Mở rộng hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh VPBank

LỜI MỞ ĐẦU Nền KT thế giới nói chung và KT VN nói riêng trong những năm qua đã có những bước tiến dài dựa trên con đường hội nhập. Tuy nhiên, trong năm 2008 do sự PT quá nóng của thị trường bất động sản đã gây ra 1 đợt suy thoái lớn chưa từng có trong lịch sử và để lại một hậu quả rất nghiêm trọng cho nền KT thế giới trong 2 năm 2008, 2009. Ở đây, đối tượng chịu tác động lớn nhất của đợt suy thoái này chính là hệ thống NH các nước. Hệ thống NH VN nói chung và NH TM cổ phần Các DN Ngoài Quốc Doa

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh VPBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh (VPBank) nói riêng cũng không nằm ngoài sự tác động đó. Nhưng với sự nhạy bén, sự năng động sáng tạo, không ngại khi phải thay đổi cùng với một đường lối đúng đắn của ban lãnh đạo, NH VPBank đã vượt qua đợt suy thoái này và vẫn có lãi trong KD tuy không cao như dự kiến. Trong thời gian qua, cùng với các NH khác VPBank đã khẳng định được uy tín và chất lượng của mình, với tình hình HĐ tài tài chính và kết quả HĐ SX KD khả quan, VPBank đang cố gắng, nỗ lực hết mình để trở thành một NH bán lẻ hàng đầu ở khu vực phía Bắc và nằm trong top những NH hàng đầu của VN có tầm cỡ khu vực. Là một sinh viên năm cuối khoa TM và KT Quốc Tế trường Đại học KT Quốc dân, cùng với sinh viên cả khóa, em đang có thời gian thực tập tại Hội sở của VPBank. Trong thời gian tại NH, em đã nhận thấy HĐ cho vay các DN vừa và nhỏ là rất quan trọng đối với NH vì vậy em đã quyết định chọn đề tài "Mở rộng HĐ cho vay đối với các DN vừa và nhỏ tại NH các DN ngoài quốc doanh VPBank" để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Mặc dù đã nỗ lự hết mình song do thời gian thực tập có hạn vì vậy chuyên đề của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM ĐỐI VỚI DNVVN 1.1. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNVVN). 1.1.1. Khái niệm DNVVN. DNVVN là một bộ phận cấu thành rất quan trọng của nền KT và có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời với các chủ thể khác. Việc phân chia DNVVN dựa vào tiêu thức quy mô DN. Theo tiêu thức này DN bao gồm: DN lớn, DNVVN. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm DNVVN nhưng khái niệm chung nhất về DNVVN có nội dung như sau: “DNVVN là những cơ sở SX, KD có tư cách pháp nhân KD vì mục đích lợi nhuận, có quy mô DN trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, LĐ, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.” DNVVN là những DN có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, LĐ hay doanh thu. DNVVN có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là DN vừa, DN nhỏ và DN siêu nhỏ. Theo tiêu chí của NH thế giới, DN siêu nhỏ là DN có số lượng LĐ dưới 10 người, DN nhỏ có số lượng LĐ từ 10 người đến 50 người, còn DN vừa có từ 50 người đến 300 LĐ. Mỗi quốc gia đều có tiêu chí riêng để xác định DNVVN ở nước mình.Ở VN, khái niệm DNVVN được đưa ra ở điều 3, Nghị định 90/2001/NĐ – CP của Chính phủ về trợ giúp PT DN nhỏ và vừa: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sảng xuất, KD độc lập, đã đăng ký KD theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số LĐ hằng năm không quá 300 người.” Theo điều 4 các DNVVN bao gồm: Các DN thành lập và HĐ theo Luật DN. Các DN thành lập và HĐ theo Luật DN Nhà nước. Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã. Các hộ KD cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 của Chính phủ về đăng ký KD. Như vậy, có rất nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN. Một số tiêu thức như vốn, LĐ, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng được dùng khá phổ biến trên thế giới cũng giống như ở VN. Trong đó, hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và LĐ. Tuy nhiên, mỗi một nước, mỗi một nền KT lại lựa chọn các tiêu chuẩn khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trình độ PT KT XH của từng nước: Thông thường các nước có trình độ PT càng cao thì quy định về chỉ tiêu quy mô vốn cũng như LĐ cao hơn so với các nước có trình độ PT thấp. Ví dụ: Ở Nhật Bản DN có số vốn dưới 1 triệu USD và LĐ dưới 300 người được coi là DNVVN, nhưng ở các nước đang PT như VN hay là Lào thì đó lại là DN lớn. Các giới hạn tiêu chuẩn này thay đổi theo thời gian sao cho phù hợp với trình độ PT KT - XH của từng giai đoạn. Khi nền KT tăng trưởng, quy mô HĐ của các DN mở rộng thì giới hạn tiêu chuẩn sẽ được điều chỉnh lại. Hoặc khi nền KT suy thoái, các DN HĐ kém hiệu quả, một số DN phá sản hoặc bị sáp nhập, giải thể, số lượng các DN giảm. Lúc đó tiêu chuẩn để phân loại DNVVN cũng sẽ thay đổi tỷ lệ với tốc độ tăng trưởng quy mô của các DN. Theo ngành nghề khác nhau: Do mỗi ngành nghề có tính chất, đặc trưng riêng nên việc phân biệt quy mô vốn cũng như LĐ sử dụng riêng cho từng ngành nghề cũng khác nhau. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, các DN ở khu vực SX phải có số vốn dưới 1 triệu USD và dưới 300 LĐ, trong khi đó TM - dịch vụ có số vốn dưới 300.000USD và dưới 100 LĐ thì đều thuộc DNVVN. Ở VN, đối với DN công nghiệp, DN nhỏ có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống và số LĐ từ 50 người trở xuống, còn các DN TM và dịch vụ số LĐ dưới 30 người. Đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc gia. Với mục tiêu PT ổn định và bền vững KT - XH, các nước đều đưa ra những tiêu thức phân loại DNVVN dùng làm căn cứ thiết lập những chính sách PT và hỗ trợ DNVVN. Điều này hết sức quan trọng, ảnh hưởng tới tổng thể nền KT vì các DNVVN thường chiếm tỷ lệ lớn. Như vậy, việc xác định rõ các tiêu thức để phân loại DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở để xác định cơ chế quản lý với những chính sách ưu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ thống các DN này. Xác định tầm quan trọng của DNVVN đối với PT KT đất nước theo xu thế hội nhập KT quốc tế, mấy năm trở lại đây, Chính phủ có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả HĐ, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình KT này. Chính vì vậy số lượng DNVVN tăng lên đáng kể. Nếu đem tiêu chí DNVVN là dưới 300 LĐ và vốn dưới 10 tỷ đồng thì số DN năm 2009 có tới 95,21% thuộc nhóm vừa và nhỏ, trong đó: * Quy mô về LĐ: Số DN dưới 10 LĐ chiếm 45,3%. Số DN từ 10 đến dưới 200 LĐ chiếm 47.48%. Số DN từ 200 đến 300 LĐ chiếm 2,43%. * Quy mô về vốn: Số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 38,8%. Số DN có vốn từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng chiếm 41,03%. Số DN có vốn từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng chiếm 9,18%. 1.1.2. Những lợi thế và bất lợi của DNVVN trong nền KT thị trường. 1.1.2.1. Những lợi thế của DNVVN. Số lượng DNVVN chiếm tỷ lệ lớn. Giới hạn chỉ tiêu độ lớn của các DNVVN khá thấp: quy mô vốn và số lượng LĐ khá thấp nên đa phần các DN trong nền KT thị trường đều thuộc nhóm DNVVN. Số lượng các DNVVN này thường chiếm từ 70% đến 80%, thậm chí có nước 90%. Hơn nữa, do đặc trưng của các DNVVN là HĐ trên tất cả các lĩnh vực ngành nghề nên hầu hết trong nền KT số lượng các DN này chiếm ưu thế tuyệt đối. Từ khái niệm DNVVN là “ Cơ sở SX KD độc lập, đã đăng ký KD theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số LĐ trung bình hàng năm không quá 300 người” cho thấy tuyệt đại đa số các DN của VN đều là DNVVN. Tính đến 31/12/2009 số DNVVN thực tế đang HĐ trong cả nước là khoảng 347516 DN, tăng thêm 8.95 % so với 31/12/2008 . Bình quân năm 2006 - 2009, số DN thực tế HĐ tăng 14.51%. Hơn nữa, các DNVVN ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt, đối xử so với các DNNN giảm nhiều. Với quan điểm PT nền KT nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta mà các DNVVN ngày càng có nhiều cơ hội để PT. Vì vậy mà số lượng các DNVVN tăng lên đáng kể. Hiện cả nước có 365000 DNVVN và theo dự kiến sẽ thành lập thêm 100.000 DN mới để đưa tổng số lên khoảng 465.000 DN vào năm 2010. Khả năng linh hoạt cao, năng động trong HĐ SX KD. Các DNVVN không chỉ nhiều hơn về số lượng mà còn cho thấy tính linh hoạt và năng động trong HĐ SX KD ngày càng cao. DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực SX KD nên dễ thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường. Điều này được thể hiện qua khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với xu hướng thay đổi nhanh chóng của nhu cầu trên thị trường. Trước những biến động của thị trường, đứng trước nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của KH, các DNVVN rất linh động và mạnh dạn đầu tư SX, cải tiến và trang bị công nghệ với chi phí bổ sung không cao. Hơn nữa, các DNVVN cần ít diện tích SX tập trung, có khả năng SX phân tán. Khả năng này phát huy được lợi thế về giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật chất, tận dụng được các nguồn lực phân tán, đồng thời cũng tạo ra tính linh hoạt cao trong tổ chức SX. Môi trường cạnh tranh do có sự tham gia của số lượng đông đảo DNVVN khiến cho số lượng và chủng loại hàng hoá SX tăng lên rất nhanh. Kết quả là tạo ra sức ép lớn buộc các DN phải thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới. Những yếu tố đó tạo ra sự năng động cho chính bản thân các DNVVN. Năng động trong HĐ SX KD để tồn tại và PT. DNVVN chủ yếu là các DN ngoài quốc doanh, HĐ trên tất cả các ngành nghề. Nói đến DNVVN ở VN trước tiên và chủ yếu là nói đến các DN thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành và PT các thành phần KT ở nước ta nên đại bộ phận các DNVVN theo quy định hiện hành của pháp luật đề thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Bởi đặc điểm và tính chất của các DN này đều mang tính đại diện cho DNVVN ở VN. Các DNVVN bao gồm đầy đủ các loại hình pháp nhân theo quy định hiện hành nhưng chủ yếu bao gồm các loại hình DN tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Hiện nay DNVVN chiếm hơn 95% tổng số DN cả nước. Điều đó chứng tỏ DNVVN có mặt trong hầu hết mọi thành phần KT với các loại hình khác nhau. Các DNVVN HĐ trong mọi lĩnh vực KT - XH nhưng tập trung thủ yếu trong ba lĩnh vực chính là công nghiệp, xây dựng; TM, dịch vụ đời sống và dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hành khách… 1.1.2.2. Những bất lợi của DNVVN. Vốn và tín dụng. Vốn là điều kiện đầu tiên để một DN tiến hành HĐ SX KD. Vốn có ý nghĩa quan trọng trong suốt quá trình HĐ của DN vì vốn duy trì HĐ và đảm bảo cho SX được liên tục. DNVVN có tiềm lực tài chính rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các DN không có điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong KD, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ. Bản thân các DNVVN HĐ theo hướng tự huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, từ các mối quan hệ họ hàng, thân quen… là chủ yếu. Tuy nhiên, vốn từ nguồn này rất ít, thông thường là vốn ban đầu để HĐ SX KD. Ngoài ra, DNVVN có thể huy động vốn từ nguồn tín dụng NH. Tuy nhiên, đây lại là khó khăn nhất đối với các DNVVN hiện nay khi mà các DNVVN chưa tiếp cận được với nguồn tín dụng NH, hoặc sự tiếp cận còn rất mỏng manh. DN phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng cũng như phải chịu sự giám sát của NH và chi phí sử dụng vốn. Hơn nữa, năng lực nội tại của DNVVN thấp, các chỉ tiêu tài chính không đảm bảo yêu cầu của NH, các DNVVN lại không có tài sản có giá trị để đảm bảo cho khoản vay. Nguồn nhân lực Số lượng các DNVVN lớn nên thu hút một lượng lớn lực lượng LĐ phục vụ cho quá trình SX KD. Tuy nhiên trình độ cũng như tay nghề LĐ chưa cao. Các DNVVN đầu tư vào tài sản cố dịnh ít do nguồn vốn ít nên họ thường tận dụng LĐ thay thế cho vốn, đặc biệt là với những nước có nguồn LĐ dồi dào và nhân công rẻ. Đây vừa là thuận lợi nhưng cũng là bất lợi cho các DNVVN. Trong điều kiện hội nhập KT và khu vực, để tồn tại và PT đòi hỏi các DN phải có đội ngũ LĐ có trình độ chuyên môn và nghề nghiệp cao. Nhưng trình độ học vấn của đội ngũ LĐ trong các DNVVN lại chưa cao. Sự xuất hiện và khả năng PT của mỗi DN phụ thuộc rất lớn vào người sáng lập ra chúng. Sự có mặt của đội ngũ các nhà khởi sự DN này cùng với khả năng và trình độ, nhận thức của họ về tình hình thị trường và khả năng nắm bắt cơ hội KD sẽ tác động to lớn đến HĐ của từng DNVVN. Tuy nhiên, phần nhiều các chủ DNVVN chưa được đào tạo bài bản, chủ yếu HĐ dựa vào kinh ngiệm, thiếu những kiến thức về thị trường và chưa được hỗ trợ những thông tin cần thiết. Chủ DN có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống chiếm khoảng 52%, chỉ có khoảng 43% chủ DN có trình độ đại học trở lên nhưng họ cũng ít được đào tạo kiến thức chuyên môn về KT và quản trị DN. Đối với đội ngũ LĐ, trình độ chuyên môn nghề nghiệp còn rất hạn chế. Do quy mô nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các DNVVN không đủ kinh phí để đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho người LĐ. Lực lượng LĐ trong các DNVVN chủ yếu trưởng thành từ thực tiễn học hỏi và kinh nghiệm, chỉ có một số ít được đào tạo qua trường lớp chính quy. Trong số các cơ sở đăng ký KD theo Luật DN thì hơn 90% là DN có quy mô vừa và nhỏ, trung bình mỗi DN có 22 LĐ. Nhiều DN 100% LĐ chưa qua đào tạo nghề ở trường lớp. Trong đó khoảng 25% số DN tư nhân được PT trên cơ sở các hộ cá thể, 28% chủ DN là những cán bộ nhà nước đã nghỉ theo chế độ. Do vậy, khả năng quản lý cả về kỹ thuật và KD còn nhiều hạn chế. Trình độ khoa học công nghệ và quản lý. Sự PT của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã mở ra khả năng rộng lớn hơn cho sự PT của DNVVN. Nó giúp DN có thể trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, chủ động trong việc lựa chọn, ứng dụng công nghệ mới. Từ đó khắc phục khó khăn do quy mô nhỏ bằng khả năng SX nhanh hơn, rẻ hơn, nhanh hơn nhờ ứng dụng công nghệ mới. Tuy nhiên, đây lại là một thách thức đối với DNVVN khi mà nguồn vốn cũng như trình độ nhân lực hạn chế thì việc thay đổi công nghệ phù hợp là rất ít. Vì vậy, đổi mới khoa học công nghệ chưa được các chủ DN đánh giá đúng đắn tầm quan trọng cũng như tính cấp bách. Các DNVVN chỉ có thể đổi mới công nghệ từng phần, từng công đoạn SX nên dễ dẫn đến việc chắp vá, thiếu tính đồng bộ và thống nhất. Trong những năm qua, nhiều DN đã có những đổi mới về mặt khoa học công nghệ, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước PT. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng bộ và chưa theo một định hướng PT rõ rệt. Hiện nhiều DN vẫn đang sử dụng các công nghệ lạc hậu, xen lẫn với các công nghệ trung bình và tiên tiến. Điều này làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu ra và đầu vào. Phần lớn các DN ở nước ta đang sử dụng công nghệ còn lạc hậu so với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ và chủ yếu là nhập khẩu. Hầu hết các dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị nhập khẩu đều đã khấu hao hết và được tân trang lại hoặc là do các DN nước ngoài thải bỏ. Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng được mẫu mã, chất lượng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh, đến việc nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Phân bố phân tán, hiệu quả HĐ chưa cao. Quy mô nhỏ, phân tán là một trong những bất lợi đối với các DNVVN. Số lượng DNVVN nhiều, HĐ trên tất cả các lĩnh vực KT nhưng lại thiếu sự tập trung. Các DN phân bố phân tán khắp các vùng miền. HĐ của các DNVVN diễn ra nhỏ lẻ, manh mún, thiếu sự liên kết hỗ trợ nhau. Do đặc điểm vốn thấp, vốn phục vụ cho SX KD của chính DN đã khó nên việc liên doanh, liên kết lại càng khó khăn hơn. Tóm lại quy mô nhỏ, phân tán đi kèm với thủ công lạc hậu là hạn chế bất cập lớn nhất của DN nước ta, từ đó chi phối đến nhiều yếu kém khác như: Sức cạnh tranh thấp, hiệu quả KD không cao, LĐ thiếu tính ổn định và bền vững lâu dài. Sức cạnh tranh và tiếp cận thị trường Các DNVVN khó tiếp cận được với cả thị trường trong nước và quốc tế. Sức cạnh tranh của các DNVVN còn ở mức độ thấp. Hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác, nhiều DN đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu và nghiên cứu thị trường. Nhiều DN cũng có nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nhưng do vốn ít, năng lực hạn chế, chi phí lại khá tốn kém, trình độ tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin của chủ DN còn yếu nên chưa hiệu quả. Các DNVVN với năng lực tài chính hạn chế, công nghệ còn yếu kém nên hiệu quả HĐ chưa cao. Cộng thêm với kiểu dáng sản phẩm đơn điệu, chất lượng sản phẩm chưa cao và thiếu mạng lưới phân phối, tiếp thị nên vừa khó tiếp cận với thị trường, vừa thiếu năng lực cạnh tranh. 1.1.3. Vai trò của DNVVN trong nền KT thị trường. DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền KT của mỗi nước. Ở nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước PT DNVVN luôn là nền tảng của nên KT, là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền KT. Chính phủ các nước cũng xác định vai trò quan trọng, lâu dài của DNVVN. 1.1.3.1. Góp phần tăng trưởng và ổn đinh KT - XH. Trước hết, các DNVVN chiếm tỷ trọng lớn trong nền KT, thậm chí áp đảo trong tổng số DN. Sự PT nhanh của các DNVVN cả về số lượng và chất lượng đã đóng góp quan trọng vào GDP. Ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước PT, DNVVN chiếm 90% số lượng DN, đóng góp từ 25%-33% giá trị GDP hàng năm. Vì vậy, việc PT DNVVN đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng của nền KT, đặc biệt là các nước đang PT. Vì DNVVN có quy mô nhỏ nên dễ điều chỉnh HĐ. Các DN này thường HĐ rất năng động và linh hoạt trong nền KT nên kéo theo nền KT năng động theo. Sự góp mặt đáng kể của các DN này khiến cho các DN lớn cũng phải điều chỉnh theo, tạo đà cho nền KT ngày càng PT. HĐ đa năng và bao trùm hầu hết các lĩnh vực KT, DNVVN đã và đang cung cấp một khối lượng lớn hàng hoá, dịch vụ đáng kể cho nền KT. Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm thị trường cao, các DNVVN có nhiều lợi thế trong việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước và ngoài nước. Các DNVVN cũng đóng góp một phần vào kim ngạch xuất nhập khẩu. Ở các nước đang PT, một số ngành nghề có lợi thế xuất khẩu như: nông sản, thủ công mỹ nghệ, chế biến thủy hải sản, dệt may…thì đều do các DNVVN SX. Từ đó, tạo nguồn thu nhập ổn định cho dân cư. 1.1.3.2. PT và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. +Về tiềm lực vốn: Các DNVVN có thể thành lập và HĐ mà không cần quá nhiều vốn. Điều này đã thu hút được đông đảo người dân tham gia đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Hơn nữa, lợi thế của các DNVVN là có thể dễ dàng huy động được vốn từ người thân, bạn bè…và biến các khoản tiền này thành các khoản đầu tư có hiệu quả. +Về nguồn LĐ: Chiếm ưu thế về số lượng, DNVVN đã và đang thu hút một lượng lớn LĐ tham gia vào quá trình SX KD. Thông thường nguồn LĐ chiếm tỷ lệ khoảng 60 – 80% trong tổng số LĐ trong nền KT. Các DNVVN chủ yếu HĐ ở lĩnh vực TM - dịch vụ nên nhu cầu LĐ nhiều. Một đặc điểm là LĐ trong khu vực này thường là LĐ đơn giản, không mất nhiều thời gian đào tạo, chỉ cần bồi dưỡng ngắn ngày là họ có thể tham gia SX được. Đặc biệt, đối với những nước đang PT, nguồn LĐ tay nghề và trình độ thấp nhiều. Chính các DNVVN là nơi vừa tạo công ăn việc làm cho họ, vừa tận dụng nguồn LĐ sẵn có mà chi phí nhân công lại rẻ. Mặt khác, nhiều DN lớn HĐ KD không có hiệu quả, việc giảm biên chế là không thể tránh khỏi nhằm giảm bớt chi phí HĐ. Do vậy, lượng LĐ dư thừa từ các DN lớn lại chính là nguồn cung LĐ cho các DNVVN. Nền KT ngày càng PT, cùng với xu thế chung, các DNVVN cũng xuất hiện nhiều hơn. Mà đứng đầu là các chủ DN. Đây là lực lượng rất cần thiết để góp phần thúc đẩy SX KD PT. Ngày nay, nhiều gương mặt trẻ tài năng đã tự mình thành lập và vận hành DN HĐ có hiệu quả. Chính từ đây mà đội ngũ cán bộ, nhà KD có trình độ, kỹ năng đã ra đời. Với khả năng am hiểu thị trường, trình độ quản lý chyên nghiệp, cùng với sự năng động và linh hoạt, họ đã và đang khẳng định vai trò to lớn của DNVVN trong nền KT thị trường. +Về tài nguyên thiên nhiên: Các DNVVN khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của địa phương hiệu quả. Phân bố phân tán giúp cho DNVVN có thể tận dụng nguồn tài nguyên sẵn có tại địa phương. 1.1.3.3. Phân phối thu nhập có hiệu quả trong nền KT. Muốn HĐ SX KD, các DN cần phải có nguồn LĐ. Sự PT vượt bậc của các DNVVN cả về số lượng và chất lượng đã góp phần không nhỏ vào mục tiêu tăng trưởng KT, tạo công ăn việc làm cho XH. Nếu như các DN lớn thường đặt cơ sở tại các trung tâm KT lớn của đất nước thì các DNVVN lại có mặt ở các địa phương. Khả năng SX phân tán, sử dụng LĐ tại chỗ đã góp phần làm giảm thất nghiệp, một bài toán XH nan giải. DNVVN tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập cho các bộ phận dân cư. Từ đó, tạo ra sự PT tương đối đồng đều giữa các vùng miền khác nhau và cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực KT khác nhau. 1.1.3.4. DNVVN có mối liên hệ chặt chẽ với các chủ thể khác trong nền KT. DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại tất yếu khách quan trong nền KT của mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với các DN lớn. DN lớn thường tập trung vào những đoạn thị trường có quy mô lớn và không thể bao quát được toàn bộ thị trường. Trong khi đó thị trường mục tiêu của các DNVVN lại tập trung vào những “ thị trường ngách” nhằm hỗ trợ các DN lớn trong việc tiếp cận thị trường, cân đối cung cầu trong XH. Với vai trò là một kênh phân phối có hiệu quả, các DNVVN vừa cung cấp các yếu tố đầu vào vừa là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Có thể nói với số vốn HĐ không nhiều, một số DNVVN HĐ trên thị trường nguyên vật liệu trở thành những vệ tinh cung cấp các yếu tố đầu vào cho các DN lớn. Một số DNVVN khác lại trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các DN lớn ví dụ như mua máy móc, thiết bị, vật tư cần thiết… phục vụ cho quá trình SX KD. Sự tham gia của các DNVVN trên thị trường làm cho số lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ không ngừng tăng lên. Với khả năng tiếp cận và đổi mới công nghệ, cùng với xu thế PT của nền KT, các DNVVN buộc phải đổi mới phương thức HĐ, đa dạng hoá sản phẩm, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành… Điều này dẫn đến tính chất cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt. Đứng trước thách thức này, các DN lớn cũng phải thường xuyên đổi mới và nâng cao năng lực HĐ nhằm tạo ra những lợi thế nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh với các DNVVN. Những yếu tố đó có tác động lớn làm nền KT năng động, hiệu quả hơn. 1.2. Mở rộng cho vay đối với DN vừa và nhỏ của NHTM Cho vay: là hình thức KH sử dụng vốn vay của NH với cam kết là phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Có nhiều hình thức cho vay: thấu chi, cho vay từng lần, cho vay gián tiếp, cho vay theo hạn mức, cho vay trả góp… Cho vay thường được định lượng bằng hai chỉ tiêu: doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Dựa vào hai chỉ tiêu này ta sẽ biết được kết quả HĐ tín dụng của NH. Mở rộng cho vay: là sự đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của KH về quy mô cho vay. Nói cách khác là làm tăng tỷ trọng khoản cho vay trong tổng tài sản có của NHTM. Mở rộng cho vay dựa trên cơ sở đa dạng hoá KH, các loại hình dịch vụ cũng như đối tượng cho vay. Mở rộng cho vay DNVVN tạo điều kiện cho các DN này PT, mở rộng SX KD. 1.2.1 Sự cần thiết của việc mở rộng cho vay đối với DNVVN của NHTM Sự cần thiết của mở rộng cho vay đối với DNVVN thể hiện qua vai trò của tín dụng NH TM: Tiếp cận vốn tại các NHTM luôn là mối quan tâm không chỉ của các DN mà còn là của các NH. Nhu cầu vốn tín dụng cho HĐ SX KD của các DN rất lớn. Vậy tín dụng NH có vai trò như thế nào đối với sự PT của các DN? Tín dụng NH là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các DNVVN. Trong nền KT thường có nhiều nguồn vốn nhàn rỗi. Chẳng hạn như một số các DN trong quá trình SX KD có một bộ phận vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái SX của các DN như tiền khấu hao tài sản cố định, tiền trả lương cho người LĐ nhưng chưa đến hạn trả, tiền tích luỹ để tái SX nhưng chưa đủ điều kiện để đầu tư… Các khoản tiền này thường được các DN tìm cách đầu tư sinh lời. Mặt khác, một bộ phận lớn dân cư cũng có khoản tiền để dành mà chưa có nhu cầu sử dụng. Họ cũng muốn đầu tư để kiếm lời. Trong khi đó lại có một bộ phận các DN, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho các mục đích khác nhau. Tuy nhiên, những người thiếu vốn và những người thừa vốn lại khó có thể gặp trực tiếp để cho vay, hơn nữa chi phí lại cao và không kịp thời. Điều này đòi hỏi phải có một tổ chức đứng ra làm cầu nối đáp ứng nhu cầu của cả hai bên. Do vậy, NHTM là tổ chức trung gian tài chính đi vay để cho vay. Vai trò của NHTM tạo ra sự liên tục trong HĐ SX KD cho các DN. Đối với DNVVN ở VN, vốn KD chủ yếu dựa vào vốn cổ phần và vốn vay các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, điều kiện để phát hành cổ phiếu, trái phiếu yêu cầu nhiều nên DNVVN, đặc biệt là DN nhỏ, không đáp ứng được. Các điều kiện đó là phải có quy mô lớn, SX KD có hiệu quả và có uy tín trên thị trường… Mặt khác, thị trường chứng khoán của nước ta chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, việc huy động vốn trung và dài hạn của DNVVN gặp khó khăn. Khi có nhu cầu vốn, các DNVVN vẫn phải tìm đến nguồn vốn tín dụng NH. Do đó, có thể nói tín dụng là một “ Kênh ” chủ yếu để cung cấp vốn cho các DN, đặc biệt là DNVVN. Tín dụng NH tạo động lực thúc đẩy các DNVVN PT, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi, sử dụng có mục đích và dựa trên phương án vay vốn. Các DNVVN tiếp cận nguồn vốn NH đã khó nhưng sử dụng nó sao cho có hiệu quả còn khó hơn. Các DN thường thích sử dụng vốn vay hơn là vốn tự có. Vì vậy trong cơ cấu vốn, tỷ lệ vốn vay bao giờ cũng cao. Đối với các DNVVN thì vốn tự có thấp nên vốn HĐ chủ yếu là vốn vay. Tuy nhiên, khi sử dụng vốn vay thì các DN phải trả lãi. Điều này tạo động lực cho các DN phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả đảm bảo trả cả gốc và lãi cho NH. Do vậy, tín dụng NH đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ lưu chuyển vốn cho XH, góp phần thúc đẩy tái SX mở rộng và tạo điều kiện cho các DN PT bền vững. Mặt khác, tín dụng NH còn thúc đẩy các DN tăng cường chế độ hạch toán KD, giúp các DN khai thác có hiệu quả tiềm năng KT trong HĐ KD. Thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia như hạn mức tín dụng, lãi suất, thông qua các chính sách khác như điều kiện vay vốn, ưu tiên về ngoại tệ hay thu nợ…các NH sẽ kiểm soát tín dụng một cách chặt chẽ và hiệu quả hơn. Đi kèm với vay vốn NH, các DN còn có nhu cầu sử dụng các dịch vụ khác của NH như: thanh toán, tư vấn, trả lương qua tài khoản…Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho DN rút ngắn một số khâu trong quá trình SX KD. 1.2.2. Các hình thức cho vay đối với DNVVN của NHTM. 1.2.2.1. Phân loại theo phương thức cho vay: Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó NH cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là mức thấu chi. Đây là hình thức ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có đảm bảo. Hình thức này có thể cấp cho DN và cá nhân trong vài ngày hoặc vài tháng trong năm nhưng chỉ sử dụng cho KH có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. Cho vay trực tiếp từng lần: hình thức này được sử dụng tương đối phổ biến khi NH cho vay KH không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. KH khi mở rộng SX KD, nếu số vốn chủ sở hữu và tín dụng TM không đủ tài trợ thì KH sẽ vay thêm NH. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. NH có thể kiểm soát từng món vay tách biệt và đảm bảo khả năng tương đối an toàn do tiền vay dựa vào tài sản đảm bảo, NH luôn kiểm tra mục đích và hiệu quả sử dụng vốn vay của KH. Cho vay theo hạn mức: NH thỏa thuận cấp cho KH hạn mức tín dụng. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch SX KD, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của KH. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. KH có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Hình thức này áp dụng cho KH có quan hệ vay mượn thường xuyên, vốn vay thường tham gia vào quá trình SX KD. Do vậy, hình thức này thuận lợi cho KH, đáp ứng kịp thời nhu cầu của KH. Nhưng lại gây khó khăn cho NH vì các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên NH khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của từng lần vay. Cho vay luân chuyển: Đây là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. NH sẽ cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi KH bán được hàng hóa. Cho vay luân chuyển dựa trên luân chuyển hàng hóa nên cả NH và DN đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các DN thương nghiệp hoặc DN SX có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với NH. Cho vay trả góp: Theo hình thức này, KH được phép trả gốc làm nhiều lần trong thời gian cho vay đã thỏa thuận. Cho vay trả góp mang tính chất là khoản tín dụng trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Hình thức này thường được áp dụng đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Hình thức này gặp rủi ro cao vì tài sản thế chấp lại chính là hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do vậy, lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong các loại cho vay của NH. Cho vay gián tiếp: Nhằm đa dạng hóa các hình thức cho vay, NH PT hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua tổ chức trung gian như là tổ, đội, hội, nhóm… NH có thể chuyển một vài khâu của HĐ cho vay sang các tổ chức trung gian như phát tiền vay hay thu nợ…Khi người vay không có hoặc không có đủ tài sản đảm bảo thì các tổ chức trung gian này đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay vốn. 1.2.2.2. Phân loại theo thời gian. Cho vay ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc theo nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, DN, hộ SX. Các hình thức cho vay ngắn hạn được áp dụng là cho vay từng lần hay cho vay theo hạn mức, cho vay trực tiếp hoặc cho vay gián tiếp, cho vay có bảo đảm hoặc cho vay không cần bảo đảm, cho vay thấu chi hoặc luân chuyển. KH sẽ làm đơn và trình bày với NH kế hoạch sử dụng vốn vay. Từ đó NH thực hiện phân tích tín dụng, tính toán hiệu quả sử dụng vốn, xem xét rủi ro, các nguồn trả nợ. Cho vay trung hạn: Từ 1-5 năm, tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn. Bên cạnh đầu tư tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các DN đặc biệt là những DN mới thành lập. Cho vay dài hạn: Trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn và có thời gian sử dụng dài. Cho vay dài hạn thường gắn với kế hoạch đầu tư của DN, của từng ngành, từng địa phương và trong một số trường hợp được nhà nước chỉ định ._.nguồn vốn có lãi suất ưu đãi. 1.2.2.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo Cho vay cần tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo là hình thức hạn chế tổn thất cho NH khi KH gặp rủi ro. NH yêu cầu KH phải có tài sản đảm bảo thế chấp khi muốn NH cấp tín dụng. Trên cơ sở đó, NH sẽ kiểm tra, đánh giá, thẩm định tài sản và sẽ quyết định cho vay. Thông thường thì giá trị khoản vay tối đa = 80% giá trị tài sản đảm bảo và tùy từng loại tài sản thế chấp, NH sẽ cho vay với các tỷ lệ tương ứng. Đồng thời NH sẽ giám sát việc sử dụng hoăc khả năng bảo đảm tài sản. Cho vay không cần tài sản đảm bảo: Hình thức này thường áp dụng đối với KH quen thuộc, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Đôi khi NH cho vay theo chỉ thị của Chính phủ thì không cần tài sản đảm bảo bởi có sự bảo lãnh của Chính phủ. Đối với các công ty lớn, hoặc những khoản vay ngắn hạn mà NH có khả năng giám sát tốt thì cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với DNVVN của NHTM. 1.2.3.1. Các nhân tố khách quan. Tình hình KT- XH: Các chủ thể tiến hành HĐ KD trong nền KT. Trình độ PT KT - XH có ảnh hưởng tới HĐ cũng như sự PT của mọi thành phần KT, trong đó có DNVVN. Trình độ càng cao thì giới hạn tiêu thức phân loại ngày càng được nâng lên. Điều đó có nghĩa là các DNVVN sẽ có điều kiện PT nhiều hơn, có sự liên kết chặt chẽ hơn không chỉ với chính các DNVVN mà còn với cả các DN lớn. Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các DN cũng trở nên gay gắt hơn. Nhưng chính điều đó tạo động lực buộc các DNVVN phải tự đổi mới mình, phải nâng cao năng lực HĐ về mọi mặt. Từ đó, các DNVVN sẽ PT ổn định hơn, có phương hướng rõ ràng hơn, vững bền hơn. Đây là yếu tố quan trọng để các DNVVN tiếp cận với nguồn tín dụng NH dễ dàng hơn. Các DNVVN có thể đáp ứng đầy đủ điều kiện cho vay của NH cũng như chứng minh được năng lực tài chính của mình, đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để NH xét duyệt cho vay. Mặt khác, khi nền KT tăng trưởng, NH và các tổ chức tài chính cũng PT lớn mạnh hơn, cũng như sự cạnh tranh giữa các NH tăng lên. Điều đó khiến các NH phải không ngừng mở rộng thị trường và đối tượng KH nhằm gia tăng lợi nhuận. Trong khi đó, các DNVVN lại đang là thị trường đầy tiềm năng khiến các NH không thể bỏ qua đoạn thị trường này. Từ đó, các NH tăng cường mở rộng cho vay đối với đối tượng KH này. Các điều kiện cho vay của NH cũng được nới lỏng hơn bởi NH kỳ vọng vào hiệu quả KD của DN trong điều kiện các DN PT ổn định và bền vững. Môi trường pháp lý: Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến HĐ của các DNVVN. Một môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho DNVVN PT. Những chính sách và cơ chế quản lý ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và khả năng PT của DNVVN cũng như việc mở rộng cho vay đối với các DN này. Những ưu tiên về vốn tín dụng, lãi suất, chế độ thuế, sử dụng công nghệ, chính sách đất đai, đào tạo… là tiền đề quan trọng hỗ trợ và định hướng cho các DNVVN thực hiện được những nhiệm vụ KT- XH được đặt ra với khu vực KT này. Từ đó ảnh hưởng tới quyết định tài trợ của NH đối với các DN này. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua, nhiều văn bản có liên quan mật thiết tới HĐ của các DN thuộc mọi thành phần KT được ban hành. Phải kể đến đầu tiên và quan trọng nhất là Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp PT DNVVN. Nghị định này như một luồng gió mới làm thức tỉnh HĐ của các DNVVN vố chiếm một tỷ lệ khá đông đảo trong tổng số DN cả nước. Nhờ đó, các DN này đã không ngừng PT, từng bước khẳng định vai trò và vị trí của mình trong nền KT. Nghị định 90 đã đưa ra hàng loạt các chính sách trợ giúp DNVVN như khuyến khích đầu tư; thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN; chính sách ưu đãi, hỗ trợ mặt bằng; trợ giúp thị trường và tăng khả năng cạnh tranh, hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu; hỗ trợ về thông tin tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực. Tuy nhiên Nghị định vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sự hợp tác giữa các cơ quan ban ngành địa phương, cơ chế chính sách cũng chưa đồng bộ đã dẫn tới hệ quả tất yếu là các DNVVN phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn. Ngoài ra, những quy định liên quan đến HĐ NH cũng gây nhiều khó khăn cho các DNVVN. Chẳng hạn như những quy định về bảo đảm tiền vay chủ yếu hỗ trợ các DN lớn hơn là hỗ trợ các DN có quy mô nhỏ. Trong khi đó những DN lớn, thường là những DN Nhà nước, đều có các cơ quan chủ quản hoặc Nhà nước bảo lãnh vay vốn mà không cần tài sản thế chấp. Điều này ngược lại với các DNVVN, đã khó vay vốn lại phải có tài sản bảo đảm. Hiện nay, thị trường chứng khoán đã có những bước PT hơn, thu hút được nhiều vốn trung và dài hạn cho các DN. Số lượng DN được niêm yết ngày một nhiều hơn, huy động được nhiều vốn hơn, tăng tính minh bạch và khả năng cạnh tranh cho các DN. Tuy nhiên, số lượng DNVVN tham gia thị trường này còn rất hạn chế. Những điều kiện và quy định liên quan để được niêm yết còn gây nhiều khó khăn cho các DN này. Vì vậy, thị trường chứng khoán không phải là kênh thu hút vốn hiệu quả và phổ biến đối với các DNVVN. Mà nguồn vốn chủ lực vẫn là đi vay NH. Tóm lại, để đảm bảo cho các DNVVN PT, môi trường pháp lý cần được hoàn thiện đồng bộ và tăng cường tập trung khuyến khích DNVVN hơn nữa. 1.2.3.2. Các nhân tố chủ quan. Các nhân tố thuộc về DNVVN: Hầu hết các DNVVN đều đang HĐ trong tình trạng thiếu vốn cần thiết cho HĐ, đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả KD cũng như năng lực cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Những khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn của các DN là rất lớn, trong khi vốn tồn đọng còn nhiều trong các nguồn và việc huy động vốn trong dân cư vào đầu tư SX, KD chưa được cải thiện. Các DN lớn thì được ưu đãi hơn về mọi mặt, trong khi đó các DNVVN thì phải đối mặt với nhiều khó khăn. Đặc biệt là việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng NH. Tuy nhiên, điều này cũng xuất phát từ chính bản thân DNVVN: Thứ nhất: Cơ cầu nguồn vốn của các DNVVN chưa hợp lý. Trong tổng số nguồn vốn thì chiếm phần lớn vẫn là vốn đi vay từ bên ngoài, vốn chủ sở hữu rất nhỏ. Đặc biệt, vốn vay từ NH trong tổng nguồn vốn KD còn rất cao. Điều đó dẫn đến các DN bọ quá phụ thuộc vào nguồn vốn huy động, chủ yếu là từ các NH và tổ chức tín dụng. Vì vậy, khi thiếu vốn, DN sẽ gặp khó khăn ngay lập tức. Do đó, các DN cần phải điều chỉnh lại cơ cấu vốn hợp lý, và nguồn huy động chỉ đóng vai trò bổ sung cho nhu cầu thường xuyên hoặc nhu cầu tức thì. Hơn nữa, thông thường, các DN chỉ được phép cho vay trong một hạn mức nhất định. Nếu DN vay nợ quá nhiều thì khó có thể vay thêm vốn nữa Thứ hai: Các DN chưa thực sự hợp tác với NH. Khi đi vay lần đầu hoặc chưa có sự tin tưởng của NH, mức độ minh bạch của các báo cáo tài chính là cơ sở để NH xét duyệt cho vay. Nhưng trong thực tế hiện nay, các DN đi vay đã không muốn bộc bạch hết với NH, không muốn giải trình hay trao đổi kỹ lưỡng về phương án vay vốn, không muốn đưa tài sản cho NH tạm giữ. Do vậy, NH chỉ duyệt vay với số tiền nhỏ nhằm tránh rủi ro có thể gặp phải. Thứ ba: Vấn đề thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Trên lý thuyết, điều kiện cho vay là sử dụng vốn có mục đích, hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn, có tài sản đảm bảo, có phương án vay vốn hiệu quả. Và ưu tiên nguyên tắc có phương án vay vốn khả thi và hiệu quả. Nhưng trên thực tế, các NH vẫn ưu tiên cho vay khi có tài sản bảo đảm cho mỗi một khoản vay. Nhiều DN không có tài sản thế chấp, hoặc có tài sản thế chấp nhưng không được NH chấp nhận hoặc NH cũng chỉ chấp nhận tối đa 70% giá trị tài sản để làm thế chấp cho khoản vay. Mặt khác, các DNVVN cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu tài sản, khó khăn trong việc xác định giá trị của tài sản thế chấp là bất động sản… Thứ tư: Trình độ quản trị KD của DNVVN còn yếu kém. Với đội ngũ nhà lãnh đạo còn thiếu kiến thức về quản trị KD thì việc xây dựng các phương án khả thi chưa có sức thuyết phục với NH. Do vậy, các DNVVN sẽ không được ưu tiên vay vốn. Mà nếu có được vay thì chi phí mà các DN phải bỏ ra để vay vốn cộng với lãi suất phải trả đôi khi cao hơn khả năng sinh lời của phương án. Chính điều này làm các DNVVN có ý định vay vốn nản lòng. Thứ năm: Nhiều DN lập ra nhưng chỉ trên danh nghĩa mà không HĐ KD. Các DN này có thể chiếm dụng vốn NH, lừa đảo cán bộ tín dụng để vay vốn. Thực tế đây chính là những DN ma. Việc cho vay đối với những DN này sẽ mang rủi ro đến cho NH. Các nhân tố thuộc về NH: Thứ nhất: Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một NH, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên NH, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng. Chính sách tín dụng bao gồm: Chính sách KH :Đối tượng cho vay của NH rất phong phú và đa dạng bao gồm tất cả các chủ thể KD hợp pháp trong nền KT. NH thường phân loại KH ví dụ như KH truyền thống, KH quan trọng, KH mới… để đưa ra các chính sách tín dụng khác nhau sao cho phù hợp. Đối với các DNVVN, chính sách KH ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng vay vốn và các chính sách ưu đãi đi kèm. Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng :Dựa trên nhu cầu vay vốn và phù hợp với các điều luật cũng như tính toán của NH về rủi ro và sinh lời, NH sẽ cam kết tài trợ cho KH một hạn mức nhất định. Giới hạn tín dụng cấp cho mỗi KH khác nhau, phụ thuộc vào nguồn vốn chủ sở hữu và tình hình vay nợ của KH. Ngoài ra, mỗi một NH lại có quy định riêng về quy mô và các giới hạn như quy mô tín dụng của các NH các cấp, của hội sở chính. Chính sách này tác động trực tiếp tới khả năng vay vốn của DNVVN. Vì NH sẽ thẩm định KH dựa trên các tiêu chí đã định để quyết định mức cho vay. Chính sách lãi suất và phí suất tín dụng :Lãi suất và phí suất tín dụng là nguồn thu nhập của NH, bù đắp chi phí cho NH. Mức lãi suất khác nhau tuỳ theo loại tiền và tuỳ theo loại KH, tuỳ theo thời hạn vay. Khi xác định lãi suất, NH phải tính đến rủi ro, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Thông thường, các DN lớn được ưu đãi hơn về lãi suất cho vay. Đối với các DNVVN do mức độ rủi ro của món vay cao nên NH đưa ra mức lãi suất cao nhằm bù đắp rủi ro có thể xảy ra. Các DNVVN thường vay ngắn hạn và các món vay nhỏ lẻ nên lãi suất NH thu được không đáng kể. Chính sách thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ :Các giới hạn về thời gian luôn được các nhà quản lý NH chú ý bởi vì kỳ hạn liên quan đến thanh khoản và rủi ro NH cũng như chu kỳ KD của người vay. Chính sách kỳ hạn phải giải quyết mối quan hệ giữa thời hạn nguồn và thời hạn cho vay. Chính sách các khoản đảm bảo :Quy định các trường hợp tài trợ cần đảm bảo bằng tài sản, các loại bảo đảm cho mỗi loại hình tín dụng, tỷ lệ phần trăm cho vay dựa trên tài sản bảo đảm. Đó là chính sách đối với các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn, nợ xấu, các tài sản có biểu hiện nghi ngờ Với các DNVVN thông thường NH vẫn yêu cầu phải có tài sản thế chấp khi vay vốn Thứ hai, quy trình phân tích tín dụng: Đó là việc cán bộ tín dụng thực hiện các bước nhằm phân tích tín dụng trước, trong và sau khi cho vay. Mà ở đây, ảnh hưởng đến mở rộng cho vay DNVVN là trình độ của cán bộ tín dụng còn non yếu, không đủ khả năng phân biệt phương án khả thi hay không. Cán bộ tín dụng thiều khả năng phán đoán và có cách nhìn toàn diện cũng như hiệu quả thực tế. Đôi khi, cán bộ tín dụng quá cứng nhắc, thực hiện theo đúng thủ tục mà không có sự linh hoạt như tư vấn hoặc là xem xét kỹ phương án vay vốn của KH. Nhìn chung, các NH vẫn còn e ngại khi cho DNVVN vay vốn. Nhiều NH và DN chưa tìm được tiếng nói chung. Nhu cầu vốn vay của các DNVVN ngày một gia tăng buộc các NH phải quan tâm hơn đến việc mở rộng cho vay khu vực này. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHO VAY CỦA VPBANK ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 2.1 Giới thiệu chung về NH TM cổ phần các DN ngoài quốc doanh (VPBANK) 2.1.1 Lịch sử hình thành và PT của VPBank. 2.1.1.1 Lịch sử hình thành của VPBank VPBank là NH TM Cổ phần các DN Ngoài Quốc Doanh VN. Giấy phép thành lập: Số 1535/QĐ-UB ngày 4/9/1993 do Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội cấp ngày 4/9/1993. Giấy phép HĐ: Số 0042/NH-GB của Thống đốc NH Nhà Nước VN cấp ngày 12/8/1993 với thời gian HĐ 99 năm. Giấy chứng nhận đăng ký KD: Số 055689 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Thành Phố Hà Nội cấp cho đăng ký lần đầu ngày 9/9/1993, đăng ký thay đổi lần thứ 12 ngày 1/11/2006. Mã số thuế: 0100233583 Tên gọi: NH TM Cổ phần các DN Ngoài Quốc Doanh VN Tên giao dịch quốc tế: Vietnam Joint - Stock Commercial Bank for Private Enterprises. Tên viết tắt: VPBANK Trụ sở chính: Số 8 Lê Thái Tổ, P.Hàng Trống, Q.Hoàn Kiếm, Hà Nội, được khai trương vào 17/2/2006. Điện thoại: (84-4) 928 8869 Fax: (84-4) 928 8867 Website: www.vpbank.com.vn 2.1.1.2 Quá trình PT của VPBank Kể từ khi thành lập cho tới nay, VP Bank luôn chứng minh được uy tín của mình. VP Bank luôn không ngừng mở rộng phạm vi HĐ của mình, mở thêm các NH, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của KH cũng như khai thác triệt để tính tiện ích của các loại hình dịch vụ để không những mang lại những lợi ích thiết thực nhất cho KH mà còn mang lại lợi nhuận cũng như uy tín của bản thân NH. Chính vì vậy quá trình PT của VP Bank cũng đã trải qua những bước thăng trầm, có những lúc khó khăn và đã bước đầu đạt được thành công như ngày hôm nay. Có thể chia quá trình phát trỉển của VPBank thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Từ năm 1993 – 1997: Với vốn điều lệ khi mới thành lập chỉ có 20 tỷ đồng, khi đó mạng lưới VP Bank mới chỉ có 3 NH: cuối năm 1993, Thống đốc NHNN chấp thuận cho VP Bank mở NH tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11/1994, VP Bank được phép mở thêm NH Hải Phòng và tháng 7/1995, được mở thêm NH Đà Nẵng, ngoài ra có 6 phòng giao dịch. Đây là giai đoạn mới thành lập và bắt đầu những bước đi đầu tiên trong HĐ KD của NH. Vì thế trong giai đoạn này những gì VP Bank làm được vẫn còn khiêm tốn và thể hiện một số mặt còn hạn chế trong chính sách điều hành và quản lý của mình. Giai đoạn 2: Từ năm 1997 – 2002: Trong giai đoạn này, VPBank đã không tránh khỏi những trì trệ và khủng hoảng . Các HĐ của VPBank chỉ ở mức cầm chừng, KD của NH kém hiệu quả. Biểu hiện là nợ quá hạn ở mức báo động, L/C trả chậm thì rườm rà. Ngày 25/09/2002, Thống đốc NH Nhà nước VN đã chính thức ký quyết định đặt VPBank vào trạng thái kiểm soát đặc biệt trong thời gian tối đa là 24 tháng. Năm 2004, vốn điều lệ theo sổ sách là 174,9 tỷ VNĐ, song việc nợ quá hạn quá cao, thâm chí nhiều khoản không có khả năng thu hồi, chính vì thế mà vốn điều lệ thực chất của VPBank ở mức “âm”. Trong thời gian này, VPBank không được phép mở thêm bất cứ NH hay phòng giao dịch nào. Đây là giai đoạn VPBank gặp nhiều khó khăn nhất, không NH nào được mở thêm, vốn điều lệ thì vẫn giữ nguyên ở mức trước. Giai đoạn 3: Từ năm 2003 đến nay: NH có những biện pháp chấn chỉnh, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng dịch vụ. Thời kỳ này, tình hình tài chính của NH được lành mạnh hóa. Sự cố gắng của tập thể lãnh đạo, cán bộ và nhân viên NH đã từng bước khắc phục được nợ đọng về tín dụng và bảo lãnh LC quá hạn trong thời kỳ trước. Năm 2004, VPBank đã quyết định tăng vốn điều lệ lên 198,3 tỷ VNĐ theo quyết định 684/QĐ-HAN7 của NH nhà nước VN. Điều này đã đánh dấu bước tiến mới cho giai đoạn này. Tháng 7/2004, NH Nhà nước VN đã quyết định dỡ bỏ “Lệnh kiểm soát đặc biệt” đối với NH. 25/11/2004, theo công văn chấp thuận số 689/NHNN-HAN7, NHNN đã chấp thuận cho VPBank được nâng vốn điều lệ từ 170 tỷ đồng lên 210 tỷ đồng.  Tháng 2/2005, theo công văn chấp thuận 134/NHNN-HAN7, VPBank đã tăng vốn điều lệ lên 234,7 tỷ VNĐ. Ngày 19/10/2005, biểu tượng mới của VPBank chính thức ra mắt trên cơ sở màu xanh đậm và đỏ tươi làm tông màu chủ đạo, tượng trưng cho sự trù phú, thịnh vượng và thành công. 12/2005, VPBank đã tăng vốn điều lệ lên 309,4 tỷ VNĐ. Ngày 17/2/2006, VPBank chính thức khai trương Trụ sở chính và Phòng Giao dịch Hồ Gươm tại số 8 Lê Thái Tổ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Các NH, phòng giao dịch mới khai trương của VPBank trên toàn quốc đều đi vào HĐ suôn sẻ và bước đầu đạt được những kết quả khả quan.Ở các tỉnh đều có các NH cấp I, đáp ứng nhu cầu của KH và đáp ứng được nhu cầu quy mô mở rộng tiếp cận thị trường của NH VPBank. Riêng trong năm 2006, VPBank đã khai trương và đưa vào HĐ 20 điểm giao dịch mới. Tính đến thời điểm lập báo cáo, tháng 3/2007 VPBank đã hiện diện tại nhiều tỉnh thành phố lớn trên cả nước bao gồm: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng Nai, Khánh Hòa. Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt, với nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên VPBank trên toàn hệ thống, VPBank đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Năm 2007 vốn điều lệ của VPBank là 2.000 tỷ đồng, tổng tài sản đạt hơn 18,2 ngàn tỷ đồng tăng 78% so với cuối năm 2006. Lợi nhuận trước thuế toàn hệ thống đạt trên 313 tỷ đồng, tăng  gấp đôi so với năm 2006. Với chủ trương mở rộng mạng lưới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đem lại dịch vụ tốt hơn tới KH, năm 2007 VPBank đã đẩy mạnh việc PT mạng lưới  các NH và phòng giao dịch trực thuộc trên toàn quốc. Tính đến cuối năm 2007 toàn hệ thống VPBank đã có tổng số 100 điểm giao dịch trên toàn quốc (chưa kể gần 30 điểm giao dịch khác đang chuẩn bị khai trương). Tính đến 31/12/2008 tổng vốn điều lệ của VP Bank đã đạt 2117 tỷ đồng, tăng 5.85% so với 2007. Lợi nhuận trước thuế đạt 198.7 tỷ đồng giảm 63.5% so với 2007, điều này là do hậu quả cảu suy thoái KT thế giới 2008. Tổng số NH và phòng giao dịch là 135 rải rác khắp cả nước: Hội sở chính tại Hà Nội, 45 NH và phòng giao dịch tại thủ đô, 1 ở Bắc Ninh, 1 ở Thái Nguyên, 3 ở Bắc Giang, Vĩnh Phúc 3, Phú Thọ 2, Hải Dương 2, Hải Phòng 7, Quảng Ninh 3, Nam Định 3, Thái Bình 1, Thanh Hóa 4, Hòa Bình 1, Vinh 3, Hà Tĩnh 1, Quảng Bình 2, Quảng Trị 1, Bình Định 1, Đá Nẵng 6, Thuwad Thiên huế 4, Nha Trang 2, Đồng Nai 2, Bình Thuận 1, Thành Phố Hồ Chí Minh 26, Long An 1, Cần Thơ 3, Đồng Tháp 1, Vĩnh Long 1, An Giang 1, Kiên Giang 1. 29/7/2009, Thống đốc NHNN VN đã có các công văn số 4375, 4374, 4373, 4372, 4371, 4370, 4369, 4368/NHNN-CNH chấp thuận đề nghị mở NH tại An Giang, Đồng Tháp, Thái Bình, Vĩnh Long, Hà Tĩnh, Hòa Bình, Quảng Trị, Bình Thuận của VP Bank Về nhân sự : Chất lượng đội ngũ nhân viên là một trong những yếu tố chính tạo nên sức mạnh của NH, giúp VPBank sẵn sàng đương đầu với các thử thách trong cạch tranh nhất là khi VN hội nhập KT quốc tế. Chính vì thế trong những năm qua VPBank luôn quan tâm nâng cao chất lượng quản trị nhân sự. Bảng 1: Cơ cấu LĐ năm 2004 – 2009 Đơn vị: Người Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 2009 SL % SL % SL % SL % SL % SL % Tổng số 605 100 782 100 1325 100 1929 100 2834 100 2394 100 Giới tính Nam 268 44.3 342 43.7 561 42.3 879 45.6 1250 44.1 1080 45.1 Nữ 339 56.0 440 56.3 764 57.7 1005 54.4 1584 55.9 1314 54.9 Trình độ Trên Đại học 3 0.5 15 1.9 17 1.3 24 1.2 28 1 30 1.3 Đại học 450 74.4 602 77.0 1036 78.2 1754 90.9 2111 74.5 1800 75.2 Dưới đại học 152 25.1 165 21.1 272 20.5 151 7.8 695 24.5 564 23.5 Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2004, 2005, 2006, 2007,2008,2009. Đội ngũ nhân sự của VPBank trong 2 năm gần đây đã bị giảm số lượng một chút do nền KT suy thoái nhưng chất lượng thì không ngừng được nâng cao. Số lượng nhân viên có trình độ đại học và trên đại học liên tục tăng qua các năm. Số lượng nhân viên nữ luôn cao hơn nam, do xuất phát từ tính chất của công việc NH, cần sự chính xác, tỷ mỉ và cẩn thận, đặc biệt là bộ phận kế toán và thanh toán quốc tế. Dù vậy, điều này cũng làm hạn chế HĐ của NH, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng, lĩnh vực đòi hỏi sự nhạy bén, linh động. 2.1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức HĐ của VP Bank. 2.1.2.1 Cơ cấu bộ máy tổ chức của VP Bank Theo quyết định số 481/2002/QĐ-HĐQT về việc ban hành quy chế tổ chức và HĐ của các NH VPBank, NH TM cổ phần ngoài quốc doanh là 1 pháp nhân duy nhất bao gồm: Hội sở, các NH cấp 1, và các văn phòng đại diện. Các NH cấp II trực thuộc các NH cấp I. Các NH cấp III trực thuộc các NH cấp II. Các phòng giao dịch trực thuộc NH. Các phòng giao dịch Hội Đồng Cổ Đông Hội Đồng Quản Trị Ban Kiểm Soát Phòng Kiểm Toán Nội Bộ Hội Đồng Đầu Tư Hội Đồng Quản Lý Tài Sản Có, Tài Sản Nợ Hội Đồng Lương Thưởng Hội Đồng Tín Dụng Văn Phòng Hội Đồng Quản Trị Tổng Giám Đốc Phòng Nhân Sự Đào Tạo Phòng kế toán tổng hợp Phòng Nguồn Vốn Trung tâm tin học Khối khách hàng cá nhân Khối khách hàng DN Khối giám sát quản lý Khối hỗ trợ T. tâm western union T. tâm thẻ P. phát triển kháchàng cá nhân P. phát triển khách hàng DN P. tái thẩm định P. pháp chế P. quản lý rủi do P.tài chính kế toán T. tâm thanh toán T. tâm hỗ trợ Văn phòng VP Bank Công ty Chứng khoán VP Bank Các chi nhánh Công ty quản lý tài sản VP Bank Hình 1.2: Sơ đồ cơ cấu bộ máy của VPBANK 2.1.2.2 Chức năng, nhiệm vụ. Đại hội cổ đông: bao gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết. Đây là cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong toàn hệ thống NH trong việc ra quyết định chiến lược PT của NH, bầu ra các cơ quan quản lý, hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị: Đây là cơ quan quản lý NH. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh NH để quyết định mọi vấn đề liên quan đến quyền lợi của NH, trừ phạm vi của Đại hội cổ đông. Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị là 4 năm. Hiện nay, chủ tịch HĐQT là Ông Phạm Hà Trung. Ban kiểm soát: có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của HĐ quản lý, điều hành HĐ KD của NH, sổ sách kế toán và báo cáo tài chính, được thẩm định các báo cáo tài chính hàng năm của NH, báo cáo với HĐQT về kết quả HĐ. Hội đồng đầu tư có chức năng thẩm định các dự án đầu tư của NH, trình cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư, quyết định các khoản đầu tư vượt hạn mức của ban đầu tư thuộc công ty chứng khoán VP Bank Hội đồng lương thưởng: có chức năng quản lý, điều hành lương, thưởng trong NH. Phòng nhân sự đào tạo: Thực hiện công tác tuyển dụng nhận sự đảm bảo chất lượng theo yêu cầu, chiến lược của NH.Tổ chức và phối hợp với các đơn vị khác thực hiện quản lý nhân sự, đào tạo và tái đào tạo.Tổ chưc việc quản lý nhân sự toàn NH.Xây dựng quy chế lương thưởng, các biện pháp khuyến khích – kích thức người LĐ làm việc, thực hiện các chế độ cho người LĐ.Chấp hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, qui định, chỉ thị của Ban Giám đốc .Nghiên cứu, soạn thảo và trình duyệt các qui định áp dụng trong NH, xây dựng cơ cấu tổ chức của NH - các bộ phận và tổ chức thực hiện.Phục vụ các công tác hành chánh để BGĐ thuận tiện trong chỉ đạo – điều hành, phục vụ hành chánh để các bộ phận khác có điều kiện HĐ tốt.Quản lý việc sử dụng và bảo vệ các loại tài sản của NH, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn LĐ, vệ sinh LĐ và phòng chống cháy nổ trong NH.Tham mưu đề xuất cho BGĐ để xử lý các vấn đề thuộc lãnh vực Tổ chức-Hành chánh-Nhân sự. Hỗ trợ Bộ phận khác trong việc quản lý nhân sự và là cầu nối giửa BGĐ và Người LĐ trong NH. Phòng kế toán tổng hợp: Tham mưu phương hướng, biện pháp, quy chế quản lý tài chính, thực hiện các quyết định tài chính của Hiệu trưởng và tổ chức thực hiện công tác kế toán sao cho hiệu quả, tiết kiệm, tránh lãng phí, đúng qui chế, chế độ theo quy định hiện hành. Trung tâm western union: Thực hiện các HĐ chuyển tiền nhanh Trung tâm thẻ: Phát hành thẻ, nghiên cứu, tìm hiểu để đưa ra các loại thẻ mới phù hợp với NH Phòng PT KH cá nhân: Nghiên cứu thị trường, tìm kiếm, PT KH cá nhân, chăm sóc, duy trì nguồn KH. Phòng PT KH DN: Nghiên cứu thị trường, tìm kiếm, PT KH DN, chăm sóc, duy trì nguồn KH. Phòng tái thẩm định: Thẩm định, đánh giá lại các điều kiện KH của ngân hang Phòng pháp chế: HĐ tham mưu về mặt pháp lý trong KD của NH, soạn thảo các loại văn bản trong HĐ của NH, các HĐ khác (Tham mưu về chế độ chính sách, tham gia tuyển dụng, kỷ luật, các hội đồng khác Phòng quản lý rủi do: Nghiên cứu, xác định nguyên nhân cũng như đưa ra các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi do và tác động của nó. Trung tâm hỗ trợ: Hỗ trợ các HĐ trong NH cũng như KH. Công ty Chứng khoán VP Bank: HĐ trong lĩnh vực chứng khoán Công ty quản lý tài sản VP Bank: Thực hiện mua bán, cho thuê, đầu tư… lien quan đến bất động sản Trung tâm tin học: Đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống, phụ trách mảng về tin học, xây dựng các phần mềm bảo bật. các phần mềm tính toán.. cho NH. Hội đồng tín dụng và Ban Tín dụng : VPBank có 2 hội đồng tín dụng và mỗi NH cấp I có một Ban Tín dụng. Hai Hội đồng này được đặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, có nhiệm vụ giải quyết các khoản vay đã vượt hạn mức giao cho các NH cấp I ở các địa bàn khu vực phía Bắc ( Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh phúc...) và phía Nam ( Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, TP Hồ Chí Minh...). Hội đồng tín dụng có chức năng là thiết lập, duy trì và mở rộng các mối quan hệ với KH, tiến hành phân tích, đánh giá KH theo quy trình nghiệp vụ trong các hợp đồng tín dụng nằm trong khả năng của mình. Tiến hành quản lý sau giải ngân như kiểm tra việc tuân thủ điều kiện vay vốn của KH, giám sát tình hình sử dụng vốn vay, thực hiện cho vay và thu nợ theo quy định…,thực hiện các nhiệm vụ khác được Ban điều hành phân công. Hội đồng ALCO: để hạn chế rủi ro thị trường và thanh khoản, được giao cho nhiệm vụ quản lý thanh khoản, được quyết định cơ cấu nguồn vốn, sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả, được quyền quyết định triển khai các sản phẩm mới. Bên cạnh đó, ALCO còn được giao trách nhiệm theo dõi sát sao tình hình thị trường về tỷ giá, lãi suất và các khả năng rủi ro để đưa ra các giải pháp trong việc quản lý, sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Trung tâm Thanh toán Quốc tế: Trên cơ sở hạn mức, khoản vay, bảo lãnh, L/C đã được phê duyệt, thực hiện các tác nghiệp trong tài trợ TM phục vụ các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho KH. Mở các L/C có ký quỹ 100% vốn của KH. Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại với các NH nước ngoài Thực hiện các giao dịch mua bán ngoại tệ với KH DN. Thực hiện các nhiệm vụ khác được Giám đốc phân công. Phòng nguông vốn: Phòng tiền tệ kho quỹ thực hiện quản lý quỹ nghiệp vụ của NH, thu chi tiền mặt, quản lý vàng bạc kim loại, đá quý, Quản lý chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố; thực hiện xuất nhập tiền mặt để đảm bảo thanh khoản tiền mặt cho NH…Thực hiện các nhiệm vụ khác được Ban điều hành phân công. Phòng Tài chính - Kế toán: Thực hiện công tác kế toán tài chính cho toàn bộ HĐ của NH(không trực tiếp làm nhiệm vụ kế toán KH và tiết kiệm). Phòng Kiểm toán nội bộ: có nhiệm vụ kiểm tra nội bộ tại VPBank. Phòng Kiểm toán nội bộ được tổ chức thành 1 hệ thống thống nhất theo ngành dọc, chịu sự quản lý trực tiếp của Ban Kiểm soát. Hướng dẫn, phổ biến, lưu trữ các văn bản pháp quy, văn bản chế độ. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra kiểm toán nội bộ tất cả các nghiệp vụ tại các đơn vị trực thuộc NH thành phố Hà Nội. Kiểm tra thực hiện các quy chế, chế độ tại NH thành phố Hà Nội. Văn phòng: Thực hiện công tác hành chính: quản lý con dấu, văn thư, in ấn, lưu trữ… Thực hiện công tác hậu cần như lễ tân, vận tải, quản lý phương tiện, tài sản… phục vụ cho HĐ KD. Thực hiện công tác đảm bảo an ninh, an toàn cho con người và tài sản tại NH. Quản lý hồ sơ giấy tờ đất đai của NH. Thực hiện các nhiệm vụ khác được Giám đốc phân công. Các NH các cấp và các phòng giao dịch trực thuộc: là nơi trực tiếp tiến hành HĐ KD của NH. Trong mỗi NH, cơ cấu phòng ban bao gồm các phòng kiểm tra hạch toán nội bộ, phòng phục vụ khác hàng cá nhân và KH DN (A/O), phòng giao dịch kho quỹ, phòng thu hồi nợ, phòng thanh toán quốc tế, phòng kiều hối... 2.1.2.3 Mối quan hệ giữa các phòng ban Mối quan hệ giữa các phòng ban trong vp Bank là mối quan hệ chặt chẽ gắn bó. Giữa các phòng ban luôn có sự tương hỗ lẫn nhau trong mọi HĐ. Mặc dù chức năng nhiệm vụ của các phòng ban đã được phân công, phân nhiệm rất rõ ràng và cụ thể song trong HĐ giữa các phòng ban luôn có sự liên kết với nhau, bổ trợ nhau trong các nghiệp vụ HĐ của mình. Ví dụ như HĐ của phòng tín dụng là tiến hành tiếp xúc KH trong các khoản cho vay, một hợp đồng cho vay được duyệt phải thông qua rất nhiều phòng ban khác, nếu khoản vay đó là một khoản vay lớn mà vượt quyền quyết định của trưởng phòng tín dụng thì phải thông qua phòng thẩm định rồi mới có quyết định cho vay hay không. Khi hồ sơ tín dụng được duyệt thì phải thông qua phòng ngân quỹ để được giải ngân, phòng kế toán để hạch toán. Hay là HĐ của phòng kế toán thì phải dựa vào chứng từ các phòng ban khác… Như vậy ta thấy sự liên kết trong HĐ giữa các phòng ban trong NH là rất chặt chẽ, chỉ cần một bộ phận không hoàn thành nhiệm vụ của mình thì sẽ làm ảnh hưởng đến HĐ của các phòng ban khác trong hệ thống và làm ảnh hưởng đến tình hình HĐ chung của toàn NH. 2.1.3 Lĩnh vực HĐ của VP Bank Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn; Tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư và PT của các tổ chức trong nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác. Vay vốn của NH Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đối với các tổ chức và cá nhân. Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá. Hùn vốn, liên doanh và mua cổ phần theo pháp luật hiện hành. Thực hiện dịch vụ thanh toán giữa các KH. KD ngoại tệ, vàng bạc. Huy động các loại vốn từ nước ngoài và thực hiện các dịch vụ NH có liên quan đến nước ngoài khi được NHNN cho phép. Thanh toán quốc tế và thực hiện các dịch vụ khác liên quan đến thanh toán quốc tế. Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức đặc biệt là chuyển tiền nhanh Western Union. Môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán; lưu ký, tư vấn tài chính DN và bảo lãnh phát hành. Cung cấp các dịch vụ về đầu tư, quản lý nợ và khai thác tài sản. 2.1.4 Những thành tích VP Bank đã đạt được trong những năm vừa qua Với sự nỗ lực cả trong HĐ KD cũng như các HĐ XH, tập thể lãnh đạo và nhân viên VPBank đã đạt được nhiều thành tích đáng chú ý và được XH công nhận: Cúp vàng “DN vì tiến bộ XH và PT bền vững”. Bằng khen của Thống đốc NH Nhà nước dành cho  Tập thể LĐ xuất sắc năm 2005. Giấy chứng nhận NH thanh toán xuất sắc năm 2004 do NH UNION BANK– Mỹ trao tặng . Giấy chứng nhận NH thanh toán xuất sắc năm 2005 do N._.bao gồm các DN và cá nhân thuộc mọi thành phần KT. DNVVN có vai trò quan trọng trong nền KT, là thành phần KT đang được Nhà nước khuyến khích PT. Nhận thức được xu thế PT của các DNVVN, VPBank đã chủ động tăng cường cho vay các DNVVN thuộc mọi thành phần KT. Mở rộng cho vay các DNVVN là một trong những chủ trương của NH nhằm đóng góp vào việc hỗ trợ cho các DNVVN PT hơn nữa. Chính vì vậy, NH luôn tích cực đẩy mạnh công tác huy động vốn cũng như công tác cho vay, công tác marketing…, mở rộng đối tượng KH, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cần thực hiện trong từng giai đoạn cụ thể. Trong kế hoạch PT của NH giai đoạn 2008-2012, NH đã hoạch định rõ chiến lược cụ thể. Nhằm phát huy thế mạnh cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh, NH đã xác định thị trường mục tiêu: Các DN có nghề truyền thống, có khả năng cạnh tranh với thương hiệu đã được khẳng định. Các DN HĐ xuất khẩu, khả năng cạnh tranh cao và sử dụng nhiều dịch vụ NH. Các DN cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho các ngành nghề như điện lực, than, viễn thông, hàng không. Các DN dịch vụ, du lịch. Các DN SX hàng tiêu dùng, đặc biệt là hướng tới xuất khẩu. Các DN tại khu công nghiệp, khu chế xuất. Các DN cung cấp các thiết bị trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Các DN độc quyền cung cấp, đại lý. Các DN mà cố đông sáng lập là các DN nhà nước có tiềm lực. Qua việc xác định thị trường mục tiêu, ta thấy hầu hết các DNVVN. Vì đây là những ngành nghề phù hợp và trở thành thế mạnh của DNVVN. NH đã định hướng tập trung vào nhóm KH này và mở rộng cho vay đối tượng này. Cho vay với số lượng DN đông đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho DN vay vốn nhưng vẫn phải kiểm soát khoản vay chặt chẽ sẽ đem lại nhiều lợi ích cho NH. Điều quan trọng của vấn đề mở rộng cho vay DNVVN là bản thân NH chủ động tạo điều kiện thuận lợi cho các DN này vay vốn. NH đã có những cải cách trong thủ tục cho vay sao cho đơn giản, nhanh chóng mà hiệu quả. Thực hiện chính sách tín dụng: hạn mức, lãi suất, quy mô và thời hạn tín dụng… linh hoạt và phù hợp với nhu cầu vay vốn của KH. NH còn đi sâu vào tìm hiểu DNVVN nhằm tìm ra biện pháp giúp đỡ các DNVVN tiếp cận vốn NH. Cách thức tiếp cận DNVVN: Là KH truyền thống, uy tín của VPBank làm trọng tâm mở rộng đối tượng cho vay bằng cách rà soát lại những DN thường xuyên giao dịch với NH, uy tín của DN và thông qua hệ thống tài khoản. Tiếp cận các nhà cung cấp nhóm KH này. Tiếp cận các nhà tiêu thụ của KH này. Với việc tiếp cận các DNVVN từ nhiều khía cạnh khác nhau, NH có cái nhìn tổng thể hơn về các DN này. Từ đó, mối quan hệ giữa NH và DNVVN tốt đẹp hơn tạo điều kiện cho cả hai bên cùng hợp tác và PT. 3.2.2. Kế hoạch năm 2010. Theo sự PT chung chủa nền KT thế giới, VPBank đã chuẩn bị chiến lược PT trong thời gian tới, tập trung vào thị trường bán lẻ cùng với phục vụ tốt mạng thị trường truyền thống. Sự chuyển dịch mô hình quản lý mới theo hướng tách HĐ quản lý và HĐ KD, nâng cao chất lượng dịch vụ, hướng tới KH, từng bước hoàn thiện quy trình, quy chế sẽ mang lại hiệu quả ngày càng cao cho NH. Năm 2010 sẽ là năm để VPBank tăng trưởng nhanh và góp phần khẳng định vị thế của VPBank trên thị trường tài chính - tiền tệ. Năm 2010, nhu cầu vốn trong nền KT rất nhiều, đối với các DNVVN thì nhu cầu vốn lại càng cao và luôn ở tình trạng thiếu vốn SX HĐ KD. Do vậy, VPBank tích cực mở rộng cho vay, tăng doanh số cho vay lên khoảng 50% so với năm 2009. Đồng thời, NH cũng phấn đấu nâng cao chất lượng tín dụng bằng việc yêu cầu KH trả nợ đúng hạn. Doanh số thu nợ chung tăng khoảng 20%, còn doanh số thu nợ DNVVN tăng khoảng 33% so với năm 2009, tỷ lệ nợ quá hạn còn dưới 1%, nâng cao chất lượng tín dụng. Về cơ cấu tài trợ cũng có sự thay đổi phù hợp với sự PT của nền KT và thế mạnh của NH. NH tiếp tục tăng tỷ trọng tài trợ trung và dài hạn cho các DNVVN giúp đầu tư đổi mới trang thiết bị, thực hiện các dự án dài hạn. NH cũng mở rộng thị trường các DN cổ phần, DN có vốn đầu tư nước ngoài và DN tư nhân thay vì chỉ chú trọng tới các DN nhà nước. Tiếp tục đầu tư vào nguồn nhân lực cũng như đổi mới công nghệ NH là mục tiêu cấp bách trước mắt góp phần tăng khả năng cạnh tranh với các NH khác, nhất là các NH nước ngoài. 3.3. Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNVVN tại NH TMCP Các DN ngoài quốc doanh (VPBANK) Qua các năm tăng trưởng đáng khích lệ VPBank đã nâng cao năng lực HĐ và năng lực cạnh tranh cho NH. Tuy nhiên, công tác cho vay đối với DNVVN của NH còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Từ thực trạng cho vay DNVVN cũng như quan điểm mở rộng cho vay của NH, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế và khó khăn. 3.3.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với DNVVN phù hợp với thực tế. Dư nợ cho vay DNVVN tại VPBank tăng qua hai năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số dư nợ cho vay của NH. DNVVN có những đặc điểm riêng, khác với các DN lớn. Hơn nữa, DNVVN trong nền KT ngày một tăng, nhu cầu tín dụng ngày một nhiều, lại được sự hỗ trợ khuyến khích PT của Nhà nước. Vì vậy, NH cần phải xây dựng chính sách tín dụng sao cho phù hợp và cụ thể đối với từng loại hình DN này. 3.3.1.1. Chính sách KH. Thực hiện chính sách KH đặc biệt đối với DNVVN là một trong những giải pháp nhằm mở rộng hơn nữa công tác cho vay đối tượng này. Từng bước đổi mới chính sách KH bằng cách tạo điều kiện thuận lợi để phục vụ KH nhanh hơn, chất lượng hơn, giúp KH cạnh tranh lành mạnh. Qua đó, thu hút nhiều KH có uy tín đến giao dịch và mở rộng thị phần cho vay của NH. Đầu tiên NH cần phải thường xuyên phân loại KH DN theo từng tiêu chí nhất định và cụ thể để có các chính sách riêng. Ví dụ như phân loại DN thành DN lớn, DNVVN; trong DNVVN phân thành các đối tượng khác nhau nữa để đưa ra chính sách ưu đãi nhất định. Hoặc như những DN có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì phải được hưởng ưu đãi như là giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ… Đối với KH mới vay lần đầu, nếu tình hình tài chính ổn định, món vay lớn mà phương án lại khả thi và hiệu quả thì NH có thể đưa ra mức lãi suất hợp lý hoặc là đưa ra các yêu cầu về thủ tục ít hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho KH vay vốn. Từ đó khiến KH có ấn tượng tốt về NH và tăng khả năng mở rộng cho vay sau này. 3.3.1.2. Chính sách lãi suất Thông thường, NH áp dụng mức lãi suất khá cứng nhắc. Một số đối tượng KH khác nhau, nhu cầu vay khác nhau nhưng vẫn áp dụng chung một mức lãi suất. Các DNVVN hay phải chịu lãi suất và phí suất cao hơn là các DN lớn. Vì vậy, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt giúp các DNVVN tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Bởi một trong những điều quan tâm của DNVVN khi vay vốn là lãi suất vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho DN. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên cơ sở thoả thuân với KH, hoà hợp lợi ích hai bên. 3.3.1.3. Chính sách kỳ hạn nợ cho vay và thời gian trả nợ. Cho vay ngắn hạn bao giờ cũng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số cho vay DNVVN. Cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng ít và có xu hướng giảm trong năm 2009. Như vậy có sự mất cân đối trong xác định kỳ hạn nợ cho vay. Số lượng các DNVVN tăng lên không ngừng. Hơn nữa, nhiều DNVVN mở rộng quy mô HĐ. Vì vậy, các DN này đều có nhu cầu vốn trung và dài hạn cho việc đầu tư vào tài sản cố định. Nhưng nguồn vốn trung và dài hạn của NH lại hạn chế nên ảnh hưởng đến khả năng cho vay trung và dài hạn. NH cần phải tăng cường công tác huy động vốn trung và dài hạn từ các tổ chức KT, các cá nhân thông qua các chương trình huy động với lãi suất ưu đãi và lợi ích đi kèm. Công tác marketing trở nên cực kỳ quan trọng trong tình huống này. Thời hạn trả nợ đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn cho NH. Kỳ hạn trả nợ phải phù hợp với quá trình luân chuyển vốn của DN. Nếu kỳ hạn trả nợ nhỏ hơn hoặc lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn thì DN sẽ chưa có nguồn để trả hoặc ứ đọng vốn, có thể dẫn đến sử dụng vốn sai mục đích và có thể gặp rủi ro. 3.3.1.4. Chính sách về quy mô vốn vay và hạn mức tín dụng. Nhu cầu vốn lưu động của DNVVN rất lớn. Vì nguồn vốn chủ sở hữu thấp, DNVVN chủ yếu huy động từ nguồn tín dụng NH. Do vậy, NH cần quan tâm đến nhu cầu vay vốn của DNVVN cũng như xem xét kỹ khả năng cấp hạn mức. Với các DNVVN thì nhu cầu vốn vay nhiều nhưng số lượng vay lại ít. NH nên chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn. Chẳng hạn, NH có thể từ chối một số khoản vay lớn để chia lượng tín dụng đó cho những khoản vay nhỏ hơn. Biện pháp này phù hợp với các DNVVN, tạo điều kiện mở rộng cho vay được nhiều DNVVN hơn. 3.3.1.5. Chính sách về tài sản bảo đảm. Đây là vấn đề khó khăn nhất khi DNVVN vay vốn. Tài sản đảm bảo chỉ đáp ứng đủ 30% - 40% nhu cầu xin vay do tài sản không đủ giấy tờ cần thiết hoặc bị đánh giá quá thấp so với thực tế hoặc không đủ tài sản đảm bảo. Để đảm bảo lợi ích cho DNVVN, cán bộ tín dụng nên áp dụng linh hoạt khung giá của Nhà nước, có sự điều chỉnh của giá cả thị trường. Gần đây, Chính phủ và NH nhà nước đã ban hành một loạt quy định cụ thể về bảo đảm tiền vay tại các tổ chức tín dụng như Nghị định 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay. Nhưng mà việc triển khai xuống thực tiễn không đúng như quy định. NH còn e ngại khi cho vay không có tài sản bảo đảm đối với những đối tượng đã quy định rõ trong văn bản. Cán bộ tín dụng có tâm lý lo lắng về các khoản nợ quá hạn, nợ xấu nên thường dùng tài sản bảo đảm là khoản thu nợ cuối cùng. Năng lực của các DNVVN thường lớn hơn so với tài sản thực tế của họ. Do đó muốn mở rộng cho vay thì NH cần áp dụng mạnh dạn hình thức bảo đảm khác nhau. Ngoài hình thức bảo đảm bằng bất động sản hay hàng hoá trong kho, NH còn có thể áp dụng bảo đảm bằng hợp đồng chi trả của người thứ ba, số dư bù, bảo lãnh, tín chấp… Một số tài sản bảo đảm NH nên áp dụng như chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đang ngày càng phổ biến và khá an toàn khi làm tài sản thế chấp. Vì giá trị hợp đồng được xác định rõ, NH chỉ cần căn cứ vào giá trị hoàn lại của hợp đồng mà không cần định giá lại khi nhận là tài sản thế chấp. Mặt khác, không như các loại tài sản khác, hợp đồng nhân thọ có giá trị tăng theo thời gian và được đảm bảo chi trả bởi công ty bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy thủ tục thu hồi nợ khi cần thiết trở nên đơn giản, giảm chi phí và thời gian cho NH. Việc áp dụng hình thức bảo đảm này tạo nhiều thuận lợi cho cả NH và DNVVN, nhất là các DN nhỏ. Nhưng cũng cần chú ý là để đảm bảo an toàn tuyệt đối, NH nên nhận hợp đồng do công ty bảo hiểm có uy tín và phải kiểm tra tính chính xác của hợp đồng. 3.3.2. Đổi mới quy trình cho vay phù hợp với các DNVVN 3.3.2.1. Hướng dẫn KH lập hồ sơ vay vốn, tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn một cách đầy đủ và kịp thời. Tăng cường phổ biến thông tin cho DNVVN. Những quy định về thủ tục vay, điều kiện vay, tiện ích của từng loại vay vốn phải được phổ biến rộng rãi. Cán bộ tín dụng cần phải thông báo cho KH rõ đâu là những thủ tục cần thiết để cấp khoản vốn vay. Như vậy, DN sẽ có thời gian chuẩn bị đáp ứng ngay yêu cầu trước mắt của NH, vừa tiết kiệm được thời gian và chi phí cho cả NH và DN. Đối với các DNVVN thì điều này rất quan trọng. Xuất phát từ khó khăn của DNVVN, trình độ lãnh đạo còn yếu kém, thủ tục rườm rà, phức tạp, khả năng đáp ứng yêu cầu của NH còn hạn chế, việc cán bộ tín dụng hướng dẫn chi tiết hồ sơ vay vốn là rất cần thiết. 3.3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định khi cho vay đối với DNVVN. Lợi nhuận năm 2009 tăng 65.87 % so với năm 2008. Tuy nhiên, NH còn đặt mục tiêu lợi nhuận trong năm 2010 cao hơn. Vậy để đạt được những mục tiêu đó thì NH phải tăng cường mở rộng cho vay các đối tượng KH khác nhau trong đó có DNVVN. Song, trên con đường tìm kiếm lợi nhuận tối đa, NH luôn gặp phải một rào cản đó là rủi ro. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, NH phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp, trong đó biện pháp cơ bản và quan trọng là phân tích tổng thể KH trước khi cho vay. Điều đó có nghĩa là NH phải không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng. Phân tích KH: Đây là bước đầu tiên của quá trình thẩm định KH. Phân tích năng lực pháp lý của DNVVN là yếu tố không thể bỏ qua và xem nhẹ. Bởi vì số lượng DNVVN ngày một tăng, tình trạng DN ma khá phổ biến. Những DN này dễ dàng làm giấy tờ giả để lừa đảo vốn của NH. Vì vậy, khi xem xét năng lực pháp lý, cán bộ tín dụng yêu cầu DN cung cấp đầy đủ giấy tờ như: quyết định thành lập DN, giấy phép KD do cấp có thẩm quyền cấp, giấy bổ nhiệm giám đốc… Và những giấy tờ này phải hợp pháp, phải có dấu chứng thực của cơ quan có thẩm quyền để tránh tình trạng giả mạo giấy tờ. Một yếu tố cũng quan trọng mà cán bộ tín dụng cần phải đánh giá đó là uy tín của DNVVN. Đối với những DN mà có uy tín trên thị trường thì NH sẽ nới lỏng các điều kiện cho vay, mở rộng hạn mức và có các chính sách ưu đãi hơn. Một khâu quan trọng không kém trong việc phân tích KH là phân tích tài chính KH. Đây là một căn cứ có tính quyết định tới quyết định cho vay. Thông qua các báo cáo tài chính, NH tiến hành tính toán các chỉ tiêu chủ yếu, phân tích các chỉ tiêu đó, so sánh các chỉ tiêu với chỉ tiêu của ngành hay lĩnh vực liên quan. Kết hợp với từng trường hợp cụ thể mà NH chú trọng phân tích chỉ tiêu này hay chỉ tiêu khác để có những đánh giá chính xác nhất về tình hình tài chính của DN. Đối với DNVVN năng lực tài chính có hạn nên cán bộ tín dụng cần phải phân tích một cách tỉ mỉ, chính xác, đầy đủ để tạo điều kiện cho DN vay vốn. DNVVN HĐ bao trùm trên mọi lĩnh vực với những đặc trưng riêng, nhu cầu vay vốn khác nhau. Vì vậy, khi phân tích tài chính, cán bộ tín dụng nên chú trọng vào một số chỉ tiêu đặc trưng cho ngành nghề KD. Trên cơ sở những phân tích cụ thể trên, cán bộ tín dụng cần đưa ra những dự báo và nhận định về rủi ro trong KD, rủi ro ngành, cấu trúc chi phí lợi nhuận nhằm đưa rra các biện pháp giảm thiểu rủi ro. Thẩm định dự án đầu tư: là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản liên quan đến dự án đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi, hiệu quả và khả năng hoàn vốn đầu tư của dự án. Khi tiến hành thẩm định dự án, cán bộ tín dụng buộc phải tuân thủ theo các bước hướng dẫn thẩm định của NH như: phân tích KT dự án đầu tư, phân tích kỹ thuật, thẩm định về khả năng thực hiện dự án, đánh giá hiệu quả về mặt tài chính và khả năng trả nợ của dự án, phân tích rủi ro và các biện pháp phòng ngừa cũng như giảm thiểu rủi ro. Muốn có cái nhìn chính xác về dự án thì VPBank nên chuyên môn hoá lĩnh vực nhất định, mỗi một lĩnh vực phân công cho một hoặc một số cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Như vậy sẽ tăng tính hiệu quả hơn là việc để cho một cán bộ tín dụng ôm đồm nhiều dự án khác nhau một lúc. Bởi cán bộ tín dụng sẽ phải san sẻ thời gian và kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau, không thể chuyên sâu vào một dự án để tìm hiểu kỹ từng khía cạnh liên quan. Từ đó sẽ kéo dài thời gian thẩm định, làm chậm tiến độ vay vốn và ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án của DNVVN. Thẩm định dự án đầu tư yêu cầu cán bộ tín dụng dự đoán các rủi ro và đưa ra các biện pháp phòng ngừa dựa trên trạng thái động. Trong môi trường KD đầy biến động, khi triển khai dự án có thể khác xa so với dự tính ban đầu. Nếu không dự đoán từ trước sẽ gây khó khăn cho cả NH và DN, vốn sẽ bị tồn đọng trong khi DN lại đang thiếu vốn thi công. Thẩm định tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm là một khó khăn cản trở DNVVN vay vốn NH. Bởi nhiều DNVVN không có tài sản bảo đảm hoặc giá trị tài sản bảo đảm so với vốn vay không đáng kể. Đặc biệt, nhằm tránh rủi ro, cán bộ tín dụng thường định giá tài sản bảo đảm thấp hơn giá trị thực của nó. Hoặc cán bộ tín dụng không có đủ chuyên môn cũng như kinh nghiệm thẩm định tài sản bảo đảm, nhất là bất động sản và chứng khoán, nên hạn chế DNVVN tiếp cận tín dụng NH. Vậy để đảm bảo tính chính xác khi thẩm định tài sản bảo đảm thì cán bộ tín dụng phải xem xét các yếu tố: quyền sở hữu, tình trạng tài sản, mức độ chuyên môn hoá tài sản, số tiền bảo hiểm, gía trị tài sản, vấn đề thuê mua và thế chấp tài sản, tính lỏng, tính thị trường của tài sản…. Điều quan trọng là NH cần có những điều chỉnh linh hoạt dựa trên cơ sở khung giá Nhà nước và giá thị trường sao cho phù hợp với giá trị thực tế của tài sản. Tài sản bảo đảm nếu là động sản thường bị hao mòn nhanh. Cán bộ tín dụng cần thường xuyên kiểm tra hiện trạng tài sản, đánh giá lại giá trị, trường hợp mà giá trị tài sản không đảm bảo yêu cầu thì yêu cầu DN bổ sung thêm tài sản bảo đảm. Đối với tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá, đặc biệt là chứng khoán, phải liên tục cập nhật thông tin về thị giá, tình hình HĐ KD của tổ chức phát hành, từ đó điều chỉnh giá trị khoản bảo đảm này. 3.3.3. Thực hiện tốt chính sách Marketing. Trong những năm gần đây, VPBank cũng đã khẳng định được tên tuổi của mình trên thị trường tài chính – NH. Tuy nhiên, trước sự tham gia thị trường của nhiều NH mới, đặc biệt là các NH nước ngoài khiến các NH cạnh tranh khốc liệt hơn. Và các DNVVN đang trở thành KH tiềm năng của các NH bởi thị trường các DNVVN đang bị bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, VPBank cũng đang tập trung mở rộng cho vay đối tượng này. Nhưng VPBank cũng phải tuân theo các quy định cụ thể của Chính phủ, Bộ tài chính và của NHNN nên không thể bỏ qua những điều kiện cần thiết khi cho vay DNVVN. Vì vậy, làm tốt công tác marketing, quảng cáo chính sách, chế độ cho vay, điều kiện cho vay đối với khu vực DNVVN sẽ giúp NH thu hút thêm KH và nâng cao hiệu quả HĐ cũng như năng lực cạnh tranh trên thị trường. HĐ Marketing tại VPBank chưa phát huy hiệu quả thực sự. Vai trò của bộ phận này chưa phát huy hết chức năng, mới chỉ tập trung vào nghiệp vụ thẻ và quảng bá hình ảnh bên ngoài của NH, chưa đi sâu vào nghiên cứu, hoạch định chính sách marketing cụ thể. Để đẩy mạnh công tác marketing, NH nên: Trước hết: bộ phận marketing cần phân đoạn thị trường tín dụng: DN lớn, DNVVN, cá nhân và hộ gia đình, để xây dựng chính sách đầu từ phù hợp cho từng phân đoạn thị trường. Sau đó cần xác định thị trường mục tiêu để phân bổ vốn và nguồn nhân lực gúp cho việc mở rộng, nâng cao hiệu quả đầu tư cho DNVVN. Hai là: Triển khai các nghiệp vụ NH hiện đại trong giai đoạn mở rộng hiện đại hoá hệ thống thanh toán và kế toán KH nhằm PT các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu DNVVN. Ba là: đứng trước áp lực cạnh tranh từ các NH trong nước và ngoài nước, hình ảnh NH và thái độ phục vụ NH sẽ là nhân tố nhằm thu hút KH mới và giữ chân KH cũ. Điều đó đòi hỏi cán bộ NH phải tận tình, nhiệt tình, thông thạo nghiệp vụ để phục vụ KH chu đáo, tăng thêm uy tín cho NH nói riêng và NH Quân đội nói chung. 3.3.4. PT nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. NH là loại hình KD dịch vụ nên nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, đảm bảo cho HĐ NH diễn ra liên tục. Sự cạnh tranh giữa các NH ngày càng trở nên gay gắt, trong khi các sản phẩm NH gần như tương đồng với nhau thì yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các NH là trình độ, thái độ phục vụ của cán bộ NH. Với trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững, cộng với khả năng am hiểu và nhạy bén với thông tin thị trường, thái độ nhiệt tình phục vụ KH…, cán bộ tín dụng sẽ làm việc nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho NH gia tăng thêm khả năng mở rộng cho vay đối với tất cả các đối tượng KH khác nhau. Như vậy, đi đôi với việc mở rộng cho vay DNVVN là việc nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Sau đây là một số giải pháp: - Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, xây dựng tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học, giữ vững phẩm chất người cán bộ tín dụng: không vụ lợi, không lợi dụng KH để làm việc bất chính, trung thực, tận tình, có trách nhiệm… Thường xuyên trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ. HĐ các DNVVN bao trùm mọi lĩnh vực KT- XH, cán bộ tín dụng phải có am biết về HĐ của KH, quy định pháp luật liên quan, tình hình kinhh tế- XH trong và ngoài nước thì mới tiến hành thẩm định và kiểm soát có hiệu quả. Cụ thể là cán bộ tín dụng tìm hiểu thông tin một cách kỹ lưỡng về DN trước, trong và sau quá trình cho vay; liên tục cập nhật thông tin thị trường, thông tin pháp luật, các quan đỉêm chỉ đạo của Nhà nước về PT DNVVN để đưa ra các điều chỉnh kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho DNVVN vay vốn. Thường xuyên giáo dục đạo đức, phẩm chất chính trị cho cán bộ tín dụng. Tổ chức các khoá học đào tạo nghiệp vụ bổ ích cho cán bộ tín dụng. Đây là biện pháp hữu hiệu giúp nâng cao kiến thức cho cán bộ tín dụng về đặc điểm, thực tế HĐ và xu hướng PT của DNVVN. Từ đó giúp cán bộ tín dụng có cái nhìn chi tiết hơn bổ trợ cho nghiệp vụ của mình. Tạo môi trường làm việc năng động, công bằng, chuyên nghiệp, các chính sách đãi ngộ hợp lý, vừa phát huy hết năng lực của nhân viên vừa tạo ra sự gắn bó lâu dài giữa nhân viên và NH. Trong quá trình làm việc cần gắn trách nhiệm với quyền lợi, có chế độ thưởng phạt công bằng, hợp lý tạo động lực cho nhân viên làm việc có hiệu quả. Trong 2 năm qua, NH đã cử nhiều nhân viên tham gia vào các HĐ văn nghệ, thể thao chung của toàn NH làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cán bộ công nhân viên. Đây là những HĐ hết sức bổ ích và nên tiếp tục phát huy trong những năm tới. Bổ sung thêm nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng làm việc. NH mới thành lập nên đội ngũ nhân lực còn ít cả về số lượng và chất lượng. Một khi NH PT hơn nữa thì bổ sung nguồn nhân lực trở thành nhiệm vụ cấp bách. Nếu không thì một nhân viên phải đảm nhận nhiều công việc một lúc nên thời gian xử lý hồ sơ KH chậm làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc và HĐ của cả NH cũng như KH. 3.3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng NH, công nghệ thông tin. Môi môi trường làm việc chuyên nghiệp, đầy đủ trang thiết bị thiết yếu là điều quan trọng hàng đầu. Nó tạo ra tâm lý thoải mái cho nhân viên. Đặc biệt NH nên cải tiến, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ cho cán bộ tín dụng một cách hiệu quả hơn, tiện lợi hơn. 3.4. Một số kiến nghị. 3.4.1. Đối với Nhà nước. Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý mà cụ thể là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách TM: Tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai. Bởi vấn đề mặt bằng SX KD là một trong những khó khăn đối với DNVVN. DN đang trong tình trạng thiếu đất phục vụ cho mục đích SX KD, thủ tục sử dụng đất còn rườm rà, chậm chạp, lẫn lộn giữa quyền sử dụng đất cho mục đích TM, công nghiệp nên gặp khó khăn khi thế chấp vay NH. Do đó, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ cấp quyền sử dụng đất, quyền thuê đất cho các DNVVN để họ yên tâm đầu tư lâu dài. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế. Nhà nước phải tạo sân chơi bình đảng cho mọi thành phần KT trong đó có chính sách thuế đối với DNVVN. Đơn giản hoá thuế thu nhập DN, thuế giá trị gia tăng…; tăng mức độ ưu đãi thuế đối với DNVV nhất là các DN mới thành lập, DN xuất nhập khẩu, DN SX sản phẩm mới. Có như vậy mới khuyến khích các DNVVN PT hơn. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tín dụng. Bằng cách tạo ra một “sân chơi bình đẳng” về tín dụng cho tất cả các chủ thể đi vay, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn; Sửa đổi một số quy đinh về bảo đảm tiền vay sao cho có sự thống nhất với Luật đất đai tạo điều kiện cho DNVVN tiến hành cầm cố và thế chấp dễ dàng. Chính phủ cần cụ thể hoá hình thức tín chấp, bảo lãnh khuyến khích các địa phương, hiệp hội bảo lãnh cho DNVVN vay vốn; đơn giản hoá và chuyên môn hoá các giao dịch đảm bảo, đưa các thông tin giao dịch đảm bảo lên mạng. Thứ hai: Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề, trình độ quản lý cho các DNVVN. Đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá, đây là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Thị trường biến động thường xuyên, các DNVVN nếu không có đội ngũ lãnh đạo có kiến thức và kinh nghiệm thì rất dễ bị tác động theo hướng tiêu cực. Thứ ba: Tăng cường sự phối hợp quản lý của nhà nước theo cả chiều dọc và chiều ngang. Bộ TM sẽ thường xuyên phối hợp với Bộ kế hoạch đầu tư và các bộ ngành có liên quan để tổ chức thực hiện tốt nghị định 90/CP; tạo điều kiện cho DNVVN niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Thứ tư: Đẩy mạnh việc thành lập và HĐ của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. Nguyên nhân là do tâm lý e ngại tính hiệu quả của quỹ, khó huy động được nguồn vốn cho quỹ, vướng mắc trong tổ chức và điều hành quỹ. Chính vì vậy, Nhà nước cần phát huy vai trò quản lý của mình, can thiệp hơn nữa và đưa ra các điều kiện đảm bảo để cho Quỹ chính thức đi vào HĐ. 3.4.2. Đối với NH nhà nước. Một là: NH nhà nước cần tiếp tục rà soát lại các cơ chế, quy định hiện hành về HĐ của NH TM nói chung và HĐ cho vay nói riêng. Giảm bớt sự bất hợp lý, trùng lắp, không phù hợp với các văn bản pháp luật của Chính phủ và các Bộ ngành khác. Hai là: NH nhà nước cần tăng cường thanh tra, kiểm tra HĐ tín dụng tại NH TM.NH nhà nước là cơ quan chủ quản, trực tiếp quản lý, chỉ đạo HĐ của NH TM. Để thực hiện đúng vai trò và chức năng điều tiết vĩ mô, NH nhà nước cần phải thường xuyên giám sát chặt chẽ mọi HĐ của NH TM đề phòng rủi ro xảy ra ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống NH. Cụ thể là giám sát việc thực hiện quy chế cho vay, quy chế bảo lãnh, quy trình tín dụng, chính sách tín dụng, cũng như hồ sơ tín dụng. Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng của NH TM sao cho vừa đảm bảo lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn, ổn định cho NH. Ba là: Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng. Hệ thống thông tin tín dụng là công cụ hữu hiệu hỗ trợ cho HĐ cho vay của NH. Đây là nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy, chứa đựng đầy đủ thông tin liên quan đến tình hình tài chính- tiền tệ trong nền KT thị trượng. Nó giúp giảm sự không cân xứng về thông tin giữa người vay và người cho vay. từ đó, NH có cơ sở đánh giá rủi ro chính xác hơn, nâng cao hiệu quả của HĐ cho vay. Bốn là: NH nhà nước cần có biện pháp tăng cường HĐ liên NH. Sự trao đổi thông tin giữa các NH, các tổ chức tín dụng có ý nghĩa quan trọng tạo ra sự liên kết với nhau cùng PT. Hơn nữa, sự phối hợp giữa các NH sẽ tạo điều kiện mở rộng cho vay DNVVN thông qua HĐ đồng tài trợ. 3.4.3. Đối với Hội sở chính NH VPBANK Hội sở chính NH VPBANK là cơ quan chỉ đạo trực tiếp HĐ của VPBANK. Nhằm mở rộng cho vay DNVVN tại NH, NH VPBANK cần phải có một số định hướng và biện pháp sau: Tiếp tục hoàn thiện chính sách tín dụng làm cương lĩnh HĐ chung cho toàn bộ hệ thống. Cần cụ thể hoá chính sách riêng đối với DNVVN chỉ đạo cho các NH thực hiện. Dựa trên chính sách chung, các NH sẽ xây dựng chính sách riêng sao cho phù hợp với khả năng HĐ của mình, phát huy lợi thế và nâng cao chất lượng HĐ của NH. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ thông tin. Hệ thống công nghệ thông tin giúp cho NH thực hiện nghiệp vụ nhanh chóng, khai thác và PT các sản phẩm mới, đa dạnghoá nghiệp vụ KD. Nhờ đó, NH sẽ trở thành một NH cổ phần đa năng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Vì vậy, NH nên đầu tư vào hệ thống công nghệ hiện đại với tính bảo mật cao. Hiện nay, TM điện tử mang lại nhiều lợi ích không chỉ cho các NH mà còn cho cả DN. Giao dịch điện tử vừa tiết kiệm thời gian, lại tiết kiệm chi phí, tạo thuận lợi cho KH khi tiến hành giao dịch với NH. Hơn nữa, NH có thể mở rộng phạm vi HĐ, phạm vi thị trường mà không cần quan tâm đến khoảng cách địa lý. Đây là vấn đề NH nên quan tâm. Ngoài ra, hệ thống IBANK kết nối thông tin KH của các NH cần được liên tục nâng cấp. 3.4.4. Đối với hiệp hội DNVVN Ta đã biết hiệp hội DNVVN là : “Một tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tập hợp, liên kết, hợp tác, hỗ trợ và giúp đỡ các DNVVN thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, KD, dịch vụ.” Ví dụ như: Hiệp hội DNVVN Việt Nam, Hà Nội, Hồ Chí Minh…Hiệp hội DNVVN trong những năm qua đã có những đống góp rất lớn trong sự phát triển của DNVVN tại Việt Nam. Tuy nhiên, để thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự phát triển của doanh nghiệp hiệp hội cần chú ý: Tích cực tổ chức các chuyến tham quan, khảo sát thị trường nước ngoài để các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tìm hiểu về thị trường thế giới, mở rộng thị trường hiện tại của doanh nghiệp, có điều kiện hơn để tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ phát triển. Tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại và hỗ trợ nhiều hơn xuất khẩu trong nước. Tiến hành kết nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan chức năng một cách tốt hơn, tích cực hơn. Tham mưu, đóng góp với cơ quan nhà nước để thực hiện các chế độ, chính sách phù hợp, linh hoạt với tình hình thị trường và hoạt động của doanh nghiệp. Có các chương trình hỗ trợ tích cực hơn cho các doanh nghiệp hội viên như cho vay trong nội khối với lãi suất thấp… Tuyên truyền, triển khai xây dựng văn hóa KD, văn hóa công ty. KẾT LUẬN Trong thời gian 17 năm HĐ, chất lượng KD của NH luôn tăng trưởng ổn định, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, năng lực tài chính của NH được tăng cường, mạng lưới HĐ đưẹơc mở rộng, thương hiệu VPBank ngày càng trở nên quen thuộc và chiếm được lòng tin nơi đông đảo KH, của các nhà đầu tư, các định chế tài chính trong và ngoài nước. Có được những thành quả đáng khích lệ như trên, cần phải kể đến sự động viên cổ vũ hậu thuẫn vững chắc của các cổ đông, sự chỉ đạo kịp thời và hiệu quả của cơ quan quản lý, tinh thần năng động sáng tạo của ban điều hành và sự tận lực của độn ngũ nhân viên các cấp. Bước sang năm 2010, trong bối cảnh đất nước đang trong giai đoạn vừa vượt qua suy thoái với nhiều thời cơ và thách thức mới, VN làm chủ tịch ASEAN, cùng với xu hướng hội nhập, dỡ bỏ bảo hộ trong lộ trình gia nhập WTO đã tạo nên một sân chơi bình đẳng, lành mạnh là động lực thúc đẩy nền KT đất nước tiếp tục PT khởi sắc, buộc NH không thể chỉ chú ý tới quá khứ mà cần phải tỉnh táo để xác định lộ trình, xác lập hướng đi và bước đi phù hợp với tình hình mới. Với mục tiêu trở thành NH TM hàng đầu VN trong mảng thị trường đã lựa chọn, HĐ đa năng, an toàn và hiệu quả, trong thời gian tới VPBank sẽ tiếp tục triển khai đề án đổi mới, tăng vốn điều lệ và mở rộng mạng lưới HĐ, đầu tư PT nguồn nhân lực đạt trình độ chuyên nghiệp cao, hiện đại hóa công nghệ và PT thêm nhiều dịch vụ NH mới, đáp ứng sự tin tưởng của đông đảo quí vị KH cũng như sự tin cậy của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31721.doc
Tài liệu liên quan