LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống ngày nay, đôi lúc nhìn lại chúng ta không khỏi ngỡ ngàng vì những thành tựu nhân loại đạt được trong suốt thế kỷ qua. Không thể phủ nhận thế kỷ XX là kỷ nguyên của công nghệ thông tin. Cho tới nay, công nghệ thông tin đã có mặt trong hầu như mọi lĩnh vực cuộc sống, thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội toàn thế giới. Ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài phạm vi đó, với một thành tựu điển hình là công nghệ thẻ. Trong xu hướng phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiề
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n mặt, thẻ đã trở thành một trong những thước đo đánh giá sự văn minh của xã hội.
Việc thanh toán bằng thẻ hiện nay không chỉ mang lại sự tiện dụng cho khách hàng mà còn đem lại cho ngân hàng cũng như một số chủ thể khác những nguồn thu không nhỏ, góp phần kích thích sự phát triển kinh tế xã hội. Với những lợi ích rõ rệt như trên, thẻ ngày càng được sử dụng phổ biến, với công nghệ, tính năng ngày càng hiện đại.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với nhiều tiềm năng về kinh tế. Hoà cùng nhịp điệu toàn cầu hoá, chúng ta đã kịp thời nhận ra sự cần thiết của việc phát triển dịch vụ thẻ thanh toán nói chung, thẻ tín dụng quốc tế nói riêng. Năm 1991, lần đầu tiên thẻ tín dụng quốc tế được chấp nhận thanh toán ở Việt Nam, trên hệ thống máy thanh toán của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ đó tới nay, các ngân hàng thương mại tiếp tục phát triển loại hình dịch vụ hiện đại, mới mẻ và nhiều hứa hẹn này.
Ra đời từ năm 1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng có tuổi đời khá lớn trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với bề dày kinh nghiệm và sự nỗ lực không ngừng, Ngân hàng Ngoại thương được đánh giá là ngân hàng đứng đầu Việt Nam về thu nhập cũng như cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ. Đây cũng chính là ngân hàng đi tiên phong trong việc đưa dịch vụ thẻ nói chung, thẻ TDQT nói riêng và nước ta.
Tuy giữ vị trí số 1 về thẻ TDQT, nhưng Ngân hàng ngoại thương vẫn cố gắng không ngừng để nâng cao chất lượng phục vụ, mở rộng phạm vi hoạt động. Ngân hàng Ngoại thương hiện đang phải đối mặt với những cạnh tranh ngày càng gay gắt từ phía các ngân hàng trong nước cũng như nước ngoài, và sắp tới khi nước ta gia nhập AFTA, WTO, sự cạnh tranh đó lại trở nên gay gắt hơn nhiều lần. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra là làm sao để nâng cao chất lượng hoạt động, chiếm lĩnh được thị trường thẻ Việt Nam và có một vị trí trong thị trường thẻ tín dụng quốc tế.
Qua thời gian thực tập tại hội sở chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, em nhận thấy dịch vụ thẻ là một lĩnh vực mới mẻ, hấp dẫn. Đặc biệt đối với thẻ TDQT, Ngân hàng Ngoại thương có nhiều lợi thế nhưng cũng không ít thách thức. Vì vậy, em xin nghiên cứu đề tài: “Mở rộng dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về dịch vụ thẻ TDQT trong ngân hàng thương mại
Chương II: Dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương III: Mở rộng dịch vụ thẻ TDQT tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ THẺ TDQT TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về dịch vụ thẻ
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm
Khái niệm: Thẻ là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát hành cho khách hàng. Khách hàng có thể dùng thẻ để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ hay rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán thẻ, các máy rút tiền tự động ATM trong phạm vi số tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng kí kết giữa ngân hàng và chủ thẻ.
Đặc điểm cấu tạo của thẻ:
Thẻ được làm bằng nhựa, với kích thước tiêu chuẩn quốc tế là 8,5cm x 5,5cm x 0,07 cm.
+ Mặt trước của thẻ gồm:
Nhãn hiệu thương mại của thẻ
Tên và logo của ngân hàng phát hành thẻ
Số thẻ, tên của chủ thẻ được in nổi
+ Mặt sau của thẻ gồm:
Dải băng từ chứa các thông tin đã được mã hoá theo một chuẩn thống nhất như: số thẻ, ngày hết hạn, các yếu tố kiểm tra an toàn khác.
Ô chữ kí dành cho chủ thẻ
1.1.2 Phân loại thẻ
Người ta có thể phân loại thẻ dựa trên các tiêu thức khác nhau. Sau đây là việc phân loại thẻ dựa trên các tiêu thưc sau:
1.1.2.1 Theo đặc tính kỹ thuật
Dựa vào công nghệ sản xuất và đặc tính kỹ thuật, thẻ gồm có các loại sau:
Thẻ khắc chữ nổi (Embossed Card): Là loại thẻ mà trên bề mặt của thẻ được khác nổi toàn bộ các thông tin cần thiết về chủ thẻ cũng như tài khoản. Ngày nay, loại thẻ này không còn được sử dụng vì tính chất thô sơ, dễ bị làm giả, mà được sử dụng với những kỹ thuật mới như băng từ, chíp.
Thẻ băng từ (Magneic Strip): Là thẻ được sản xuất dựa trên kĩ thuật từ tính, những thông tin của thẻ và chủ thẻ được mã hóa trên mặt băng từ ở mặt sau thẻ. Thẻ này hiện nay đang được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên thẻ có thể bị lợi dụng do những thông tin ghi trên thẻ có thể dùng thiết bị riêng và máy tính đọc được.
Thẻ thông minh (Smart Card): Là loại thẻ được sản xuất dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, trên thẻ có gắn một con chíp điện tử có cấu trức như một máy tính hoàn hảo.Vì vậy thẻ thông minh còn gọi là thẻ Chíp. Đây là thế hệ thẻ mới nhất, tân tiến nhất hiện nay, với độ an toàn, bảo mật cao. Tuy nhiên giá thành của mỗi chiếc thẻ còn rất cao nên nó ít được sủ dụng ở các nước đang phát triển.
Thẻ thông minh vừa có khả năng lưu trữ thông tin về chủ thẻ, vừa lưu trữ được những số liệu về những giao dịch tại đơn vị chấp nhận thẻ. Tính năng vượt trội này giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân hàng và các trung gian thanh toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và thông tin của chủ thẻ và các thông tin khác liên quan tới thẻ được thực hiện ngay tại đơn vị chấp nhận thẻ.
1.1.2.2 Theo tính chất thanh toán
Dựa vào tính chất thanh toán, thẻ gồm có các loại sau:
Thẻ ghi nợ (Debit Card) - thẻ loại A: Là loại thẻ mà chủ thẻ được chi tiêu trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của mình tại ngân hàng phát hành thẻ. Để sử dụng thẻ này, chủ thẻ phải có một tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Khi rút tiền tại ATM hay thanh toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ, giá trị của những giap dịch này lập tức được trừ vào số dư tài khoản của chủ thẻ. Do đó, chủ thẻ không phải mở tài khoản đảm bảo thanh toán thẻ mà sử dụng dựa trên số dư tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức thấu chi mà ngân hàng cho phép.
Thẻ ghi nợ gồm 2 loại sau:
Thẻ on-line: là loại thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch ngay lập tức được khấu trừ vào tài khoản tiền gửi của chủ thẻ.
Thẻ off-line: là loại thẻ ghi nợ mà giá trị của những giao dịch sau vài ngày mới được khấu trừ vào tài khoản của chủ thẻ.
Thẻ trả trước ( Prepaid Card) - thẻ loại B: Là loại thẻ mới được phát triển trên thế giới, khách hàng không phải làm các thủ tục phát hành thẻ nhu làm giấy yêu cầu phát hành thẻ, mở tài khoản hoặc chứng minh tài chính, mà chỉ cần trả cho ngân hàng một số tiền sẽ được ngân hàng cấp cho một tấm thẻ với mệnh giá tương đương. Đặc tính của loại thẻ này giống như mọi thẻ bình thường khác, tuy nhiên chủ thẻ chỉ được chi tiêu trong giới hạn số tiền có trong thẻ và trong một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo ngân hàng phát hành, tức là hạn mức của thẻ không có tính chất tuần hoàn.
Thẻ tín dụng (Credit Card) - thẻ loại C: Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay, theo đó chủ thẻ được sử dụng một hạn mức tín dụng nhất định để chi tiêu tại những cơ sở chấp nhận thẻ. Hạn mức tín dụng do ngân hàng phát hành đưa ra căn cứ vào uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của khách hàng. Khả năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên tình hình thu nhập, tình hình chi tiêu, tài khoản đảm bảo, địa vị xã hội của khách hàng…Đây là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho người sử dụng có thể chi tiêu trước, trả tiền sau. Định kì, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê từ ngân hàng. Chủ thẻ chỉ phải thanh toán số tiền đã chi tiêu mà không phải trả lãi. Tuy nhiên nếu thanh toán không đúng hạn, chủ thẻ sẽ phải chịu lãi suất chậm trả và các khoản phí khác. Sau khi thanh toán đủ số tiền phải trả, ngân hàng sẽ khôi phục hạn mức tín dụng cho chủ thẻ. Điều này tạo nên tính tuần hoàn – đặc tính ưu việt của thẻ tín dụng.
1.2 Dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế trong ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái quát về thẻ TDQT
1.2.1.1 Khái niệm
Thẻ tín dụng quốc tế là thẻ tín dụng do các tổ chức thẻ quốc tế phát hành, được thanh toán tại nhiều nước trên thế giới.
Thẻ tín dụng quốc tế cũng có những đặc điểm về cấu tạo giống như các loại thẻ nói chung. Hiện nay một số loại thẻ tín dụng quốc tế có in kèm ảnh của chủ thẻ nhằm tăng độ an toàn cho việc sử dụng. Ảnh của chủ thẻ có thể được in ở mặt trước hoặc mặt sau của thẻ.
1.2.1.2 Lợi ích của việc sử dụng thẻ TDQT
Việc sử dụng thẻ TDQT trong thanh toán hiện nay không chỉ đơn giản phục vụ cho lợi ích người sử dụng hay ngân hàng phát hành mà nó đã đem lại lợi ích cho nhiều chủ thể khác cũng như toàn bộ nền kinh tế.
1.2.1.2.1 Đối với người sử dụng thẻ
Thanh toán bằng thẻ TDQT mang lại cho chủ thẻ nhiều lợi ích như sau:
An toàn, tiện lợi, nhanh chóng trong thanh toán
Ngày nay, khi nhu cầu thanh toán của mỗi cá nhân, tổ chức ngày càng tăng, việc mang tiền mặt bên mình gây ra nhiều bất tiện và nguy hiểm, nhất là đối với những người phải đi công tác hoặc du lịch nước ngoài. Việc sử dụng thẻ TDQT đã khắc phục được khó khăn này. Chủ thẻ có thể thanh toán tại bất kì nơi nào mà không cần phải mang theo tiền mặt hay séc du lịch.
Ngoài ra, với quy trình và nghiệp vụ thanh toán thẻ do ngân hàng cung ứng cho khách hàng, chủ thẻ có thể hoàn toàn yên tâm trước những nguy cơ bị mất hay bị cướp thẻ. Trong những trường hợp này, nếu chủ thẻ chưa kịp thông báo cho ngân hàng, tài khoản của chủ thẻ sẽ được bảo vệ nhờ số PIN, ảnh và chữ kí trên thẻ…. Sau khi chủ thẻ thông báo cho ngân hàng, ngân hàng sẽ đình chỉ việc sử dụng thẻ cũ và làm lại thẻ mới cho khách hàng. Điều này nói lên tính an toàn hơn hẳn của thẻ so với tiền mặt hay séc.
Hơn nữa, các giao dịch của thẻ đều được thực hiện qua mạng kết nối trực tuyến từ cơ sở chấp nhận thẻ hay từ điểm rút tiền mặt tới ngân hàng thanh toán, ngân hàng phát hành và tổ chức thẻ quốc tế. Việc ghi Nợ - Có cho các chủ thể tham gia quy trình thanh toán được thực hiện một cách tự động chỉ trong vài giây, do đó quá trình thanh toán thẻ diễn ra hết sức dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện.
Giúp người sử dụng chi tiêu một cách hợp lý
Khi chi tiêu bằng tiền mặt, nhất là trong thời đại ngày nay, khi nhu cầu chi tiêu là rất lớn,nhiều khi người tiêu dùng rất khó xác định là họ đã chi tiêu bao nhiêu, trong túi họ còn bao nhiêu. Do đó người ta khó có thể chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên khi sử dụng thẻ, người ta luôn nắm được những con số này. Khi dùng thẻ tín dụng, chủ thẻ chỉ được tiêu dùng trong hạn mức ngân hàng đã cấp, phù hợp với thu nhập, tránh được tình trạng chi tiêu “ quá tay”. Mặt khác, nắm được số dư tài khoản và số tiền đã chi tiêu sẽ giúp chủ thẻ quản lý tài chính của mình chặt chẽ và có kế hoạch hơn.
Chủ thẻ được hưởng nhiều dịch vụ đi kèm
Hiện nay, các tổ chức thẻ quốc tế đang ngày càng đa dạng hóa loại hình phục vụ của mình nhằm đem lại độ thỏa dụng cao nhất cho khách hàng. Ví dụ như cung cấp dịch vụ thanh toán hóa đơn tiền điện, nước, điện thọai hoặc các dịch vụ chăm sóc sức khỏe…
1.2.1.2.2 Đối với các đơn vị chấp nhận thẻ
Tăng doanh thu từ bán hàng hóa, dịch vụ do thu hút được nhiều khách hàng và các khách hàng hầu như các khách hàng có chi tiêu cao hơn.
Chấp nhận thanh toán thẻ là cung cấp cho khách hàng một phương tiện thanh toán công nghệ cao, nhanh chóng tiện lợi, làm tăng khả năng thu hút khách hàng, tạo lợi thế cạnh tranh cho đơn vị. Không chỉ có vậy, những khách hàng thanh toán bằng thẻ tín dụng quốc tế hầu như là những người có mức chi tiêu cao. Do đó doanh thu của đơn vị chấp nhận thẻ cũng sẽ tăng cao. Hơn nữa, với việc chấp nhận thẻ TDQT, sự sang trọng và uy tín của cơ sở chấp nhận thẻ sẽ tăng lên vì đây là một phuơng tiện thanh toán hiện đại dành cho những nguời có thu nhập cao và ổn định. Ngày nay, ngành du lịch đang phát triển cũng kéo theo việc sử dụng thể trở nên phổ biến. Chấp nhận thanh toán thẻ do vậy cũng góp phần làm tăng đáng kể lượng khách hàng nói chung, khách hàng ngoại quốc và những người giàu có nói riêng. Mặt khác, việc triển khai máy thanh toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ đều do ngân hàng hỗ trợ toàn bộ chi phí về kĩ thuật cũng như đào tạo nhân viên.
Giảm chi phí lưu trữ, quản lý, kiểm đếm tiền mặt cho cơ sở chấp nhận thẻ
Khi sử nhận thanh toán thẻ cho khách hàng, đơn vị chấp nhận thẻ chỉ cần vài thao tác đơn giản đã có thể thu được tiền bán hàng hóa, dịch vụ mà không phải kiểm đếm tiền mặt. Điều này giúp cho đơn vị giảm được một khối lượng công việc đáng kể của một kế toán, tức là giảm bớt chi phí trả lương.
Tiết kiệm thời gian và đảm bảo an toàn
Khi giao dịch tiền mặt, việc kiểm đếm tiền, ghi chép sổ sách gây mất khá nhiều thời gian. Trong khi đo nếu giao dịch bằng thẻ tín dụng quốc tế, hệ thống thanh toán điện tử cùng các thiết bị đi kèm sẽ hoàn tất mọi quy trình thanh toán chỉ trong vài giây. Ngoài ra, việc sử dụng tiền mặt nhiều khi đem lại rủi ro cho người bán như kiểm đếm bị nhầm lẫn, nhận tiền giả, tiền không đủ điều kiện lưu thông…, trong khi đó những rủi ro này hoàn toàn có thể tránh khỏi nếu khách hàng thanh toán bằng thẻ. Hơn nữa, việc thanh toán bằng thẻ còn giúp tránh nguy cơ bị trộm, cướp tiền mặt hay séc tại đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Tăng vòng quay thu hồi vốn, tiền trong tài khoản được hưởng lãi
Khi dữ liệu về giao dịch thẻ được truyền đến ngân hàng hoặc cơ sở chấp nhận thẻ nộp hóa đơn thanh thanh toán thẻ cho ngân hàng thì tài khoản của cơ sở chấp nhận thẻ đuợc ghi Có ngay. Số tiền này có thể được sử dụng vào mục đích quay vòng vốn ngay hoặc các mục đích khác. Trong khi đó, nếu dùng séc sẽ phải mất một thời gian nhất định mới được thanh toán.
1.2.1.2.3 Đối với ngân hàng
Tăng lợi nhuận cho ngân hàng
Dịch vụ thẻ là một trong số những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, không ngoài mục tiêu lợi nhuận. Khi phát hành và thanh toán thẻ TDQT, ngân hàng thu được những khoản sau: phí từ chủ thẻ (phí phát hành, phí thường niên, phí chậm thanh toán, phí rút tiền mặt, lãi suất cho vay hiện hành, lãi vượt hạn mức tín dụng…) và phí từ cơ sở chấp nhận thẻ.
Thu hút thêm nhiều khách hàng
Trước những tiện ích do thẻ mang lại, cũng như mức thu nhập hiện nay của người dân, nhu cầu về sử dụng thẻ nói riêng, thẻ tín dụng quốc tế nói chung ngày càng cao. Việc cung cấp dịch vụ thẻ TDQT sẽ giúp ngân hàng thu hút nhiều khách hàng, mở rộng thị phần và nâng cao lợi nhuận.
Hạn chế rủi ro cho ngân hàng
Chúng ta đều biết một trong những nguyên tắc để hạn chế rủi ro là “không bỏ trứng vào một giỏ”, nghĩa là ngân hàng phải đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Nếu như ngân hàng chỉ chú trọng vào một hoạt động, những khó khăn, thất bại trong hoạt động đó có thể dẫn đến nguy cơ phá sản của ngân hàng. Dịch vụ thẻ góp phần làm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ của ngân hàng, hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
Mở rộng khả năng hoạt động của ngân hàng trên toàn cầu
Trở thành thành viên của các tổ chức thẻ quốc tế giúp cho mỗi ngân hàng trở nên bình đẳng về khả năng thanh toán với các ngân hàng, tổ chức khác. Đơn giản vì nó đều có khả năng cung cấp cho khách hàng một phương tiện thanh toán thông dụng, tiện ích trên toàn cầu. Hàng ngày, mỗi ngân hàng phải thanh toán giao dịch bằng thẻ với rất nhiều ngân hàng trên thế giới. Nhờ các mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng chỉ phải thực hiện duy nhất một giao dịch thông qua tổ chức thẻ quốc tế Visa để trả tiền cho cá khoản này. Việc phân bổ các ngân hàng có liên quan sẽ do Visa thực hiện. Đây là lợi ích lớn thứ hai đối với ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Tăng sức mạnh thương hiệu cho ngân hàng
Cùng với khoản lợi nhuận không nhỏ thu được từ việc phát hành và thanh toán thẻ, ngân hàng còn tạo dựng và mở rộng uy tín, danh tiếng của mình thông qua kinh doanh loại hình dịch vụ này. Chất lượng dịch vụ thẻ càng cao thể hiện trình độ kĩ thuật, công nghệ càng hiện đại, khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng càng lớn. Đây là một trong những tiêu chí giúp khách hàng đánh giá về ngân hàng trước khi bắt đầu bất cuứ một quan hệ làm ăn nào. Uy tín và danh tiếng là một nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại, phát triển của ngân hàng cũng như khả năng cạnh tranh trong tương lai.
1.2.1.2.4 Đối với xã hội
Thanh toán bằng thẻ góp phần hạn chế việc thanh toán bằng tiền mặt, giảm lượng cung tiền trong lưu thông.
Tiết kiệm chi phí giao dịch
Do thanh toán bằng thẻ chủ yếu dựa trên mạng thanh toán điện tử và các thiết bị kĩ thuật nên nó đã góp phần giảm bớt đáng kể chi phí giao dịch.
Tăng GDP thông qua kích cầu
Do thẻ mang lại nhiều lợi ích, ngày càng nhiều người chi tiêu bằng thẻ. Thẻ đã trở thành công cụ góp phần kích cầu của Chính phủ. Việc tăng cường khuyến khích sử dụng thẻ cũng chính là khuyến khích tăng cầu tiêu dùng, góp phần tăng GDP.
Tạo dựng nền văn minh thanh toán
Thanh toán bằng thẻ đại diện cho một phương thức thanh toán tân tiến, dựa trên công nghệ hiện đại, giảm bớt sự thủ công xưa cũ. Hơn nữa, thẻ TDQT còn là một công cụ liên kết các ngân hàng, các tổ chức trong nước với các ngân hàng, tổ chức quốc tế; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi giúp mỗi quốc gia thu hút nhiều khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài…
1.2.1.3 Rủi ro trong việc sử dụng thẻ TDQT
Cũng như các lọai hình kinh doanh khác, dịch vụ thẻ cũng có rủi ro. Rủi ro trong hoạt động thẻ là các tổn thất vật chất hoặc phi vật chất có liên quan tới hoạt động kinh doanh thẻ. Đối tượng chịu rủi ro là có thể là ngân hàng, chủ thẻ hoặc đơn vị chấp nhận thẻ.
Căn cứ vào quy trình phát hành và thanh toán người ta chia rủi ro thành các nhóm như sau:
1.2.1.3.1 Rủi ro trong phát hành thẻ
Đơn phát hành thẻ với các thông tin giả mạo (Fraudulent Applications)
Khách hàng có thể cung cấp các thông tin giả mạo về bản thân, khả năng tài chính, mức thu nhập… cho ngân hàng phát hành khi yêu cầu phát hành thẻ. Điều đó có thể dẫn đến những tổn thất tín dụng cho ngân hàng phát hành khi chủ thẻ không đủ khả năng thanh toán các khoản tín dụng thẻ hoặc chủ thẻ cố tình lừa đảo để chiếm dụng tiền của ngân hàng.
Thẻ giả (Counterfeit Card)
Thẻ giả là thẻ do các tổ chức hoặc cá nhân làm giả căn cứ vào các thông tin có được từ viêc đánh cắp các dữ liệu trên băng từ của thẻ thật, từ thẻ mất cắp, thất lạc… Đây là loại rủi ro lớn nhất và nguy hiểm nhất hiện nay.
Thẻ giả có một số hình thức phổ biến sau:
Thẻ bị thay đổi thông tin trên thẻ: tội phạm dùng thẻ thật không còn giá trị lưu hành để thay đổi một số thông tin dập nổi trên thẻ như tên chủ thẻ, mã số thẻ, hạn sử dụng…
Thẻ bị mã hóa lại băng từ: tội phạm chỉ mã hóa lại băng từ dựa trên dữ liệu của thẻ thật, nhưng không có các thông tin dập nổi và những đặc điểm bảo mật khác. Loại thẻ này thường được sử dụng tại các đơn vị chấp nhận thẻ thông đồng hoặc các máy bán hàng tự động không được kiểm sóat chặt chẽ.
Thẻ được làm giả hoàn toàn: Dựa trên các thông tin lấy được từ thẻ thật, tội phạm làm ra một chiếc thẻ giả với đầy đủ các yếu tố cần thiết. Loại thẻ giả này thường rất khó phát hiện.
v Thẻ mất cắp, thất lạc (lost – stolen card)
Chủ thẻ bị mất cắp hoặc thất lạc thẻ và thẻ bị một người khác sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo cho Ngân hàng phát hành để ngưng sử dụng hoặc thu hồi thẻ.
Thẻ bị mất cắp, thất lạc cũng bị bọn tội phạm sử dụng để làm thẻ giả.
Cũng có trường hợp chủ thẻ không bị mất thẻ nhưng lại báo mất thẻ với ngân hàng phát hành, sau đó vẫn cố tình sử dụng thẻ cũ.
v Chủ thẻ không nhận được thẻ đã phát hành (Never Received Issue)
Trong trường hợp chủ thẻ không trực tiếp tới ngân hàng phát hành nhận thẻ, thẻ có thể bị đánh cắp trên đường bưu điện. Cũng có thể do chủ thẻ hoặc người được ủy quyền lợi dụng sơ suất của cán bộ ngân hàng phát hành để không kí nhận thẻ, sau đó vẫn sử dụng thẻ và khiếu nại ngân hàng phát hành về việc chưa nhận và sử dụng thẻ.
v Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng (Account Takeover)
Ngân hàng phát hành nhận đuợc yêu cầu thay đổi thông tin của chủ thẻ giả mạo, đặc biệt là thay đổi địa chỉ. Nếu không thẩm định lại thông tin, ngân hàng phát hành sẽ gửi thẻ tới địa chỉ giả mạo này, không đến tay chủ thẻ. Do đó, tài khoản của chủ thẻ bị người khác lợi dụng.
v Rủi ro tín dụng
Đây là loại rủi ro thường gặp đối với thẻ tín dụng quốc tế, mà nguyên nhân hoàn toàn từ phia khách hàng: chủ thẻ cố tình không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng phát hành.
1.2.1.3.2 Rủi ro trong thanh toán thẻ
Đơn vị chấp nhận thẻ lừa đảo, giả mạo
Đơn vị chấp nhận thẻ cung cấp những thông tin không chính xác cho ngân hàng trong qua trình đăng kí, mà ngân hàng không thẩm định lại. Sau đó, đơn vị chấp nhận thẻ thực hiện các giao dịch giả mạo để lấy tiền của ngân hàng. Trong trường hợp này, thông thường ngân hàng chịu những tổn thất khi không thu được những khoản đã tạm ứng cho đơn vị chấp nhận thẻ.
v Đơn vị chấp nhận thẻ thông đồng với chủ thẻ
CPP – Common Purchase Point: đơn vị chấp nhận thẻ lấy cắp dữ liệu thẻ cho tội phạm sử dụng vào mục đích làm thẻ giả hoặc thực hiện các giao dịch giả mạo.
POC – Point Of Compromise: đơn vị chấp nhận thẻ thông đồng với chủ thẻ cố tình chấp nhận thanh toán thẻ giả mạo.
v Thanh toán hàng hóa, dịch vụ bằng thẻ qua thư, điện thoại, fax, internet
Đơn vị chấp nhận thẻ cung cấp hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu đặt hàng qua thư hoặc điện thoại,… cho chủ thẻ giả mạo lấy cắp thông tin của chủ thẻ thật. Ngân hàng phải chịu tổn thất khi chủ thẻ thật từ chối thanh toán cho những giao dịch giả mạo đó.
v Giao dịch thanh toán hơn một lần hoặc thông tin giao dịch trên hóa đơn thanh toán thẻ bị sửa đổi
Chỉ một giao dịch được thực hiện nhưng nhân viên của đơn vị chấp nhận thẻ cố tình in nhiều bộ hóa đơn thanh toán, giả mạo chữ ký của chủ thẻ và yêu cầu ngân hàng thanh toán tạm ứng nhiều lần. Ngoài ra, nhân viên tại đơn vị chấp nhận thẻ còn có thể sửa đổi số tiền giao dịch in trên hóa đơn, ghi tăng giá trị hóa đơn để hưởng phần chênh lệch.
Đây là rủi ro về đạo đức xuất phát từ phía đơn vị chấp nhận thẻ
v Sao chép và tạo băng từ giả (Skimming)
Bọn tội phạm cài đặt các thiết bị đánh cắp thông tin trên băng từ của thẻ. Các thiết bị này được đặt tại các máy thanh toán thẻ, máy rút tiền tự động hoặc được lắp đặt riêng do nhân viên của đơn vị chấp nhận thẻ thông đồng với tội phạm.
v Các đơn vị chấp nhận thẻ có tỷ lệ rủi ro cao ( High Risk Merchant )
Đây là các đơn vị chấp nhận thẻ kinh doanh những mặt hàng có tính thanh khoản cao, ví dụ như vàng bạc đá quý…, là nơi tội phạm thường dùng thẻ giả mạo để thanh toán, sau đó nhanh chóng bán những hàng hóa đó lấy tiền.
1.2.1.3.3 Rủi ro nghiệp vụ
Đây là loại rủi ro phát sinh tại chi nhánh phát hành, chi nhánh thanh toán, ngân hàng và trung tâm thẻ trong việc xử lý các giao dịch, thực hiện quy trình nghiệp vụ hàng ngày.
1.2.1.3.4 Rủi ro kỹ thuật
Đây là rủi ro xuất phát từ trục trặc kỹ thuật tại các hệ thống máy móc, trang thiết bị, đường truyền thông tin… trong quá trình phát hành và thanh toán thẻ. Nhất là với khối lượng giao dịch quá lớn như hiện nay, sự đe dọa của rủi ro này càng lớn.
1.2.2 Nội dung dịch vụ thẻ TDQT trong NHTM
1.2.2.1 Nghiệp vụ phát hành thẻ TDQT
1.2.2.1.1 Nguyên tắc phát hành thẻ TDQT
Khi phát hành thẻ TDQT cần phải căn cứ vàp những quy định hiện hành của tổ chức thẻ quốc tế và luật pháp của nước sở tại. Đồng thời mỗi cơ quan quản lý việc phát hành sẽ có những quy chế riêng đòi hỏi phải tuân thủ trong qua trình phát hành. Cụ thể, thẻ TDQT được phát hành dựa trên cơ sở tín chấp, ký quỹ, thế chấp, và dựa trên khả năng tài chính của khách hàng.
Ngân hàng thương mại muốn được cung ứng dịch vụ thẻ phải thỏa mãn một số yêu cầu như: có năng lực tài chính, đảm bảo hệ thống trang thiết bị đủ tiêu chuẩn, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn, ….
Khi đã có đủ các điều kiện trên, ngân hàng thương mại mới được phép phát hành thẻ theo quy trình chung như sau:
1.2.2.1.2 Quy trình phát hành
Nhận hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ TDQT từ khách hàng
Khi yêu cầu ngân hàng phát hành thẻ TDQT, khách hàng cần phải mang theo giấy tờ tùy thân cân thiết và hoàn tất một số giấy tờ mà ngân hàng đề nghị.
Ngân hàng thẩm định hồ sơ khách hàng
Ngân hàng cần phải thẩm định lại một số thồng tin về tình hình tài chính hay thu nhập của khách hàng, số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, lịch sử tín dụng của khách hàng…. Dựa vào kết quả thẩm định, ngân hàng sẽ quyết định có cấp thẻ TDQT cho khách hàng hay không
Nếu ngân hàng không đồng ý, hồ sơ của khách hàng bị loại bỏ, quy trình nghiệp vụ kết thúc tại đây.
Nếu ngân hàng đồng ý, quy trình được tiếp tục ở bước 3.
Ngân hàng phân loại khách hàng để cấp thẻ
Căn cứ vào tài khoản đảm bảo/ký quỹ hoặc người bảo lãnh và khả năng thanh toán của khách hàng, ngân hàng sẽ cấp hạn mức tín dụng riêng cho khách hàng.
Thông thường có 2 loại hạn mức tín dụng thể hiện qua 2 hạng thẻ như sau:
Thẻ vàng: thường cấp cho khách hàng loại một, tức là các quan chức chính phủ, lãnh đạo các doanh nghiệp có quan hệ tốt với ngân hàng, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức nước ngoài, các cá nhân có thu nhập cao, ổn định.
Thẻ chuẩn: thường cấp cho những khách hàng đại trà, có thu nhập thấp hơn.
4. Trung tâm thẻ lập hồ sơ quản lý thẻ, chuyển cho chi nhánh quản lý thẻ.
5. Giao thẻ cho khách hàng:
Ngân hàng mã hóa các thông tin cá nhân của chủ thẻ trên dải băng từ, dập nổi một số thông tin cần thiết, ấn định mã số cá nhân cho chủ thẻ (PIN) sau đó giao thẻ cho khách hàng. Khách hàng nhận thẻ phải kí tên trên ô chữ ký trên thẻ. Tất cả những thông tin về khách hàng đều được quản lý chặt chẽ tại ngân hàng phát hành.
Quy trình phát hành thẻ có thể khái quát trong sơ đồ sau:
Chủ thẻ
Ngân hàng phát hành thẻ
Trung tâm thẻ
(1)
(5)
(4)
(2),(3)
Sau khi ngân hàng giao thẻ cho khách hàng, khách hàng được gọi là chủ thẻ, ngân hàng được gọi là ngân hàng phát hành. Trong quá trình sử dụng thẻ, chủ thẻ có quyền sử dụng thẻ để rút tiền tại các máy ATM hoặc thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ. Khi ngân hàng phát hành gửi sao kê cho chủ thẻ, chủ thẻ có quyền kiến nghị nếu có thắc mắc. Ngân hàng phát hành phải giải đáp những thắc mắc của chủ thẻ, thanh toán tiền cho ngân hàng thanh toán, các đơn vị chấp nhận thẻ.
Trong trường hợp khách hàng yêu cầu phát hành lại thẻ, ngân hàng cần kiểm tra lại các chi tiết trong hồ sơ khách hàng.Việc in lại thẻ cũng giống như việc in thẻ mới.
Trong trường hợp thẻ của khách hàng hết hạn sử dụng, ngân hàng phát hành sẽ thông báo trước cho chủ thẻ. Nếu chủ thẻ yêu cầu được tiếp tục sử dụng thẻ, ngân hàng sẽ phát hành lại thẻ. Nếu chủ thẻ không có ý kiến gì, việc sử dụng thẻ sẽ mặc nhiên chấm dứt.
Sau khi kết thúc nghiệp vụ phát hành thẻ,ngân hàng phải tiến hành nghiệp vụ thanh toán thẻ vì kể từ lúc này khách hàng sử dụng thẻ trong thanh toán hoặc rút tiền mặt.
1.2.2.2 Nghiệp vụ thanh toán thẻ TDQT
Nghiệp vụ thanh toán thẻ nói chung gồm có các bước sau:
Chủ thẻ rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ
Đơn vị chấp nhận thẻ kiểm tra tính hợp lệ của thẻ, thực hiện giao dịch, lập hóa đơn, giao hàng hoặc thực hiện dịch vụ cho chủ thẻ.
Đơn vị chấp nhận thẻ giao hóa đơn cho ngân hàng thanh toán.
Ngân hàng thanh toán ứng trước tiền cho đơn vị chấp nhận thẻ.
Ngân hàng thanh toán truyền thông tin cho tổ chức thẻ quốc tế.
Tổ chức thẻ quốc tế ghi Có cho ngân hàng thanh toán sau khi nhận được thông tin từ ngân hàng thanh toán.
Tổ chức thẻ quốc tế ghi Nợ cho ngân hàng phát hành.
Ngân hàng phát hành thanh toán nợ cho tổ chức thẻ quốc tế.
Ngân hàng phát hành gửi sao kê cho chủ thẻ.
Chủ thẻ thanh toán nợ cho ngân hàng phát hành.
Quy trình thanh toán thẻ có thể khái quát trong sơ đồ sau:
Ngân hàng phát hành
Tổ chức thẻ quốc tế
ĐVCNT
Ngân hàng thanh toán
Chủ thẻ
(1)
(2)
(9)
(10)
(8)
(5)
(4)
(3)
(6)
(6)
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh thẻ TDQT của NHTM
Bất cứ một hành vi kinh tế nào cũng đều chịu ảnh hưởng của những nhân tố chủ quan và khách quan. Hoạt động kinh doanh thẻ TDQT cũng không nằm ngoài quy luật đó. Những nhân tố chủ quan xuất phát từ chính những chủ thể tham gia vào quá trình phát hành và thanh toán thẻ, những nhân tố khách quan là những yếu tố liên quan đến môi trường kinh doanh. Cụ thể như sau:
1.2.3.1 Nhân tố chủ quan
1.2.3.1.1 Ngân hàng phát hành
Ngân hàng phát hành thẻ TDQT là ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ, là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế.
Trách nhiệm của ngân hàng phát hành:
Thẩm định tính năng pháp lý và khả năng tài chính của khách hàng để ra quyết định có cấp thẻ cho khách hàng hay không.
Sau khi thẩm định, nếu khách hàng đủ điều kiện, ngân hàng tiến hành phát hành thẻ cho khách hàng, đồng thời hướng dẫn khách hàng cách sử dụng thẻ cũng như những quy định cần tuân thủ khi dùng thẻ.
Lập bảng sao kê từng kỳ, ghi rõ các khoản cụ thể đã sử dụng và yêu cầu thanh toán đối với thẻ tín dụng.
Thanh toán ngay số tiền trên hóa đơn do ngân hàng đại lý chuyển đến khi ngân hàng này thực hiện đúng thủ tục do ngân hàng phát hành quy định.
Đăng ký các thẻ vào danh sách đen để báo cho các ngân hàng đại lý và cơ sở tiếp nhận.
Cung cấp các vật dụng dùng vào mục đích quảng cáo thẻ.
Ngoài ra ngân hàng còn có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ 3 là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc phát hành thẻ TDQT.
Ngân hàng phát hành nếu thực hiện tốt vai trò của mình, sẽ thúc đẩy sự gia tăng khách hàng, mạng lưới chấp nhận thẻ. Ngược lại, nếu ngân hàng không thực hiện đúng vai trò của mình, dịch vụ thẻ TDQT sẽ gặp thất bại.
1.2.3.1.2 Ngân hàng thanh toán
Ngân hàng thanh toán thẻ là thành viên chính thức hoặc thành viên liên kết cảu tổ chức thẻ quốc tế, hoặc là các ngân hàng đại lý được ngân hàng phát hành thẻ ủy quyền thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ.
Ngân hàng thanh toán thẻ là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với các đơn vị chấp nhận thẻ và thanh toán các chứng từ giao dịch do đơn vị chấp nhận thẻ xuất trình. Một ngân hàng vừa có thể là ngân hàng phát hành, vừa có thể là ngân hàng thanh toán.
Trách nhiệm của ngân hàng thanh toán:
Trong phạm vi một ngày làm việc kể từ khi nhận được biên lai thanh toán, ngân hàng thanh toán phải trả tiền vào tài khoản của cơ sở chấp nhận thẻ. Khi việc thanh toán đúng quy trình thì phải thanh toán ngay với trung tâm phát hành thẻ.
Cung cấp các máy móc thiết bị, các hóa đơn thanh toán và bảng kê hóa đơn cùng các tài liệu liên quan.
Ngân hàng thanh toán là đơn vị có vai trò quan trọng trong khâu thanh toán, tác động trực tiếp tới việc mở rộng mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ. Do đó, ngân hàng thanh toán thực hiện tốt vai trò của mình sẽ khuyến khí._.ch các đơn vị kinh doanh tham gia mạng lưới chấp nhận thẻ của ngân hàng, góp phần mở rộng dịch vụ. Ngược lại, nếu ngân hàng thanh toán không danh được sự tin tưởng của đơn vị chấp nhận thẻ, quy mô mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ sẽ khó phát triển được.
1.2.3.1.3 Chủ thẻ
Chủ thẻ TDQT là người có tên trên thẻ, đựợc ngân hàng phát hành cho phép sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ thay cho tiền mặt theo hạn mức được cấp, hoặc rút tiền tại các ATM hoặc các ngân hàng đại lý.
Chủ thẻ bao gồm chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Tài khoản thẻ là tài khoản chung cho hai chủ thẻ. Tuy nhiên chủ thẻ chính là người có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng phát hành và chịu trách nhiệm về các khoản phát sinh. Giao dịch của chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ cùng trong một hạn mức tín dụng mà ngân hàng cấp cho chủ thẻ chính. Cuối hàng tháng, sao kê sẽ được gửi cho chủ thẻ chính, ghi rõ tất cả những giao dịch mà chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ đã thực hiện.
Trách nhiệm của chủ thẻ:
Bảo quản thẻ, không được đưa cho người khác sử dụng, tránh bị lợi dụng
Sử dụng thẻ đúng mục đích quy định.
Thanh toán các khoản phát sinh cho ngân hàng phát hành đúng theo quy định.
Báo ngay cho ngân hàng phát hành trong trường hợp thẻ bị mất hoặc đánh cắp.
Chủ thẻ có vai trò quyết định trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Lý do thật đơn giản: chủ thẻ hay khách hàng có quyền quyết định có nên phát hành thẻ hay không. Nếu có, chủ thẻ sẽ có quyền quyết định sẽ chi tiêu như thế nào. Do vậy, việc tạo những tác động tích cực tới chủ thẻ cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ là những yếu tố khiến chủ thẻ có những quyết định mang tính hợp tác với ngân hàng.
1.2.3.1.4 Đơn vị chấp nhận thẻ
Đơn vị chấp nhận thẻ là các tổ chức hay cá nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ chấp nhận thẻ làm công cụ thanh toán. Máy thanh toán thẻ tại các đơn vị chấp nhận thẻ sẽ được ngân hàng hoặc các tổ chức thẻ quốc tế trang bị miễn phí.
Trách nhiệm của cơ sở chấp nhận thẻ:
Chỉ chấp nhận thanh toán các loại thẻ do ngân hàng hay tổ chức thẻ quốc tế quy định.
Chỉ chấp nhận thanh toán những thẻ hợp lệ.
Sau khi thực hiện giao dịch, đơn vị chấp nhận thẻ phải giao lại biên lai thanh toán cho ngân hàng thanh toán để nhận tiền tạm ứng. Ngân hàng sẽ không chịu trách nhiệm cho những rủi ro xảy ra nếu như biên lai không được nộp đúng hạn.
Ngoài ra, đơn vị chấp nhận thẻ phải trưng bày các logo của thẻ TDQT được chấp nhận thanh toán.
Đơn vị chấp nhận thẻ là đơn vị trung gian thanh toán, quan hệ trực tiếp với khách hàng, tác động tới tâm lý khách hàng. Một đơn vị chấp nhận thẻ an tàn, tin cậy, phục vụ tốt sẽ khuyến khích khách hàng chi tiêu, góp phần nâng cao thu nhập cho cả ngân hàng và đơn vị đó.
1.2.3.1.5 Tổ chức thẻ quốc tế
Tổ chức thẻ quốc tế là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng, tham gia vào quá trình phát hành và thanh toán thẻ TDQT. Các tổ chức thẻ quốc tế chỉ có quan hệ trực tiếp với các ngân hàng thành viên. Nó có vai trò cung cấp một mạng lưới viễn thông toàn cầu phục vụ cho quy trình thanh toán, làm trung tâm xử lý cấp phép, thông tin giao dịch thanh toán cho các ngân hàng thành viên. Do vậy, tổ chức thẻ quốc tế có vai trò đi tiên phong, tổ chức việc cung cấp dịch vụ thẻ trên khắp thế giới.
1.2.3.2 Nhân tố khách quan
Môi trường xã hội, pháp lý là nhân tố khách quan có tác động khá lớn tới việc phát hành và thanh toán thẻ TDQT.
Môi trường xã hội là chiếc nôi tất cả các loại dịch vụ, trong đó có dịch vụ thẻ TDQT. Nhu cầu sử dụng thẻ xuất phát từ xã hội, từ dân chúng. Những gì dân chúng cần là những gì ngân hàng nên cung cấp. Nếu nhu người dân của một khu vực không có nhu cầu sử dụng thẻ TDQT thì thị trường thẻ TDQT ở đó sẽ kém phát triển. Ngược lại, nếu người dân nhận thức được những lợi ích từ việc sử dụng thẻ TDQT và có thu nhập ổn định, người ta sẽ ưa thích sử dụng nó và thị trường thẻ ở đó sẽ phát triển rất tốt. Mặt khác, nếu ngân hàng nắm được nhu cầu thanh toán của người dân và có những chính sách phù hợp, ngân hàng đó sẽ thành công trong việc chiếm lĩnh thị trường.
Khác với môi trường xã hội, môi tường pháp lý là hàng rào nghiêm ngặt để bảo vệ cho các chủ thể tham gia vào quy trình phát hành và thanh toán thẻ. Môi trường pháp lý chặt chẽ, đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển dịch vụ của mình. Tuy nhiên, nếu việc quy định về phát hành và thanh toán không được rõ ràng sẽ gây khó dễ cho cả phía cung cấp dịch vụ lẫn những người sử dụng dịch vụ. Lúc đó, pháp luật không những không hoàn thành được nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi bình đẳng cho mỗi chủ thể mà còn gây khó khăn cho công tác triển khai dịch vụ. Do vậy, môi trường pháp lý có vị trí khá quan trọng trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ TDQT. Để phát triển dịch vụ thẻ TDQT đòi hỏi các nhà chức trách hoàn thiện môi trường pháp lý.
Tóm lại, dịch vụ thẻ tín dụng là một loại hình dịch vụ tiên tiến với nhiều lợi ích. Do đó cần phải tìm hiểu sâu hơn, cụ thể hơn để có những phương hướng phát triển đúng đắn.
Chương II
DỊCH VỤ THẺ TDQT TẠI NHNTVN
2.1 Tổng quan về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN)
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của NHNTVN
Ngày 01/04/1963 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) được thành lập theo quyết định số 115/CP ngày 30/10/1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối ngân hàng trung ương (nay là Ngân hàng Nhà nước) hoạt động dưới sự trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với chức năng là ngân hàng duy nhất phục vụ kinh tế đối ngoại và cho vay xuất nhập khẩu cho cả nước.
Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ra nghị định số 53/HĐBT quy định rõ NHNN là cơ quan của HĐBT được tổ chức thành 2 cấp: NHNN là cấp quản lý và các NH chuyên doanh trực thuộc gồm NHNTVN, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngày 14/11/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành chỉ thị số 403/CT chuyển NHNTVN theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của HĐBT thành Ngân hàng thương mại quốc doanh lấy tên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) gọi tắt là Ngân hàng Ngoại thương (NHNT).Với 2 pháp lệnh ngân hàng được ban hành, NHNT từ vai trò độc quyền về kinh doanh ngoại hối chuyển vào môi trường tự do cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác bao gồm cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh.
NHNT là 1 doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty 90,91.Tính đến cuối năm 2004, hệ thống của ngân hàng gồm:
- 26 chi nhánh cấp 1, 41 chi nhánh cấp 2 và 47 phòng giao dịch trên cả nước.
- 1 công ty tài chính và 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài.
- 3 công ty trực thuộc (công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản).
- Góp vốn cổ phần vào 6 doanh nghiệp (2 công ty bảo hiểm, 3 công ty kinh doanh bất động sản, 1 công ty đầu tư kỹ thuật), 7 ngân hàng và 1 quỹ tín dụng.
- Tham gia 4 lên doanh với nước ngoài.
Ngoài ra, NHNT còn có khoảng 1250 ngân hàng đại lý trên 90 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Các thông tin về địa điểm của Ngân hàng như sau:
Trụ sở tổng hàng: 198 Trần Quang Khải, Hà Nội.
Telex: 411209 VCB VT
SWift: BFTVNNVX
Điện tín: VIETCOMBANK
Website: www.vietcombank.com.vn
Văn phòng: 198 Trần Quang Khải, Hà Nội.
Tel: 84-4-8251322/8240876
Fax: 84-4-8269067
Phòng quan hệ ngân hàng đại lý: Tầng 9, 198 Trần Quang Khải, Hà Nội.
Tel: 84-4-8249748/8259859
Fax: 84-4-8265548
Sở giao dịch: 198 Trần Quang Khải, Hà Nội.
Tel: 198 Trần Quang Khải, Hà Nội.
Tel: 84-4-9343137
F ax: 84-4-8241395
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của NHNTVN
P.QL đề án công nghệ
P.thông tin tín dụng
Văn phòng
Hội đồng quản trị
Ban Tổng giám đốc
ALCO
Ban kiểm soát
Hội đồng tín dụng
TRỤ SỞ CHÍNH
P.kiểm tra nội bộ
P.kinh doanh ngoại tệ
P.quan hệ NH đại lý
P.TC cán bộ& đào tạo
P.quan hệ khách hàng
P.vốn
P.kế toán tài chính
P.quản lí thẻ
Trung tâm thanh toán
P.TT tuyên truyền
P.pháp chế
P.QL xây dựng cơ bản
P.quản trị
P.tổng hợp thanh toán
P.kế toán vốn
P.tổng hợp & PT kinh tế
P.quản lý tín dụng
P. đầu tư dự án
P.quản lí vốn LD CP
P.kế toán quốc tế
P.công nợ
Trung tâm tin học
MẠNG LƯỚI TRONG NƯỚC
MẠNG LƯỚI NGOÀI NƯỚC
Sở giao dịch
Chi nhánh
Công ty con
VP đại diện tại Paris. Moscow, Singapore
Công ty tài chính Việt Nam tại HongKong
Chức năng, nghiệp vụ của một số phòng ban:
Phòng bảo lãnh: Trực thuộc sở giao dịch, thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh, thẩm định các phương án kinh doanh của khách hàng bảo lãnh, hạch toán kinh tế các nghiệp vụ bảo lãnh , thẩm định, định giá các tài sản thế chấp cầm cố, phong toả tài sản và các nghiệp vụ khác.
Phòng đầu tư dự án: thuộc khối Tín dụng, có chức năng cấp tín dụng trung và dài hạn cho khách hàng, thực hiện cho vay hợp vốn bằng VND và ngoại tệ, thẩm định dự án, theo dõi thu nợ,thẩm định tình hình tài chính và phi tài chính của khách hàng.
Phòng kế toán giao dịch: thực hiện mở và quản lý tài khoản tiền gửi, tiền vay của khách hàng là tổ chức, thực hiện nhiệm vụ thanh toán qua Uỷ nhiêm thu, Uỷ nhiệm chi, Nhờ thu, Swift, Telex, chuyển tiền điện tử, Séc chuyển tiền, séc bảo chi...; thực hiện thu chi bằng tiền mặt, séc lĩnh tiền mặt bằng VND từ tài khoản tiền gửi của khách hàng theo yêu cầu của khách hàng; thực hiện thu lãi tiền gửi và trả lãi tiền vay.
Phòng hối đoái: chủ yếu phục vụ cho các khách hàng cá nhân, thự hiện chức năng quản lý hội sở, thực hiện các nghiệp vụ có liên quan đến tiền gửi, tiền vay của khách hàng cá nhân; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến kiều hối ngoại tệ, chuyển tiền ra nước ngoài.
Phòng thanh toán nhập khẩu: thực hiện thanh toán quốc tế hàng mậu dịch và đối ngoại liên quan đến hàng nhập khẩu, theo dõi tài khoản liên quan đến nghiệp vụ này.
Phòng thanh toán xuất khẩu: thực hiện thanh toán quốc tế hàng mậu dịch và đối ngoại liên quan đến hàng xuất khẩu, theo dõi tài khoản liên quan đến nghiệp vụ này.
Phòng thẻ: trực thuộc phòng giao dịch, có chức năng phát hành và thanh toán các loại thẻ quốc tế và thẻ của NHNT. Trung tâm thẻ gồm 4 bộ phận: bộ phận phát hành thẻ quốc tế, bộ phận phát hành thẻ ATM, bộ phận thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, bộ phận khách hàng.
Phòng tín dụng ngắn hạn: Triển khai nghiệp vụ cho vay đối với các phương án kinh doanh của khách hàng là tổ chức.
Phòng tín dụng trả góp và tiêu dùng: Thực hiện cho vay trả góp và cho vay tiêu dùng đối với các khách hàng chủ yếu là thể nhân.
Phòng vay nợ viện trợ: thực hiện các nghiệp vụ thanh toán viện trợ cho các khoản vay ODA, quản lý vốn vay , trả nợ nước ngoài bằng vốn ODA.
2.1.3 Tình hình hoạt động tại NHNTVN những năm gần đây
2.1.3.1 Năm 2003
Nhìn chung, trong năm 2003,NHNT đã thận trọng hơn khi xem xét cho vay, vì vậy làm giảm áp lực cho công tác huy động vốn, lãi suất VND đã chững lại và có xu hướng giảm. Tuy nhiên, lãi suất vốn trên thị trường quốc tế vẫn ở mức thấp nên việc huy động vốn ngoại tệ còn khó khăn.Trong năm 2003, công tác quản lý vốn đã và đang không ngừng được tăng cường về chất và lượng. Ngoài ra, trong năm 2003 NHNT đã tích cực triển khai hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ cao, định hướng kinh doanh rõ ràng, được quán triệt trong toàn hệ thống nên đã thu được kết quả hoạt động kinh doanh đáng khích lệ. Cụ thể như sau:
Hoạt động huy động vốn:
Vốn vay
Tính đến 31/12/2003, tổng vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đạt 97.320 tỷ quy đồng Việt Nam, tăng 19.42% so với năm 2002, vượt kế hoạch 8% và chiếm 20,3 % vốn huy động toàn ngành ngân hàng. Nguồn vốn vay bằng VND có tốc độ tăng trưởng mạnh (67%), đạt 30.802 tỷ VND, chiếm 43% tổng vốn so với 33% năm 2002. Ngược lại, vốn ngoại tệ chỉ tăng 8% so với năm 2002, đạt 41.007 tỷ VND.
Sở dĩ vốn ngoại tệ tăng trưởng chậm là do 3 nguyên nhân:
- lãi suất ngoại tệ tiếp tục duy trì ở mức thấp làm giảm nguồn vốn huy động từ dân cư
- nhập siêu của nền kinh tế còn cao.
- cạnh tranh lãi suất huy động vốn gay gắt giữa các ngân hàng thương mại
Vốn vay có kì hạn đạt 36.807 VND, chiểm 51% tổng nguồn vốn vay, tăng 20% so với năm 2002. Tuy nhiên vốn trung và dài hạn chỉ là 3.496 tỷ quy đồng Việt Nam, chiếm 9,5% nguồn vốn vay có kì hạn và 5% tổng nguồn vốn huy động được.Vấn đề thiếu vốn trung và dài hạn đang là một thách thức đối với NHNT cũng như các ngân hàng thương mại khác trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng mạnh, nhu cầu về vốn trung dài hạn cao.
Vốn chủ sở hữu
Tính đến thời điểm xây dựng Đề án tái cơ cấu vốn, vốn chủ sở hữu của NHNT là 1.839 tỷ VND. Kể từ khi thực hiện đề án đến nay, NHNT đã được chính phủ cấp thêm 1.400 ty VND vốn điều lệ dưới dạng trái phiếu đặc biệt (năm 2002: 1000 tỷ VND, năm 2003: 400 tỷ VND).
Phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận tăng thêm để lại cho NHNT đã được Chính phủ đồng ý và bắt đầu thí điểm trong 3 năm kể từ năm 2003. Phương án này mở ra cho NHNT một hướng đi mới cho việc phát triển tiềm năng vốn của Ngân hàng, nhưng cũng là thách thức lớn đòi hỏi NHNT phải nỗ lực kinh doanh, đạt lợi nhuân cao hơn nữa để đẩy nhanh tốc độ tăng vốn điều lệ.
Cho đến cuối năm 2003, vốn chủ sở hữu của NHNT (bao gồm cả nguồn vốn NH tự bổ sung) đạt gần 5.735 tỷ VND, tăng 30% so với năm 2002. Hệ số an toàn vốn được cải thiện hơn so với thời điểm trước khi thực hiện đề án.
Hoạt động tín dụng
Cùng với việc tăng trưởng tín dụng, trong năm 2003 NHNT đã áp dụng và hoàn thiện các giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng, tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát tín dụng ở cả Trung ưong và chi nhánh.
Tính đến 31/12/2003, tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống NHNTVN là 39.269 tỷ VND, tăng 35,2% so với năm 2002, vượt kế hoạch tăng trưởng đề ra từ đầu năm (27,1%). Tỷ trọng dư nợ ngoại tệ chiếm 46,5% tăng 47,4%. Dư nợ bằng đồng VND tăng 23,8% so với năm 2002.sự thay đổi này phù hợp với cơ cấu nguồn vốn của NHNT và tăng hiệu quả sử dụng vốn khi lãi suất tiền gửi ở nước ngoài còn ở mức thấp. Dư nợ ngắn hạn tính đến 31/12/2003 đạt 21,772 tỷ VND, chiếm tỷ trọng khá cao (55%) trong tổng dư nợ, tăng 37,2% so với năm 2002.
Dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 17.485 tỷ VND, chiếm 45% tổng dư nợ, tăng 41% so với năm trước, chủ yếu do giả ngân các dự án đã kí trước đây của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty điện lực Việt Nam, các dự án cơ sở hạ tầng và cho vay mới nhà máy xi măng Chinfon.
Với nhiều biện pháp xử lí nợ tồn đọng, tính tới cuối năm 2003, nợ quá hạn đối với các khoản vay hiện hành chỉ chiếm 2,2% tổng dư nợ, so với 2,8% năm 2002 và mức trung bình của ngành ngân hàng. Nợ quá hạn tồn đọng về cơ bản đã được xử lí, giảm từ 1.035 tỷ năm 2002 xuống 372 tỷ năm 2003.
Hoạt động thanh toán quốc tế
Đây vẫn tiếp tục là một thế mạnh của NHNT với doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2003 đạt gần 12,5 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2002, chiếm 28% thị phần thanh toán xuất nhập khẩu của cả nước.
Doanh số thanh toán xuất khẩu trong năm 2003 đạt 5.692 triệu USD, tăng 32,8% so với năm 2002 và chiếm 28,6% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của cả nước. Doanh số thanh toán nhập khẩu đạt 6.756 triệu USD, tăng 21,9% so với năm 2002, chiếm 27% kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước.
Doanh số thanh toán thu và chi phi mậu dịch qua NHNT trong năm 2003 đạt 4.143 triệu USD, tăng 21% so với năm 2002. Doanh số thu đạt 2.812 triệu USD, tăng 23%, trong đó doanh số thu tiền kiều hối đạt 400 triệu USD, tăng 29,5%. Doanh số chi là 1.331 triệu USD, tăng 16,9%.
Trong năm 2003, doanh số mua bán ngoại tệ đạt 10,052 tỷ USD, tăng 1,258 tỷ USD hay 14,3% so với năm ngoái. Lượng ngoại tệ NHNT mua vào tăng 13,2% và bán ra tăng 15,4% so với năm 2002. Doanh số mua bán ngoại tệ với nước ngoài giảm 29,4% so với năm 2002, do tỷ giá hối đoái trên thị trường quốc tế có nhiều biến động bất thường do sự mất giá của USD đối với EUR và JPY và sự tăng cường quản lý rủi ro của NHNT nhằm hạn chế rủi ro tới mức tối thiểu.
Phát triển sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại
Trong những năm qua, nền tảng công nghệ của NHNT đã không ngừng được củng cố và phát triển. Hệ thống thanh toán quốc tế Swift và hệ thống thẻ tín dụng bắt đầu được triển khai vào đầu những năm 90 của thế kỉ trước, sản phẩm ngân hàng lõi VCB Vision 2010 dược chính thức đưa vào sử dụng trong toàn hệ thống vào năm 2001, dịch vụ ngân hàng trực tuyến VCB Online, hệ thống thẻ ghi nợ VCB Connect 24 được đưa vào năm 2002.
Năm 2003, NHNT tiếp tục phát triển nền tảng công nghệ của mình bằng việc tiếp tục triển khai dự án Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng thế giới tài trợ.Dự án này đã hoàn tất quá trình kết nối các sản phẩm, dịch vụ của NHNT thành 1 hệ thống tích hợp cung cấp cho khách hàng các sản phẩm ngân hàng hiện đại với chất lượng cao nhất, đồng thời cung cấp các công cụ quản trị tiên tiến cho sự phát triển bền vững của ngân hàng.
Dựa trên nền tảng này, NHNT đã không ngừng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu câu ngày càng cao của khách hàng và nâng cao tính cạnh tranh của mình trên thị trường.
Tính đến hết năm 2003, NHNT đã phát hành được 123.964 thẻ VCB Connect 24, tăng 4 lần so với năm 2002, nâng tổng số thẻ lên 153.313 thẻ, đồng thời phát hành được 9.832 thẻ VCB Visa và VCB Master, tăng 28% so với năm 2002. Riêng thẻ VCB Amex, tuy mới chỉ bắt đầu phát hành trong năm 2003 nhưng đã thu được kết quả khá khả quan, đạt 1.044 thẻ. Ngân hàng cũng kí liên minh thẻ với 11 NHTM hoạt động tại Việt Nam sử dụng hệ thống máy ATM, nhằm kết nối hệ thống ATM giữa các ngân hàng mở rộng tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng, tăng hiệu quả kinh tế cho các ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi phí đầu tư cho toàn xã hội.
Tổng doanh số thanh toán các loại thẻ quốc tế của ngân hàng đạt 150 triệu USD, tăng 38% so với năm 2002. NHNT chiếm 50% thị phần thanh toán thẻ và 40% thị phần thanh toán thẻ quốc tế. Trong năm 2003, NHNT được tổ chức thẻ quốc tế VISA trao giải Ngân hàng đứng đầu thị trường 2003.
Sản phẩm ngân hàng tại nhà - dịch vụ VCB Money hiện đang được cung cấp cho hầu hết các tổ chức tín dụng trong nước và một số doanh nghiệp lớn như công ty bảo hiểm Việt Nam, Vietnam Airlines, và đang tiếp tục được gia tăng tiện ích.
Ngoài các sản phẩm đặc trưng trên, năm 2003, NHNT liên tục đưa thêm một loạt sản phẩm phái sinh khác mang nhiều tiện ích cho khách hàng như sản phẩm thương mại điện tử V-CBP đầu tiên trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam, chính thức được bưu điện thành phố Hồ Chí Minh sử dụng từ tháng 8/2003, cho phép khách hàng thanh toán hoá đơn tiền điện thoại qua hệ thống ATM được lắp đặt khắp nơi trên toàn quốc với tính năng vượt trội, hoạt động 24/24 giờ.
Phát triển mạng lưới
Trong năm 2003, thực hiện đề tài tái cơ cấu, NHNT đã tích cực mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch, phát triển các công ty. Kết quả đạt được như sau: NHNT đã chính thức khai trương chi nhánh Hải Dương, hoàn tất thủ tục thành lập chi nhánh Bắc Ninh, 10 chi nhánh cấp 2 và 9 phòng giao dịch tại các địa bàn có tiềm năng phát triển kinh tế. Năm 2003, toàn hệ thống có 25 chi nhánh cấp 1, 26 chi nhánh cấp 2 và 35 phòng giao dịch. Dự định trong thời gian tiếp theo ngân hàng sẽ lập thêm 5 chi nhánh cấp 2 và mở văn phòng đại diện tại Mỹ, thành lập công ty chuyển tiền tại Mỹ và chi nhánh tại Singapore.
Tăng cường năng lực điều hành và quản lý ngân hàng
Đây là vấn đề được NHNT chú trọng, thông qua việc kí kết hợp đồng tư vấn Dự án hỗ trợ liên kết kĩ thuật cơ cấu lại ngân hàng với NHNN và Liên doanh tư vấn ING và Price waterhouse Coopers để xây dựng lại bộ máy tổ chức, phát triển và đa dạng hoá sản phẩm và hoạt động, ứng dụng công nghệ tiên tiến. Đến năm 2003, ngân hàng đã xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh mới, cơ cấu lại mô hình tổ chức theo định hướng khách hàng và phân cấp quản lý theo khối. Đồng thời ngân hàng cũng chú trọng công tác điều hành lãi suất, quản trị thanh khoản và ban hành, sử đổi nhiều văn bản trong lính vực tín dụng, hoàn thành việc xây dựng sổ tay tín dụng và đưa vào sử dụng trong quý I/2004.
2.1.3.2 Năm 2004
Hoạt động huy động vốn:
Vốn vay:
Năm 2004, tổng vốn vay của ngân hàng đạt mức 110.142 tỷ quy đồng, tăng 24,53% so với năm 2003, cao hơn mức tăng của toàn ngành là 18,9%.
Vốn huy động trên thị trường II đạt 22,662 tỷ quy đồng, tăng 58,7% so với năm 2003. Nguồn huy động từ ngân sách Nhà nước và NHNN chiếm 44,7% trong vốn huy động trên thị trường II, so với năm 2003 là 47,3%. Tỷ lệ giữa tiền gửi và vay từ các tổ chức tín dụng khác khá cân bằng 52/48.
Huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế của ngân hàng có tốc độ tăng 18,8%, đạt 85,341 tỷ quy đồng. Cơ cấu vốn huy động từ dân cư so với từ tổ chức kinh tế trong 2 năm 2003-2004 khá ổn định, 42%/58% năm 2004so với 43%/57% năm 2003. Bên cạnh đó, vốn huy động bằng ngoại tệ vẫn tiếp tục chiếm ưu thế, thể hiện ở 59% năm 2004 so với 57% năm 2003.
Năm 2004, ngân hàng tiếp tục phát hành giấy tờ có giá bao gồm kì phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi với nhiều kì hạn đa dạng và các ưu đãi hấp dẫn.
NHNT đã chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở cung, cầu vốn thị trường, đồng thời phát triển nhiều công cụ huy động vốn mới, nhằm đối phó với những biến động thị trường, đặc biệt là đối với USD.
Vốn điều lệ và các quỹ
Với mục tiêu phấn đấu đạt mức chuẩn quốc tế về tỷ lệ an toàn vốn, cung 800 tỷ vốn điều lệ được Chính phủ cấp bổ sung, NHNT đã tích cực tự bổ sung vốn bằng nguồn lợi nhuận để lại. Đến năm 31/12/2004 vốn điều lệ và các quỹ của NHNT đạt 5120 tỷ quy đồng, tăng 47,2 so với năm trước. Tốc độ tăng vốn điều lệ và các quỹ cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của tổng vốn, đẩy hệ số an toàn vốn của ngân hàng từ trên 2,7% cuối năm 2000 lên tới 7% cuối năm 2004.
Năm 2004, Uỷ ban quản lý tài sản Nợ - Có (ALCO) đã hoạt động tích cực, chính thức triển khai quản trị thanh khoản dựa trên hệ thống thông số an toàn. Các cải tiến trong công tác quản trị vốn đang góp phần quan trọng nâng cao hệ số sử dụng vốn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động tín dụng
Năm 2004, NHNT đã áp dụng nhiều biện pháp trong quản trị rủi ro tín dụng, góp phần thực hiện thành công chính sách tín dụng của năm 2004: "Củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng". Trước tiên phải kể đến là việc chính thức đưa hệ thống tính điểm và xếp hạng doanh nghiệp, hệ thống chấm điểm xếp hạng tổ chức tín dụng vào áp dụng trên toàn hệ thống.
Đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức trên thị trường, NHNT đã có những bước chuyển hướng phù hợp trong chính sách tín dụng, đồng thời xác định tỷ trọng đầu tư tối đa vào một số ngành kinh tế nhằm phân tán rủi ro.
Chính sách tín dụng cũng được chú trọng theo khu vực kinh tế và nhóm khách hàng, cụ thể đó là địa bàn Tp.Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Đông Nam Bộ và các nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Năm 2004, NHNT tăng cường công tác kiểm tra chất lượng tín dụng, tăng tính minh bạch, kiểm soát chặt việc gia hạn nợ, cơ cấu lại nợ nhằm chuẩn bị tiền đề cho việc triển khai phân loại nợ theo tiêu chuẩn quốc tế vào năm 2005.
Tính đến 31/12/2004, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 51.773 tỷ quy đồng, tăng 30,64% so với năm 2003, vượt mức tăng trưởng kế hoạch (27,2%). Tổng nợ quá hạn đến cuối năm 2004 là 1.451 tỷ quy đồng, chiếm tỷ trọng 2,8% trong tổng dư nợ - chạm mức chỉ tiêu khống chế đặt ra từ đầu năm là 2,8%.
Hoạt động thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế vẫn là một thế mạnh của NHNT. Trong năm 2004, thanh toán xuất nhập khẩu thực hiện qua NHNT chiếm 28,5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua NHNT đạt 16,4 tỷ USD, tăng 32,3% so với năm trước. Doanh số thanh toán xuất khẩu qua NHNT năm 2004 đạt 6.967 triệu USD, tăng 22,4% so với năm 2003, chiếm 26,7% thị phần của cả nước. Doanh số thanh toán nhập khẩu năm 2004 đạt 9.409 triệu USD, tăng 39,3% so với năm 2003 và chiếm 29,9% thị trường cả nước. Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu diễn ra mạnh nhất tại các chi nhánh nằm trong khu kinh tế phát triển của cả nước như: Hội sở chính, chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh, chi nhánh Vũng Tàu, Chi nhánh Hải Phòng.
Hoạt động kinh doanh ngọai tệ của NHNT năm 2004 cũng có nhiều khởi sắc. Đối với các giao dịch trong nước, NHNT đạt tổng doanh số mua bán là 13.601 triệu USD, tăng 36,3% so với năm 2003, lượng mua vào và bán ra tương đối cân bằng. Lượng ngoại tệ mua vào của ngân hàng chủ yếu từ các tổ chức kinh tế thanh toán nhập khẩu, chiếm 99,5%. Đối với các giao dịch kinh doanh với nước ngoài, nhu cầu khách hàng tăng cao cùng với việc áp dụng rộng rãi các hình thức mua bán ngoại tệ đa dạng giúp mảng kinh doanh này có tốc độ tăng trưởng trên 130% đạt 7.047 triệu USD.
Công nghệ và sản phẩm mới
Năm 2004 NHNT tiếp tục triển khai giai đoạn II của đề án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán.
Dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, ngân hàng đã xây dựng được nhiều sản phẩm dịch vụ mới với các tiện ích gia tăng nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, mở rộng và tăng cường công tác quản trị kinh doanh trong nội bộ ngân hàng.
Dịch vụ thẻ phát triển với tốc nhanh, thu hút hơn nửa triệu khách hàng cá nhân và hàng chục nghìn khách hàng mới mỗi tháng. Năm 2004, NHNT đã kết nối thành công mạng ATM với 6 ngân hàng thương mại cổ phần, 1 ngân hàng liên doanh; kết nối và triển khai ATM với POS với ngân hàng ngoại thương Lào.
Tính đến cuối năm 2004, số máy ATM mà NHNT đã triển khai lên tới 400 máy, đưa doanh số hoạt động đạt 8.800 tỷ VND, mỗi ngày hệ thống ATM xử lý hơn 100 nghìn giao dịch. Tổn doanh số thanh toán thẻ năm 2004 là 231,7 triệu USD (3.658 tỷ VND), tăng hơn 57% so với năm 2003. Riêng doanh số hoạt động thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành đạt 645 tỷ VND, tăng 60% so với năm 2003.
2.1.3.3 Năm 2005
Năm 2005 là một năm với nhiều thành công của NHNT.
Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng đã huy động được 1365 tỷ đồng từ việc bán trái phiếu chỉ trong thời gian cực ngắn. Ngân hàng đạt danh hiệu ngân hàng có “trái phiếu bán chạy nhất” trên thị trường tài chính Việt Nam chỉ với mức lãi suất 6%/năm, thấp hơn rất nhiều so với lãi suất 9%/năm của trái phiếu Chính phủ. Sự kiện này khẳng định uy tín và thương hiệu của NHNT trên thị trường tài chính trong nước.
Cơ cấu tổ chức
Năm 2005 là năm kết thúc thời gian thực hiện đề án tái cơ cấu NHNT, được Chính phủ phê duyệt. Ngày 21 tháng 9 năm 2005, thủ tướng chính phủ ký quyết định số 230/2005/QĐ-Ttg về việc thí điểm cổ phần hoá NHNTVN. Cùng với việc cổ phần hóa là sự thay đổi lớn về cơ cấu tổ chức: NHNT đã thực hiện thanh công tách sở giao dịch ra khỏi hội sở chính; thành lập công ty ký quỹ VCB.
Công nghệ, sản phẩm
NHNT đã tiến hành áp dụng chuẩn mực quốc tế vào hoạt động tín dụng. Trong năm này, NHNT là ngân hàng duy nhất được nhận giải Sao Khuê. Đây là giải thưởng về công nghệ uy tín nhất trong năm do hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam tổ chức.
Năm 2005 cũng là năm kỷ lục của NHNT với hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Tính đến cuối năm 205, NHNT đã có gần 1 triệu khách hàng sử dụng thẻ ghi nợ nội địa Connect24. Thẻ tín dụng quốc tế cũng đạt mức doanh số thanh toán kỷ lục: hơn 300 triệu USD. Đây là những con số rất đáng tự hào của NHNT.
2.2 Thực trạng dịch vụ thẻ TDQT tại NHNTVN
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ TDQT của NHNT phải phù hợp với các quy định của quy chế phát hành sử dụng và thanh toán thẻ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành theo quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ban hành ngày 19/10/1999, hợp đồng kí kết giữa NHNT với các tổ chức thẻ quốc tế, các quy định và luật lệ hiện hành của tổ chức thẻ quốc tế và luật pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiện nay, NHNT đã phát hành được 3 loại thẻ TDQT là Visa Card, Master Card, American Express (Amex) với thời hạn hiệu lực từ 1 đến 5 năm, và nhận thanh toán 5 loại thẻ TDQT là Visa Card, Master Card, Amex, JCB, Diners Club.
2.2.1 Tình hình phát hành thẻ TDQT
2.2.1.1 Các loại thẻ, hạng thẻ TDQT do NHNT phát hành
Các loại thẻ TDQT
Thẻ cá nhân: được phát hành cho các cá nhân có nhu cầu và có đủ điều kiện phát hành thẻ. Chủ thẻ chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ phát sinh từ thẻ. Thẻ cá nhân gồm 2 loại: thẻ chính và thẻ phụ.
- Thẻ chính: do cá nhân đứng tên xin phát hành cho chính mình sử dụng. Cá nhân đó được gọi là chủ thẻ chính.
- Thẻ phụ: do cá nhân chính đứng tên xin phát hành cho người khác sử dụng, gọi là chủ thẻ phụ.
Thẻ cá nhân do công ty ủy quyền sử dụng: do một tổ chức, một công ty đứng tên xin phát hành thẻ và ủy quyền cho cá nhân thuộc tổ chức, công ty đó sử dụng thẻ. Tổ chức, công ty xin phát hành có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ phát sinh từ thẻ bằng nguồn tiền của tổ chức, công ty đó. Tổ chức, công ty đó phải nêu rõ việc ủy quyền này trong đơn xin phát hành thẻ. Cá nhân đuợc ủy quyền sử dụng thẻ không được quyền phát hành thẻ phụ.
Các hạng thẻ TDQT
Hạng của thẻ TDQT được xác định bằng hạn mức tín dụng của thẻ và các dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà chủ thẻ được phép sử dụng trong một kì sao kê.
Thẻ vàng:
Visa và Master Card: 90 triệu VND
Amex : 250 triệu VND
Thẻ chuẩn (thẻ xanh)
Visa và Master Card: 50 triệu VND
Amex : 100 triệu VND
Tương ứng với từng hạn mức tín dụng, ngân hàng quy định hạn mức ứng tiền mặt cho từng loại thẻ. Cụ thể như sau:
Thẻ Visa và Master: hạn mức ứng tiền mặt là 50% hạn mức tín dụng
Thẻ Amex: hạn mức ứng tiền mặt là 75% hạn mức tín dụng
Biểu phí tương ứng cho mỗi hạng thẻ như sau:
Loại phí
Master và Visa Card
American Express
Phí phát hành
Phí thường niên
-Thẻ vàng:
Thẻ chính: 200.000VND
Thẻ phụ: 100.000VND
-Thẻ chuẩn:
Thẻ chính: 100.000VND
Thẻ phụ: 50.000VND
-Thẻ vàng:
Thẻ chính: 600.000VND
Thẻ phụ: 500.000VND
-Thẻ chuẩn:
Thẻ chính: 400.000VND
Thẻ phụ: 300.000VND
Phí thay thế thẻ khẩn cấp
100.000VND/lần
Phí ứng tiền mặt khẩn cấp
(Áp dụng tại nước ngoài)
8USD/lần
Phí thông báo thẻ mất cắp, thất lạc
50.000VND/lần/thẻ
200.000VND/lần/thẻ
Phí cấp lại thẻ
50.000VND/thẻ
Phí vượt hạn mức tín dụng
-Vượt quá hạn mức từ 1 đến 5 ngày: 8%/năm (số tiền vượt hạn mức)
- Vượt từ 6 đến 15 ngày: 10%/năm (số tiền vượt quá hạn mức)
- Vượt trên 15 ngày: 15%/năm (số tiền vượt quá hạn mức)
Phí tra soát
50.000VND/lần
Lãi phạt chậm thanh toán
Phí phạt chậm thanh toán
3% số tiền chậm thanh toán, tối thiểu: 50.000VND
Phí thay đổi hạn mức tín dụng
30.000VND/giao dịch
Phí rút tiền mặt
4% số tiền giao dịch. Tối thiểu: 50.000 VND
Phí sử dụng thẻ ngo._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32403.doc