNNQD Việt Nam phát triển với tốc độ cao, nhưng không bền vững, còn yếu thế trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế và phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế trong thời gian tới. 1.3. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD của NHTM. 1.3.1. Đặc điểm hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD. Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN định nghĩa: “Cho vay ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng”. Do đó các khoản vay ngắn hạn có những đặc điểm riêng như sau: Thời hạn cho vay: như định nghĩa ở trên thì các khoản cho vay ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm. Mục đích: Hầu hết các khoản cho vay này là nhằm hỗ trợ cho việc tăng dự trữ hàng hóa cho những nguời vay hoạt động theo mùa vụ, hoặc tài trợ người vay về những nhu cầu vốn ngắn hạn, và phục vụ cho từng dự án. Nguồn hoàn trả: Các khoản vay sẽ được hoàn trả khi doanh nghiệp thu được tiền, cụ thể là khi hàng tồn kho của người vay được bán và các khoản phải thu của nó đã được thu hồi, hoặc ngay khi doanh nghiệp thu được doanh thu của dự án. Lãi suất của khoản vay: Lãi suất được tính trên số vốn thực vay và là lãi suất thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng của mình. Và lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD thì thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp cùng loại, và thấp hơn lãi suất đối với cho vay cá nhân cùng kỳ hạn. Lãi suất cho vay có thể được thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng tín dụng với một trong hai cách thức dưới đây: Lãi suất cho vay cố định: là mức lãi suất cho vay áp dụng trong suốt thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng Lãi suất cho vay thả nổi: là mức lãi suất cho vay thay đổi theo định kỳ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc 1 năm. Đối với các khoản vay bằng VND, lãi suất thả nổi thường được xác định dựa trên thông báo về lãi suất của chính NHTM hoặc là lãi suất cho vay của một nhóm các NHTM tại thời điểm xác định phải thay đổi lãi suất. Đối với các khoản vay bằng USD, lãi suất cho vay thả nổi thường được xác định dựa trên thông báo về lãi suất chào cho vay trên thị trường liên ngân hàng của một NHTM xác định tại thị trường London hoặc Singapore ( Libor, Sibor). Tuy nhiên đối với các khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng lãi suất cho vay cố định vì cả bên vay và bên đi vay đều có thể lường trước mức độ thiệt hại về tài chính trong trường hợp có biến động trên thị trường lãi suất. Tài sản đảm bảo: Các khoản cho vay ngắn hạn này thường được đảm bảo bằng hàng tồn kho, tài khoản phải thu, hoặc tài sản cố định có giá trị lớn hơn hoặc tương đương khoản vay. Tuy nhiên, đối với những khách hàng có khả năng tài chính tốt, uy tín với ngân hàng, hoặc khoản cho vay ngắn hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với vốn chủ của doanh nghiệp thì ngân hàng có thể cho vay không cần tài sản đảm bảo. Mức độ rủi ro: Từ các đặc điểm trên có thể thấy cho vay ngắn hạn có mức độ rủi ro tương đối thấp hơn các loại hình cho vay khác. Vì với thời hạn cho vay ngắn, ít có thể xẩy ra những biến động về tình hình kinh tế - xã hội có thể ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà cả doanh nghiệp và ngân hàng không lường trước được. Bên cạnh đó, số vốn vay thường nhỏ so với vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp hoặc có tài sản đảm bảo nên ngân hàng đã sẵn có nguồn thu nợ thứ hai, do đó khả năng thu hồi nợ của ngân hàng tương đối cao. Nguyên tắc cho vay: Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận nguồn vốn của ngân hàng là nguồn huy động của khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu rút vốn, ngân hàng phải có nghĩa vụ đáp ứng. Nếu các khoản vay không được hoàn trả đúng hạn, thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ, hoạt động chính của ngân hàng có thể nói là “đi vay để cho vay”. Vì vậy, chỉ khi thu được lãi từ các khoản tín dụng, ngân hàng mới có thể bù đắp được chí phí cho các nguồn huy động, cũng như những chi phí hoạt động khác. Đây là điều kiện giúp cho ngân hàng kinh doanh có hiệu quả để có thể tồn tại và phát triển. Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích đã được thỏa thuận với ngân hàng và không được trái với các quy định của Pháp luật. Việc giám sát các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích không chỉ thúc đẩy các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất của mình mà còn hạn chế những rủi ro cho ngân hàng. Đây không chỉ là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của ngân hàng. Hiệu quả của nó là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế, góp phần tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm, dịch vụ hơn cho xã hội… Ngân hàng tài trợ cho dựa trên phương án có hiệu quả Trước khi cấp vốn cho khách hàng, ngân hàng đều yêu cầu khách hàng trình bày phương án sử dụng vốn vay. Vì chỉ có những phương án hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì người vay mới có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lãi để trả cho ngân hàng. Với những trường hợp ngân hàng nhận thấy dự án có rủi ro có thể ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng có tài sản đảm bảo cho khoản vay. Đây sẽ là một phương tiện để thu hồi nợ, đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. 1.3.2. Vai trò của hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD của NHTM. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại nói chung, hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD nói riêng đều thể hiện những vai trò quan trọng không chỉ với ngân hàng mà với cả nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại với khu vực kinh tế tư nhân đã và đang ngày càng thể hiện rõ tầm quan trọng riêng có đối với các DNNQD cũng như với bản thân các ngân hàng. 1.3.2.1. Đối với DNNQD. Thứ nhất, góp phần cung ứng nguồn vốn với chi phí rẻ cho các DNNQD. Luôn phải tận dụng các nguồn lực với chi phí rẻ nhất là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận của mình. Đặc biệt với các DNNQD khi mà quy mô vốn còn hạn chế thì việc tìm kiếm nguồn vốn trong ngắn hạn với chi phí thấp và thời gian ngắn lại càng đóng vai trò quan trọng. Để có thể huy động vốn thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện về tổ chức niêm yết theo quy định của Ủy ban chứng khoán nhà nước. Với các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ thì khó có thể đáp ứng được điều này. Mặc dù với mức rủi ro cho doanh nghiệp thấp vì rủi ro của doanh nghiệp sẽ được chia đều cho những cổ đông nhưng việc phát hành cổ phiếu ra thị trường đồng nghĩa với việc sản sẻ quyền sở hữu doanh nghiệp. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng quản lý và điều hành của doanh nghiệp. Thêm vào đó, cổ tức cho các cổ đông sẽ được lấy từ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp nên sẽ ảnh hưởng đến phần lợi nhuận giữ lại để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nên mặc dù đây là nguồn vốn có chi phí tương đối rẻ nhưng không phù hợp với việc sử dụng trong thời gian ngắn và khả năng huy động nhanh để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài việc tăng nguồn vốn bằng việc phát hành cổ phiếu mới, các doanh nghiệp có thể thu hút vốn từ việc phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, với uy tín và quy mô vốn của các doanh nghiệp thì khó có thể tạo nên sự hấp dẫn cho trái phiếu trên thị trường, do đó lãi suất của trái phiếu phải cao hơn so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng thương mại. Chi phí trả lãi cho trái phiếu phát hành sẽ tạo nên một áp lực trả nợ lớn cho các doanh nghiệp. Cũng như với phát hành cổ phiếu, việc tăng vốn nợ bằng phát hành trái phiếu không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể áp dụng được và không thể huy động trong ngắn hạn. Ngược lại, vay ngắn hạn ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình mà vẫn giữ được quyền sở hữu doanh nghiệp. Có thể vay vốn từ ngân hàng với khối lượng linh hoạt và thời gian nhanh chóng chính là ưu thế hơn hẳn so với hai cách gia tăng nguồn vốn nợ trên. Ngoài ra, chi phí trả lãi vay ngân hàng sẽ được tính vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp và tạo nên một khoản tiết kiệm nhờ thuế, làm tăng lợi nhuận sau thuế cho doanh nghiệp. Mặc dù, tỷ lệ nợ quá cao sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tăng rủi ro và giảm giá cổ phiếu. Tuy nhiên đây là nguồn có chi phí tương đối rẻ so với các nguồn còn lại. Việc chấp nhận rủi ro trong ngắn hạn để đạt được sự phát triển trong tương lai là một quyết định mà các._. doanh nghiệp nên cân nhắc. Thứ hai, cho vay ngắn hạn của NHTM là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các DNNQD để thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các DNNQD. Như chúng ta đã biết, quy mô vốn nhỏ là rào cản lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Với lượng vốn tự có, doanh nghiệp chỉ có thể đủ để tự trang bị các tài sản cố định như: nhà xưởng, máy móc thiết bị. Nhưng để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể thiếu vốn lưu động. Nguồn vốn từ vay ngắn hạn ngân hàng đã bổ sung kịp thời cho sự thiếu hụt đó, giúp cho công việc kinh doanh diễn ra bình thường, liên tục và có hiệu quả. Trong quá trình từ khi sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa, vốn của doanh nghiệp có thể bị găm giữ lại trong một số khâu như khi doanh nghiệp ứng trước tiền cho người cung cấp, bán chịu cho người bán lẻ, hàng tồn kho… Sự chậm trễ đó sẽ làm giảm tốc độ luân chuyển vốn, giảm vòng quay của vốn và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó để có thể bắt đầu một chu kỳ sản xuất kinh doanh mới, hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại đã cung ứng lượng vốn cần thiết cho doanh nghiệp. Còn đối với các DNNQD hoạt động kinh doanh có thời vụ, nhu cầu vốn lưu động sẽ tăng cao khi cần chuẩn bị sản xuất phục vụ mùa vụ đó như nhu cầu mua nguyên vật liệu mới, nhập kho bán thành phẩm,… Khi đó các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm nguồn tài trợ từ phía ngân hàng để có thể tiến hành hoạt động sản xuất. Lượng vốn lưu động từ nguồn vốn vay ngắn hạn ngân hàng sẽ giúp các doanh nghiệp có nắm bắt kịp thời nhu cầu của xã hội, nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp, từ đó góp phần tăng lợi nhuận tích lũy để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Như vậy, nhờ có thể vay vốn ngắn hạn của các NHTM mà các DNNQD có được vốn lưu động cần thiết để không những nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mà còn có cơ hội để tái sản xuất mở rộng. Các doanh nghiệp cũng có thêm cơ hội nâng cao chất lượng của các nguyên vật liệu đầu vào, sản xuất đồng thời nhiều hàng hóa để từ đó có thể cung ứng ra những sản phẩm với chất lượng cao và đa dạng về mẫu mã chủng loại, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của xã hội. Thứ ba, cho vay ngắn hạn giúp các DNNQD sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Vai trò này bắt nguồn từ chức năng giám sát của NHTM với tư cách là người cho vay đối với các DNNQD. Các NHTM chỉ cho vay sau khi đã sàng lọc cẩn thận khách hàng của mình từ khâu thẩm định hồ sơ của doanh nghiêp và ngân hàng phải thấy rõ được hiệu quả món vay, năng lực tài chính lành mạnh và có năng lực quản trị, có khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Ngân hàng cũng kiểm soát chặt chẽ khách hàng trong quá trình sử dụng món vay vào đúng mục đích, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thì mới bảo đảm có lãi sau khi hoàn trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng còn đóng vai trò tư vấn giúp các doanh nghiệp xác định phương hướng sản xuất kinh doanh phù hợp, hiệu quả, những mặt yếu kém và biện pháp khắc phục để hạn chế tối đa rủi ro có thể xẩy ra. Mặt khác, áp lực phải trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng sẽ tạo nên động lực để các doanh nghiệp phải sử dụng món vay có hiệu quả nhất để cao năng suất và làm gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Áp lực phải trả nợ cũng làm các doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước khi đưa ra các quyết định mới, giảm thiểu các phương án có tính rủi ro cao. Duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, trả nợ đúng hạn còn là mục tiêu của các doanh nghiệp để có thể tạo lập mối quan hệ lâu dài với ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh là động lực để phát triển nền kinh tế. Các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ bị phá sản, chỉ có các doanh nghiệp kinh doanh có lãi mới có khả năng đứng vững trên thị trường. Do đó các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau để có thể tồn tại, phát triển và khẳng định vị thế của mình. Các DNNQD để có thể hoạt động hiệu quả, tăng cao giá trị tài sản của chủ chỉ khi các doanh nghiệp phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo của mình. Đặc biệt khi các doanh nghiệp này cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn, trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy, các DNNQD phải chủ động hơn trong việc nắm bắt những cơ hội, tìm kiếm những hướng đi mới phù hợp với nguồn lực hiện có của doanh nghiệp. Khi đó, nguồn vốn vay ngắn hạn từ ngân hàng thương mại cùng với sự tư vấn của nó có thể giúp doanh nghiệp chớp lấy cơ hội và dành hiệu quả cao. 1.3.2.1. Đối với ngân hàng thương mại Thứ nhất, cho vay ngắn hạn góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng. Cho vay là hoạt động chủ yếu của các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, và là phần bù đắp chi phí bỏ ra để huy động nguồn vốn và các chi phí hoạt động khác của ngân hàng. Do đó, mở rộng cho vay ngắn hạn sẽ làm tăng thu nhập từ lãi, từ đó làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các NHTM nước ta phần lớn có quan hệ truyền thống với các doanh nghiệp nhà nước. Đây là đặc điểm xuất phát từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung trước đây. Các DNNN đang ngày càng bị thu hẹp do hoạt động không có hiệu quả, tính năng động và nhạy bén thấp. Do đó, hoạt động cho vay của ngân hàng đối với khu vực này cũng bị thu hẹp dần, và làm giảm thu nhập từ lãi của ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng hiện nay đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường trên mọi lĩnh vực. Do khan hiếm về nguồn vốn, các ngân hàng không ngừng đẩy mạnh hoạt động huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Sự cạnh tranh mạnh mẽ đó buộc các ngân hàng phải chấp nhận cuộc chạy đua lãi suất. Như vậy, chi phí hoạt động sẽ tăng lên và làm ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được của ngân hàng. Từ cả hai lý do trên, để có thể duy trì và làm tăng thu nhập của mình, các ngân hàng phải thực hiện việc mở rộng hoạt động cho vay đối với những khách hàng tiềm năng. Số lượng lớn của DNNQD thực sự sẽ là một thị trường đầy tiềm năng cho ngân hàng. Thứ hai, cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD là hoạt động làm giảm rủi ro cho NHTM. Phần lớn nguồn vốn của ngân hàng có được là từ huy động tiền gửi tiết kiệm trong dân cư. Nguồn vốn này chủ yếu có kỳ hạn ngắn dưới 12 tháng. Ngân hàng phải đáp ứng khả năng chi trả ngay khi khách hàng có nhu cầu rút tiền. Vì thế sẽ tạo nên rủi ro thanh khoản cao nếu ngân hàng sử dụng nguồn ngắn hạn này để đầu tư dài hạn. Sự phù hợp về kỳ hạn giữa nguồn huy động và nguồn sử dụng không chỉ làm tăng thu nhập mà còn là biện pháp giảm tối đa rủi ro cho hoạt động của ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động sử dụng nguồn vốn của NHTM. Chính vì vậy, mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNNQD không chỉ mang lại lợi ích cho chính các NHTM mà còn có còn có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của các DNNQD nói riêng, và của cả nền kinh tế quốc dân nói chung. 1.3.3. Các loại hình cho vay ngắn hạn đối với DNNQD của NHTM. 1.3.3.1. Phân loại theo mục đích sử dụng vốn vay. 1.3.3.1.1. Cho vay mua hàng dự trữ. Các khoản cho vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô hoặc hàng hóa (thành phẩm). Các khoản cho vay này thường tận dụng “chu kỳ tiền mặt” thông thường trong một hãng kinh doanh. Do vậy, kỳ hạn của khoản vay bắt đầu được tính từ khi doanh nghiệp cần vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc (có thể trong vòng từ 60 đến 90 ngày) khi doanh nghiệp thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho ngân hàng. 1.3.3.1.2. Cho vay vốn lưu động Các khoản cho vay vốn lưu động thường được dùng để đáp ứng sản xuất và nhu cầu tín dụng trong các thời kỳ quan trọng của chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như mua hàng dự trữ hoặc mua nguyên vật liệu… Các khoản cho vay vốn lưu động có thời hạn từ vài ngày đến 1 năm, và thường được đảm bảo bằng các khoản phải thu hoặc được thế chấp bằng hàng tồn kho và doanh nghiệp sẽ chịu lãi suất (thường là) thả nổi trên lượng tiền vay thực tế họ sử dụng. 1.3.3.1.3. Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng Các khoản cho vay này nhằm hỗ trợ các công trình xây dựng nhà ở, các toà nhà văn phòng, trung tâm thương mại và các công trình khác. Các khoản cho vay này này cung cấp vốn cho bên thi công để thuê nhân công, thuê thiết bị xây dựng, mua vật liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng. Do đó, dù thời gian xây dựng công trình kéo dài nhưng các khoản cho vay lại chỉ mang tính tạm thời. Khi giai đoạn xây dựng kết thúc, bên thi công thường vay thế chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính khác để lấy tiền thanh toán cho các khoản vay xây dựng ngắn hạn. Trong thực tế, chỉ khi công ty xây dựng chắc chắn có được cam kết cho vay thế chấp để tiếp tục tài trợ dài hạn cho dự án sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng thì ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn. 1.3.3.1.4. Cho vay kinh doanh chứng khoán Những khoản cho vay ngắn hạn này được sử dụng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp mua chứng khoán mới và duy trì danh mục đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán này được bán hoặc đến hạn thanh toán. Các khoản cho vay này có chất lượng cao do thường được đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ mà doanh nghiệp nắm giữ. Thêm vào đó, nhiều khoản vay có kỳ hạn ngắn - chỉ là vay qua đêm hoặc vài ngày, nhờ đó ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi vốn hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị trường tín dụng trở nên căng thẳng. Ngân hàng còn cho các doanh nghiệp vay để hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty và các giấy nợ của chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng khoán diễn ra khi ngân hàng giúp đỡ khách hàng trong việc mua lại các công ty khác, phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng quy mô vốn kinh doanh hiện có, hoặc ngân hàng hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư mới. 1.3.3.1.5. Cho vay kinh doanh bán lẻ Ngân hàng cấp tín dụng cho người bán lẻ để họ yêu cầu hãng sản xuất chuyển hàng. Tài sản đảm bảo cho khoản tín dụng này chính là hàng hóa mà người bán lẻ nhập về. Sau khi bán được hàng, người bán lẻ sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ khoản nợ. 1.3.3.2. Phân loại theo phương thức cấp vốn. 1.3.3.2.1. Thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời vì thủ tục đơn giản, phần lớn là không cần tài sản đảm bảo. Do đó, ngân hàng chỉ áp dụng hình thức này với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. 1.3.3.2.2. Cho vay trực tiếp từng lần Cho vay trực tiếp từng lần để hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Sau khi phân tích khách hàng, ngân hàng ký hợp đồng tín dụng với các điều kiện cụ thể như quy mô cho vay, lãi suất, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, và yêu cầu tài sản đảm bảo nếu cần do đo mỗi món vay sẽ được tách biệt với nhau. Ngân hàng thường áp dụng hình thức cho vay này với các doanh nghiệp có trình độ quản trị tài chính yếu và có nhiều rủi ro, hoặc không có quan hệ thường xuyên với ngân hàng. Ưu điểm của phương thức này là khoản tiền vay dễ giám sát và quản lý trên nhiều khía cạnh: rành mạch trong quản lý, rõ ràng trong kỳ hạn nợ và đơn giản trong tính tiền lãi. Các khoản tiền vay tạo ra những khoản tiền hoàn trả thường kỳ và chúng là những khoản vốn cho phép ngân hàng đem cho vay tiếp, vì thế có lãi hơn so với các khoản thấu chi cùng mức độ. Và các khoản vay được quyết toán vào kỳ hạn cụ thể. Nhược điểm của phương thức trước hết là việc cho các doanh nghiệp sản xuất không mang tính thời vụ, thương vụ phải vay từng lần với nhiều hợp đồng tín dụng để mua từng đợt nguyên vật liệu, trả từng đợt chi phí… đã gây không ít phiền hà cho khách hàng và ngân hàng. Có những doanh nghiệp một ngày phải cần vay đến vài món thì tương đương với việc họ phải viết đến vài giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng tín dụng,… Trong khi đó, ngân hàng không thể cứ mỗi lần cho vay lại thẩm định vì trong một thời gian ngắn các chỉ tiêu về tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp chưa kịp thay đổi. Từ đó, sẽ dẫn đến khối lượng giấy tờ lưu giữ ở ngân hàng là rất lớn. Mặt khác, việc chia quá trình tuần hoàn vốn liên tục của doanh nghiệp vay vốn thành từng thương vụ lẻ đã gây khó khăn cho việc kiểm soát sử dụng vốn vay của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp các mặt hàng và dòng vốn liên tục chu chuyển, không thể tách nổi đâu là tiền bán mặt hàng này, đâu là tiền bán mặt hàng khác thì ngân hàng sẽ rất khó trong việc kiểm soát sử dụng vốn vay vào mục đích gì. Như vậy, rõ ràng là thẩm định cho vay và kiểm soát sử dụng vốn vay không theo đặc điểm tuần hoàn của doanh nghiệp đã và đang là một cản trở cho hoạt động tín dụng. 1.3.3.2.3. Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng với trường hợp ngân hàng quy định hạn mức trong kỳ. Còn với hạn mức cuối kỳ, dư nợ có thể lớn hơn hạn mức, chỉ khi đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Nếu kiểm tra thấy tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Ưu điểm của phương thức cho vay này là thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Thêm nữa, nó tạo nên sự chủ động về quản lý ngân quỹ cho khách hàng vì khi nào khách hàng có thu nhập thì ngân hàng sẽ thu nợ. Tuy nhiên, cho vay theo hạn mức vẫn còn một số nhược điểm khác. Vì đây là hình thức cho vay mà ngân hàng chỉ áp dụng cho khách hàng có nhu cầu vay trả thường xuyên và có tín nhiệm cao với ngân hàng. Có nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay trả thường xuyên, hoạt động ổn định, tuần hoàn vốn liên tục nhưng họ chưa có uy tín với ngân hàng, do vậy các doanh nghiệp này không được vay theo phương thức hạn mức tín dụng mà chỉ được vay theo phương thức từng lần. Các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể cũng gây nên khó khăn cho ngân hàng trong việc kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Do đó, ngân hàng chỉ có thể phát hiện các khoản vay có vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút. 1.3.3.2.4. Cho vay luân chuyển Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền vay. Ngân hàng sẽ cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hóa mua vào (có hóa đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Vì vậy, ưu điểm của cho vay luân chuyển là thuận tiện cho các khách hàng do thủ tục vay được thực hiện một lần cho nhiều khoản vay và khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên, đây là phương thức cho vay gắn liền với hoạt động lưu chuyển hàng hóa của doanh nghiệp nên khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn các khoản vay không được quy định rõ ràng. 1.4. Mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD của ngân hàng thương mại. 1.4.1. Quan điểm về mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD của NHTM. Mở rộng là hoạt động làm cho phạm vi, quy mô lớn hơn trước. Do đó, mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn của NHTM đối với DNNQD có thể hiểu là làm cho phạm vi và khối lượng cho vay của ngân hàng đối với DNNQD tăng lên so với trước. Bao gồm sự tăng lên về quy mô dư nợ cho vay đối với DNNQD, số lượng khách hàng của ngân hàng là DNNQD,… Bên cạnh đó, mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD phải trên cơ sở nâng cao chất lượng của hoạt động cho vay như thay đổi tính chất, cơ cấu theo hướng hợp lý của các khoản vay, giảm tỷ lệ nợ quá hạn... Có như vậy thì mở rộng hoạt động cho vay mới mang tính bền vững. Tóm lại, mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD là việc gia tăng khối lượng trên cơ sở nâng cao chất lượng các khoản vay. 1.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD. 1.4.2.1. Số doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn tại ngân hàng. Đây là chỉ tiêu cụ thể nhất để phản ánh quá trình mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính bằng tổng số các DNNQD có quan hệ vay vốn ngắn hạn với ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm). 1.4.2.2. Dư nợ cho vay ngắn hạn của các DNNQD. Đây là chỉ tiêu phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ ngân hàng tại một thời điểm cụ thể. Chỉ tiêu này thường được thể hiện là số dư cuối kỳ của doanh nghiệp trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Nếu dư nợ của kỳ này tăng hơn so với kỳ trước hoặc vượt kế hoạch càng nhiều càng thể hiện mức độ mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh càng cao. Tuy nhiên, để có thể khẳng định ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì không chỉ đơn thuần xem xét chỉ tiêu trên mà cần đặt trong tổng thể với các chỉ tiêu khác. 1.4.2.3. Tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn của DNNQD. Chỉ tiêu này được tính bằng số tương đối, và bao gồm 2 loại: - Tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn DNNQD so với dư nợ của DNNQD (T1): chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng của dư nợ cho vay ngắn hạn DNNQD trong cơ cấu dư nợ của DNNQD. T1 = Dư nợ cho vay ngắn hạn của DNNQD * 100% Dư nợ cho vay của DNNQD Tỷ trọng này phản ánh sự mở rộng cho vay ngắn hạn so với cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD. Nếu tỷ lệ này tăng lên theo thời gian chứng tỏ ngân hàng ngày càng chú trọng vào cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD. - Tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn DNNQD so với tổng dư nợ của ngân hàng (T2): T2 = Dư nợ cho vay ngắn hạn của DNNQD * 100% Dư nợ cho vay Chỉ tiêu trên thể hiện tỷ lệ của cho vay ngắn hạn của DNNQD trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ này ngày càng tăng cho thấy sự tập trung của ngân hàng đối với mở rộng cho vay ngắn hạn cho các DNNQD. 1.4.2.3. Tốc độ tăng trưởng dư nợ ngắn hạn của các DNNQD (T3). T3 = DSCV ngắn hạn năm nay – DSCV ngắn hạn năm trước * 100% DSCV ngắn hạn năm trước Tỷ lệ này phản ánh tốc độ cho vay ngắn hạn DNNQD của ngân hàng tăng lên hay giảm đi. Nếu chỉ tiêu này dương có nghĩa là hoạt động cho vay ngắn hạn của DNNQD được mở rộng năm sau hơn so với năm trước. Thêm vào đó, nếu tỷ lệ này tăng dần theo thời gian thì có thể kết luận là tốc độ mở rộng ngày một tăng. Tuy nhiên, tỷ lệ trên cũng cần đạt trong mối tương quan so sánh với tốc độ tăng trưởng của các thành phần kinh tế khác mới có thể thấy rõ xu hướng hoạt động của ngân hàng. Vì đó có thể chỉ là việc tăng lên đơn thuần theo xu hướng chung với các thành phần khác mà không thực chất nếu tỷ lệ trên dương nhưng nhỏ hơn so với tốc độ tăng trưởng của các thành phần khác. 1.4.2.4. Doanh số cho vay ngắn hạn trong kỳ. Phản ánh số tiền mà ngân hàng đã cho doanh nghiệp vay trong kỳ. Doanh số này cao chứng tỏ quy mô đang tăng. 1.4.2.5. Doanh số thu nợ vay ngắn hạn trong kỳ. Đây là chỉ tiêu phản ánh số tiền mà ngân hàng đã thu về từ vốn vay của các DNNQD. Chỉ tiêu này càng cao càng thể hiện chất lượng các khoản vay là tương đối tốt, vì ngân hàng có thể thu hồi đúng hạn các món vay. 1.4.2.6. Nợ quá hạn và tỷ trọng nợ quá hạn của hoạt động cho vay ngắn hạn của DNNQD. Nợ quá hạn là toàn bộ só dư nợ ngắn hạn (cả gốc và lãi) của các doanh nghiệp này đã đến hạn thanh toán mà chưa được xử lý gia hạn nợ, xóa nợ. Còn tỷ lệ nợ quá hạn (T4) được tính theo công thức: T4 = Nợ quá hạn cho vay ngắn hạn DNNQD * 100% Dư nợ ngắn hạn của DNNQD Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng của các khoản vay của ngân hàng đối với các DNNQD. Từ đó, mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD mới đạt hiệu quả cao và bền vững. 1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD. 1.4.3.1. Các nhân tố chủ quan. 1.4.3.1.1. Chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại là văn bản chính thức của ngân hàng đưa ra những hướng dẫn đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Do đó, chính sách thường được xây dựng trong từng thời kỳ cụ thể, phù hợp với điều kiện về vốn, thị trường và đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân hàng. Một chính sách tín dụng cần được xây dựng rõ ràng, cụ thể, trong đó thể hiện quan điểm và định hướng của ngân hàng. Nếu ngân hàng muốn mở rộng cho vay đối với các DNNQD thì chính sách tín dụng là văn bản thể hiện rõ ràng nhất định hướng đó với những quy định liên quan về hỗ trợ việc cho vay đối với các DNNQD như quy trình thủ tục cho vay, tài sản đảm bảo khoản vay, các ưu đãi đối với khách hàng… Chính sách mở rộng và các quy định liên quan sẽ giúp cho các cán bộ tín dụng có được định hướng đúng đắn, thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả cho vay. Ngược lại, một chính sách tín dụng không có định hướng rõ ràng sẽ tạo kẽ hở trong quá trình thực hiện và là nguy cơ cao cho các rủi ro tín dụng xẩy ra. Đối với các DNNQD, do đặc thù nhanh nhạy với thị trường nên lĩnh vực kinh doanh đa dạng, quy mô và phạm vi hoạt động phong phú. Do đó, để mở rộng cho vay ngắn hạn đối với loại hình này đòi hỏi ngân hàng cần phải nghiên cứu kỹ tình hình hoạt động, nguồn vốn và quá trình luân chuyển vốn của các doanh nghiệp để có thể đưa ra các chính sách cụ thể đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Chỉ có như vậy, chính sách tín dụng của ngân hàng mới có thể thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD trên cơ sở nâng cao chất lượng. 1.4.3.1.2. Chính sách Marketing. Trong nền kinh tế thị trường, Marketing được coi là triết lý kinh doanh đáng giá nhất đối với lĩnh vực ngân hàng. Marketing được tiếp cận vào những năm 60 của thế kỷ XX. Do sự cạnh tranh liên tục trên thị trường ngân hàng ngày càng gay gắt mang tính chất toàn cầu, nên các ngân hàng buộc phải quan tâm để đáp ứng những nhu cầu và mong muốn của khách hàng, và Marketing ngân hàng đã ra đời. Ở Việt Nam, hệ thống NHTM được chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường thì nhiều loại ngân hàng mới đã ra đời như: Ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài… Các ngân hàng mới nhận thấy vai trò quan trọng của Marketing ngân hàng trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt đông tín dụng nói riêng, tuy nhiên hiệu quả của nó vẫn còn nhiều hạn chế. Trong hoạt động ngân hàng, hoạt động Marketing luôn đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự thành công của mỗi ngân hàng. Bởi vì, hoạt động maketing ngân hàng giúp ngân hàng xác định được nhóm khách hàng mục tiêu, loại sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cần cung ứng ra thị trường, tổ chức tốt quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và hoàn thiện mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng trên thị trường. Đồng thời, hoạt động Marketing ngân hàng còn trở thành cầu nối gắn kết hoạt động của ngân hàng với khách hàng, nâng cao hình ảnh, uy tín của ngân hàng và góp phần tạo vị thế cạnh tranh của ngân hàng,...Vì vậy, nếu ngân hàng có hoạt động Marketing hiệu quả, có các chính sách Marketing hấp dẫn thì hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ diễn ra thuận lợi và có hiệu quả hơn. Do vậy, hoạt động Marketing ngân hàng có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc mở rộng cho vay của ngân hàng. 1.4.3.1.3. Tình hình huy động vốn của NHTM. Tính chất đặt trưng nhất của ngân hàng là đi vay để cho vay, bởi vậy nếu không huy động được vốn ngân hàng sẽ không có vốn để cho vay. Do đặc trưng trên nên lãi suất mà ngân hàng quy định có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh. Vì vậy, lãi suất cho vay phải đủ để trang trải mọi chi phí cho hoạt động ngân hàng mà vẫn đảm bảo lợi nhuận. Do đó, nếu ngân hàng huy động vốn với lãi suất quá cao điều này sẽ đẩy lãi suất cho vay lên cao làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Vì vậy, việc huy động vốn cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến mở rộng tín dụng của các ngân hàng. 1.4.3.1.4. Chất lượng nhân sự. Thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, kiến thức tổng hợp, trách nhiệm với công việc, đạo đức,… Dưới con mắt của khách hàng thì cán bộ tín dụng là hình ảnh thu nhỏ của ngân hàng. Vì vậy, phong cách giao tiếp của cán bộ tín dụng có tác dụng tạo dựng niền tin và sự hài lòng ở khách hàng. Do vậy, việc thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ, tư cách đạo đức cho cán bộ ngân hàng là một vấn đề cần thiết nó đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ một cách nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống, thêm vào đó những hiểu biết mang tính tổng hợp sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thực hiện công việc một cách dễ dàng hơn. 1.4.3.1.5. Thông tin tín dụng. Cho vay thực sự là vấn đề không đơn giản, trên thực tế không phải doanh nghiệp nào khi vay vốn cũng sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đó là chưa kể đến những kẻ có hành vi lừa đảo,… Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao phải có hệ thống thông tin hữu hiệu, phục vụ cho công tác này một cách chính xác, kịp thời. Các thông tin tín dụng bao gồm: thông tin tài chính, uy tín, trình độ quản lý, năng lực pháp lý, thông tin về kinh tế, xã hội,… Sự chính xác, kịp thời, đầy đủ của các thông tin là điều kiện để xem xét, phân tích nhằm tìm ra những cơ hội, thách thức trong kinh doanh để ra quyết định đúng đắn đem lại hiệu quả kinh doanh. Rõ ràng, việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống thông tin tín dụng với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng là điều kiện cần thiết của mỗi ngân hàng. 1.4.3.2. Các nhân tố khách quan. 1.4.3.2.1. Các nhân tố từ phía DNNQD. - Quy mô của doanh nghiệp. Quy mô doanh nghiệp càng cao, năng lực tài chính càng vững mạnh thì khả năng đáp ứng các điều kiện cho vay đối với các doanh nghiệp càng lớn. Do vậy, doanh nghiệp sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng và hoạt động cho vay của ngân hàng cũng có hiệu quả hơn. Do đó, trở ngại đầu tiên trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng của các DNNQD xuất phát từ quy mô của doanh nghiệp. Các DNNQD chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu chưa tạo dựng được uy tín bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp khó tìm người bảo lãnh cho mình trong quan hệ vay vốn với ngân hàng. Vì vậy, việc khó tiếp cận được vốn vay ngân hàng đối với các DNNQD là điều dễ hiểu. - Tính khả thi của dự án. Muốn vay vốn ngân hàng thì các DNNQD phải lập được dự án đầu tư có tính khả thi, có hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận mà dự án thu được phải đủ để bù đắp chi phí, trả lãi và vốn vay ngân hàng, đồng thời vẫn còn một phần lợi nhuận cho doanh nghiệp... Tuy nhiên, việc xây dựng dự án khả thi của không ít các DNNQD còn yếu, trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ các doanh nghiệp lại chưa phát triển. Bên cạnh đó, còn nhiều DNNQD lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị doanh nghiệp, nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Ngoài ra, còn nhiều doanh nghiệp lập báo cáo tài chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế. Một số các doanh nghiệp khác còn làm trái chức năng được cấp phép, làm trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết... Do nguồn tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng xây dựng dự án khả thi yếu, không ít doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chạy theo thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể, nên mức độ rủi ro cao, trong khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt công tác kế toán thống kê. Một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh, nên việc tiếp cận vốn vay từ ngân hàng thương mại còn hạn chế. Do đó, tính khả thi của dự án có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định cho vay hay không cho vay của ngân hàng. - Tài sản bảo đảm, thế chấp. Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc vay vốn của các DNNQD. Bởi vì, tài sản bảo đảm, thế chấp chính là căn cứ để ngân hàng xác định mức cho vay tối đa đối với khách hàng. Vì vậy, nếu doanh nghiệp có đủ tài sản đảm bảo, thế chấp hoặc có tài sản bảo đảm, thế chấp có giá trị cao thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận được vốn vay của ngân hàng hơn. Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD đều không có tài sản bảo đảm, thế chấp đủ tiêu chuẩn. Giá trị tài sản bảo đảm, thế chấp thường thấp hơn nhu cầu vốn cần vay. Trong khi đó, các DNNQD chưa có đủ uy tín đối với ngân hàng để có thể vay bằng tín chấp. Điều này gây trở ngại cho các DNNQD tiếp cận vốn vay của ngân hàng. 1.4.3.2.2. Môi trường kinh tế. Một nền kinh tế không ngừng tăng trưởng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn. Các chủ thể trong nền kinh tế có thể tự tích luỹ hoặc sử dụng các hình thức tự tài trợ khác, tuy nhiên các hình thức này đều khá tốn kém và đòi hỏi trong thời gian dài. Do đó, để đáp ứng đúng yêu cầu của việc không ngừng đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô hoạt động, các doanh nghiệp sẽ sử dụng hình thức vay vốn của ngân hàng. Vì thế, khi nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp cần càng nhiều vốn thì hoạt động cho vay của NHTM càng ngày càng được mở rộng. 1.4.3.2.3. Môi ._.y ngắn hạn đối với các DNNQD. Các hình thức cho vay trên tuy đơn giản cho ngân hàng trong việc xác định thời hạn và tính lãi vay. Nhưng cả doanh nghiệp và ngân hàng đều tốn nhiều thời gian và chi phí cho mỗi món vay, không đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu cấp thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thiếu đa dạng của các sản phẩm cung cấp đã hạn chế sự lựa chọn của khách hàng, chưa đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng và chưa tạo nên sự khác biệt của ngân hàng so với các ngân hàng khác. Để có thể hạn chế được nhược điểm của hai phương thức cho vay trên, ngân hàng nên áp dụng hình thức cho vay luân chuyển. Với hình thức này, ngân hàng sẽ mở tài khoản thanh toán cho khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu vốn để mua hàng hóa, ngân hàng sẽ rút tiền từ tài khoản của khách hàng để thanh toán. Sau khi hàng được bán hết, tiền được thu về tài khoản thì ngân hàng lập tức thu nợ. Đây là hình thức cho vay mà vốn vay của ngân hàng phù hợp nhất với hoạt động luân chuyển hàng hóa của doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu vốn, giúp doanh nghiệp nắm bắt được thời cơ để phát triển. Đối với ngân hàng thì việc kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp thông qua tài khoản thanh toán của doanh nghiệp cũng giúp ngân hàng sớm nhận biết được những bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp để có thể đưa ra những biện pháp kịp thời giúp đỡ doanh nghiệp, hoặc tìm cách thu hồi món vay. 3.2.1.3. Xác định thời hạn cho vay hợp lý đối với từng doanh nghiệp. Thời hạn của mỗi khoản vay sẽ không chỉ căn cứ vào mục đích vay mà còn căn cứ vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ, các nguồn trả nợ khác của khách hàng và nguồn vốn cho vay của Ngân hàng. Các Ngân hàng cần tham gia như một nhà đầu tư, có thể coi Ngân hàng như một cổ đông được ưu tiên thu lãi ngay từ đầu tiên và phải rút ra khỏi hội đồng quản trị sau khi đã thu được toàn bộ vốn vay cả gốc lẫn lãi. Một nhân tố hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an toàn vốn vay cho Ngân hàng cũng như tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng số tiền vay được hiệu quả là xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý. Điều này phụ thuộc vào chính bản thân Ngân hàng mà cụ thể là cán bộ tín dụng trực tiếp quản lý khoản vay đó. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng việc định kỳ hạn nợ cho khoản vay tuyệt đối chính xác là khó nhưng có thể dựa trên những thông tin từ khách hàng như báo tài chính gồm: bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, bảng lưu chuyển tiền tệ và kế toán sản xuất kinh doanh, hợp đồng mua bán nợ doanh nghiệp kết hợp với trình độ cán bộ tín dụng sẽ xác định được kỳ hạn nợ tương đối chính xác, cần tránh đặt một kỳ hạn nợ quá ngắn không đủ một chu kỳ luân chuyển vốn gây khó khăn cho khách hàng hoặc một kỳ hạn nợ quá dài làm cho khách hàng khi có tiền chưa muốn trả Ngân hàng ngay mà lại sử dụng vào việc khác. 3.2.1.4. Đa dạng hóa các hình thức đảm bảo tiền vay. Bảo đảm tín dụng là việc bảo vệ quyền lợi của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Mục đích của bảo đảm tiền vay: nhằm nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, nhằm phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của bên vay không thực hiện được, hoặc xảy ra rủi ro không lường trước, nhằm phòng ngừa gian lận Nhưng hiên nay, vấn đề tài sản đảm bảo tiền vay là một khó khăn lớn cho các DNNQD khi tiếp cận nguồn vốn Ngân hàng. Thực tế cho thấy, nhiều Ngân hàng khi xem xét một đơn xin vay hầu như chỉ quan tâm đến giá trị tài sản thế chấp và các giấy từ liên quan đến tài sản thế chấp của khách hàng có đầy đủ và hợp pháp không. Nhưng trong điều kiện nước ta thời gian qua thì tài sản thế chấp chưa thể được coi là một đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp bởi vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khúc mắc, Ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn khi doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Vì vậy vấn đề tài sản thế chấp không còn là điều kiện quan trọng nhất để Ngân hàng xem xét cho vay nữa mà điều cần quan tâm là tính khả thi của dự án xin vay, hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, uy tín trên thị trường và sự sẵn lòng trả nợ đúng hạn của đơn vị đó. Trên thực tế hiện nay, việc sử dụng tài sản làm đảm bảo cho khoản vay không còn mang tính chất bắt buộc. Theo NĐ 85/2002/NĐCP, Thông tư số 07/2003/NHNN thì các Ngân hàng khi xem xét cho vay có thể lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm. Bên cạnh đó, Chi nhánh cần xem xét để có thể chấp nhận toàn bộ hoặc một phần các bất động sản như: nhà ở, nhà xưởng, nhà kho,… Hoặc các tài sản khác như máy móc thiết bị, hàng hóa, phương tiện vận tải, cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu,… Như vậy, việc đa dạng hóa các hình thức đảm bảo tiền vay sẽ giúp các DNNQD có ý tưởng kinh doanh tốt, có phương án khả thi có thể dễ dàng hơn để có thể vay vốn ngân hàng. Khi đó, ngân hàng không những mở rộng được quy mô cho vay, mà còn tăng khả năng đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng. 3.2.2. Thực hiện tốt công tác Marketing ngân hàng. Một trong những yếu điểm của các NHTM nói chung và NH ĐT&PT HN nói riêng là hoạt động Marketing kém hiệu quả. Do đó, để tăng sự hiểu biết của khách hàng về Chi nhánh với các sản phẩm dịch vụ đã và đang được cung cấp, Chi nhánh cần đầu tư thích đáng để công tác Marketing thực sự phát huy hiệu quả. Chi nhánh cần xây dựng đồng bộ các chiến lược Marketing phù hợp, bao gồm từ hoạt động nghiên cứu thị trường, khuyếch trương, quảng cáo, và chăm sóc khách hàng,… 3.2.2.1. Nghiên cứu thị trường. Ngân hàng phải tập trung vào nghiên cứu thấu đáo thị trường, làm sáng tỏ nhu cầu hiện tại và tiềm năng của thị trường trong tương lai để từ đó lựa chọn được những đoạn thị trường mục tiêu thích hợp. Trên cơ sở đó, ngân hàng sẽ xây dựng được mục tiêu trong ngắn hạn, dài hạn, phát huy được lợi thế cạnh tranh của ngân hàng để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu vay vốn đa dạng va phức tạp của khách hàng. Từ đó ngân hàng sẽ ngày càng được nâng cao uy tín và khẳng định vị thế của mình trên thị trường. 3.2.2.2. Chíến lược khuyếch trương. Trong tình hình hiện nay các tầng lớp dân cư, hộ sản xuất hiểu biết hạn chế về hoạt động tín dụng Ngân hàng. Nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng, việc vay vốn của Ngân hàng khó khăn về thủ tục, thời gian hơn nữa họ cũng không hiểu biết về các hình thức cho vay mà Ngân hàng đang áp dụng như về thời gian, lãi suất từ đó Ngân hàng bị mất khả năng lựa chọn làm đơn vị tài trợ vốn cho khách hàng. Trong cơ chế thị trường, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, Ngân hàng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay đối với khu vực DNNQD. Đối với từng đối tượng khách hàng phải áp dụng các biện pháp Marketing khác nhau, phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của Ngân hàng. Một số biện pháp quan trọng cần xem xét bao gồm: - Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng: Quảng cáo luôn là một biện pháp hữu hiệu đối với kỳ loại hình doanh nghiệp nào. Các phương tiện được áp dụng ở đây là truyền thanh, truyền hình, các loại báo chí, trên Internet. Khi có một sản phẩm mới ra đời hoặc có sự thay đổi trong cung cấp dịch vụ, NH ĐT&PT HN nên thông báo rộng rãi ra công chúng, để các doanh nghiệp nắm được thông tin mới nhất về những lợi ích do ngân hàng cung cấp. - Trực tiếp tiếp cận khách hàng: Hoạt động này được thực hiện thường xuyên, mọi lúc mọi nơi. Cán bộ ở các bộ phận giao dịch với khách hàng có thể giới thiệu về sản phẩm tín dụng, mời khách hàng đặt quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Các cán bộ Ngân hàng khi đi dự hội thảo, hội nghị, tranh thủ làm quen với các doanh nghiệp và giới thiệu họ đến giao dịch với Ngân hàng mình. Tiếp tục tổ chức tốt hội nghị khách hàng, qua đó củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Ngân hàng với doanh nghiệp, lấy ý kiến của các doanh nghiệp về những mong muốn của họ, những khó khăn thực tế doanh nghiệp phải đối mặt khi vay vốn Ngân hàng. Từ đó nắm được nhu cầu của khách hàng và đề ra những phương hướng đáp ứng, ngoài ra còn có thể hiểu thêm những mong muốn của khách hàng để nghiên cứu, triển khai những loại hình sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng những nhu cầu đó. 3.2.3. Phát triển nguồn vốn của ngân hàng tạo tiền đề cho việc phát triển nghiệp vụ cho vay. Tổng dư nợ của các ngân hàng trong thời gian qua đã tăng nhanh, nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vốn để phát triển nền kinh tế. Do đó, trước tiên, ngân hàng muốn mở rộng lượng vốn để cung ứng cho nền kinh tế thì phải xây dựng được quy mô nguồn vốn lớn. Để có thể tăng cường huy động vốn, các NHTM trước hết phải nâng cao uy tín của mình. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn thành công đều cần có “chữ tín” trong kinh doanh. Đặc biệt là NHTM, bởi lẽ, NHTM cũng là một loại hình doanh nghiệp với hoạt động chủ yếu là “đi vay để cho vay”. Nguồn vốn mà ngân hàng huy động được nhưng không phải ngân hàng đảm bảo hoàn trả bằng thế chấp, cầm cố tài sản mà bằng uy tín, sự tin tưởng của công chúng và xã hội vào hoạt động của mình. Do vậy, tuy đây là yếu tố vô hình, nhưng lại là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi ngân hàng. Trong lĩnh vực huy động vốn, uy tín của ngân hàng được xã hội quan niệm bằng sự an toàn đối với số vốn của người gửi; là sự đảm bảo số vốn cho họ, về cơ bản, phải tạo ra mức thu nhập thực sự; bằng sự đơn giản và thuận tiện trong giao dịch; chặt chẽ về mặt pháp lý để bảo vệ lợi ích cho cả người gửi tiền và ngân hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn với sức hấp dẫn và tiện ích cao cũng là cách để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, đây là công cụ mạnh nhất trong cạnh tranh của các NHTM. Gần đây, ngân hàng áp dụng các hình thức mới linh hoạt và hấp dẫn hơn như mở tài khoản cá nhân và thực hiện các dịch vụ thanh toán cá nhân, tiết kiệm dự thưởng, trái phiếu vô danh… tuy nhiên, mức độ đạt đươc trong huy động vốn còn khiêm tốn và chưa thu hút được sự quan tâm của xã hội. Để đổi mới, ngân hàng phải biết kết hợp giữa kinh nghiệm đã rút ra từ thực tiễn trong nước với kinh nghiệm của các NHTM trên thế giới về danh mục sản phẩm huy động và kỹ thuật ứng dụng, từ đó lựa chọn danh mục tối ưu phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Bên cạnh việc xây dựng danh mục các hình thức huy động mới, biện pháp mang tính căn bản và lâu dài là mở rộng được diện người dân và doanh nghiệp có tài khoản tiền gửi và thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Ngân hàng cần xác định mục tiêu là huy động tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tức là thu hút cả lượng tiền tạm thời nhàn rỗi, chứ không chỉ có thu hút các khoản tiền tiết kiệm và tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp lớn. Mở rộng hình thức huy động vốn bằng chứng chỉ tiền gửi cũng là một hướng đi có ý nghĩa thiết thực. Nó không chỉ tạo ra hàng hóa làm phong phú hơn thị trường chứng khoán mà còn là hình thức huy động vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, để công cụ vay nợ của ngân hàng thực sự thu hút và hấp dẫn được công chúng, thì vấn đề quyết định là phải tạo ra một công cụ nợ có khả năng chuyển nhượng và người nắm giữ có thể chuyển nhượng dễ dàng bởi lẽ đa số người Việt Nam chưa quen với việc đầu tư tài chính dài hạn và thiếu tin tưởng vào sự ổn định giá trị đồng VNĐ. Vì thế, ngân hàng phải đơn giản hóa các thủ tục chuyển nhượng, chủ động và tích cực trong việc tạo ra thị trường thứ cấp bằng cách mua bán lại các công cụ nợ do các NHTM phát hành, chứ không phải ngân hàng nào thì mua lại chứng chỉ do ngân hàng ấy phát hành như hiện nay. Một giải pháp khác cũng không kém phần quan trọng là phải tạo ra các mức lãi suất huy động hợp lý, phù hợp với tính chất của từng loại huy động. Với những tài khoản không thể phát séc hoặc tiền gửi không kỳ hạn, mục đích chính của khách hàng là để thanh toán hay hưởng các tiện ích khác của ngân hàng nên lãi suất có thể không cần cao. Nhưng đối với tài khoản tiết kiệm, khách hàng quan tâm hàng đầu đến thu nhập từ lãi, do đó để thu hút tiền gửi tiết kiệm thì lãi suất cao là yếu tố thúc đẩy lớn. Tuy nhiên, lãi suất huy động dù cao nhưng vẫn phải đảm bảo cân đối với lãi suất cho vay để vẫn có thể duy trì được lợi nhuận của ngân hàng và không làm ảnh hưởng đến khả năng cho vay. Rõ ràng là trong điều kiện thị trường vốn đang trở nên sôi động hơn, cơ chế điều hành lãi suất của Nhà nước có nhiều cởi mở, đòi hỏi các NHTM phải xây dựng cho mình một chính sách lãi suất thực sự bài bản và khoa học, ở đó những mức lãi suất của từng hình thức huy động là bao nhiêu được xác định với những căn cứ và tính toán cụ thể. Cuối cùng, để tăng cường hoạt động huy động vốn, cần phải chú ý đến biện pháp mở rộng mạng lưới huy động, trong đó địa bàn mục tiêu của ngân hàng là các khách hàng thuộc khu vực thành thị, khu vực tập trung dân cư, khu kinh tế phát triển, các vùng nông thôn có sản xuất hàng hóa. Việc mở rộng mạng lưới cần phải thực hiện đồng bộ với giải pháp về công nghệ, trang bị vật chất kỹ thuật và con người. 3.2.4. Xây dựng hệ thống thông tin. Để mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD trên cơ sở đảm bảo hiệu quả và an toàn thì thông tin là yếu tố không thể thiếu. Có nhiều nguồn cung cấp thông tin khác nhau như từ khách hàng cung cấp trực tiếp, từ Trung tâm Thông tin tín dụng của NHNN (CIC); từ các cơ quan quản lý Nhà nước như Tổng cục Thuế, Tổng cục hải quan,...; từ các bạn hàng của khách hàng, và từ các ngân hàng bạn. Tuy nhiên, việc sử dụng các thông tin trên gần như miễn phí nên hiệu quả thông tin thấp. Yêu cầu cấp thiết của ngân hàng là phải nắm trong tay các thông tin về khách hàng: thương hiệu, vị thế, pháp lý,…; ngành hàng; đối thủ cạnh tranh và bạn hàng,… để có thể đánh giá khách hàng, phương án sản xuất kinh doanh nhanh chóng, hiệu quả và giúp mở rộng hoạt động tín dụng theo hướng phát triển của thị trường. Do đó, ngân hàng cần có chính sách quy định về việc lưu trữ các thông tin để hình thành nên nguồn cơ sở dữ liệu về các khách hàng có quan hệ vay vốn với ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng cần thiết phải cập nhật thường xuyên các thông tin về các ngành kinh tế, trình độ phát triển của các DNNQD. Bên cạnh đó, để xây dựng hệ thống thông tin rộng hơn, ngân hàng nên liên kết với một số ngân hàng khác để có thể chia xẻ thông tin về các doanh nghiệp. Để có thể cập nhật thường xuyên và thuận tiện cho hoạt động tra cứu, ngân hàng nên sử dụng công nghệ thông tin vào việc lưu trữ các thông tin tín dụng của khách hàng. Có như vậy, hoạt động cho vay của Chi nhánh mới có thể mở rộng quy mô nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả và hạn chế được rủi ro tín dụng xẩy ra. 3.2.5. Giải pháp về con người, phát huy hiệu quả nguồn nhân lực. Có thể nói vấn đề con người bao giờ cũng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng bởi lẽ chỉ nhờ có con người mới có thể biến các ý tưởng thành hiện thực. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thì các cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp ra có hiệu quả hay không. Sở dĩ như vậy chính là vì các cán bộ tín dụng có quan hệ trực tiếp với khách hàng vay vốn, chịu trách nhiệm giải quyết mọi vấn đề phát sinh. Vì vậy, một cán bộ tín dụng với trình độ cao, am hiểu về mọi hoạt động kinh tế của khách hàng, có nhiều kinh nghiệm thì việc thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng được nhanh chóng, chính xác cũng như đề ra các biện pháp hữu hiệu để giải quyết mọi vấn đề phát sinh. Do đó ngân hàng cần thường xuyên đào tạo lại cán bộ ngay khi có nhu cầu. Vì vậy, nếu như ngân hàng muốn cử cán bộ đi học để nâng cao nghiệp vụ thì một điều cần phải cân nhắc tới là sự phát triển cán bộ là điều mà ban lãnh đạo chi nhánh đặc biệt quan tâm. Ban lãnh đạo phải luôn tìm cách giúp đỡ các nhân viên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ bằng cách cử đi đào tạo tại nhiều lớp tập huấn nghiêp vụ như tín dụng, kho quỹ,… Tạo điều kiện về thời gian và tài chính cho cán bộ đi học bằng đại học, cao học. Trong các khoá học nhiều cán bộ của chi nhánh đạt kết quả loại giỏi và xuất sắc. Do đó cán bộ ngân hàng giữ vị trí quan trọng đối với hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có thể đào tạo tại chỗ hoặc cử đi đào tạo tại các cơ sở hoặc phối hợp cả hai. Một phương thức nào đó được thực hiện là do yêu cầu và chương trình đào tạo đối với một số công việc đòi hỏi nhiều kỹ năng và mang tính tác nghiệp thì cần tăng cường đào tạo tại chỗ còn đối với công việc quản lý về các công việc có ảnh hưởng lớn đến hoạt động và kết quả kinh doanh chung thì cần có chương trình đào tạo dài hạn bởi các cơ sở đào tạo có chuyên môn. Trong điều kiện các ngân hàng luôn phải cạnh tranh với nhau đòi hỏi khả năng phả ứng thì linh hoạt luôn yêu cầu ngân hàng phải có chương trình thay đổi các mục tiêu phương hướng, kế hoạch linh hoạt tương ứng, ngân hàng cũng có yêu cầu nhiều hơn về cán bộ quản lý và cán bộ có kỹ năng về tài chính, ngân hàng kinh tế. Việc thực hiện các chương trình đào tạo luôn đòi hỏi nguồn tài chính nhất định và cơ sở vật chất nhất định. Vì vậy khi thiết lập chương trình luôn phải tính tới khả năng tài chính để thực hiện chương trình. Nói tới đào tạo cần chú ý không chỉ cử người đi học mà một vấn đề quan trọng là việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập. Chính khâu nay sẽ giúp cho ngân hàng đánh giá được hiệu quả của chi phí đào tạo đã bỏ ra có cơ sở hơn để đánh giá đúng năng lực của cán bộ. Bên cạnh đó việc bố trí sử dụng nguồn nhân lực chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Một khi sử dụng đúng đắn, hợp lý, mỗi cán bộ sẽ phát huy hết năng lực của mình, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đối với bộ tín dụng: Ngoài yêu cầu về chuyên môn cần có thêm các tiêu chuẩn: Nắm vững mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phát triển kinh tế nói chung, chế độ tín dụng nói riêng. Có kiến thức khoa học tâm lý, biết sử dụng các phương tiện tin học, ngoại ngữ thông dụng. Ngoài ra, Ban lãnh đạo cũng cần có chế độ khuyến khích, thưởng phạt rõ ràng với từng cán bộ trong đơn vị theo khả năng và hiệu quả công việc. Để thực hiện được việc này, đòi hỏi phải có sự đánh giá cán bộ thường xuyên thông qua các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công việc của từng người, đánh giá từ bộ phận quản lý, thậm chí từ chính các khách hàng của Chi nhánh,… Điều này sẽ tạo cho mỗi cán bộ động lực phải làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn vì quyền lợi của họ gắn liền với số lượng và chất lượng công việc. 3.2.6. Duy trì chất lượng cho vay cao. Với phương châm hành động: “Việc mở rộng tín dụng phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng”, Chi nhánh cần phải quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng tín dụng, đây là cơ sở để mở rộng và tăng trương tín dụng, là yếu tố tiên quyết, quyết định hiệu quả tín dụng nói chung và tín dụng DNNQD nói riêng. Để có thể mở rộng thì trước hết chất lượng của từng món vay phải tốt để giảm thiểu tổn thất cho Ngân hàng khi rủi ro tín dụng xảy ra, Ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề sau: - Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng: Thẩm định tín dụng là khâu đầu tiên nhưng lại có tính chất quyết định tới hiệu quả cho vay trong quy trình tín dụng. Vì sau khi kết thúc khâu thẩm định Ngân hàng phải ra quyết định tín dụng, có chấp thuận hay không chấp thuận cho vay, công việc này cực kỳ quan trọng, nó không những ảnh hưởng tới tiến trình hoạt động của khách hàng mà còn ảnh hưởng đến cả uy tín của Ngân hàng. - Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay là quan trọng và cần thiết đối với Chi nhánh NH ĐT&PT HN để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho khoản vay, khi mở rộng cho vay thì công tác này cũng phải được tăng cường theo mức độ mở rộng của ngân hàng. Trong công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát món vay, ngân hàng phải thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá tiến độ thực hiện của phương án vay vốn. Việc này là hết sức cần thiết, giúp Chi nhánh phát triển sớm những vấn đề phát sinh, kịp thời đề ra những biện pháp xử lý thích ứng với tình hình. Trong thực tế hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng DNNQD khó tránh khỏi gặp rủi ro phát sinh nợ xấu. Do đó, không thể phê phán cán bộ tín dụng về tất cả các quyết định cho vay mà họ đã đưa ra những việc giám sát tín dụng để sớm nhận ra những dấu hiệu báo động mà đề ra các biện pháp kịp thời để khắc phục tình hình thì không phải cán bộ tín dụng nào cũng có thể làm tốt, điều đó phụ thuộc vào khả năng, trình độ và từng điều kiện cụ thể của từng cán bộ tín dụng. Vì vậy, ngân hàng cần có những chương trình giám sát tín dụng riêng, với những cán bộ có đủ năng lực để đánh giá hoạt động tín dụng ở cả 2 phía Ngân hàng và khách hàng, những người làm công tác này phải độc lập với hoạt động cho vay và thu nợ. Ngân hàng cần thanh lọc những cán bộ thoái hoá biến chất, cố tình làm sai cơ chế cho vay, gây thất thoát vốn của Ngân hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và uy tín của Ngân hàng. Tóm lại, để mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với DNNQD, Chi nhánh NH ĐT&PT HN cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ trên. Như vậy, ngân hàng mới có thể nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng uy tín và khẳng định vị thế của mình trên thị trường trong nước và sẵn sang đối mặt với sự cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài trong thời gian tới. 3.3. Kiến nghị. Như đã trình bày ở trên, hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD không chỉ chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan mà còn các nhân tố khách quan. Vì vậy, với nỗ lực của riêng NH ĐT&PT HN thì chưa đủ mà phải có sự tham gia của cả cả NH ĐT&PT VN, NHNN, và cơ quan Quản lý Nhà nước,… 3.3.1. Kiến nghị với NH ĐT&PT VN. NH ĐT&PT VN là đơn vị trực tiếp lãnh đạo chi nhánh NH ĐT&PT HN. Vì vậy để mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn của chi nhánh đối với các DNNQD thì NH ĐT&PT VN nên thực hiện các vấn đề sau : - Ban hành các văn bản hướng dẫn các hoạt động cụ thể của chi nhánh theo đúng quy định của NHNN, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. - Hỗ trợ, chỉ đạo chi nhánh lập phòng Marketing để nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh. - Hỗ trợ cho chi nhánh trong việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên ngân hàng nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng nhằm nâng cao trình độ cho nhân viên ngân hàng. Thường xuyên mở các lớp tập huấn theo từng chuyên đề, tổ chức các buổi hội thảo, nghiên cứu khoa học để trao đổi thông tin, nâng cao trình độ hiểu biết cho cán bộ. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của chi nhánh nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, vi phạm trong quá trình cho vay, để hạn chế tối đa tổn thất của Chi nhánh. - Xây dựng được hệ thống thông tin tín dụng chi tiết về các khách hàng thống nhất trong toàn hệ thống. - Đề nghị NH ĐT&PT Việt Nam cần sớm đưa ra các dự báo khoa học hỗ trợ và tạo mọi điều kiện cho chi nhánh chủ động hơn trong kinh doanh. 3.3.2. Kiến nghị với NHNN Việt Nam. NHNN Việt Nam với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán và hoạt động ngân hàng. Vậy để hoạt động ngân hàng trong thời gian tới được thuận lợi hơn, tôi xin có một số kiến nghị với NHNN Việt Nam như sau : Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, với mục đích ổn định sức mua của đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì chính sách tiền tệ của NHNN luôn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng của các NHTM mà cụ thể là ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu tín dụng của các NHTM. Để nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ, NHNN cần phải khai thác triệt để công cụ điều tiết gián tiếp như lãi suất, tỷ giá, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc và các nghiệp vụ khác, đồng thời sử dung đa dạng, linh hoạt và đồng bộ các công cụ này. Bên cạnh đó, phải tăng cường và nâng cao chất lượng phân tích và dự báo kinh tế phục vụ cho hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả. Tăng cường năng lực của hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng để đủ khả năng cảnh báo sớm, ngăn ngừa và xử lý mọi rủi ro trong hoạt động ngân hàng, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng. Đổi mới cơ cấu tổ chức của NHNN nhằm thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ trong điều kiện mới. Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quan hệ phối hợp giữa các bộ phận của NHNN, nâng cao tính chuyên môn hóa. Nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý và điều hành của NHNN trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 3.3.3. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan. Một nền kinh tế muốn phát triển và tăng trưởng bền vững chỉ khi môi trường vĩ mô ổn định. Vì thế, tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và kinh tế là nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước. Để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng nói riêng, phát triển nói chung, Nhà nước cần chú trọng vào việc giải quyết một số vấn đề như sau: - Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản và nhanh chóng. - Đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đề nghị Nhà nước cấp đủ vốn cho danh nghiệp theo mức điều lệ quy định; chỉ cần áp dụng đồng loạt các biện pháp: Cổ phần hóa, giải thể, phá sản, sát nhập những doanh nghiệp nhỏ, làm ăn kém hiệu quả vào doanh nghiệp lớn, đủ sức trụ vững trong cạnh tranh. Tập trung vốn cho các doanh nghiệp lớn, đổi mới thiết bị để tránh tình trạng lạc hậu về kỹ thuật hiện nay. - Các cơ quan chức năng cần kiểm tra và chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng tài sản thế chấp nhiều nơi để vay vốn gây thất thoát vốn của Ngân hàng. - Chính phủ cần quy định trách nhiệm của UBND, Bộ, Ngành có liên quan khi tham gia thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư và trách nhiệm của ngân hàng khi đầu tư vốn, tránh tình trạng quy mọi trách nhiệm về phía ngân hàng. - Nhà nước cần có chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu thích hợp để bảo vệ hàng nội địa, trước hết là hàng nông sản xuất khẩu khi bị giảm giá để hạn chế thiệt hại cho người nông dân và các hàng tiêu dùng có khả năng sản xuất trong nước không bị hàng ngoại lấn át. - Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy trình của Nhà nước, bên cạnh đó ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp hệ thống ngân hàng trong việc phân tích hoạt động doanh nghiệp, thẩm định các dự án của doanh nghiệp. - Để phát huy trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin tín dụng, chất lượng thông tin. Cần thành lập các công ty tư vấn chuyên mua bán thông tin. Qua đó tách biệt vai trò quản lí Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và vai trò kinh doanh thông tin của các công ty tư vấn. KẾT LUẬN Hiện nay, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là loại hình doanh nghiệp có vai trò quan trọng và chiếm ưu thế trong nền kinh tế các nước nói chung và ở nước ta nói riêng. Việc mở rộng hoạt động cho vay với các doanh nghiệp này là chiến lược của các NHTM trong đó có chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội. Tuy nhiên, trong thực tế mối quan hệ của chi nhánh với các doanh nghiệp này chưa thực sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng và còn tồn tại nhiều bất cập. Chính vì vậy việc tìm ra các giải pháp mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNNQD tại Chính NH ĐT&PT Hà Nội là vấn đề cấp thiết đặt ra trước mắt hiện nay. Với mong muốn góp phần đưa ra một số giải pháp để giải quyết vấn đề trên, chuyên đề đã hệ thống hoá một số lý luận cơ bản về: DNNQD, chất lượng tín dụng đối với DNNQD, thực trang hoạt động của chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội trong thời gian qua. Từ những kết quả của việc phân tích thực trạng cũng như phương hướng phát triển DNNQD của Đảng, Nhà nước, của NH ĐT&PT Việt Nam, chương ba của chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần mở rộng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp này. Đồng thời chuyên đề cũng nêu ra một số kiến nghị với các cấp có thẩm quyền nhằm tạo điều kiên thuận lợi cho các DNNQD dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Vì thời gian thực tập có hạn, kiến thức thực tế và trình độ lý luận còn hạn chế, nhưng em mong rằng những ý kiến đề xuất trong chuyên đề này sẽ góp phần nào đó cho hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và đối với chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội nói riêng. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Thạc sĩ Nguyễn Hải Nam cùng các cô chú cán bộ của NH ĐT&PT Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại, NXB thống kê 2004 2. PGS.TS Lưu Thị Hương, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB tài chính 2006 3. Peter S.Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB tài chính 2004 4. Các trang web của Bộ kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê. 5. Tạp chí ngân hàng 6. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 7. Sổ tay tín dụng NH ĐT&PT Viêt Nam 8. Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NH ĐT&PT HN các năm 2004, 2005, 2006. 9.PGS.TS Nguyễn Đình Tài, “Khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam nhìn từ góc độ hiệu quả chính sách”, Viện nghiên cứu quản lý Kinh tế TW. 10. Thống kê doanh nghiệp, Tổng cục Thống kê, 2006. MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT NHTM Ngân hàng thương mại NH ĐT&PT VN Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam NH ĐT&PT HN Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh DNNN Doanh nghiệp nhà nước NHNN Ngân hàng nhà nước DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Bảng 1.1.Số doanh nghiệp đăng ký mới qua các năm 8 Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức của NH ĐT&PT VN chi nhánh Hà Nội 39 Bảng 2.1 Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng 40 Bảng 2.2 Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền. 42 Bảng 2.3. Tình hình cho vay của NHĐT&PT Hà Nội. 43 Bảng 2.1. Số lượng các doanh nghiệp có quan hệ vay vốn với ngân hàng. 49 Bảng 2.2. Dư nợ của ngân hàng phân theo loại hình doanh nghiệp. 51 Biểu đồ 2.2. Dư nợ của ngân hàng theo loại hình doanh nghiệp. 52 Bảng 2.3. Doanh số cho vay của ngân hàng theo loại hình doanh nghiệp. 53 Biểu đồ 2.3. Doanh số cho vay của ngân hàng theo loại hình doanh nghiệp 53 Bảng 2.3. Dư nợ cho vay theo kỳ hạn đối với các DNNQD và toàn chi nhánh. 57 Biểu đồ 2.3. Dư nợ cho vay đối với DNNQD theo kỳ hạn. 57 Bảng 2.4. Doanh số cho vay đối với DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT HN. 59 Bảng 2.5. Doanh số thu nợ DNNQD theo kỳ hạn. 60 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32068.doc
Tài liệu liên quan