Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Nội

Tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Nội: ... Ebook Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Nội

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong thời gian qua, chúng ta thấy rằng với sự đổi mới của các ngành nghề trong mọi lĩnh vực kinh tế, đã đưa nước ta phát triển đi lên. Nhất là sau năm 2006 khi Việt Nam đã chính thức là thành viên của WTO, nền kinh tế của nước ta đang đứng trước một vận hội vô cùng to lớn để có thể hòa nhập với nền kinh tế Thế giới. Tuy nhiên cùng với vô vàn cơ hội khi nền kinh tế mở cửa, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Bởi vậy nhiệm vụ chính của chúng ta là phải biết nắm bắt cơ hội, tìm mọi cách vượt qua khó khăn để hòa nhập với nên kinh tế sôi động của Khu vực và Thế giới. Song song với các ngành kinh tế khác. Hệ thống Ngân hàng của nước ta cũng đóng một vai trò không nhỏ nhằm ổn định tiền tệ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế, vượt qua những khó khăn ban đầu trong việc chuyển đổi cơ chế thị trường để không ngừng phát triển mở rộng hoạt động kinh doanh, các hình thức giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của thị trường và ngày càng cao của khách hàng trong và ngoài nước, đóng góp phần nào sức lực của mình vào tiến trình Công nghiệp hóa - Hiên đại hóa nước nhà. Kết cấu chuyên đề: Chương 1: Những vấn đề chung về mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương 2: Thực trạng hoạt động mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Nội Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MỞ RỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 1.1.Khái quát chung về Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân. 1.1.1.Khái niệm Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi nói đến DNVVN là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp, tuy nghiên có thể thấy một số tiêu thức chung phổ biến nhất thường được sử dụng trên thế giới là: Số lao động thường xuyên, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng. Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức đều có mặt tích cực và mặt hạn chế riêng. Như vậy, để phân loại DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra, hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố đó. Ở Việt Nam, theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ban hành năm 2001, theo quy định tại điều 3 của Nghị định: “doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở xản suất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người” Tuy nhiên các định nghĩa về DNVVN chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì một doanh nghiệp có thực sự nhỏ khi có số lao động dưới 300 người hay không thì còn tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1.2.1.Đặc trưng về vốn. Trong mọi doanh nghiệp (bao gồm doanh nghiệp lớn và DNVVN), vốn đều bao gồm 2 bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ; mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy theo tính chất của chúng. Tuy vậy, quy mô vốn của các DNVVN là rất nhỏ bé. * Vốn chủ sở hữu của DNVVN bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu. Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Đối với DNNN, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở hữu của các DNNN là Nhà nước. Đối với các CTCP, vốn do các cổ đông góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên số cổ phần mà họ nắm giữ. Trong các loại hình doanh nghiệp khác như công ty TNHH, công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các nguồn vốn tương tự như trên; tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia, các đối tác …Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như pháp luật, đặc điểm ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu liên doanh. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên, tỷ lệ lợi nhuận giữ lại còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau tùy loại hình doanh nghiệp. Đối với DNVVN chính sách tái đầu tư sẽ quyết định tỷ lệ này. Đối với các CTCP khi quyết định giữ lại một phần lợi nhuận có nghĩa là cổ tức mà các cổ đông nhận được sẽ giảm đi, nhưng bù lại họ sẽ có được số vốn cổ phần tăng lên. Thực tế cho thấy, do quy mô của các DNVVN còn hạn chế dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao. Năm 2004. lợi nhuận bình quân của DNVVN đạt 240 triệu đồng (khoảng 16.000USD) thấp hơn rất nhiều so với mức lợi nhuận bình quân/ doanh nghiệp của cả nước (khoảng 1,14 tỷ đồng). Các tiêu chí về tỷ suất lợi nhuận/ vốn; lợi nhuận trên doanh thu cũng thấp ở mức 3 tỷ đồng và 2,57 tỷ đồng so với mức bình quân chung của các doanh nghiệp cả nước là 4,85 tỷ đồng và 5,99 tỷ đồng. Đây là một trở ngại lớn đối với các DNVVN trong việc ra quyết định chiến lược mở rộng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình bằng lợi nhuận không chia. Phát hành cổ phiếu: chúng ta thấy rằng phương thức huy động vốn này chỉ có thể thực hiện ở các CTCP, đây là nguồn dài hạn có vai trò quan trong đối với các doanh nghiệp. Các cổ đông (chủ sở hữu của doanh nghiệp) là người đưa ra quyết định có đầu tư vốn vào doanh nghiệp hay không. Quyết định này phụ thuộc rất nhiều vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã đạt được trong thời gian qua và triển vọng trong thời gian tới của doanh nghiệp. Đối với các DNVVN, do quy mô vốn nhỏ, công nghệ lạc hâu, trình độ quản lý chưa tốt…phần lớn hiện nay việc sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả chưa cao nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát hành cổ phiếu để thu hút vốn đầu tư. Để khắc phục, vươn lên và phát triển trong nền KTTT như hiện nay, các DNVVN với quy mô VCSH hạn chế phải tận dụng đến kênh vốn thứ hai đó là Vốn nợ. * Vốn nợ: Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Đối với các DNVVN - còn nhiều hạn chế về VCSH, đây là một kênh không thể thiếu trong cơ cấu vốn. Nguồn vốn vay quan trọng và phổ biến nhất đối với các DNVVN thường là vốn vay từ các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các NHTM. Theo thống kê của NHNN, tốc độ tăng trưởng tín dụng dành cho khối các DNVVN có những tín hiệu khả quan. Trong 3 năm gần đây, số vốn mà các NHTM cho các DNVVN vay chiếm tỷ trọng bình quân 40% tổng dư nợ. Như chúng ta đã biết, chi phí vốn vay chính là lãi suất của hợp đồng tín dụng và nó sẽ được tính vào giá thành sản phẩm, dịch vụ. Trong nền KTTT hiện nay, để cạnh tranh các NHTM luôn tích cực đa dạng hóa các loại hình tín dụng của mình một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng nhiều của các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN, đồng thời cũng đưa ra các biện pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tiếp cận dễ dàng hơn với các khoản vay từ ngân hàng. 1.1.2.2.Đặc trưng về trình độ công nghệ. Xuất phát từ nguồn vốn nhỏ nên các DNVVN ở Việt Nam thường không có đủ điều kiện để trang bị cho mình những máy mọc, thiết bị hiện đại. Hệ thống máy móc của các DNVVN lạc hậu: khoảng 20 năm so với ngành điện tử; 25 năm so với ngành cơ khí; trên 70% công nghệ dệt may đã sử dụng được 20 năm. Cụ thể hơn ta có thể thấy, theo thống kê năm 2007, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chưa cao: 32% có trình độ công nghệ trung bình, 43% có trình độ dưới trung bình, chỉ có 25% có trình độ công nghệ hiện đại. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình của Việt Nam chỉ đạt mức 5-7% trong đó trung bình trên thế thời tỷ lệ này đạt 20%. Công nghệ lạc hậu khiến cho chi phí đầu vào tăng lên khoảng từ 35-50% so với các nước ASEAN, và các sản phẩm tạo ra chưa theo kịp được với các sản phẩm cùng loại trên thế giới. Bởi vậy sức cạnh tranh của hàng hóa của chúng ta là rất thấp. Đối với các DNVVN trên thế giới, công nghệ trang bị và sử dụng thường rất hiện đại. Chúng chỉ khác so với doanh nghiệp lớn về quy mô vốn đầu tư, số lượng lao động. Do đó, khả năng sản xuất, năng suất và chất lượng sản phẩm do các DNVVN của nước ngoài tạo ra khá cao và là một bộ phận không thể tách dời của các doanh nghiệp lớn, có liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn dưới dạng cung cấp các bộ phận, linh kiện vật tư cho các doanh nghiệp lớn. Một số tồn tại độc lập thì có các sản phẩm chất lượng cao và tập hợp thành các liên hiệp sản xuất khu vực để có thể tham gia cạnh tranh trên thị trường nhờ chất lượng cao. So với các DNVVN trên thế giới các DNVVN ở Việt Nam phân tán hơn rất nhiều, khả năng liên kết với nhau và với các doanh nghiệp khác là rất hạn chế. 1.1.2.3.Đặc trưng về trình độ quản lý và lao động. Trình độ quản lý, tay nghề chuyên môn của lao động tại các DNVVN còn thấp, hầu hết những người có trình độ chuyên môn cao thường có tâm lý lựa chọn làm việc ở các doanh nghiệp lớn, các công ty nước ngoài với môi trường làm việc tốt hơn và mức lương cao hơn. Thêm vào đó, xu thế hiện nay của lao động là họ thường hướng về các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… nơi có nhiều trung tâm đào tạo, có nền kinh tế phát triển hơn, có các công nghệ hiện đại hơn, có nhiều cơ hội làm việc hơn chứ không muồn về nông thôn. Bởi vậy, có sự chêng lệch về mặt năng lực quản lý và tay nghề giữa lao động ở nông thôn và thành thị. Ở các tỉnh có nền kinh tế kém phát triển, các chủ DNVVN qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp và hầu như là chưa qua đào tạo về mặt chuyên môn, còn công nhân chủ yếu là các lao động thủ công, mới chỉ qua đào tạo tay nghề ngắn hạn hoặc là những lao động chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang. Do trình độ quản lý và tay nghề của lao động trong các DNVVN, đặc biệt là các DNVVN ở khu vực nông thôn còn kém nên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, thiếu khả năng canh tranh với môi trường bên ngoài. 1.1.2.4.Đặc trưng về thông tin và các mối quan hệ. Trong thời đại hiện nay vấn đề thông tin có tính chất quyết định trong thành bại của bất cứ doanh nghiệp nào. Thông tin có từ nhiều phía: từ môi trường kinh doanh mà trong đó doanh nghiệp tham gia, từ đối thủ cạnh tranh, từ các nhà cung cấp, từ phía khách hàng, từ các môi trường pháp lý, từ các đặc thù kinh tế - chính trị - xã hội….Nhưng việc khai thác và sử dụng thông tin đối DNVVN có những hạn chế rất lớn vì họ không đủ khả năng chuyên môn, thông tin còn chưa đầy đủ, dẫn tới việc khai thác thông tin chưa thực sự rõ ràng. Thông tin kém tính đa dạng và kém sâu rộng nên gây cản trở cho họ trong vấn đề mở rộng mối quan hệ với Nhà nước, ngân hàng, trung tâm khoa học đào tạo, và thị trường… gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu suất hoạt động sản xuất kinh doanh. Có một vấn đề nữa đặt ra cho các DNVVN là, hiện nay, đa số DNVVN hoạt động có hiệu quả mong muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất để làm mặt bằng. Viêc xin cấp đất hoặc thuê đất của DNVVN bị cản trở bởi hồ sơ, thủ tục khá phức tạp, điều này cũng làm giảm khả năng hoạt động kinh doanh của các DNVVN. Một vấn đề khác nữa cũng hay được đề cập tới khi nói đến các DNVVN của chúng ta là: các doanh nghiệp này thường phải chịu thiệt thòi, phải gánh chịu những thông lệ cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước; khả năng tiếp xúc thương mại, tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế gặp rất nhiều khó khăn; điều kiện tiếp cận thông tin về văn bản, pháp luật, thị trường, công nghệ mới… còn tản mạn và hạn chế. 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân. Một thực tế đã được khẳng định ở VN và trên thế giới đó là hầu hết các doanh nghiệp đều có nguồn gốc từ DNVVN. Trong quá trình tích tụ và tập trung vốn, cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa những xí nghiệp trong và ngoài nước tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn như ngày nay. Hơn nữa, sau khủng hoảng kinh tế trong những năm đầu thập niên 30, người ta cũng nhận ra rằng chính khu vực DNVVN là nhân tố cực kì quan trọng thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, đảm bảo và ổn định kinh tế, hạn chế nguy co khủng hoảng. Có thể nói, các DNVVN giống như xương sống của nhiều nền kinh tế trên thế giới. Chính vì vậy, việc ưu tiên phát triển cho các doanh nghiệp này là một mục tiêu đúng đắn của chính phủ các nước để đạt được sự ổn định và phát triển về kinh tế, xã hội. Đối với VN, đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, phân tán thì DNVVN chính là mô hình phát triển chủ yếu của các doanh nghiệp VN. Điều 1 “Mục tiêu” trong nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ – CP đã quy định “Phát triển DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Ý nghĩa của các doanh nghiệp này thể hiện cụ thể trên các mặt sau: Thứ nhất là: DNVVN chiếm tỷ trọng cao về số lượng, thu hút nhiều lao động và đóng góp phần lớn vào thu nhậo quốc dân. Theo thống kê thì hiện nay ở nước ta, DNVVN chiếm 80% tổng số doanh nghiệp, tạo công ăn việc làm cho khoảng 95% lao động xã hội. Như vậy, phát triển DNVVN là chủ trương đúng đắn của Đảng, nó gắn liền với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm giải quyết việc làm, gia tăng thu nhập cho người dan, góp phần vào việc ổn định tình hình kinh tế xã hội. Thứ hai là: Các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá và cung cấp dịch vụ, là vệ tinh, là mạng lưới tiêu thụ hàng hoá cho các doanh nghiệp lớn. Hiện nay, các DNVVN chiếm khoảng 31% tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, 78% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá. Thứ ba là: Các DNVVN đáp ứng kịp thời, tích cực nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, chế biến hàng hoá xuất khẩu và tăng kim ngạch xuất khẩu. Với sự đa dạng ngành nghề được coi là một ưu điểm nổi bật của các DNVVN thì vai trò này ngày càng được củng cố và nâng cao. Hơn nữa, với lợi thế so sánh về các nguyên liệu nông lâm thuỷ hải sản để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, lợi thế về ngành nghề thủ công truyền thống đã tạo ra khả năng vô cùng to lớn cho khu vực DNVVN tham gia sản xuất, gia công chế biến hay làm đại lí khai thác cho xuất khẩu. Thứ tư là: Các DNVVN giúp phát triển kinh tế địa phương, giúp khai thác thế mạnh của từng vùng sản xuất. Do đặc điểm đa ngành, các DNVVN sẽ giúp các địa phương khai thác thế mạnh về đẩt đai, tài nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục vụ việc phát triển kinh tế đại phương. Như vậy, ta có thể thấy các DNVVN có vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. 1.2.Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.2.1. khái niệm hoạt động cho vay *Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. *Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm khách hàng trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa NHTM và khách hàng. *Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa NHTM và khách hàng mà tại cuối khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho Ngân hàng. *Gia hạn nợ là việc NHTM chấp nhận kéo dài thêm một khoản thời gian ngoài thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. *Dự án đầu tư; phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống là tập hợp những đề suất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống. *Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà Ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. 1.2.2. Vai trò ngân hàng thương mại trong hoạt động cho vay Như ta đã biết, vốn là tiền đề, là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.”. Đối với DNVVN thì yếu tố nguồn vốn lại càng có nhiều vấn đề cần quan tâm. Trong một số tài liệu đã nêu rõ: “Vốn kinh doanh (bao gồm vốncho sản xuất kinh doanh và vốn đầu tư tài chính của doanh nghiệp) là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời”. Trong mọi doanh nghiệp, vốn luôn bao gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trạng thái của nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động kinh doanh, quy mô, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp…Nếu các doanh nghiệp biết kết hợp lựa chọn nguồn vốn thep một tỷ lệ hợp lí sẽ tiết kiệm được chi phí vốn, nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn. Muốn quản lí tốt nguồn vốn, cần hiểu rõ về cơ cấu vốn chung trong doanh nghiệp. Thứ nhất: Về vốn chủ sở hữu, bao gồm: Vốn góp ban đầu: Là số vốn mỗi doanh nghiệp phải có khi đăng kí thành lập Lợi nhuận không chia: Nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện để tăng trưởng nguồn vốn bằng cách tích luỹ từ lợi nhuận không chia để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Phát hành cổ phiếu( đối với các công ty cổ phần).Đây là phương thức huy động vốn dài hạn rất quan trọng ở các doanh nghiệp. Thứ hai: Về nợ, bao gồm: Tín dụng Ngân hàng: Tức là doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng để tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tín dụng thương mại: Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp giữa các doanh nghiệp với nhau. Phát hành trái phiếu công ty: Doanh nghiệp phát hành các giấy vay nợ trung và dài hạn để thu hút đầu tư của dân cư. 1.2.3. Các phương cho vay của NHTM đối với DNVVN Cho vay thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Lãi phải trả = Lãi suất thấu chi × Thời gian thấu chi × Số tiền thấu chi Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Cho vay trực tiếp từng lần Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng đó có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay trả nhiều lần xong dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kỳ khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể thoả thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng. Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ và hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Cho vay gián tiếp Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ... Các tổ chức này thường liên kết thành viên theo mục đích riêng, song chủ yếu là hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Bởi vậy, việc phát triển kinh tế, làm giảu, xoá đói giảm nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay... Tổ chức trung gian có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Cho vay khác Ngoài các phương thức cho vay kể trên, NHTM còn có các hình thức cho vay khác như: cho vay hợp vốn (đồng tài trợ), cho vay ưu đãi, cho vay đầu tư xây dựng theo kế hoạch nhà nước, cho vay uỷ thác..... 1.3. Mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.3.1. Khái niệm mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ Mở rộng cho vay ngân hàng được hiểu là sự gia tăng về khối lượng cho vay của ngân hàng đối với đối tượng cho vay cả về chiều rộng và chiều sâu. Mở rộng cho vay ngân hàng đối với DNV&N là sự gia tăng về khối lượng tín dụng đối với các DNV&N về cả chiều rộng và chiều sâu. Mở rộng theo chiều rộng là sự tăng lên về quy mô của khối lượng các khoản vay, của đối tượng khách hàng như số dư nợ tăng lên, số khách hàng tăng… Mở rộng theo chiều sâu là sự thay đổi về tính chất, cơ cấu theo hướng hợp lý của các khoản vay như: cơ cấu các khoản vay, tỷ trọng dự nợ của các DNV&N so với các loại hình doanh nghiệp khác… 1.3.2. Tác dụng của hoạt động mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như ta đã biết, vốn là tiền đề, là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.”. Đối với DNVVN thì yếu tố nguồn vốn lại càng có nhiều vấn đề cần quan tâm. Trong một số tài liệu đã nêu rõ: “Vốn kinh doanh (bao gồm vốncho sản xuất kinh doanh và vốn đầu tư tài chính của doanh nghiệp) là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời”. Trong mọi doanh nghiệp, vốn luôn bao gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trạng thái của nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động kinh doanh, quy mô, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp…Nếu các doanh nghiệp biết kết hợp lựa chọn nguồn vốn thep một tỷ lệ hợp lí sẽ tiết kiệm được chi phí vốn, nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn. Muốn quản lí tốt nguồn vốn, cần hiểu rõ về cơ cấu vốn chung trong doanh nghiệp. Thứ nhất: Về vốn chủ sở hữu, bao gồm: Vốn góp ban đầu: Là số vốn mỗi doanh nghiệp phải có khi đăng kí thành lập Lợi nhuận không chia: Nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện để tăng trưởng nguồn vốn bằng cách tích luỹ từ lợi nhuận không chia để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Phát hành cổ phiếu( đối với các công ty cổ phần).Đây là phương thức huy động vốn dài hạn rất quan trọng ở các doanh nghiệp. Thứ hai: Về nợ, bao gồm: Tín dụng Ngân hàng: Tức là doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng để tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tín dụng thương mại: Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp giữa các doanh nghiệp với nhau. Phát hành trái phiếu công ty: Doanh nghiệp phát hành các giấy vay nợ trung và dài hạn để thu hút đầu tư của dân cư. 1.4.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trong ngân hàng thương mại Có nhiều chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng tại một NHTM, tuy nhiên chủ yếu có một số chỉ tiêu cơ bản sau được dùng: 1.4.1 Chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn: Là tỷ lệ phần trăm giữa tổng các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định (thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm). Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn Tổng dư nợ x 100% Tỷ lệ nợ quá hạn cho biết với 1 đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ quá hạn. Tỷ lệ này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng tốt. 1.4.2 chỉ tiêu về tỷ lệ nợ xấu: Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu với tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm nhất định (thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm). Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu Tổng dư nợ x 100% Tỷ lệ nợ xấu cho biết cứ 1 đồng dư nợ của ngân hàng có bao nhiêu đồng nợ xấu. Cũng như tỷ lệ nợ khó đòi, tỷ lệ nợ xấu càng nhỏ thì hoạt động tín dụng của ngân hàng là rất tốt. Theo quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của thống đốc NHNN Việt Nam về việc “ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng” có giải thích một số từ ngữ như sau: Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hịên nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng, nó bao gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Nợ quá hạn là khoản nợ thuộc nhóm 2, 3, 4, 5. Nợ xấu là khoản nợ đã quá hạn trong thời gian dài, khả năng thu hồi lại rất thấp. Nợ xấu được coi là chi phí khác của ngân hàng nên nó làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng. Nợ của các NHTM được phân làm 5 nhóm: Nợ nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: - Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn - Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định Nợ nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: - Các khoản nợ đã quá hạn dưới 90 ngày - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại - Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại - Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định. Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại - Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định. Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày - Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. - Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại - Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm theo quy định. 1.4.3 chỉ tiêu về hiệu suất sử dụng vốn: Là tỷ lệ giữa tổng dư nợ so với tổng vốn huy động. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng dư nợ Tổng vốn huy động Chỉ tiêu này giúp chúng ta so sánh, phân tích khả năng cho vay của ngân hàng so với khả năng huy động vốn đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động được. 1.4.4 Chỉ tiêu về vòng quay vốn tín dụng trong năm là tỷ lệ giữa thu nợ trong năm so với dư nợ bình quân năm Vòng quay vốn tín dụng trong năm = Doanh số thu nợ Dư nợ bình quân năm Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn vay trong năm tức là một đồng vốn của ngân hàng được cho vay bao nhiêu lần trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ ngân hàng thu được nhiều nợ và chứng tỏ rằng nguồn vốn mà ngân hàng đã đầu tư vào hoạt động kinh doanh là có hiệu quả. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cũng đánh giá được một cách tương đối vì trong một số trường hợp kết quả chưa hẳn đã là vậy. Ví dụ, NHTM A cho vay doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong dư nợ, các khoản tín dụng này tương đối ổn định, khách hàng trả nợ rất đúng hạn nhưng vòng quay vốn tín dụng lại nhỏ hơn một NHTM B nào đó chủ yếu cho vay tiêu dùng có vòng quay vốn nhanh trong khi rủi ro cao, do đó chưa thể kết luận được về chất lượng tín dụng của ngân hàng nào là cao hơn. 1.4.5 chỉ tiêu về tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng: Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng = Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này cho chúng ta biết khả năng sinh lời của vốn tín dụng, một khoản tín dụng ngắn hạn hay dài hạn có thể xem là có chất lượng cao nếu nó tạo ra được nhiều lợi nhuận cho khách hàng và ngược lại khoản tín dụng đó sẽ là không đạt được hiệu quả cao nếu lợi nhuận mà nó đem lại ít. Tuy nhiên, đây cũng là một chỉ tiêu tương đối vì nó còn phụ thuộc vào nhiều các yếu tố khác như chính sách về lãi suất, chính sách khách hàng, mục tiêu phát triển của ngân hàng… 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM 1.5.1. Nhân tố chủ quan 1.5.1.1. Quy mô hoạt động, phạm vi, địa bàn hoạt động a ) Quy mô Quy mô hoạt động của ngân hàng là độ rộng về mạng lưới của ngân hàng, về số vốn của ngân hàng …Qu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2089.doc