Mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa

Tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa: ... Ebook Mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng. Sự phát triển của doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cách đây hơn 60 năm, trong một lá thư gửi giới công thương và vấn đề ngày 13/10/1845, Bác Hồ đã coi doanh nghiệp là 1 trong 5 thành phần chủ lực của cách mạng Việt Nam. Hoạt động của doanh nghiệp hiện nay theo hướng kinh tế thị trường và vận hành theo các quy luật riêng của nó. Hiện nay, người ta còn chia doanh nghiệp theo 3 nhóm chính: nhóm doanh nghiệp ngoài quốc doanh(DNNQD), nhóm doanh nghiệp quốc doanh và nhóm kinh tế tập thể. Trong đó nhóm doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tốc độ phát triển nhanh và tạo ra tỷ trọng GDP lớn của cả nước. DNNQD ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Thực tế, đa phần các DNNQD đang thiếu vốn kinh doanh, do hoạt động sản xuất mang tính tự phát, kiểu hộ gia đình, dòng họ, "cha truyền con nối". Và trong khi đó, số lượng các DNNQD ngày càng tăng, ngày càng phát triển. Nếu như cách đây chừng 3 năm, khi doanh nghiệp Nhà nước đang là nhóm cạnh tranh trọng điểm của các ngân hàng thương mại thì hiện tại bây giờ hầu như không có ngân hàng thương mại nào đặt ưu tiên tín dụng vào các doanh nghiệp nhà nước. Và DNNQD đang trở thành nhớm đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại hiện nay. Do vậy, hoạt động cho vay đối với DNNQD đang là một thị trường tiềm năng cho các ngân hàng. Dựa trên xu thế của thị trường và thực trạng cho vay tại ngân hàng Công thương Đống Đa, em quyết định chọn đề tài: "Mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa". Trên cơ sở kiến thức lý luận đã được học và kinh nghiệm thực tế tích lũy được trong quá trình thực tập tại ngân hàng Công thương Đống Đa, em đã hoàn thành đề tài bên cạnh sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, thạc sỹ Lê Thanh Tâm. Em xin chân thành cảm ơn cô. Sinh viên Bùi Thị Hương CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. KHÁI QUÁT VỀ DNNQD 1.1.1. Khái niệm DNNQD Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có những hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân. Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp, thì: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh, tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Ở nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần doanh nghiệp, nhưng nếu phân theo hình thức chủ sở hữu thì có ba loại hình doanh nghiệp chính: Doanh nghiệp Nhà nước, gồm: Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước do trung ương và địa phương quản lý. Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp, đó là các công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước do trung ương và địa phương quản lý. Công ty cổ phần vốn Nhà nước mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Là các doanh nghiệp có vốn trong nước, mà nguồn vốn thuộc sở hữu tập thể, tư nhân, một người hay một nhóm người có sở hữu Nhà nước nhưng chiếm từ 50% vốn điều lệ trở xuống, gồm: Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Công ty cổ phần tư nhân: Là doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần, người nắm giữ cổ phần được gọi là cổ đông. Các cổ đông có thể là cá nhân, tổ chức không thuộc Nhà nước. Số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có vốn Nhà nước nhỏ hơn hoặc bằng 50% vốn điều lệ: Là công ty cổ phần tư nhân nhưng có thêm cổ đông là Nhà nước và vốn đóng góp của Nhà nước nhỏ hơn hoặc bằng 50% vốn điều lệ. Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung, gọi là thành viên hợp danh; ngoài ra có thể có thành viên góp vốn. Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là doanh nghiệp mà thành viên chủ sở hữu có thể là một hoặc nhiều hơn nhưng không quá 50, thành viên chủ sở hữu có thể là tổ chức, cá nhân, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết đóng góp vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài không phân biệt tỷ lệ vốn của bên nước ngoài đóng góp là bao nhiêu, gồm: Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh nước ngoài và đối tác trong nước. Hiện nay, số lượng doanh nghiệp Nhà nước ngày càng giảm, chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực kinh tế trọng yếu của đất nước. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang phát triển khá nhanh trong khoảng 10 năm gần đây và có đóng góp đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế của đất nước, tuy nhiên sự phát triển của khu vực này sẽ có giới hạn vì phụ thuộc vào chiến lược của các nhà đầu tư nước ngoài và mức độ hấp thụ đầu tư nước ngoài của nền kinh tế trong nước. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được sự khuyến khích của Nhà nước đang phát triển với tốc độ khá nhanh, nhất là từ sau khi Luật doanh nghiệp ra đời. Khu vực kinh tế này ngày càng có vai trò quyết định lớn tới sự phát triển và ổn định của nền kinh tế đất nước. 1.1.2. Vai trò của DNNQD Loại hình doanh nghiệp nào cũng có vai trò, ý nghĩa riêng của nó đối với nền kinh tế. Xác định vai trò của DNNQD để tạo điều kiện cho các DNNQD ra đời, phát triển và nâng cao hơn nữa vai trò của mình trong đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế, tăng sức mạnh cho đất nước. Vai trò của DNNQD được thể hiện cụ thể như sau: 1.1.2.1. Tác động mạnh mẽ đến dịch chuyển cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo cơ cấu ngành: Trước đây, DNNQD xuất hiện rất ít, chủ yếu trong các ngành công nghiệp, còn các ngành khác như du lịch, dịch vụ...rất ít. Đến nay, DNNQD có mặt ở hầu hết các ngành sản xuất kinh doanh và đặc biệt DNNQD phát triển mạnh trong lĩnh vực công thương nghiệp và dịch vụ. Hiện nay, DNNQD tập trung ở khu vực dịch vụ là 56,9%, trong đó thương nghiệp, khách sạn và nhà hàng chiếm 43,9%. Tiếp đến là khu vực công nghiệp xây dựng chiếm 37,7%, riêng công nghiệp là 25,2%. Trong thương mại, kinh tế ngoài quốc doanh đạt mức tăng 26%, cũng là mức cao nhất và chiếm 82% tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ. Xu hướng tỷ trọng DNNQD sẽ còn tăng nhanh hơn vì đây là khu vực mà Nhà nước đang khuyến khích đầu tư và phát triển. Theo cơ cấu thành phần kinh tế: Trước đây, các doanh nghiệp phát triển chủ yếu ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước, hiện nay chỉ còn hơn 3000 doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của đất nước. Xu hướng trong tương lai, các doanh nghiệp Nhà nước sẽ giảm xuống. Trong khi đó DNNQD tăng rất nhanh, trong đó tăng nhanh nhất là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Tính đến năm 2007, cả nước có hơn 300 nghìn doanh nghiệp. Trong đó, có 290000 công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân và khoảng 3000 doanh nghiệp Nhà nước, 7000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 16000 hợp tác xã. Thành phần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên khá nhanh nhưng bị hạn chế do chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài của Nhà nước. Như vậy, hiện nay ở nước ta về cơ cấu có 3 khu vực kinh tế chính, đó là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với tỷ trọng thấp nhất trong tổng số các doanh nghiệp hiện nay, tiếp đó là khu vực kinh tế Nhà nước, và chiếm số đông nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Theo cơ cấu vùng kinh tế: DNNQD ngày càng xuất hiện ở khắp mọi nơi, tất nhiên tập trung nhiều nhất vẫn là ở đô thị, các thành phố lớn. Theo vùng lãnh thổ, sự ra đời ngày càng đông của DNNQD làm cho số lượng doanh nghiệp tập trung nhiều nhất ở Đông Nam Bộ, tiếp đến là đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc, Tây Nguyên, Tây Bắc. Số lượng doanh nghiệp tăng lên ở các vùng nghèo sẽ giúp cho các vùng này phát triển hơn. DNNQD phát triển nhanh chóng trong tất cả các ngành, các địa phương và đang có xu hướng chuyển dần ra khỏi thành phố, thị xã đến nơi gần vùng nguyên liệu, có giá đất, giá nhân công rẻ...tạo ra nhiều cơ hội phân công lại lao động giữa các ngành, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.1.2.2. Thu hút và giải quyết việc làm cho người lao động Dân số Việt Nam hiện nay vào khoảng hơn 85 triệu người, một con số không phải là nhỏ và ước tính vào năm 2010, nước ta sẽ có đến 56,82 triệu người trong độ tuổi lao động. Lực lượng này ước tính chiếm 64,4% dân số và là thành phần chính của nguồn nhân lực. Trong khi đó, tổng cầu lao động dự kiến chỉ khoảng hơn 49 triệu lao động, còn lượng cầu về lao động làm công ăn lương ước tính xấp xỉ 20 triệu người vào năm 2010. Như vậy, nhu cầu tuyển dụng chỉ chiếm gần 1/3 so với dân số trong độ tuổi lao động. Có nghĩa là nguy cơ thất nghiệp đang là mối đe dọa trong nay mai. Ở nông thôn, gieo trồng theo mùa vụ nên thời gian không có việc làm cũng rất nhiều, trong khi đó lao động làm không đủ ăn. Và thực tế cho thấy việc phát triển DNNQD đã góp phần thu hút và giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Thời gian qua, tỷ lệ số lao động làm trong khu vực này ngày càng tăng, chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng lao động toàn xã hội. Đây là bảng số liệu về lao động đang làm việc tại thời điểm1/7/2007 (đơn vị: nghìn người) Phân theo thành phần kinh tế Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Quốc doanh 4038,8 4007,8 3974,6 Ngoài quốc doanh 37814,7 38639,0 39468,8 KV có vốn đầu tư nước ngoài 673,4 700,4 728,5 Cơ cấu (%) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Quốc doanh 9,5 9,2 9,0 Ngoài quốc doanh 88,9 89,1 89,4 KV có vốn đầu tư nước ngoài 1,6 1,6 1,6 Như vây, tính đến năm 2007, số lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã lên tới 39468,8 nghìn người, chiếm 89,4% lao động toàn xã hội. Trong khi đó, số lao động làm trong khu vực nhà nước chỉ chiếm 9,0% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chỉ 1,6%. Số lao động làm việc trong khu vực kinh tế ngòai quốc doanh đang ngày càng tăng mạnh và chiếm tỷ trọng lớn so với hai khu vực còn lại. Điều đó cho thấy DNNQD đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong quá trình thu hút lao động và giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn dân cư với tỷ trọng thu hút lao động ngày càng tăng và tốc độ tăng nhanh. 1.1.2.3. Góp phần tăng thu nhập quốc dân DNNQD đang ngày càng khẳng định mình trong nền kinh tế, điều đó được chứng minh qua tỷ trọng đóng góp vào GDP của nền kinh tế qua các năm, vượt hơn hẳn so với hai khối kinh tế còn lại. Năm 2006, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào GDP là 382804 tỷ đồng, trong khi đó khu vực kinh tế Nhà nước là 322241 tỷ đồng và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 134166 tỷ đồng. Đến năm 2007, con số này không ngừng tăng lên, sự phát triển của DNNQD đã góp phần không nhỏ vào tăng thu nhập quốc dân. Cụ thể là, khu vực ngoài quốc doanh làm GDP tăng thêm 444659 tỷ đồng, khu vực kinh tế Nhà nước 363449 tỷ đồng và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 165682 tỷ đồng. DNNQD luôn chiếm tỷ trọng lớn trong việc góp phần tăng thu nhập quốc dân, năm 2006, đóng góp 45,62% GDP và 45,67% GDP vào năm 2007. Trong khi đó, khu vực kinh tế Nhà nước đóng góp 38,39% GDP vào năm 2006 và 37,32% GDP vào năm 2007. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô nhỏ và chưa phát triển, chỉ đóng góp một phần ít hơn trong tổng thu nhập quốc dân, 15,99% GDP năm 2006 và 17,01% GDP năm 2007. Có thể nhận thấy DNNQD ngày càng giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. 1.1.2.4. Tăng thu ngân sách Nhà nước Hoạt động kinh doanh hiệu quả doanh thu tăng đã góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước. Nếu như năm 2003, khối DNNQD đóng góp vào ngân sách Nhà nước là 20nghìn tỷ đồng chiếm 17,7% thì đến năm 2007 đã đóng góp đến 39% vào thu ngân sách Nhà nước. Đây quả là một con số rất đáng ghi nhận. Điều này đã làm ngược lại một quy trình từ xa xưa là Nhà nước phải đi vay để nuôi doanh nghiệp thì bây giờ doanh nghiệp đã có những đóng góp rất đáng kể vào ngân sách của Nhà nước, tạo điều kiện để Nhà nước làm tròn nghĩa vụ của người tạo hành lang pháp lý, quản lý hành chính, kiểm tra, thanh tra và xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh cho tất cả các thành phần doanh nghiệp cùng hoạt động và phát triển. 1.1.2.5. Thu hút vốn đầu tư của xã hội, đổi mới kỹ thuật, công nghệ làm động lực cho tăng trưởng Năm 2007, tổng vốn của các doanh nghiệp thu hút được trong xã hội là 461900 tỷ đồng trong đó khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh thu hút được 187800 tỷ đồng, chiếm 40,66% và đã tăng 24,78 % so với năm 2006 và 44,02% so với năm 2005. Như vậy, cơ cấu vốn đầu tư của DNNQD trong tổng vốn đầu tư của xã hội đang ngày càng tăng nhanh và hiệu quả là động lưc cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực tế là tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cho đến nay vẫn còn chủ yếu dựa vào yếu tố tăng số lượng vốn đầu tư, nếu tính cả yếu tố số lượng lao động thì yếu tố này hiện còn chiếm ¾ tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư của các DNNQD đang trở thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế ở nhiều địa phương. Trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường chọn nơi có môi trường đầu tư thuận lợi về vị trí địa lý, hành lang pháp lý, điều kiện tự nhiên...thì đầu tư của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện khắp nơi, ở tất cả các vùng với các điều kiện khác nhau, ngay cả những vùng kinh tế còn khó khăn. Điều đó đã tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế toàn diện, đồng đều. Mặt khác, chính sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế khiến các DNNQD không ngừng nâng cao, đổi mới trang thiết bị, công nghệ kỹ thuật mới. Là động lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nhìn chung rất năng động, thích ứng nhanh trong những điều kiện thay đổi của thị trường, đã góp phần giữ gìn và phát triền các ngành nghề truyền thống, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội. Sau 20 năm đổi mới, trong cơ chế mới, Nhà nước tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển. Đến nay, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã hình thành một bộ phận quan trọng tạo nên tốc độ phát triển kinh tế nhanh. 1.1.3. Đặc điểm của DNNQD Mặc dù ra đời muộn (từ sau năm 1986) nhưng các DNNQD đang là thành phần kinh tế được chú ý hiện nay. Đặc biệt từ sau khi luật Doanh nghiệp ra đời, các DNNQD đã phát triển rất nhanh, nhất là các đô thị và các thành phố lớn. Trải qua hơn 20 năm phát triển, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có một số đặc điểm sau: Thành lập: DNNQD được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa trên tính tư hữu về tư liệu sản xuất. Người ta phân loại DNNQD với doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực chất là đề cập tới vấn đề sở hữu. DNNQD là những doanh nghiệp dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm các hình thức sở hữu cá nhân, sở hữu gia đình, sở hữu tập thể và sở hữu hỗn hợp. Phân loại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo các hình thức: công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân... cũng đều dựa trên tính tư hữu về tư liệu sản xuất, cụ thể là số vốn góp. Mục tiêu hoạt động: Đó chính là lợi nhuận. Không như doanh nghiệp Nhà nước, các DNNQD không có yếu tố sở hữu nhà nước, cho nên nó hoạt động không vì một mục tiêu cụ thể nào của riêng nhà nước và vì thế cũng không được sự bảo hộ của nhà nước. Chủ sở hữu DNNQD được toàn quyền quyết định về hoạt động kinh doanh của mình, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu tăng giá trị cho doanh nghiệp, không chịu sự điều tiết của ai, tất nhiên là trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Doanh nghiệp phải tự thân vận động, thu hút vốn, đầu tư trong cơ chế thị trường để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tăng lợi nhuận. Quy mô vốn và lao động: DNNQD tồn tại ở nhiều quy mô vốn đa dạng nhưng tập trung chủ yếu ở quy mô trung bình và nhỏ (khoảng 0,5 – 50 tỷ đồng), số lượng doanh nghiệp có quy mô lớn không nhiều, chỉ chiếm khoảng 1,5%. Cũng là điều dễ hiểu vì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ thực sự được công nhận là một khu vực kinh tế chính thức từ sau khi đổi mới năm 1986. Do vậy mà quy mô vốn và lao động còn rất thấp, có tới 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực kinh tế này. Quy mô lao động trong các DNNQD cũng đa dạng và tập trung chủ yếu ở quy mô nhỏ (dưới 300 người) và trung bình, số lượng doanh nghiệp có quy mô lao động lớn là rất ít và tập trung vào các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Năm 2003, số lượng DNNQD có số lao động dưới 300 người chiếm tới 99% (128049 doanh nghiệp) trong tổng số DNNQD (129052 doanh nghiệp). Số lượng: Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng nhanh theo sự phát triển của nền kinh tế. Điều này phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước cũng như thế giới. Cụ thể nó được thể hiện qua bảng đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp dưới đây: Qua bảng trên ta nhận thấy rằng, khu vực DNNQD đang ngày càng chiếm tỷ trọng khá lớn so với doanh nghiệp Nhà nước, chiếm trên 95% tổng số các doanh nghiệp và đang có xu hướng tăng nhanh. Cũng nhận thấy rõ tốc độ tăng của DNNQD khá mạnh, lấn át cả khối doanh nghiệp Nhà nước, bình quân tăng gấp 1,3 lần qua các năm, doanh nghiệp Nhà nước đang có xu hướng giảm và chững lại. Thật vậy, DNNQD phát triển rất nhanh, đặc biệt ở các đô thị và các thành phố lớn. Trên địa bàn Hà Nội, nếu như năm 2001 mới chỉ có 2818 doanh nghiệp thì đến tháng 5/2005 đã có 25479 doanh nghiệp. Và hiện nay, đến năm 2007 thì cả nước đã có hơn 300000 doanh nghiệp, trong đó khoảng 290000 DNNQD. Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời mỗi năm ngày càng tăng cao. DNNQD phát triển đã trở thành một bộ phận quan trọng, một lực lượng chủ chốt trong sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Từ năm 1986 đến nay, hàng loạt các chủ trương, chính sách liên quan đến sự phát triển của DNNQD ra đời tạo hành lang pháp lý cho các DNNQD hoạt động như luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990, luật doanh nghiệp năm 2000, luật doanh nghiệp năm 2005...Thế nhưng để thực sự có một hành lang pháp lý cho kinh doanh của doanh nghiệp thì vẫn còn thiếu, vì vậy mà môi trường pháp lý vẫn còn nhiều vướng mắc, sửa đổi, bên cạnh đó các DNNQD với quy mô vốn, lao động nhỏ, khả năng quản lý điều hành chưa cao, làm ăn nhỏ lẻ dẫn đến khả năng tích lũy vốn trong kinh doanh còn thấp. Lượng vốn tự có của các DNNQD chỉ đáp ứng được từ 20 – 30% yêu cầu của chính bản thân doanh nghiệp. Do vậy mà các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh của các QNNQD thấp, tỷ suất sinh lời/vốn thấp quá xa so với lãi suất ngân hàng làm hạn chế khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp từ các tổ chức tín dụng, trong khi nhu cầu vốn để đổi mới trang bị máy móc công nghệ cũng như cơ sở hạ tầng là rất lớn. Đó là điều mà các nhà ngân hàng cũng nên quan tâm. Mở một lối thoát cho các doanh nghiệp. Bởi vì họ rất có tiềm năng, hoạt động kinh doanh hứa hẹn những kết quả cao tuy nhiên lại không có đầu vào. 1.1.4. Phân loại DNNQD Căn cứ vào mức độ trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì DNNQD bao gồm các doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn (các công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã...), doanh nghiệp chịu trách nhiệm hỗn hợp(là doanh nghiệp mà chỉ có một người nhận vốn là chịu trách nhiệm vô hạn, còn những người góp vốn thì chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn góp của mình mà thôi). Căn cứ theo tính chất sở hữu vốn: DNNQD bao gồm các loại hình doanh nghiệp sở hữu một chủ (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH một thành viên) và doanh nghiệp sở hữu nhiều chủ (công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, hợp tác xã...). Tuy nhiên, dù có phân loại căn cứ theo cái gì thì DNNQD cũng bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, hợp tác xã. Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Công ty TNHH: Là doanh nghiệp gồm không quá 50 thành viên góp vốn thành lập, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được hình thành từ nhiều phần vốn góp bằng nhau gọi là cổ phần, mà người sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển nền kinh tế. 1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DNNQD 1.2.1. Khái quát về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Như vậy, ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Và cho vay là một trong những dịch vụ quan trọng và chủ yếu nhất của ngân hàng, tạo ra một tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận mà ngân hàng kiếm được. Rõ ràng cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng – để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng truỏng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Theo khoản2, điều 3 quyết định 1627/2001 của ngân hàng Nhà nước: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Cho vay là quan hệ tín dụng bình đẳng giữa ngân hàng và khách hàng, xuất phát từ lợi ích của cả hai bên dựa trên thỏa thuận từ trước. Không phải là quan hệ cấp phát hay xin cho mà đây là quan hệ theo nguyên tắc bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho bên cho vay, tức là ngân hàng. Trước khi trở thành người cho vay thì bản thân ngân hàng đã là người đi vay, vay các cá nhân, tổ chức kinh tế trong xã hội, có thể là các tổ chức tín dụng khác. Đó còn được gọi là nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng. Ngân hàng đi vay để cho vay, vì thê mà nó được gọi là trung gian tài chính, chu chuyển vốn trong nền kinh tế, từ người tiết kiệm sang người đầu tư. Như vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng có quan hệ mật thiết, liên quan tới sự phát triển kinh tế của khu vực ngân hàng phục vụ hay nói rộng hơn là sự phát triển kinh tế của đất nước. Thông qua cho vay, ngân hàng đã tài trợ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp; tài trợ cho hoạt động chi tiêu của cá nhân, chính phủ để đảm bảo cho những sinh hoạt bình thường của cuộc sống. Và tất cả những điều đó là rất cần thiết và không thể thiếu trong một nền kinh tế phát triển. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ ½ đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời rủi ro trong hoạt động của ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn vể tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: Quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Như vậy, hoạt động cho vay ảnh hưởng lớn đên sự sống còn của một ngân hàng thương mại. 1.2.2. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại Các khoản mục cho vay chiếm phần lớn trong tổng tài sản và tạo ra nguồn thu chủ yếu của ngân hàng. Và rủi ro hoạt động cũng xảy ra tập trung chủ yếu vào các danh mục cho vay. Để đảm bảo cho mục tiêu của hoạt động các ngân hàng thương mại là an toàn và sinh lợi, hoạt động tín dụng của ngân hàng phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định. Đó gọi là nguyên tắc tín dụng của ngân hàng thương mại. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định của ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại. Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định. Các khoản tiền cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản do ngân hàng tự đi vay mượn. Và ngân hàng trước đó cũng đã phải cam kết phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lại đúng quy định. Muốn được như vậy, thì đến bây giờ, đến lượt ngân hàng phải yêu cầu khách hàng, người đi vay phải thực hiện đúng cam kết này. Đây cũng chính là điều kiện để một ngân hàng tồn tại và phát triển. Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng tín dụng theo mục đích được thỏa thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Thực tế là luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó thì mỗi ngân hàng có phạm vi và mục đích hoạt động riêng. Và mục đích tài trợ cho khách hàng được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng để đảm bảo rằng ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, ngân hàng yêu cầu khách hàng cam kêt như vậy để hạn chế, tránh được các rủi ro về đạo đức, rủi ro không thể lường trước được do khách hàng gây ra. Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc các dự án có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc đầu tiên. Phương án hoạt động kinh doanh có hiệu quả của người vay chứng minh cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ cho ngân hàng đúng hạn như đã quy định. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp nhận thấy kém an toàn thì ngân hàng có thể yêu cầu người vay phải có tài sản đảm bảo thích hợp cho món vay. 1.2.3. Phân loại cho vay đối với DNNQD Để đáp ứng nhu cầu, mục đích sản xuất kinh doanh của khách hàng ngân hàng có nhiều loại hình cho vay khác nhau. Đồng thời đó cũng là cách để ngân hàng phân tán rủi ro, tránh “ bỏ nhiều trứng vào cùng một giỏ”. Có nhiều tiêu chí để phân loại khoản cho vay. 1.2.3.1. Theo thời hạn cho vay Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Dựa theo tiêu chí thời hạn cho vay thì khoản vay được chia làm 3 loại sau: Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng. Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên. 1.2.3.2. Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng Dựa trên mức độ tín nhiệm với khách hàng của ngân hàng, là khách hàng mới hay cũ, lớn hay bé, ngân hàng cho vay cần tài sản đảm bảo hay không. Như vậy, khoản vay được chia làm 2 loại: cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không có tài sản đảm bảo. Cho vay có tài sản đảm bảo: Đây là loại hình cho vay dựa trên cơ sở các tài sản đảm bảo có giá trị, phù hợp với quy định về tài sản đảm bảo. Các đảm bảo thường là giấy tờ có giá, hàng hóa trong kho, nhà cửa, thiết bị hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Cho vay không có tài sản đảm bảo: Là loại hình cho vay không cần tài sản đảm bảo như thế chấp, cầm cố hay uy tín của bên thứ ba. Đây là hoạt động cho vay dựa trên uy tín của khách hàng đối với ngân hàng. Có thể là khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, làm ăn lâu dài với ngân hàng. Hoặc có thể là khách hàng mới những đã được ngân hàng xem xét kỹ qua quá trình phân tích tín dụng đối với khách hàng: khả năng tài chính, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả …nên khi vay vốn không cần có tài sản đảm bảo. 1.2.3.3. Theo phương thức cho vay Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo. Cho vay theo hạn._. mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ đòi nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục cho vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho các tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Cho vay gián tiếp: Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó thì ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. 1.2.3.4. Theo phương thức hoàn trả Phương thức hoàn trả là cách thức mà khách hàng trả khỏan vay của mình cho ngân hàng khi đến kỳ hạn trả nợ đã quy định trong hợp đồng tín dụng. Khách hàng có thể trả một lần hoặc trả góp làm nhiều lần, theo đó thì ta có thể chia làm hai loại là cho vay trả góp và cho vay trả một lần. Cho vay trả góp: Là hình thức mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Cho vay trả một lần: Là hình thức mà khách hàng cam kết với ngân hàng sẽ hoàn trả toàn bộ khoản vay bao gồm cả gốc và lãi một lần vào thời điểm xác định đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Như vậy, để đảm bảo mục tiêu hoạt động của mình là an toàn và sinh lợi, ngân hàng đa dạng hóa hình thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đa dạng của khách hàng cũng như hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của bản thân ngân hàng. 1.2.4. Ý nghĩa của hoạt động cho vay đối với DNNQD 1.2.4.1. Đối với DNNQD Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Trong số các nguồn đó thì có thể nhận thấy, vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nói chung và DNNQD cũng không phải là ngoại lệ. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi quy mô vốn của các DNNQD còn đang trong tình trạng thiếu trầm trọng, thì vốn ngân hàng là một sự lựa chọn hàng đầu. Mặt khác, hoạt động cho vay của ngân hàng còn khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả. Bởi vì để được vay vốn ngân hàng thì các doanh nghiệp phải có các phương án sản xuất kinh doanh khả thi và hiệu quả. Điều này buộc các doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường, tính toán phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả của phương án đó sao cho sau khi trả gốc và lãi vay cho ngân hàng thì doanh nghiệp vẫn có lãi. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng vốn vay của ngân hàng, nếu doanh nghiệp sử dụng vốn không đúng mục đích hoặc không hiệu quả thì sẽ bị ngân hàng cắt nguồn tài trợ, phá bỏ hợp đồng tín dụng, đòi nợ trước hạn. 1.2.4.2. Đối với các ngân hàng thương mại Hoạt động cho vay là hoạt động bao trùm của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng. Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng - để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Hoạt động cho vay mang lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng. Ngoài ra thông qua các khoản vay, ngân hàng thu thập thêm được các thông tin về khách hàng, hiểu rõ về ngân hàng hơn từ đó để có các chính sách cho vay hợp lý tạo điều kiện nâng cao chất lượng khoản vay, thực hiện được các hợp đồng cho vay hiệu quả với chi phí thấp hơn. 1.2.4.2. Đối với nền kinh tế Như ta đã biết, cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng, ngân hàng đã tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình, bơm vốn cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả là động lực cho sự phát triển kinh tế. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hoạt động cho vay giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, không bị ngưng trễ do thiếu vốn do đó góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp xã hội, kích thích các thành phần kinh tế cùng phát triển, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước và do đó đã đóng góp một phần rất đáng kể vào thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. 1.2.5. Các chỉ tiêu đo lường hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNNQD a./ Dư nợ cho vay DNNQD Là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác định nào đó ngân hàng hiện còn cho vay bao nhiêu, và đây cũng là khoản mà ngân hàng cần phải thu về. Dư nợ = dư nợ cho vay DNNQD Tổng dư nợ cho vay b./ Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ cho vay DNNQD Tỷ lệ tăng trưởng = Dư nợ cho vay DNNQD năm nay sau Dư nợ cho vay DNNQD năm trước c./ Nợ quá hạn Nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn cho vay DNNQD Tổng dư nợ cho vay DNNQD Là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn mà khách hàng không trả được cho ngân hàng mà không có nguyên nhân chính đáng thì ngân hàng sẽ chuyển từ tài khoản dư nợ sang tài khoản quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh chất lượng của nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng. d./ Vòng quay vốn tín dụng đối với DNNQD Vòng quay vốn = Doanh số thu nợ DNNQD Dư nợ cho vay DNNQD bình quân e./ Chỉ số thu nợ Thể hiện mối quan hệ giữa doanh số cho vay và doanh số thu nợ. Ta có công thức sau: Chỉ số = Doanh số thu nợ Doanh số cho vay f./ Chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận mà các DNNQD mang lại cho ngân hàng trong tổng lợi nhuận của ngân hàng Là phần lợi nhuận mà hoạt động cho vay đối với DNNQD đóng góp vào lợi nhuận hàng năm của ngân hàng. Các chỉ tiêu trên phản ánh tình hình cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD. Đo lường hiệu quả cho vay đối với DNNQD của ngân hàng. 1.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNQD 1.2.6.1. Nhân tố chủ quan( phía NHTM) Khả năng huy động vốn của Ngân hàng Ngân hàng huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế khác rồi lại cho doanh nghiệp có nhu cầu vay. Như vậy, khả năng huy động vốn của Ngân hàng cho thấy ngân hàng có thể sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tới mức nào về số lượng khoản vay và thời gian vay. Ngân hàng luôn phải xem xét cân đối giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn vay nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của khách hàng. Nếu khả năng huy động vốn lớn, ngân hàng có thể đáp ứng được nhiều khoản vay cho doanh nghiệp, còn nếu khả năng huy động vốn thấp thì ngược lại, ngân hàng không thể đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Vì vậy, để mở rộng hoạt động cho vay nói chung và cho vay DNNQD nói riêng thì điều kiện cần là phải huy động được một số lượng vốn cần thiết. Do đó khả năng huy động vốn của ngân hàng ảnh hưởng đến quy mô hoạt động cho vay đối với các DNNQD. Chính sách của Ngân hàng Đó là các chính sách liên quan đến các hoạt động cho vay của ngân hàng. Bao gồm các chính sách như: chính sách tín dụng , quy trình tín dụng, chính sách marketing, chính sách khách hàng... - Chính sách tín dụng: Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh hoạt động của một ngân hàng, nó trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng cũng như nhân viên trong ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lợi. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét và chỉ dẫn cụ thể trong chính sách tín dụng như: quy mô, lãi suất, kì hạn cho vay, tài sản đảm bảo, phạm vi cho vay... - Quy trình tín dụng: Để chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó là các bước hay là nội dung công việc mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tiến hành tài trợ vốn cho khách hàng. Quy trình phân tích tín dụng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng với doanh nghiệp. Các ngân hàng thường hướng đến một quy trình đơn giản nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu an toàn và sinh lợi cho ngân hàng. Nó vừa thuận tiện cho khách hàng, vừa thuận tiện cho ngân hàng. Thực vậy, trong những trường hợp khẩn cấp về vốn, nếu quy trình thủ tục rườm rà, phức tạp thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu của khách, khách hàng sẽ tìm đến một ngân hàng khác để được tài trợ vốn nhanh hơn trong tình hình cấp bách đó. - Chính sách marketing: Là việc thực hiện các chính sách để đạt được các mục tiêu đã đề ra của ngân hàng đó là thỏa mãn tốt nhu cầu về vốn, cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn bằng các chính sách, các biện pháp hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận. Thông qua các chính sách marketing, khách hàng được tiếp cận đến với ngân hàng một cách rõ ràng, hiểu biết hơn. Qua đó gây dựng hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Đồng thời cũng kích thích nhu cầu của khách hàng để đạt được mức sử dụng sản phẩm của ngân hàng là cao nhất. Hoạt động này nhằm xác định nhu cầu của thị trường và thay đổi phương hướng hoạt động của ngân hàng cho phù hợp với sự biến đổi của thị trường. Do vậy mà chính sách marketing liên quan đến quy mô cho vay của ngân hàng đối với khách hàng nói chung và các DNNQD nói riêng. - Chính sách khách hàng: Khách hàng nhận tín dụng của ngân hàng rất đa dạng, từ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước, cá nhân, người tiêu dùng, các ngân hàng...Tuy nhiên thì luật pháp cũng cấm hoặc hạn chế đối với một số đối tượng nhất định. Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống, khách hàng mới và khách hàng khác để có các chính sách ưu đãi cụ thể. Vừa quản lý tốt khách hàng, quản lý tốt hoạt động cho vay, giữ được khách hàng cũ và thu hút được khách hàng mới. Quan hệ tốt với khách hàng cũng do vậy mà ảnh hưởng đến quy mô cho vay của ngân hàng đối với khách hàng. Nguồn nhân lực của ngân hàng Nguồn nhân lực của ngân hàng đó chính là chất lượng nguồn nhân sự. Mà con người là yếu tố tạo nên sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chất lượng nhân sự của ngân hàng thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, phong cách ứng xử, giao tiếp với khách hàng. Giao tiếp của nhân viên với khách hàng tạo nên ấn tượng của khách hàng về ngân hàng, xây dựng hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng, từ đó tạo ra cho khách hàng một cảm giác tin tưởng đối với ngân hàng...Đó là thể hiện cách giữ khách, mở rộng khách hàng nói chung cũng như DNNQD nói riêng. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân sự còn thể hiện qua trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công nhân viên, thể hiện qua kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng kinh doanh có hiệu quả thì mới thu hút được nhiều khách hàng, mới gây dựng được niềm tin trong mắt khách hàng. Do vậy mà để mở rộng được nhiều nhóm đối tượng khách hàng, đặc biệt là các DNNQD đang là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các khách hàng thì ngân hàng phải chú ý đến vấn đề chất lượng nguồn nhân sự của đơn vị mình. Sự phát triển của công nghệ thông tin ngân hàng Công nghệ thông tin ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng khi mà trong điều kiện hiện nay, công nghệ thông tin ở nước ta cũng đang trên đà phát triển mạnh mẽ trên tất cả mọi lĩnh vực. Sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ tạo ra nhiều kênh huy động mới đồng thời cũng tạo thêm một kênh mới trong việc tìm kiếm khách hàng. Công nghệ thông tin giúp kết nối giữa các ngân hàng với nhau, giữa ngân hàng với khách hàng, thông tin được truyền tải và cập nhật một cách nhanh nhất giúp cho hoạt động của ngân hàng diễn ra thuận lợi hơn. Thông tin càng đầy đủ và chính xác thì khả năng phòng ngừa rủi ro càng lớn và chất lượng tín dụng càng cao. Ngân hàng có nhiều thông tin về khách hàng, về thị trường rồi thì có thể đưa ra nhiều lời khuyên có ích cho khách hàng từ đó càng gây được niềm tin cho khách hàng và do đó mà sẽ mở rộng được hoạt động cho vay, đối với khách hàng nói chung và các DNNQD nói riêng. Các nhân tố chủ quan khác Ngoài những nhân tố trên thì còn có những nhân tố khác có thể ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng, địa bàn mà ngân hàng hoạt động là nơi có nhiều doanh nghiệp hoạt động hay không, là nơi tập trung ít hay đông dân cư và là môi trường cạnh tranh của nhiều ngân hàng thương mại...Tất cả những điều đó đều ảnh hưởng không ít đến hoạt động cho vay của ngân hàng... 1.2.6.2. Nhân tố khách quan Các nhân tố từ phía doanh nghiệp - Tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đến ngân hàng và xin vay vốn, điều kiện đầu tiên mà ngân hàng sẽ xem xét để đảm bảo cho khỏan vay sẽ được khách hàng trả đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng là xem xét, kiểm tra tình hình tài chính cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua các báo cáo tài chính trong mấy năm liền. Doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận được với nguồn tín dụng của ngân hàng nếu có tình hình tài chính tốt, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và ngược lại, ngân hàng sẽ không tài trợ cho những doanh nghiệp có tình hình tài chính không ổn định, làm ăn sa sút. - Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cũng là nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tài trợ của ngân hàng. Chính uy tín này là đảm bảo cho khoản vay mà doanh nghiệp vay ngân hàng. Đó là tài sản vô hình nhưng rất có giá trị. Tuy nó không được làm rõ trên giấy trắng mực đen nhưng người ta cũng ngầm định đó là "tài sản đảm bảo" cho khoản vay. Như vậy, uy tín của doanh nghiệp ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp. - Tài sản đảm bảo: Đối với các DNNQD khi vay vốn tại ngân hàng, tất cả đều phải có thế chấp hoặc cầm cố tài sản hoặc là bảo lãnh của bên thứ ba. Nhưng với trường hợp là bảo lãnh của bên thứ ba thì rất hạn chế. Bởi vì bên thứ ba đó thường phải là những cá nhân, tổ chức có uy tín như: Nhà nước, các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn...Và điều này rất khó xảy ra bởi lẽ các DNNQD thường hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ, phạm vi hẹp và hoạt động vì mục đích riêng của bản thân doanh nghiệp. Do đó mà tài sản đảm bảo trở thành điều kiện quan trọng để doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Tài sản đảm bảo phải thỏa mãn yêu cầu, quy định của ngân hàng về tài sản đảm bảo, được định giá có một tỷ lệ phù hợp với giá trị của khỏan vay. Thông thường ngân hàng chỉ cho vay với một giới hạn thấp hơn giá trị thị trường của đảm bảo, tỷ lệ bao nhiêu là tùy thuộc vào khả năng bán và khả năng thay đổi giá trị thị trường của vật đảm bảo. Như vậy, tài sản đảm bảo là một căn cứ để ngân hàng quyết định có nên cho doanh nghiệp vay vốn hay không. Nó ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNNQD nói riêng và khách hàng nói chung. Các nhân tố khách quan khác - Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động tới tất cả mọi thành phần kinh tế và các DNNQD hay các NHTM cũng không nằm ngoài số đó. Một nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho các DNNQD mở rộng quy mô sản xuất, tăng quy mô vốn, nguồn nhân lực dẫn đến cần vốn để mở rộng đầu tư. Và do đó mà hoạt động cho vay của các NHTM cũng vì thế mà sôi động hơn. Nền kinh tế phát triển, đời sống người dân cao hơn, thu nhập tăng dẫn đến tiết kiệm tiền gửi vào ngân hàng cũng tăng lên. Như vậy, nguồn vốn huy động của ngân hàng được nâng cao tạo điều kiện cho hoạt động cho vay được mở rộng. - Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý tốt sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như các DNNQD diễn ra thuận tiện. Nó bao gồm các hệ thống văn bản luật doanh nghiệp, luật ngân hàng và các văn bản luật liên quan quy định cụ thể phạm vi, hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp, tạo môi trường làm ăn lành mạnh và công bằng cho các thành phần kinh tế nói chung và các NHTM hay DNNQD nói riêng. Do vậy mà môi trường pháp lý có thể khuyến khích hay hạn chế hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp. - Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến họat động kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, những ngành nghề chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố thiên nhiên như thời tiết, khí hậu, thiên tai địch họa...Tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì thế mà tác động gián tiếp đến hoạt động đi vay của các doanh nghiệp cũng như hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp... Như vâỵ, chương I đã hoàn thiện xong cơ sở lý luận về hoạt động cho vay đối với DNNQD. Nó đã nêu lên được một cách khái quát về DNNQD cũng như hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với DNNQD nói riêng. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNQD CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA 2.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa Ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa là một doanh nghiệp loại I, có doanh số hoạt động lớn trên địa bàn Hà Nội và trong hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. Là một đơn vị nhiều năm liền đạt danh hiệu đơn vị kinh doanh giỏi, xuất sắc của hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam và đã được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; huân lao động hạng I, II, III do Chủ tịch nước phong tặng. Ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa được thành lập năm 1955 với tư cách là một Chi nhánh của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Đây là một đơn vị hạch toán trực thuộc NHNN Việt Nam hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Từ khi mới thành lập, chi nhánh gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất cũng như mô hình tổ chức, trình độ quản lý, tổ chức chưa cao. Năm 1975, cùng với việc hình thành quận, ngân hàng đổi tên thành “NHNN quận Đống Đa” hoạt động theo hai chức năng: Quản lý Nhà nước về tiền tệ và kinh doanh tiền tệ. Khi đó hoạt động của Ngân hàng khá đơn giản, hoạt động tín dụng không quan tâm đến huy động vốn mà chủ yếu chỉ cho vay bằng vốn của Nhà nước cấp theo kế hoạch từ trên xuống. Đại hội Đảng VI năm 1986 đánh dấu bước thay đổi lớn trong nền kinh tế. Để phù hợp với tình hình mới, hệ thống Ngân hàng 2 cấp được hình thành. Với sự ra đời lần lượt của các Ngân hàng thương mại Quốc doanh, ngân hàng công thương Việt Nam ra đời ngày 26/03/1988. Hệ thống các ngân hàng thương mại đã hoạt động theo đúng nghĩa của nó, có sự phân biệt tương đối với NHNN, ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa được thành lập trực thuộc ngân hàng công thương thành phố Hà Nội và thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh. Đến 01/04/1993 ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam có mô hình tổ chức hoạt động thực hiện theo mô hình quản lý tập trung trên cơ sở phát huy tính năng động, sáng tạo và độc lập tương đối của các chi nhánh để mở rộng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Phạm vi hoạt động trên toàn Quận Đống Đa và Quận Thanh Xuân hiện nay. Năm 1998, để phù hợp với điều kiện, tình hình mới, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa đã tách ra 1/3 số cán bộ công nhân viên để thành lập chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam. Quận Đống Đa là một quận lớn với nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất cũng như dịch vụ thương mại, và đây cũng làquận đông dân cư và đặc biệt có nhiều khu vực buôn bán như chợ Kim Liên, chợ Cát Linh, chợ Khâm Thiên, hệ thống siêu thị dày đặc như siêu thị Startbowl, siêu thị Thái Hà, Asean... Đây là ưu thế cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Tuy vậy, Chi nhánh hoạt động không chỉ bó hẹp trong khu vực quận, việc huy động và cho vay có thể vươn ra ngoài và quan hệ giao dịch vẫn có thể hình thành với những đơn vị mà ngân hàng có thể nắm được đầy đủ thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Chi nhánh luôn giữ chữ tín đối với khách hàng, tích cực mở rộng địa bàn hoạt động đầu tư trên mọi lĩnh vực với các thành phần kinh tế và có các chính sách về lãi suất phù hợp. Đồng thời, chi nhánh đã triển khai và thi hành kịp thời cơ chế quản lý, điều hành trong công tác tiền tệ, tín dụng và thanh toán theo phương thức chỉ đạo của ngân hàng công thương Việt Nam. Hiện nay, ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa có trụ sở tại 187 Nguyễn Lương Bằng – Quận Đống Đa – Hà Nội. Sản phẩm dịch vụ của ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa Mở tài khoản và nhận tiền gửi - Mở tài khoản và nhận tiền gửi miễn phí, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn của cá nhân và các tổ chức kinh tế, xã hội trong nước bằng đồng VN. - Nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam và bằng ngoại tệ. - Phát hành các chứng từ có giá: kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi. - Rút tiền tự động, thanh toán hoá đơn trên máy ATM, thẻ tiền mặt. - Gửi tiền một nơi và rút tiền nhiều nơi tại các địa điểm giao dịch một cửa của chi nhánh và trong hệ thống nhanh chóng, chính xác và an toàn. Với nhiều hình thức và thủ tục gọn nhẹ cùng với sự phục vụ tận tình chu đáo vì lợi ích của khách hàng, ngân hàng đã tạo được lòng tin của dân chúng, nguồn huy động vốn ngày càng tăng và ổn định. Hoạt động tín dụng: - Về cho vay ngắn hạn: Cho vay ngắn hạn bằng VND và ngoại tệ. Thời hạn cho vay < 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, bao gồm các hình thức: + Cho vay vốn lưu động theo hạn mức tín dụng thường xuyên. + Cho vay phục vụ nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh. + Cho vay cầm cố các chứng từ có giá. + Cho vay nhu cầu tiêu dung. Mức lãi suất cho vay hiện tại được áp dụng như sau: Chi nhánh đã cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp có đủ vốn nhập nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh ổn định và có hiệu quả, tạo việc làm cho người lao động, các sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường: như các sản phẩm về thuốc tân dược của Xí nghiệp Dược phẩm TWI, Công ty CP Dược TW, các sản phẩm về săm lốp cao su của Công ty Cao su Sao vàng, các sản phẩm về cáp điện của Công ty cơ điện Trần Phú, Công ty Thượng đình, các sản phẩm về sơn của Công ty sơn Tổng hợp Hà nội… - Về cho vay trung và dài hạn: Cho vay trung và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ. Thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng, có một số dự án cho vay với thời hạn 10 năm. Bao gồm các hình thức: + Cho vay thương mại trung và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ + Cho vay đồng tài trợ + Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu Chi nhánh tiếp tục giải ngân cho các dự án của các DN là khách hàng truyền thống như Tổng Công ty Xây dựng Công trình Giao thông 8, Công ty Xe đạp – Xe máy Thống nhất để đầu tư dây chuyền sản xuất, Nhà máy thuỷ điện A Vương của Công ty Lũng lô, dự án truyền hình cáp Hà nội… - Đồng tài trợ - cho vay hợp vốn đối với những dự án có quy mô lớn và thời gian hoàn vốn dài, như cho vay hợp vốn với VCB Quảng Ninh để đầu tư máy móc thiết bị khai thác than. - Nghiệp vụ Bảo lãnh: Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh ứng trước, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh thanh toán ... Dựa trên uy tín của khách hàng trên thương trường và quan hệ với ngân hàng. Mức phí bảo lãnh được thay đổi qua các các giai đoạn, hiện tại áp dụng mức: 2% năm + 10% VAT / số tiền không ký quỹ và 1% năm + 10% VAT / số tiền ký qũy bảo lãnh. Đối với các nhu cầu bảo lãnh của khách hàng, Chi nhánh đều giải quyết kịp thời, nhanh chóng. Nhiều dự án được Chi nhánh bảo lãnh đã trúng thầu, tiếp đó Chi nhánh cung cấp vốn kịp thời để thực hiện dự án đã trúng thầu. Dịch vụ kho quỹ - Nhận thu và kiểm đếm tiền mặt tại các điểm giao dịch của chi nhánh và trụ sở của khách hàng. - Nhận cất giữ tiền, các vật có giá và giấy tờ quan trọng. Công tác Tiền tệ – Kho quỹ ngày càng phát triển, góp phần tăng thu đáng kể cho Chi nhánh. Chi nhánh đã phục vụ tốt việc thu – chi tiền mặt, đảm bảo thu chi kịp thời, không để tiền tồn đọng, không để khách hàng phải chờ đợi. Thường xuyên đảm bảo việc kiểm ngân, vận chuyển, bảo quản tiền và các chứng từ có giá, không để xảy ra mất mát, hư hỏng đảm bảo an toàn kho quỹ. Dịch vụ ngân hàng quốc tế - Thực hiện thanh toán chuyển tiền nhanh, thanh toán quốc tế thông qua mạng toàn cầu SWIFT. - Thư tín dụng (L/C): do ngân hàng Công thương Đống Đa phát hành, thông báo, xác nhận, chiết khấu và thanh toán thư tín dụng. - Nhờ thu: Trả ngay (D/P), trả chậm (D/A). - Nhận và phát hành các loại bảo lãnh với nước ngoài. - Chuyển tiền bằng điện (TTR). - Dịch vụ nhận và chi trả kiều hối. - Thanh toán thẻ tín dụng, Séc du lịch, ect. - Thực hiện các dịch vụ ngoại hối: + Dịch vụ mua bán ngoại hối giao ngay (Spot). + Dịch vụ mua bán ngoại hối kỳ hạn. + Dịch vụ mua bán ngọai hối kỳ hạn (Swap). Dịch vụ thanh toán điện tử Các tổ chức kinh tế và cá nhân có thể nộp tiền mặt vào bất cứ điểm giao dịch nào của ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa hoặc sử dụng công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như Séc, Uỷ nhiệm chi, Uỷ nhiệm thu, Thư tín dụng, Thẻ ngân hàng... Ngân hàng sẽ thực hiện chuyển tiền qua hệ thống thanh toán nhanh nhất cho khách hàng . 2.1.2.Cơ cấu tổ chức của ngân hàng công thương chi nhánh Đống Đa Ban lãnh đạo gồm: giám đốc và 4 phó giám đốc Ban giám đốc Phòng kinh doanh Phòng thông tin điện toán Phòng kinh doanh đối ngoại Phòng nguồn vốn Phòng tài chính kế toán Phòng kiểm soát Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng tổ chức hành chính QTK Số 33 QTK Số 32 QTK Số 30 QTK Số 29 QTK Số 34 QTK Số 35 QTK Số 36 QTK Số 37 QTK Số 38 QTK Số 39 QTK Số 41 QTK Số 42 QTK Số 43 QTK Số 46 Phòng giao dịch Cát Linh Phòng giao dịch Kim Liên Cơ cấu phòng ban: + Phòng nguồn vốn Phòng nguồn vốn bao gồm một mạng lưới tiết kiệm của các phường thuộc địa bàn quận, cụ thể là có 14 quỹ tiết kiệm. Phòng có nhiệm vụ thu hút tiền gửi dân cư trên địa bàn (cả nội tệ và ngoại tệ). Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì phòng này huy động một trong ba nguồn (tổng nguồn vốn ngân hàng bao gồm: nguồn tín dụng, nguồn L/C, nguồn tiền gửi dân cư). Hiện nay, nguồn tiền gửi dân cư mà phòng nguồn vốn huy động chiếm 65- 67% tổng nguồn vốn của ngân hàng. + Phòng kinh doanh Phòng kinh doanh có nhiệm vụ cho vay thu nợ và quản lý nợ. Ngân hàng cho vay cả nội tệ và ngoại tệ tuy nhiên, đối với ngoại tệ thì được chuyển sang hạch toán ở phòng kinh doanh đối ngoại. Kết quả họat động của phòng này ảnh hưởng tới lợi nhuận chính của ngân hàng. + Phòng kinh doanh đối ngoại Phòng kinh doanh đối ngoại là phòng cho vay ngoại tệ với nhiệm vụ là quản lý các khoản tiền gửi, tiền vay, L/C, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài và các dịch vụ khác như mua bán ngoại tệ… + Phòng kế toán Phòng kế toán bao gồm các bộ phận chính sau: Kế toán thanh toán Kế toán nội bộ Kế toán tiết kiệm Bộ phận kiểm soát Bộ phận báo biểu Phòng kế toán chỉ làm nhiệm vụ kế toán VND. Ngoài ra, phòng còn có nhiệm vụ làm các dịch vụ thanh toán như chuyển tiền, mua các giấy tờ in…Phần này cũng chiếm tỷ trọng tương đối góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng. + Phòng điện toán Phòng điện toán có nhiệm vụ tập hợp các phát sinh của ngân hàng từ phòng kế toán chuyển sang để xử lý bằng máy tính, cuối ngày lên bảng cân đối hàng ngày, hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Tất cả kết quả kinh doanh của ngân hàng được phản ánh và được quản lý tại phòng điện toán. Phòng điện toán đưa ra số liệu đầy đủ, đúng trên cơ sở của phòng kế toán để giúp lãnh đạo biết được hoạt động hằng ngày từ đó ban lãnh đạo lập kế hoạch cho ngày hôm sau. + Phòng kiểm tra kiểm soát Phòng này có chức năng kiểm tra kiểm soát toàn bộ hoạt động của ngân hàng (ví dụ như kế toán, tín dụng, ngoại hối…) xem có đúng với chế độ quy định của Nhà nước, của ngành hay không. Đặc biệt cần kiểm tra các hoạt động cho vay kinh doanh. + Phòng kho quỹ Phòng kho quỹ có nhiệm vụ thu chi tiền tệ (là tiền mặt VND và ngoại tệ), quản lý tài sản thế chấp bao gồm các giấy tờ có giá, bất động sản, động sản…Ngoài chức năng thu tiền tại ngân hàng còn có chức năng làm dịch vụ ngân quỹ tức là cán bộ phòng sẽ đến tận nơi thu tiền, thanh toán tiền nếu khách hàng có yêu cầu. Dịch vụ này giúp ngân hàng tăng thu phí dịch vụ. + Phòng tổ chức hành chính Phòng này bao gồm hai bộ phận: Tổ chức nhân sự với nhiệm vụ sắp xếp và tổ chức nhân lực của cơ quan. Hành chính quản trị chịu trách nhiệm về hậu cần cơ quan gồm quản lý tài sản cố định, trang thiết bị, bảo vệ cơ quan. + Phòng giao dịch Ngân hàng gồm có hai phòng giao dịch: phòng giao dịch Cát Linh và phòng g._. địa bàn Hà Nội, khu vực hoạt động cũng lân cận nhau mà sao các chỉ tiêu về cho vay họ lại đạt được như thế. Hơn nữa, thực tế ngân hàng NNo & PT nông thôn Đông Hà Nội chỉ mới thành lập năm 2003, bây giờ hoạt động mới bước sang năm thứ 5. Tiếp đến, qua cơ cấu cho vay của ngân hàng phân theo thời gian, ta nhận thấy, ngân hàng chủ yếu mới chỉ đang quan tâm đến hoạt động tín dụng ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn còn rất hạn chế. Quy mô cho vay trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, nhiều dự án trung và dài hạn mới chỉ dừng lại ở hợp đồng chứ chưa thể giải ngân được.. Về quy trình thẩm định tín dụng, đánh giá khách hàng chủ yếu dựa trên sổ tay tín dụng và tính một cách thủ công nên mất nhiều thời gian và khó có thể đạt được sự khách quan khi xem xét các chỉ tiêu mang tính định tính. Công tác thẩm định đánh giá khách hàng chưa chính xác và vẫn không thể tránh khỏi sai sót do mỗi cán bộ tín dụng phải phụ trách nhiều khách hàng nên việc giám sát thường xuyên là rất khó. Chưa có tổ chức định giá tài sản tín nhiệm nên việc định giá tài sản của khách hàng là rất khó. Công tác marketing tuy ngân hàng đã đạt được những kết quả, thành công bước đầu nhưng vẫn có nhiều hạn chế, điều này ít nhiều ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của dư nợ. Nghiệp vụ và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Kinh doanh ngân hàng là một nghề đòi hỏi cao về kỹ năng chuyên môn và kinh nghiệm công tác. Nhưng kinh nghiệm lại chỉ có thể tích lũy trong thời gian công tác vì vậy đòi hỏi kinh nghiệm với lực lượng cán bộ trẻ là một yêu cầu khó có thể đáp ứng. Hiện tại ngân hàng có đội ngũ cán bộ tín dụng khá trẻ và làm công tác tín dụng chưa lâu, đối với các cán bộ trẻ thì hạn chế lớn nhất là kinh nghiệm nhưng đổi lại họ có tinh thần học hỏi rất cao, năng động, nhiệt tình trong công tác. Việc đội ngũ cán bộ tín dụng không đồng đều có thể làm cho chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng. Những hạn chế nêu trên về hoạt động cho vay của ngân hàng do nhiều nguyên nhân chủ quan về phía ngân hàng cũng như một số nguyên nhân khách quan. 2.4.3. Nguyên nhân a./ Các nguyên nhân về phía Ngân hàng Trước hết là phải xuất phát từ nguồn vốn ngân hàng huy động được. Do khả năng huy động vốn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Nguồn huy động trung và dài hạn còn rất ít ỏi, dẫn đến hoạt động cho vay trung và dài hạn của doanh nghiệp thì ngân hàng chưa đáp ứng được. Tiếp theo đó là do cơ chế cho vay còn nhiều bất cập. Trước hết là các điều kiện vay vốn như việc đảm bảo tiền vay hiện đang là nguyên nhân chính ngăn cản các DNNQD đến được với nguồn vốn của ngân hàng. Các doanh nghiệp khi muốn vay vốn của ngân hàng thì phải có tài sản đảm bảo như máy móc thiết bị, quyền sử dụng đất… đặc biệt đối với các tài sản bất động sản thì ngân hàng còn gặp khó khăn trong việc định giá các tài sản này, thường là đánh giá thấp hơn nhiều so với giá cả thị trường. Theo luật định, thì các doanh nghiệp chỉ được vay khoản không lớn hơn 70% giá trị của tài sản đảm bảo, điều đó cũng gây khó khăn và cản trở trong việc vay vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.. Về mặt thủ tục vay vốn, ngân hàng cũng chưa niêm yết công khai quy trình vay vốn, các thủ tục cần thiết tại các phòng Khách hàng như một số các ngân hàng thương mại cổ phần khác. Điều này có thể gây khó khăn cho khách hàng khi tiếp cận với ngân hàng. Quy trình tín dụng còn nhiều vấn đề, nhiều thủ tục phức tạp dễ dẫn đến sai sót trong quá trình thẩm định khách hàng để cho vay. Và vì thủ tục còn nhiều công đoạn nên dẫn đến nhiều khách hàng trong những trường hợp cần vốn khẩn cấp không thể chờ đợi được cho đến khi hoàn tất các thủ tục đó nên đã tìm đến ngân hàng khác. Do đó mà hoạt động cho vay doanh nghiệp bị giảm thị phần. Phương thức cho vay cũng chưa nhiều, chỉ mới áp dụng cho vya theo từng lần và cho vay theo hạn mức, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu đa dạng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động Marketing ngân hàng: Ngân hàng mới chỉ tập trung vào các hoạt động như quảng cáo, khuyếch trương còn việc áp dụng marketing vào việc phân tích thị trường, nghiên cứu khách hàng nhằm nâng cao chất lượng các dịch vụ còn chưa tốt, cũng như chưa có các biện pháp tích cực để thu hút thêm khách hàng. Cuối cùng là vấn đề về nguồn nhân lực: Trình độ cán bộ ngân hàng đã được chuẩn hóa ở một mức nhất định. Hiện nay tại ngân hàng đã có 55 cán bộ làm công tác tín dụng, trong đó hầu hết có trình độ đại học chuyên ngành, có 4 cán bộ có bằng thạc sỹ, bố trí tại các phòng khách hàng1, khách hàng 2, phòng KH cá nhân, và phòng giao dịch, như vậy lượng cán bộ tín dụng của ngân hàng là chưa đáp ứng được nhu cầu về hoạt động tín dụng. Ngoài ra có nhiều cán bộ trẻ, một số vừa ra trường, hết thời gian tập sự là phải tiếp cận giữ đơn vị ngay, nên còn nhiều hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý nghiệp vụ cũng như khả năng làm việc. Khách hàng khi đến với ngân hàng thuộc nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau nên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có sự hiểu biết nhất định về tất cả các ngành nghề. Tuy nhiên, một cán bộ tín dụng lại chịu phụ trách thường là nhiều khách hàng, các khách hàng này lại thuộc các ngành nghề kinh doanh khác nhau thì để quản lý tốt các khách hàng cũng rất khó khăn. b./ Các nguyên nhân khách quan Đây là các nguyên nhân khách quan từ phía các doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Đó là tình hình tài chính của doanh nghiệp, là uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Như ta đã biết, các DNNQD thường chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, tình hình tài chính cũng như vị thế vì thế mà chưa ổn định. Sản xuất kinh doanh theo hình thức hộ gia đình, dòng họ, một doanh nghiệp nhiều khi chỉ có từ 10-30 công nhân. Quy mô do vậy mà còn hạn hẹp. Thậm chí cả nơi để sản xuất kinh doanh cũng chưa ổn định. Có nhiều doanh nghiệp phải di dời đến 4-5 lần mới tìm được chỗ chắc chắn để làm ăn. Từ những vấn đề đó không những liên quan đến tình hình tài chính cũng như uy tín của doanh nghiệp mà còn là vấn đề khi ngân hàng hỏi đến tài sản đảm bảo tiền vay. Điều đó hạn chế các doanh nghiệp nhận được nguồn vốn từ ngân hàng. Kể cả nguồn vốn ngắn cũng như trung và dài hạn thì lại càng khó khăn. Bên cạnh tình hình tài chính, cơ sở vật chất như vậy thì khả năng quản lý của doanh nghiệp cũng đang còn hạn chế ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý chưa thực sự đầy đủ để đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chế độ kế toán quy định đối với hoạt động của doanh nghiệp ngòai quốc doanh chưa cụ thể và thống nhất, cũng như chưa được các doanh nghiệp thực hiện đúng đắn và đầy đủ. Tóm lại, chương 2 đã giới thiệu một cách tổng quan về ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa cũng như hoạt động chung và hoạt động cho vay đối với DNNQD của ngân hàng và một số ngân hàng thương mại lựa chọn để qua đó có những đánh giá nhận xét trong sự tương quan về hoạt động cho vay giữa những ngân hàng hoạt động cùng địa bàn, khu vực. Qua đó ta cũng rút ra được các nguyên nhân của các kết quả hoạt động cho vay đối với DNNQD của ngân hàng để có những giải pháp thích hợp ở chương tiếp theo. CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNQD TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA 3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNQD 3.1.1. Định hướng chung cho kế hoạch 5 năm Dựa trên phương hướng mục tiêu của ngân hàng Công thương Việt Nam, chi nhánh hoạt động chủ yếu trên địa bàn quận có uy tín lâu nay nên thu hút được nhiều khách hàng lớn trong đó có cả những công ty, tổng công ty lớn, vì thế nguồn vốn huy động và dư nợ tăng trưởng liên tục qua các năm. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động của Chi nhánh lại chủ yếu là loại không kỳ hạn nên chi nhánh luôn bị động trong hoạt động cho vay và đầu tư. Xuất phát từ định hướng chung của NHCTVN là “Phát triển – an toàn – hiệu quả” trong giai đoạn tới hoạt động cho vay DNNQD của chi nhánh đi theo hướng sau: * Chi nhánh tiếp tục tổng kết tình hình cho vay DNNQD để rút ra những kinh nghiệp bài học để từ đó đưa ra chính sách tín dụng, phương pháp phân tích đánh giá khách hàng, phương thức quản lý tín dụng hợp lý. Duy trì mức tăng trưởng trong huy động vốn và cho vay ở mức hợp lý đồng thời thiết lập, củng cố và duy trì các mối quan hệ thường xuyên với các khách hàng truyền thống, khách hàng lớn và đồng thời tìm kiếm các khách hàng có tiềm năng. Duy trì mối quan hệ theo nguyên tắc cả hai cùng có lợi “lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng” và “thành công của khách hàng là thành công của ngân hàng”. * Thực hiện đa dạng hoá các phương thức cho vay vì hiện nay phương thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa phương thức cho vay đồng tài trợ đối với các nhu cầu vay lớn của khách hàng đặc biệt là các dự án trọng điểm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương. Mặc dù đã sử dụng phương thức này nhưng một phần do các dự án đến xin tài trợ này không đủ lớn để ngân hàng thực hiện phương thức cho vay đồng tài trợ. * Bên cạnh việc thực hiện nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD, là khẩu hiệu "an toàn và hiệu quả". Tiếp tục thực hiện các biện pháp để giải quyết nợ quá hạn và duy trì tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1%. Đồng thời thực hiện tăng cường thu hút tiền gửi ngoại tệ của khách hàng, vận động các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh và sử dụng các dịch vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh. * Đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đó cũng là yêu cầu tất yếu trong thời kỳ mở cửa và hội nhập. Đồng thời tăng cường đào tạo thêm nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ tín dụng cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ ngân hàng. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ. 3.1.2. Mục tiêu năm 2008 - Nguồn vốn huy động đến 31/12/2008 đạt: 4000 tỷ đồng. - Tổng dư nợ đạt: 2000 tỷ đồng. - Dư nợ trung và dài hạn đạt: 40% - Tỷ lệ nợ quá hạn: 1% Tiếp tục thực hiện chương trình tái cơ cấu, cơ cấu lại bộ máy điều hành hoạt động tín dụng gọn nhẹ, năng động và hiệu quả hơn nhằm đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Căn cứ vào phương hướng phát triển hoạt động cho vay đối với DNNQD và những tồn tại trong hoạt động này tại Chi nhánh mà ta có những giải pháp để nâng cao hoạt động cho vay, phát huy được tốt nhất vai trò – vị thế của ngân hàng trong nền kinh tế. 3.2. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNQD 3.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách cho vay, xây dựng quy trình cho vay đơn giản, khoa học và hiệu quả Như ta đã nêu ở chương I về cơ sở lý luận thì các chính sách cho vay, cơ chế và quy trình cho vay ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của khách hàng nói chung và các DNNQD nói riêng. Để khắc phục nguyên nhân chủ quan trên, khắc phục một cơ chế cho vay, chính sách còn mang nặng tính trì trệ, rườm rà thì ngân hàng nên xây dựng, sửa chữa và bổ sung để hoàn thiện nên một cơ chế, chính sách và quy trình cho vay đơn giản, khoa học mà vẫn hiệu quả. Vẫn đảm bảo được mục tiêu cốt lõi của hoạt động ngân hàng là an toàn và sinh lợi. Đồng thời lại đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đặc biệt trong những trường hợp cần vốn khẩn cấp thì một cơ chế, một chính sách đơn giản khoa học là rất cần thiết. Đó là cách giữ khách và còn là cách thu hút khách hiệu quả. Giải pháp này do vậy rất quan trọng và cấp bách, hiện tại quy trình cho vay của chi nhánh còn khá nhiều vấn đề bất cập, quá nhiều thủ tục hành chính, nhiều công đoạn. Mà như thế nhiều khi không có lợi chút nào. Mở rộng cơ chế, chính sách cho vay tức là mở rộng cơ chế đảm bảo tiền vay, quy mô, phạm vi cho vay, lãi suất, thời hạn cho vay...Tất nhiên là mở rộng trong phạm vi cho phép, trong khuôn khổ quy định của luật các tổ chức tín dụng về đảm bảo tiền vay, về phạm vi cho vay cũng như lãi suất thời hạn đồng thời cũng phải đảm bảo được cân đối giữa nguồn đi vay và cho vay để đảm bảo được mục tiêu an toàn và sinh lợi. Ngoài ra mở rộng cơ chế, chính sách cho vay còn là mở rộng các phương thức cho vay để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, của doanh nghiệp nhằm đa dạng hóa hoạt động cho vay đồng thời thu hút được nhiều khách hàng, nhiều DNNQD tham gia hoạt động tín dụng tại chi nhánh. Quy trình cho vay, thủ tục đơn giản nhanh gọn mà vẫn mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó công đoạn thu thập và xử lý thông tin về khách hàng cũng cần được tiến hành một cách cận trọng, khoa học. Chú ý đến chất lượng thông tin thu thập được và phân tích thông tin đó chính xác để đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. Hoàn thiện cơ chế chính sách cho vay thống nhất từ trên xuống để hoạt động cho vay diễn ra nhanh gọn mà vẫn tránh được các rủi ro phi đạo đức, rủi ro tác nghiệp... 3.2.2. Xây dựng, triển khai chiến lược marketing ngân hàng hấp dẫn để thu hút khách hàng mới Marketing ngân hàng là rất quan trọng, một trong những nguyên nhân dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với khách hàng nói chung và các DNNQD nói riêng chưa thực sự đem lại hiệu quả, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng là do hoạt động marketing chưa hoàn thiện. Đối với hoạt động marketing của ngân hàng, với những đặc thù riêng của mình cần tập trung giải quyết 3vấn đề cơ bản sau: kênh phân phối, thị trường và khách hàng. Kênh phân phối: Kênh phân phối là một tập hợp các yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến khách hàng. Nó bao gồm tổ chức, cá nhân và các phương tiện thực hiện các hoạt động đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Hệ thống kênh phân phối tạo nên dòng chảy sản phẩm dịch vụ từ ngân hàng đến khách hàng, hoàn thành việc trao đổi giữa khách hàng và ngân hàng trên thị trường. Để đảm bảo cho sự thành công trong kinh doanh nói chung và trong hoạt động cho vay đối với DNNQD nói riêng, ngân hàng phải hoạch định chiến lược phân phối phù hợp để đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng một cách tốt nhất. Cụ thể là ngân hàng cần khẩn trương quy hoạch, sắp xếp lại đi đôi với tiếp tục mở rộng hợp lý mạng lưới hoạt động: các phòng giao dịch, điểm giao dịch và các kênh phân phối khác của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa để phục vụ cho mục tiêu mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD. Về thị trường Trong bối cảnh sức ép trên thị trường ngày càng gia tăng cùng với xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế để hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung ngày một phát triển đủ sức cạnh tranh trên thị trường, chi nhánh cần chú ý mở rộng thị trường không chỉ trong địa bàn quận Đống Đa mà còn hướng hoạt động ra thị trường các vùng, khu vực khác. Nghiên cứu đặc điểm của từng khu vực, tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên và ngoài địa bàn. Về khách hàng Để phát triển mạnh, mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD, chi nhánh cần xây dựng chiến lược tiếp cận khách hàng hiệu quả, trong đó tập trung vào khách hàng mục tiêu. Tăng cường mạnh mẽ công tác tiếp thị và quảng bá hình ảnh của ngân hàng đa năng, hiện đại, phát triển hiệu quả và bền vững. Cần nghiên cứu thành lập bộ phận tiếp thị từng phòng giao dịch. Tổ chức và triển khai tốt các hoạt động tiếp thị, lựa chọn phân lọai khách hàng để áp dụng cơ chế chăm sóc khách hàng, có bộ phận chuyên trách chăm sóc và duy trì quan hệ tốt với khách hàng truyền thống, khách hàng chiến lược từ chi nhánh cho đến các phòng giao dịch đảm bảo tính cạnh tranh với bên ngoài, tính thống nhất chặt chẽ từ trên xuống. Bên cạnh đó, chấn chỉnh tác phong giao dịch, để qua đó xây dựng được hình ảnh tốt trong mắt khách hàng, tạo dựng được niềm tin đối với họ. Cụ thể là xây dựng phong cách giao dịch văn minh lịch sự, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, ngân hàng cần có các quy định chuẩn mực, cụ thẻ trong hoạt động giao dịch với khách hàng, đặc biệt là với nhóm khách hàng có quan hệ tín dụng lâu năm với ngân hàng. 3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng. Thẩm định khách hàng, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng để tranh các rủi ro phi đạo đức sau khi đã cấp vốn. Kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng như trong cam kết ở hợp đồng tín dụng mà khách hàng đã kí trước đây hay không. Nếu thấy có dấu hiệu xấu, ngân hàng có thể ngừng giải ngân vốn nếu như vốn đang trong quá trình giải ngân, còn không thì tìm cách thu hồi vốn từ khách hàng. Gắn với quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp sau khi ngân hàng giải ngân thì ngân hàng phải tiến hành ngay việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp xem có phù hợp với những cam kết trước đây trong hợp đồng tín dụng hay không. Việc kiểm tra này không không chế số lần mà tùy theo dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của doanh nghiệp. Thông thường, ngân hàng tiến hành kiểm tra các nội dung như: Kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn vay theo đúng mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng hay không; kiểm tra tiến độ thực hiện dự án của doanh nghiệp; kiểm tra hiện trạng của tài sản đảm bảo tiền vay. Và việc kiểm tra đó phải được tiến hành tại doanh nghiệp hoặc tại nơi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ dùng để kiểm tra là: phiếu nhập kho vật tư hàng hóa, giấy tờ có giá trị tương đương với tiền mặt, các chứng từ làm căn cứ chi trả…Việc kiểm tra hàng hóa vật tư trong kho phải được chú trọng tránh trường hợp doanh nghiệp tạo kho hàng hóa giả để vay vốn qua mắt ngân hàng. 3.2.4. Mở rộng hoạt động huy động vốn Với phương châm hoạt động "đi vay để cho vay ", muốn mở rộng hoạt động cho vay đối với khách hàng nói chung cũng như DNNQD nói riêng thì ngân hàng phải có vốn để đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, do vậy mà giải pháp mở rộng huy động vốn là rất cần thiết. Và để có vốn thì ngân hàng có thể huy động trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Cụ thể ngân hàng có thể huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như: - Mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch toàn quốc bảo đảm cho huy động vốn. – Hiện đại hóa công nghệ gắn liền với đổi mới phong cách giao dịch của nhân viên, tạo sự tôn trọng của ngân hàng đối với người gửi tiền. – Đẩy mạnh các hoạt động marketing, tiếp thị, quảng cáo khuyến mãi trong huy động vốn, tạo thông tin minh bạch. – Đa dạng hóa các sản phẩm gửi tiền tiết kiệm, các hình thức huy động vốn đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trong việc huy động vốn, ngân hàng tạo sự chủ động lựa chọn linh hoạt cho khách hàng, như: gửi tiền một lần nhưng rút gốc linh hoạt cho nhu cầu chi tiêu vẫn được lãi suất cao; gửi góp nhưng lĩnh ra một lần vào kỳ cuối với lãi suất hấp dẫn, gửi tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ; gửi tiền kèm theo cho vay mua ôtô trả góp chẳng hạn... Hoạt động huy động vốn do phòng nguồn vốn thực hiện. Và thực tế trong thời gian vừa qua chi nhánh mới chỉ huy động được các nguồn vốn ngắn hạn là chủ yếu. Vì vậy mà mở rộng huy động vốn, ngân hàng đặc biệt phải chú trọng vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay của các DNNQD. Tuy nhiên, chi phí để huy động vốn trung và dài hạn sẽ tốn kém hơn so với nguồn vốn ngắn hạn và không kỳ hạn. Do vậy, chi nhánh cần cân đối nguồn vốn huy động với vốn cho vay để cân đối thu chi nhằm đảm bảo kinh doanh có lãi cho mình. 3.2.5. Phát triển công nghệ ngân hàng qua việc hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ cho hoạt động cho vay đáp ứng nhu cầu vay vốn của các DNNQD Đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Sớm thực hiện giai đoạn 2 hiện đại hóa ngân hàng theo đúng lộ trình đặt ra để có thể cung ứng cho khách hàng nhiều sản phẩm dịch vụ mới, nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ và chất lượng quản lý thông tin, tăng tốc độ xử lý giao dịch và đảm bảo an toàn, chính xác và hiệu quả. Qua đó nhằm thực hiện nhanh và hiệu quả các công việc trong quá trình cho vay, rút ngắn thời gian phân tích tín dụng, đảm bảo cho nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp cũng như tăng chất lượng hoạt động kinh doanh cho ngân hàng. Hệ thống trang thiết bị hiện đại của ngân hàng do phòng thông tin điện toán của ngân hàng đảm nhiệm. 3.2.6. Đẩy mạnh công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu của hoạt động tín dụng Nguồn lực về con người là rất quan trọng. Mang tính quyết định thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đây là một giải pháp mang tính dài hạn. Phải có kế hoạch thực hiện từng bước, thực hiện lâu dài chứ không phải ngày một ngày hai mà được. Mở các lớp đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên tham gia các khóa đào tạo nhằm nâng cao, trau dồi nghiệp vụ chuyên môn. Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên có đạo đức tốt bởi vì hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ nó mang tính nhạy cảm cao. Tóm lại chi nhánh phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị, điều hành của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa theo chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, chi nhánh tiến hành hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phát triển nguồn nhân lực để thu hút nhân tài, cán bộ nghiệp vụ và cán bộ quản lý có trình độ giỏi thông qua xây dựng hệ thống khuyến khích và chế độ quản lý lao động phù hợp. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị đối với ngân hàng Công thương Việt Nam NHCT Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò là một trong những NHTM chủ lực của hệ thống NHTMNN góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế đất nước những năm qua. Với vai trò là người quản lý, NHCT Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên cũng cần phải có một số điều chỉnh để phát huy hơn nữa tính năng động và tự chủ của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa cũng như các Chi nhánh khác. Cụ thể: * Cần triển khai kịp thời hơn nữa việc hướng dẫn cụ thể các văn bản, qui định của NHNN về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, tạo điều kiện cho các chi nhánh hoạt động đúng hành lang pháp lý và đảm bảo chất lượng cao. * Cần có hướng dẫn quy trình cho vay một cách cụ thể hơn tới các chi nhánh, đồng thời cũng cần trao quyền chủ động hơn nữa cho các chi nhánh trong việc mở rộng tín dụng cũng như thực hiện nghiệp vụ cho vay. Bên cạnh đó, NHCT Việt Nam nên bổ sung các cơ chế, biện pháp cụ thể để tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành thể lệ và quy trình tín dụng của cán bộ tín dụng tại các cơ sở. * Trong tình hình cạnh tranh hiện nay, NHCT Việt Nam cần phải thu hút thêm nguồn ngoại tệ dài hạn, đặc biệt là phải chú ý đến nguồn ngoại tệ từ nước ngoài như cho vay uỷ thác của các tổ chức quốc tế, nguồn vay ưu đãi, kiều hối… để đáp ứng nhu cầu tín dụng bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu đồng thời cũng thu hút các khách hàng xuất khẩu mở tài khoản thanh toán ở hệ thống NHCT. NHCT Việt Nam nên hỗ trợ cho các chi nhánh để các chi nhánh này có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng bằng ngoại tệ. * Cần đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, những vi phạm trong quá trình cho vay, góp phần hạn chế tổn thất cho ngân hàng. *Mở rộng hơn trong công tác Marketing, giới thiệu về ngân hàng qua các hệ thống thông tin đại chúng, sử dụng các công cụ Marketing mới như quảng cáo trên truyền hình, tài trợ, PR…nhằm gây dựng được hình ảnh, dấu ấn tốt và niềm tin trong mắt khách hàng. 3.3.2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Luật Doanh nghiệp ra đời đã tạo điều kiện tăng nhanh số lượng các DNNQD. Thực vậy, hiện nay cả nước đã có hơn 260000 DNNQD với tổng số vốn hơn 600000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đó chỉ là về số lượng, còn chất lượng thì còn đang là vấn đề cần phải quan tâm. Nhiều doanh nghiệp với số nhân viên rất ít, chỉ khoảng 20-30 người, trình độ năng lực tay nghề chưa thể đáp ứng được trong môi trường kinh tế hội nhập và mở cửa. Do vậy, cần đào tạo nâng cao năng lực trình độ quản lý cho các cấp lãnh đạo cũng như tay nghề cho cán bộ công nhân viên. Tạo điều kiện để tham gia các lớp học, khóa học ngắn ngày đào tạo chuyên môn cho cán bộ công nhân viên. Có thể tìm hiểu thêm về hoạt động tín dụng, luật tín dụng của ngân hàng để có thể tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn của ngân hàng. Ứng dụng các nguyên tắc kế toán tài chính, thực hiện đúng chế độ hạch toán kế toán để minh bạch hóa các báo cáo tài chính. Đây là yêu cầu cấp thiết không chỉ có lợi cho bản thân doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn trong trường hợp vay vốn từ ngân hàng. 3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Để tăng cường khả năng các DNNQD trong cả nước có thể tiếp cận với nguồn vốn của các ngân hàng thương mại, đảm bảo thực hiện vay vốn công bằng giữa các DNNQD và doanh nghiệp Nhà nước, NHNN cần quán triệt và chỉ đạo các NHTM thực hiện tốt theo chỉ thị số 03/2003/CT-NHNN. DNNQD là một thành phần kinh tế ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống doanh nghiệp của nước ta, là thành phần đang được khuyến khích phát triển, NHNN cần yêu cầu các NHTM tạo điều kiện thuận lợi cho họ được tiếp cận nhanh chóng với nguồn tài trợ từ ngân hàng. Hệ thống NHNN và các ngân hàng thương mại cần phải phối hợp thực hiện một cách chặt chẽ giữa quản lý và kinh doanh. Đồng thời với việc quan tâm xây dựng bộ máy thanh tra của NHNN, việc kiểm soát, thanh tra các hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh đúng hướng, an toàn và hiệu quả. 3.3.4. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước Các cơ quan Nhà nước nên tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho các DNNQD phát triển và tạo lập sự bình đẳng giữa DNNQD và doanh nghiệp Nhà nước. Cần có các chính sách hỗ trợ các DNNQD thông qua việc đào tạo chủ doanh nghiệp và phương pháp quản lý, hạch toán kinh doanh nhằm minh bạch tình hình tài chính, hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại cho tất cả các thành phần kinh tế trong đó có thành phần DNNQD. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo định hướng và mục tiêu chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp, phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề. Đồng thời thực hiện kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy, hiện tại vẫn có những doanh nghiệp phải chịu cảnh di dời đến 4-5 lần mà vẫn chưa tìm được một nơi kinh doanh ổn định. Thậm chí kể cả có một số doanh nghiệp có tay nghề cao nhưng không có mặt bằng làm việc ổn định nên phải chia tay với nghề. Do vậy, cơ quan quản lý nhà nước cần phải có giải pháp thích hợp và kịp thời về vấn đề này. Nếu như nó thực hiện chậm và không được quan tâm kịp thời thì 10-20 năm sau loại hình DNNQD này sẽ đi về đâu trong khi sự đóng góp của nó vào GDP chung của cả nước không phải là nhỏ. Ngòai ra, đa phần DNNQD rất cần nguồn vốn kinh doanh (cố định và lưu động) vì tính chất sản xuất của loại hình này là sản xuất kiểu gia đình, dòng họ và tự phát, do ngành nghề "cha truyền con nối". Ở góc độ quản lý nhà nước, xin đề nghị Chính phủ hãy dành một nguồn vốn cho các DNNQD vay với lãi suất hỗ trợ để có đủ điều kiện sản xuất trong thời hạn dài. Đây là hình thức "tiếp hơi" cho doanh nghiệp nhở có điều kiện tự vươn lên, vì có vốn mới giải quyết được hàng loạt vấn đề trọng yếu trong sản xuất kinh doanh, như mặt bằng, quản trị kinh doanh, tiếp cận khoa học kỹ thuật tiên tiến, đầu tư thiết bị hiện đại... KẾT LUẬN Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang bước vào hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt. Các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trên thị trường buộc phải nâng cao sức cạnh tranh qua việc xây dựng và thực thi hiệu quả chiến lược phát triển dựa trên thế mạnh của mình. Mỗi ngân hàng có một lợi thế riêng, với ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa nói riêng thì hoạt động tín dụng vẫn là một lợi thế mạnh. Và hiện nay, khi nhóm khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại tập trung vào các DNNQD thì ngân hàng lại có sự giảm sút về quy mô cho vay đối với nhóm đối tượng này. Qua đề tài này, trên cơ sở phân tích, đánh giá những kết quả đã và chưa đạt được của ngân hàng để tìm ra nguyên nhân, giải pháp góp phần mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa. Cụ thể là bài viết đã giải quyết được các vấn đề: Giới thiệu một cách tổng quan về DNNQD và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại nói chung cũng như hoạt động cho vay đối với DNNQD nói riêng. Giới thiệu về ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa, thực trạng hoạt động của ngân hàng và một số ngân hàng thương mại lựa chọn để qua đó đánh giá thực trạng hoạt động của ngân hàng trong mối tương quan với các ngân hàng thương mại khác. Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa. Mặc dù đã cố gắng nhiều song đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp, bổ sung của các thầy cô giáo và ban lãnh đạo ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa. MỤC LỤC Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Ngân hàng thương mại, chủ biên PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, nhà xuất bản thống kê, 2006. 2. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, chủ biên PGS. TS Lưu Thị Hương, nhà xuất bản thống kê 2005. 3. Luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 4. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài chính. 5. Báo cáo thường niên của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa. 6. Giáo trình Marketing ngân hàng, chủ biên PGS. TS. Nguyễn Thị Minh Hiền, nhà xuất bản thống kê, 2004. 7. Thời báo kinh tế Việt Nam 2007- 2008. 8. Luật doanh nghiệp 1999, 2005 9. Tạp chí tài chính doanh nghiệp 10. Tạp chí ngân hàng các số năm 2007, 2008 11. Sổ tay tín dụng của ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7568.doc
Tài liệu liên quan