LỜI CẢM ƠN
ab
Chuyên đề này được thực hiện dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Lê Đức Lữ cũng như Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ nhân viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội. Tuy nhiên, do kiến thức còn nhiều hạn chế nên chuyên đề còn có những thiếu sót. Vì thế, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và tập thể cán bộ nhân viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 4 năm 2007
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTMCPQĐ: N
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gân hàng Thương mại cổ phần Quân đội
KHDN: Khách hàng doanh nghiệp
KHCN: Khách hàng cá nhân
Cvtd: Cho vay tiêu dùng
Cvk: Cho vay khác
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
1. BẢNG
Bảng 2.1: Quy mô vốn điều lệ của NHTMCPQĐ qua các năm 34
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu tổng hợp qua các năm 42
Bảng 2.3: Cách thức chấm điểm khách hàng cá nhân tại NHTMCPQĐ 54
Bảng 2.4: Các bước xếp hạng tín dụng cá nhân tại NHTMCPQĐ 56
Bảng 2.5: Tình hình cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ
thời kỳ 2004 - 2006 59
Bảng 2.6: Tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay tại NHTMCPQĐ giai đoạn 2004 – 2006 61
Bảng2. 7: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo sản phẩm tại NHTMCPQĐ thời kỳ 2004 - 2006 64
Bảng 2.8: Thu từ lãi của hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ giai đoạn 2004 - 2006 68
Bảng 2.9: Mức thu lãi trên một đồng vốn cho vay tại NHTMCPQĐ thời kỳ 2004 – 2006 69
2. BIỀU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tổng vốn huy động của NHTMCPQĐ trong một vài năm 35
Biểu đồ 2.2: Tổng dư nợ của NHTMCPQĐ qua các năm 36
Biểu đồ 2.3: Lợi nhuận trước thuế của NHTMCPQĐ thời gian qua 41
Biểu đồ 2.4: Tăng trưởng dư nợ & doanh số cho vay tiêu dùng của NHTMCPQĐ trong 3 năm gần đây 60
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, với nền kinh tế tăng trưởng mạnh, cùng chính sách đẩy mạnh kích cầu đã góp phần quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Cũng chính vì vậy mà các Ngân hàng không ngừng nỗ lực thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính bậc nhất, là trụ cột của nền kinh tế, đang tích cực phát triển các hoạt động của mình, tung ra rất nhiều sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu thực tế. Trong đó, mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng đang được nhiều Ngân hàng thương mại sử dụng như một công cụ hữu hiệu.
Cùng với xu thế phát triển chung đó, Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội không chỉ dừng lại phục vụ các khách hàng doanh nghiệp truyền thống mà ngày càng mở rộng quan hệ kinh doanh với những khách hàng các nhân. Vì vậy, NHTMCPQĐ đã nghiên cứu và triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng bắt đầu từ năm 2001. Trải qua hơn 5 năm, hoạt động này đã đạt được sự tăng trưởng ổn định và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng cá nhân nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay cho vay tiêu dùng vẫn chưa được mở rộng tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng. Từ thực tế trên, sau một thời gian thực tập tại NHTMCPQĐ với mong muốn phát triển hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, em xin chọn đề tài: “Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội” làm đề tài cho báo cáo chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề gồm 3 nội dung chính:
Chương một: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng
Chương hai: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ
Chương ba: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
1.1. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1.Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Giữa Ngân hàng thương mại và nền kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, nền kinh tế phát triển là điều kiện cho sự phát triển của Ngân hàng, và chính sự phát triển thành hệ thống của Ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Hiện nay, có rất nhiều cách tiếp cận để xem xét Ngân hàng dựa trên các phương diện khác nhau.
Nếu dựa vào những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, chúng ta có thể hiểu Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Còn Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lại xem xét Ngân hàng trên các hoạt động chủ yếu: “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Như vậy, Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Hiện nay, có rất nhiều tổ chức tài chính khác như công ty chứng khoán, quỹ tương hỗ, quỹ đầu tư… đang nỗ lực cố gắng cung cấp các dịch vụ của Ngân hàng. Cho nên các Ngân hàng cũng phải mở rộng phạm vi hoạt động của mình, phát triển các dịch vụ mới để đối phó với các đối thủ cạnh tranh này.
1.1.2.Những hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Với cách phân loại theo hình thức cấp tín dụng thì hoạt động của Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ cơ bản như sau: chiết khấu, cho vay, cho thuê tài sản, bảo lãnh.
Theo Luật các tổ chức tín dụng, chiết khấu được hiểu là “việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán”. Đây là nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa Ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại Ngân hàng Nhà nước dể đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
Nghiệp vụ cho vay chính là một trong những hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Ở nghiệp vụ này có rất nhiều hình thức khác nhau như: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp. Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Còn cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của Ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không đủ điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Và mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình Ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Cho vay theo hạn mức là hình thức tín dụng theo đó Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng có thể tính cả kỳ hoặc cuối kỳ. Còn đối với hình thức cho vay luân chuyển là hình thức cho khách hàng vay dựa vào sự luân chuyển hàng hóa. Cho vay trả góp là hình thức mà Ngân hàng cho khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Bên cạnh những hình thức cho vay trực tiếp là chủ yếu thì ngoài ra Ngân hàng còn có thêm hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Với nhu cầu vay vốn ngày càng nhiều như hiện nay thì tại các Ngân hàng ngày càng có nhiều hình thức cho vay khác nhau được hình thành và phát triển.
Cho thuê tài sản là nghiệp vụ trung và dài hạn mà Ngân hàng thực hiện. Thông thường Ngân hàng thường cho khách hàng vay để mua tài sản, tuy nhiên trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ điều kiện để vay. Vì vậy, để mở rộng tín dụng Ngân hàng đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng sau đó tiến hành cho khách hàng thuê. Thêm vào đó, tài sản này vẫn thuộc sỡ hữu của Ngân hàng. Chính vì thế, Ngân hàng vẫn có thể giảm bớt được thiệt hại khi thực hiện nghiệp vụ này mà khách hàng không trả được nợ. Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Cho thuê nghiệp vụ là hình thức mà người đi thuê không có ý định “mua” tài sản sau khi đã thuê để sử dụng. Còn cho thuê tài chính vừa đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài đồng thời người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê.
Ngoài ra, Ngân hàng còn tiến hành bảo lãnh cho khách hàng nào có nhu cầu. Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Còn về phía khách hàng thì phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng số tiền đã được trả thay. Theo mục tiêu chúng ta có thể phân loại bảo lãnh ra làm 5 hình thức khác nhau, đó là: bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
1.1.2.2. Phân loại theo thời gian
Bên cạnh việc phân loại theo hình thức cấp tín dụng người ta có thể phân loại các nghiệp vụ tín dụng theo thời gian, bao gồm: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn là hình thức tài trợ của Ngân hàng cho tài sản lưu động hoặc cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Khách hàng có thể vay trực tiếp hoặc gián tiếp, vay theo món hoặc vay theo hạn mức, có hoặc không cần có đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển. Các Ngân hàng thương mại sẽ cho vay ngắn hạn trong những trường hợp như sau: cho Nhà nước vay để tài trợ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, cho vay đối với các tổ chức tài chính khác nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản, tài trợ cho nhu cầu tăng vốn để sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp…
Tín dụng trung và dài hạn lại là hình thức nhằm mục đích để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp, nhu cầu cho đầu tư phát triển của Nhà nước và nhu cầu thỏa mãn chi tiêu của người tiêu dùng. Hiện nay có các hình thức tín dụng trung và dài hạn như sau: Thứ nhất là mua trái phiếu. Đây là hình thức tài trợ của các Ngân hàng cho doanh nghiệp trong quá trình hình thành tài sản cố định. Thứ hai là cho vay theo các dự án. Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định… nhằm thực hiện dự án nhất định, Ngân hàng thương mại có thể cho khách hàng vay sau khi Ngân hàng đã thẩm định dự án. Cuối cùng là hình thức cho vay đối với người tiêu dùng. Hình thức này để đáp ứng nhu cầu mua hàng trả góp, hàng hóa lâu bền…cho các khách hàng cá nhân. Với xu hướng tiêu dùng của dân cư ngày càng gia tăng thì hình thức này càng có cơ hội phát triển.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ của Ngân hàng cho mục đích chi tiêu của các cá nhân, hộ gia đình. Các nguồn cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch, y tế… trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ. Quan hệ tín dụng này được dựa trên nguyên tắc: người đi vay cam kết hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Trong môi trường phát triển và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cho vay tiêu dùng cũng như các loại hình tín dụng khác, đều ra đời từ đòi hỏi khách quan của khách hàng lẫn Ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, nhu cầu con người hết sức đa dạng và phong phú, khi nhu cầu cũ được thỏa mãn thì nhu cầu mới lại nảy sinh. Hơn thế, mong muốn của con người luôn muốn được thỏa mãn các nhu cầu của mình một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Tuy nhiên, để thỏa mãn các nhu cầu của mình, đặc biệt là các nhu cầu về tiêu dùng thì đòi hỏi mỗi cá nhân phải có một sự tích lũy về tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán. Vì thế hầu hết thời gian cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu này rất dài. Chính vì mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán mà hình thành nên nhu cầu vay vốn từ các tổ chức tín dụng trong đó có Ngân hàng để nhằm thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng khác nhau.
Còn về phía Ngân hàng không chỉ chú trọng nâng cao chất lượng các hoạt động của mình mà còn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, triển khai các sản phẩm dịch vụ mới để vừa có thể thỏa mãn nhu cầu khách hàng vừa đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác. Vì vậy, các đối tượng khách hàng cá nhân ngày càng được các Ngân hàng thương mại chú trọng tới, đặc biệt người tiêu dùng được xem như một khách hàng trung thành tiềm năng và sản phẩm cho vay tiêu dùng được hình thành từ đó.
Bên cạnh đó, hầu hết các nhà sản xuất đều mong muốn vừa tiêu thụ được hàng hóa một cách nhanh chóng vừa đảm bảo được thu nhập. Vậy nên khi các Ngân hàng tài trợ cho người tiêu dùng, không chỉ thõa mãn nhu cầu cho chính khách hàng của mình mà còn thỏa mãn cả những nhà sản xuất. Điều này, kích thích nền kinh tế phát triển. Hơn thế, với nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện, thu nhập người dân ngày càng tăng, một bộ phận trong số họ có thu nhập cao và ổn định. Điều này tạo nên một nguồn trả nợ chắc chắn nếu các Ngân hàng thương mại triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng và rủi ro sẽ được giảm thiểu cho Ngân hàng.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, cho vay tiêu dùng đã được hình thành và phát triển mạnh ở một số quốc gia trên thế giới trong những năm 1920 – 1930. Một số phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh đã được thành lập. Kết quả là từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất.
Còn ở Việt Nam cách đây khoảng 20 năm trở về trước, khái niệm “cho vay tiêu dùng” vẫn còn “khá mới mẻ”. Nhưng trong một vài năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng đã phát triển rất mạnh mẽ và trở thành mục tiêu của nhiều tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh. Đi đầu trong lĩnh vực này ở Việt Nam có thể khẳng định đó chính là Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu ( ACB), luôn được xem là “Ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam” trong những năm vừa qua. Trong giai đoạn từ năm 1993 đến 1998, hầu hết các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào cho vay tiêu dùng theo hình thức trả góp, các sản phẩm còn hết sức đơn điệu. Hơn nữa hành lang pháp lý đảm bảo cho hoạt động cho vay tiêu dùng còn chưa thực sự rõ ràng, dẫn tới hoạt động này ngày càng suy giảm ở Việt Nam. Nhưng đến năm 1998, sau khi Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực, kèm theo đó nhiều văn bản pháp quy của hoạt động cho vay tiêu dùng được ban hành, kết quả là cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển rầm rộ trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Thời báo Sài Gòn số 31 - 2005 ngày 28/7/2005 đã đưa ra các thông tin về nhu cầu tiêu dùng của người Việt Nam theo một cuộc điều tra: “tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập trên 3 triệu đồng một tháng ở khu vực thành thị tại 36 thành phố lớn trong cả nước đã tăng từ 36% năm 2002 lên 63% năm 2005, mức chi tiêu của các hộ gia đình cũng tăng theo từ 15,9% vào năm 2002 và đến năm 2005 là 40%”. Như vậy, thời gian tới hoạt động này được dự báo vẫn còn rất phát triển ở một thị trường đầy tiềm năng như Việt Nam với dân số hơn 82 triệu người.
1.2.2. Lợi ích của cho vay tiêu dùng
Ngay từ khi ra đời, cho vay tiêu dùng đã góp phần mang lại nguồn thu lớn cho các Ngân hàng thương mại. Không chỉ dừng lại ở đó, cho vay tiêu dùng còn đem lại nhiều lợi ích khác cho Ngân hàng, cho khách hàng và cho cả sự phát triển chung của toàn xã hội.
1.2.2.1. Lợi ích đối với Ngân hàng
Cho vay tiêu dùng là loại hình cấp tín dụng mà nguồn lợi nhuận Ngân hàng thu được từ nó rất lớn. Bởi vì cho vay tiêu dùng có rủi ro cao hơn so với các hình thức tín dụng khác, cho nên lãi suất của cho vay tiêu dùng cũng cao hơn. Hơn thế, hiện nay các cá nhân có nhu cầu vay tiêu dùng càng tăng lên nên nguồn thu từ hoạt động tín dụng này ngày càng lớn.
Ngoài ra, thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng ngân hàng càng tăng cường thêm quan hệ với khách hàng có số lượng đông đảo – khách hàng cá nhân. Khi Ngân hàng tài trợ cho các cá nhân, hộ gia đình thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu khi họ chưa có khả năng thanh toán sẽ giúp Ngân hàng càng ngày càng tăng cường hình ảnh của mình trong mắt khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân. Qua đây vị trí của Ngân hàng dần dần sẽ được khẳng định trong tâm trí đông đảo khách hàng. Thêm vào đó, bên cạnh hoạt động cho vay, Ngân hàng cũng phải tiến hành huy động vốn. Mà nguồn vốn dồi dào, với chi phí thấp chính là nguồn vốn huy động từ dân cư. Hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ giúp Ngân hàng dễ dàng hơn trong quá trình huy động tiền gửi từ các đối tượng khách hàng cá nhân, quan hệ của Ngân hàng với các tổ chức sản xuất, các doanh nghiệp, các hãng bán lẻ cũng được củng cố và tăng cường. Từ đó, các dịch vụ khác của Ngân hàng có nhiều cơ hội đến với những khách hàng này. Vì vậy mà lợi nhuận của Ngân hàng càng được tăng lên.
Hơn nữa, hoạt động cho vay tiêu dùng còn góp phần làm đa dạng danh mục sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Điều này không chỉ rất cần thiết trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng như hiện nay mà còn giúp các Ngân hàng phân tán được rủi ro, mở rộng được thị trường. Qua đó, Ngân hàng có nhiều cơ hội lựa chọn trong việc sử dụng đồng vốn của mình, thu nhập được tăng lên. Thêm vào đó, thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng Ngân hàng sẽ giới thiệu cho nhiều khách hàng cá nhân hơn về các sản phẩm dịch vụ khác mà Ngân hàng có thể cung cấp cho họ.
1.2.2.2. Lợi ích đối với khách hàng
Ngay khi hoạt động cho vay tiêu dùng được hình thành, người tiêu dùng có thể nói là được lợi nhất do những lợi ích mà hình thức tín dụng này mang lại. Đúng vậy, nhờ có các khoản vay này mà các cá nhân, hộ gia đình có cơ hội cải thiện và nâng cao đời sống khi mà khả năng tài chính hiện tại chưa đủ đáp ứng nhu cầu của họ. Quan trọng hơn, các khoản cho vay tiêu dùng có thể giúp các khách hàng trong những trường hợp chi tiêu cấp bách như viện phí, chi phí học hành cho bản thân, cho con cái…
Như vậy, nhờ có cho vay tiêu dùng mà khách hàng có thể kết hợp được khả năng tài chính hiện tại với tương lai, cùng với đó, họ được hưởng cuộc sống tốt hơn và có điều kiện tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ giáo dục…, để rồi họ có nhiều cơ hội nâng cao trình độ học vấn cũng như là gia tăng thu nhập…
1.2.2.3. Lợi ích đối với kinh tế - xã hội
Cho vay tiêu dùng ra đời đã góp một phần không nhỏ trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển. Vì ngoài tác động kích cầu làm tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ, thì cho vay tiêu dùng còn hướng tới thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu cho các cá nhân, hộ gia đình. Như vậy, hàng hóa được tiêu thụ một cách nhanh chóng, khả năng thanh toán của người tiêu dùng được đảm bảo, không có lý gì mà nhà sản xuất lại không gia tăng sản lượng. Thêm vào dó, một khi người lao động có được những điều kiện vật chất tốt sẽ tạo nên tâm lý thoải mái trong làm việc, trình độ của họ cũng được nâng lên và kết quả là sẽ tạo ra được nhiều sản phẩm hơn, năng suất sẽ cao hơn. Cho vay tiêu dùng chính là đòn bẩy kinh tế quan trọng. Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng đã giảm thiểu được tình trạng vay nặng lãi, làm lành mạnh hóa quan hệ tài chính.
Như chúng ta đã biết, không phải nhu cầu nào cũng đủ khả năng thanh toán tại thời điểm hiện tại, mà nhiều lúc con người ta còn phải chờ đến 10 năm hay 15 năm hay có thể còn lâu hơn thế mới đủ khả năng thỏa mãn nó. Cho vay tiêu dùng chính là một giải pháp để thỏa mãn nhu cầu của các cá nhân tại thời điểm hiện tại. Từ đó, đời sống của các cá nhân, hộ gia đình không chỉ được cải thiện mà còn được nâng cao. Một khi các điều kiện vật chất lẫn tinh thần của mỗi cá nhân - tế bào của xã hội - tốt hơn, thì xã hội đó sẽ ngày càng tiến bộ hơn. Mặt khác, nhu cầu của con người là vô tận, nhu cầu trước được thỏa mãn thì nhu cầu sau sẽ hình thành và còn phát triển cao hơn nhu cầu cũ. Và khi càng có nhiều nhu cầu con người được thỏa mãn thì xã hội sẽ càng phát triển theo.
1.2.3. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Qua những phần đã trình bày ở trên chúng ta đã phần nào biết được rằng: cho vay tiêu dùng chính là một hoạt động tài trợ của Ngân hàng thương mại. Vì vậy, cũng giống như bao hoạt động tín dụng khác, cho vay tiêu dùng cũng có những đặc trưng cơ bản như: đối tượng khách hàng, mục đích cho vay, lãi suất, nguồn trả nợ… Nhưng trong từng đặc điểm này lại có những nét riêng không giống với những hình thức tín dụng khác.
1.2.3.1. Đặc điểm về đối tượng vay tiêu dùng
Trong cho vay tiêu dùng thì đối tượng chính là các cá nhân và hộ gia đình. Hầu hết các cá nhân khi tiền hành vay vốn của Ngân hàng để đáp ứng cho mục đích tiêu dùng đều có thu nhập khá cao và ổn định. Hơn thế, họ còn mong muốn được chi tiêu vượt quá thu nhập của mình. Đây cũng chính là những điểm khác biệt so với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp. Đối với các khách hàng cá nhân, vay vốn của Ngân hàng sẽ giúp họ nhận được cuộc sống đầy đủ ở hiện tại mà chỉ khả năng thanh toán trong tương lai mới đáp ứng được. Các cá nhân được đề cập ở đây là những cá nhân có đầy đủ năng lực pháp lý, thuộc nhiều thành phần khác nhau (công chức Nhà nước, viên chức trong các đơn vị ngoài quốc doanh, các lao động tự do…) và hơn hết phải đáp ứng được nhiều điều kiện vay vốn của Ngân hàng.
1.2.3.2. Đặc điểm về mục đích cho vay tiêu dùng
Khi nhắc đến cho vay tiêu dùng chắc chắn chúng ta cũng đã có thể hình dung ra được mục đích của khoản vay này là nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình, chứ không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh như một số hình thức tín dụng khác. Nhu cầu tín dụng của các khách hàng chủ yếu phục vụ cho những mục đích như: mua, sửa chữa cải tạo nâng cấp nhà ở; mua xe hơi, xe máy, các phương tiện sinh hoạt khác; trang trải cho các chi phí về học tập, chữa bệnh…
1.2.3.3. Đặc điểm về nhu cầu và quy mô cho vay tiêu dùng
Thực tế cho thấy, các khách hàng vay vốn đều có nhu cầu vay nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và ổn định, người tiêu dùng sẽ có thái độ lạc quan hơn, họ kỳ vọng sẽ có được khoản thu nhập nhiều hơn trong tương lai. Do đó chi tiêu của người tiêu dùng ở hiện tại sẽ được thúc đẩy, nhu cầu vay tiêu dùng của người tiêu dùng sẽ xuất hiện và tăng lên nhanh chóng. Và ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái người dân có xu hướng giảm chi tiêu, không kỳ vọng nhiều vào nền kinh tế, không muốn đến Ngân hàng để vay vốn nữa, cho vay tiêu dùng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, nếu xem xét một khoản vay tiêu dùng thì quy mô món vay có thể không lớn một phần là do đối tượng khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình. Nhưng với nền kinh tế phát triển như vũ bão, nhu cầu vay tiêu dùng tăng cao, số lượng khách hàng vay tiêu dùng sẽ ngày càng nhiều thì quy mô của cho vay tiêu dùng trong một Ngân hàng thương mại là khá lớn so với các hình thức tín dụng khác. Hơn thế, tâm lý của mỗi người là càng muốn mong nhanh chóng thỏa mãn các nhu cầu của mình. Nên cho vay tiêu dùng càng có cơ hội phát triển, khách hàng ngày càng tìm kiếm nhiều tới các Ngân hàng. Dẫn tới số lượng khách hàng của cho vay tiêu dùng lại càng tăng mạnh, dư nợ cho vay tiêu dùng sẽ rất cao trong tổng dư nợ tín dụng.
1.2.3.4. Đặc điểm về mức độ rủi ro của cho vay tiêu dùng
Xuất phát từ bản thân khách hàng của cho vay tiêu dùng, có thể nhận định rằng cho vay tiêu dùng có mức độ rủi ro cao hơn bất kỳ một hình thức tín dụng nào khác. Đúng vậy, đối với mỗi cán bộ tín dụng, quá trình thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thường gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề thông tin khách hàng. Các thông tin này thường là không đầy đủ, thậm chí là nhiều lúc còn không chính xác, không rõ ràng. Nhiều lúc, khách hàng còn cố tình dấu các cán bộ tín dụng về tình hình sức khỏe thực tế của mình, thông tin về công việc hiện tại… nếu như chúng quá bất lợi cho họ trong vấn đề vay vốn. Hơn thế, khách hàng của cho vay tiêu dùng thường chỉ tìm đến Ngân hàng một lần do dó nguồn thông tin từ trước là chưa có, nên càng khó khăn hơn cho Ngân hàng trong thu thập thông tin. Ngoài ra, các Ngân hàng cũng không thể biết trước được tâm lý khách hàng một cách chính xác trong việc thanh toán nợ. Nếu khách hàng cố tình không chịu trả nợ cho Ngân hàng thì rủi ro là không thể tránh khỏi. Hơn thế, có nhiều trường hợp khách hàng chưa đến hạn thanh toán nợ nhưng gặp vấn đề rắc rối về vấn đề tài chính, mất việc làm, đau ốm, bệnh tật, hay qua đời thì khả năng thu hồi nợ gốc còn rất khó khăn chứ chưa nói đến thu lãi. Còn có những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh… cũng ảnh hưởng tới thu nhập của người tiêu dùng và như một phản ứng dây chuyền sẽ ảnh hưởng tới quá trình thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Vậy là, những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía khách hàng cũng như những nguyên nhân khách quan bất khả kháng, cộng thêm một số ít các món vay lại có thời hạn dài làm cho cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao.
1.2.3.5. Đặc điểm về chi phí của cho vay tiêu dùng
Qua nhiều tính toán cho thấy, cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất trong các khoản mục của tín dụng của Ngân hàng. Ngay từ khi có một khách hàng đến Ngân hàng để xin được cấp vốn, Ngân hàng đã phát sinh các chi phí. Đó là, chi phí điều tra, thu thập thông tin về khách hàng. Hơn nữa, đối với cho vay tiêu dùng thì quá trình này còn vất vả và gặp nhiều khó khăn hơn. Vì đối tượng của món vay là các cá nhân, mà như đã trình bày cụ thể ở những đặc điểm trên, rủi ro là rất cao, họ chỉ tìm đến Ngân hàng một lần, không phải thường xuyên nên Ngân hàng sẽ có rất ít thông tin về khách hàng. Vậy nên, để đảm bảo mục tiêu an toàn nhưng vẫn hiệu quả, ngoài việc cẩn trọng trong công việc, đạo đức của các cán bộ tín dụng… Ngân hàng cũng phải mất chi phí khá lớn cho hoạt động thu thập thông tin khách hàng. Thêm vào đó, trong quy trình tín dụng từ thẩm định, lập hồ sơ, giải ngân, giám sát khoản vay… thì Ngân hàng cũng không được bỏ sót một giai đoạn nào. Do đó, chi phí cao là điều hết sức dễ hiểu. Mặt khác, hoạt động quản lý các khoản vay mặc dù có quy mô nhỏ nhưng với số lượng khách hàng vay tiêu dùng là rất lớn ở các Ngân hàng thương mại là điều không hề dễ dàng. Vì những lý do trên mà có thể khẳng định chắc chắn: Cho vay tiêu dùng có chi phí cao hơn các loại hình tín dụng khác.
1.2.3.6. Đặc điểm về lãi suất của cho vay tiêu dùng
Với rủi ro cao, chi phí lớn thì cho vay tiêu dùng sẽ phải có một lãi suất phù hợp để có thể bù đắp những tổn thất dự tính mà Ngân hàng phải ghánh chịu. Vậy nên trong cho vay tiêu dùng thì lãi suất là rất cao. Đây chỉ mà một lý do để dẫn tới cho vay tiêu dùng lại có lãi suất cao như vậy. Ngoài ra, khách hàng tìm đến Ngân hàng chỉ để nhằm một mục đích lớn chính là nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình, chứ họ ít chú ý tới lãi suất. Hơn thế, vay tiêu dùng không tạo ra lợi nhuận, do đó khách hàng không có sự tính toán giữa chi phí về lãi vay và lợi nhuận tiềm năng do món vay mang lại. Đối với đối tượng khách hàng này, lãi suất không phải là vấn đề, điều khiến họ quan tâm hơn hết là số tiền mà phải trả hàng tháng, mặc dù rõ ràng chính lãi suất trong hợp đồng tín dụng ảnh hưởng đến quy mô số tiền phải trả này.
Thông thường trước đây, lãi suất trong cho vay tiêu dùng thường được giữ cố định chứ không thả nổi như những hình thức tín dụng khác. Còn hiện nay, trong môi trường cạnh tranh đã buộc các Ngân hàng thay đổi, lãi suất của cho vay tiêu dùng đã có sự thả nổi nhưng đấy là sự thả nổi chưa hoàn toàn. Nhìn chung lãi suất vẫn được xác định dựa trên lãi suất cơ bản. Cụ thể, lãi suất cho vay tiêu dùng bằng tổng của chi phí huy động vốn, rủi ro tổn thất dự kiến, phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn và lợi nhuận cận biên.
1.2.3.7. Đặc điểm về nguồn trả nợ của các khoản vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người chưa có khả năng thanh toán tại thời điểm hiện tại, hoàn toàn không tài trợ nhằm mục đích kinh doanh. Vậy nên nguồn trả nợ của khách hàng cũng không thể lấy từ lợi nhuận do khoản vay mang lại như một số hình thức cho vay khác. Mặt khác, khách hàng thường trả nợ cho Ngân hàng bằng một phần hay toàn bộ thu nhập hàng tháng của mình. Do vậy, từ việc Ngân hàng thương mại tài trợ cho các cá nhân, hộ gia đình trong việc chi tiêu, qua đó sẽ thúc đẩy đối với những khách hàng này về tâm lý tích lũy, tiết kiệm, động lực làm việc và dẫn tới lao động năng suất tăng cao hơn nhiều. Cũng chính vì vậy mà các Ngân hàng thường đưa ra những chỉ tiêu như: thu nhập ổn định, có trình độ học vấn… làm tiêu chí quan trọng để Ngân hàng quyết định trong việc cho khách hàng vay hay không?
1.2.3.8. Đặc điểm về lợi nhuận của cho vay tiêu dùng
Trên lý thuyết, với một hinh thức tín dụng có độ rủi ro cao như cho vay tiêu dùng thì các Ngân hàng thương mại kỳ vọng vào một mức lợi nhuận do nó mang lại là rất lớn. Và thực tế, dù quy mô mỗi khoản vay là không lớn lắm nhưng do các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cao, số lượng khách hàng trong hoạt động tín dụng này lại lớn nên thu nhập từ lãi của nó rất lớn. So với các hoạt động tín dụng khác, lợi nhuận trên một đồng vốn của cho vay tiêu dùng thường cao hơn. Với nguồn lợi nhuận hấp dẫn như vậy, cho nên ngày càng có nhiều Ngân hàng thương mại tăng cường mở rộng cho vay tiêu dùng.
1.2.4. Phân loại cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng có nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào phương thức phân loại. Dưới đây là một số căn cứ để chúng ta có thể phân chia cho vay tiêu dùng:
1.2.4.1. Căn cứ vào mục đích vay
Cho vay tiêu dùng sẽ được chia thành hai loại. Đó là:
Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Khoản vay này có đặc điểm là thời gian dài và quy mô thường lớn.
Cho vay tiêu dùng không cư trú: Là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí… Đặc điểm của hình thức vay này là quy mô nhỏ, thời gian ngắn và do đó rủi ro sẽ thấp hơn cho vay tiêu dùng cư trú.
1.2.4.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả khoản vay
Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng có ba phương thức hoàn trả khoản vay, bao gồm:
Cho vay tiêu dùng trả một lần: Theo đó số tiền vay sẽ được khách hàng trả một lần vào cuối kỳ khi đến hạn. Qui mô của món vay này không lớn, thường được sử dụng với mục đích đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời như trả tiền viện phí, đi du lịch, mua sắm đồ dùng… Vậy nên, rủi ro của mỗi khoản vay này là không lớn lắm.
Cho vay tiêu dùng trả góp: Là hình thức mà khoản nợ được trả làm nhiều lần theo thỏa thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Phương thức này thường dùng để tài trợ cho việc mua sắm các vật dụng đắt tiền như ô tô, thuyền, một số đồ dùng phục vụ sinh hoạt đắt tiền, trang trải các khoản nợ… Theo tính toán, trong tổng khối lượng tín dụng do các Ngân hàng thương mại cung cấp thì có đến hơn 80% được thực hiện trên cơ sở trả góp. Điều này xuất phát từ khả năng tài chính của khách hàng không đủ để chi trả khoản vay một lần duy nhất, thêm vào đó việc định kỳ trả nợ vào mỗi tháng hay đến kỳ lương khi tiến hành sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là các khoản cho vay trong đó Ngân hà._.ng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hay các loại Séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Hiện nay, trên thế giới với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thì việc sử dụng thẻ đang ngày càng trở nên phổ biến. Do đó, hình thức này có thể nói là đã hết sức phát triển. Tuy nhiên ở Việt Nam, hình thức này còn rất ít Ngân hàng triển khai. Vì thực tế đại bộ phận dân cư của nước ta chủ yếu vẫn sử dụng tiền mặt trong các giao dịch và thanh toán của mình, rất ít người biết đến dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt do một số Ngân hàng hiện đang cung cấp. Nếu trong thời gian tới, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán được giảm thiểu thì sẽ có nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam hơn nữa tiếp tục tung ra loại sản phẩm này.
1.2.4.3. Căn cứ vào biện pháp đảm bảo tiền vay
Cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo: Là hình thức cho vay với tài sản đảm bảo thường là động sản (tàu, thuyền, ô tô…), bất động sản được hình thành từ vốn vay hoặc tài sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng trước khi vay vốn Ngân hàng. Tài sản đảm bảo thường tăng tính an toàn cho các khoản vay, vì Ngân hàng có thể tạo được áp lực để buộc khách hàng phải trả nợ hoặc trong tình huống xấu nhất thì Ngân hàng có thể phát mại tài sản đảm bảo nếu khách hàng không trả được nợ cho mình. Do vậy, rủi ro của chính bản thân hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ được giảm thiểu nhờ có tài sản đảm bảo.
Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo: Đối lập với cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo, ở hình thức này Ngân hàng cho vay dựa trên uy tín và khả năng trả nợ của khách hàng, không căn cứ vào tài sản đảm bảo. Để đề phòng với rủi ro và có những tổn thất gây có thể xảy ra, thông thường Ngân hàng rất ít khi cho vay nói chung với hình thức này, và đặc biệt là đối với rủi ro cao như cho vay tiêu dùng nói riêng. Nếu có cho vay thì khách hàng đó, đối với Ngân hàng phải thật sự có độ uy tín cao và là khách hàng truyền thống của Ngân hàng.
1.2.4.4. Căn cứ vào nguồn gốc khoản vay
Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là hình thức mà Ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay hoặc thu nợ. Ở hình thức cho vay này bên cạnh những ưu điểm như: Ngân hàng có thể sử dụng tối đa nguồn nhân lực của mình, các khoản vay thường có chất lượng cao hơn, lựa chọn được nhiều khách hàng tốt, quan hệ trực tiếp giữa khách hàng và Ngân hàng sẽ xử lý tốt các phát sinh đồng thời có khả năng làm thỏa mãn tốt hơn quyền lợi cho cả khách hàng lẫn Ngân hàng, đối tượng khách hàng rất rộng lớn sẽ dễ dàng hơn cho Ngân hàng khi đưa ra các dịch vụ tiện ích mới, qua đó hình ảnh của Ngân hàng đối với khách hàng càng được tăng cường quảng bá… Nó cũng còn có những nhược điểm: mở rộng và tăng doanh số cho vay không thực sự thuận lợi, chi phí cho vay thường khá lớn.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó Ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng, nhưng vẫn còn trong hạn thanh toán. Với hình thức này, Ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Đối lập với cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp giúp các Ngân hàng dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay, tiết kiệm và giảm được chi phí, có cơ hội phát triển các quan hệ với khách hàng cũng như các hoạt động khác của Ngân hàng và giảm thiểu được rủi ro nếu như Ngân hàng quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ. Nhưng hạn chế của hình thức này cũng không phải ít. Đó chính là: Ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với người vay vốn mà chỉ thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Cho nên Ngân hàng thiếu sự kiểm soát khi các doanh nghiệp tiến hành bán lẻ hàng hóa, nhiều khoản tín dụng cấp ra không thực sự chính đáng, tình trạng bỏ qua một số khách hàng tốt với Ngân hàng có thể diễn ra trong trong quá trình doanh nghiệp lựa chọn khách hàng mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Thêm vào đó, kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này là hết sức phức tạp, không phải Ngân hàng nào cũng thực hiện được.
1.2.5. Quy trình nghiệp vụ của cho vay tiêu dùng
Khi khách hàng tìm đến Ngân hàng để tiến hành xin tài trợ cho những nhu cầu chi tiêu, thông thường các Ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng của mình phải có đầy đủ các giấy tờ: Đơn xin vay, các tài liệu liên quan tới thông tin người vay và thuyết minh về khoản tín dụng (chứng minh thư, sổ hộ khẩu, nghề nghiệp, nguồn thu nhập, tình trạng gia đình, học vấn, mức vốn tự có, nhu cầu tài trợ, tài sản thế chấp, vật cầm cố…).
Sau đó, Ngân hàng sẽ tiến hành xét duyệt để đưa ra kết luận là có cho khách hàng vay hay không? Quá trình xét duyệt của Ngân hàng tiến hành dựa trên các tiêu chí mà ngân hàng đưa ra. Cụ thể là năng lực vay của khách hàng, Ngân hàng sẽ không cho vay với các đối tượng người vị thành niên, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang chấp hành án, người bị rối loạn tâm thần. Và các yếu tố về độ tin cậy của người vay, mục đích tín dụng, năng lực hoàn trả, các đảm bảo tín dụng, số lượng và kỳ hạn khoản tín dụng. Nếu như khách hàng đáp ứng được các điều kiện của Ngân hàng đưa ra thì Ngân hàng sẽ tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng. Khách hàng và Ngân hàng tiến hành ký kết hợp đồng tín dụng, thỏa thuận rõ số tiền vay, kỳ hạn, lãi suất, hình thức trả nợ…
Tiếp theo, Ngân hàng sẽ phải theo dõi và thu nợ khách hàng. Bất kể khách hàng vay dưới hình thức nào thì việc theo dõi khách hàng sau khi vay vốn là rất cần thiết. Cho vay tiêu dùng cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó. Quá trình theo dõi này đem lại cho Ngân hàng các thông số cần thiết nhằm xử lý kịp thời với những tình huống khi không quá muộn, chẳng hạn: sự ổn định về tình hình tài chính của người vay, mục đích vay có được chấp hành không, tiến độ trả nợ… Đến khi thu nợ, tùy theo hình thức cấp tín dụng mà quá trình này diễn ra khác nhau. Với những khoản vay theo hình thức trả góp thì khách hàng sẽ thanh toán nợ làm nhiều lần do đó, Ngân hàng sẽ thu nợ làm nhiều lần. Hay những khoản vay trả một lần thì khách hàng sẽ thanh toán nợ vào cuối kỳ, và Ngân hàng cũng thu nợ vào cuối kỳ. Mức thu được áp dụng chung là: tiền gốc, lãi và các phí khác có liên quan tới dịch vụ Ngân hàng. Tuy nhiên, một khi khoản tín dụng tiêu dùng được đặt vào tình trạng có vấn đề, giải pháp mang tính nguyên lý cũng được Ngân hàng tính đến và vận dụng - phát mại tài sản đảm bảo.
1.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, nhưng chúng ta có thể chia ra làm hai nhóm nhân tố chính: Nhóm các nhân tố vĩ mô và Nhóm các nhân tố vi mô.
1.2.6.1. Nhóm các nhân tố vĩ mô
Thứ nhất chính là môi trường Luật pháp. Luật pháp là công cụ quản lý đắc lực của Nhà nước. Mọi cá nhân, tổ chức tại mỗi nước đều chịu sự chi phối của hệ thống pháp luật do quốc gia đó quy định với những hoạt động của mình. Các Ngân hàng thương mại cũng không phải ngoại lệ. Hơn thế hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm - kinh doanh tiền tệ - thì sự giám sát kiểm tra của Nhà nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Những quy định của các cơ quan chức năng có thẩm quyền càng chặt chẽ bao nhiêu thì càng thúc đẩy cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bấy nhiêu và còn góp phần giúp các Ngân hàng thương mại nâng cao chất lượng phục vụ của mình đối với người dân và toàn bộ nền kinh tế.
Trước hết, các quy định của luật pháp sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới phương hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, trong đó có định hướng về cho vay tiêu dùng. Nếu tại quốc gia nào mà Luật pháp không cho phép các Ngân hàng tiến hành nghiệp vụ cho vay tiêu dùng thì chắc chắn một điều rằng: tại đó các Ngân hàng sẽ không được phép thực hiện hoạt động này. Còn nếu pháp luật có quy định về hoạt động cho vay tiêu dùng nhưng còn quá sơ sài, chưa đủ hành lang cho Ngân hàng hoạt động thì cũng không thể giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh tốt được. Vì vậy, nếu pháp luật có các quy định rõ ràng, được xây dựng một cách có hệ thống, đồng bộ về cho vay tiêu dùng sẽ như “hộp dầu bôi trơn” các công đoạn trong quy trình cho vay tiêu dùng, đưa cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển nhanh chóng.
Ngoài ra, hệ thống Luật pháp cũng còn tác động tới cộng đồng dân cư trong xã hội, các doanh nghiệp, các tổ chức khác… Đây chính là những khách hàng của các Ngân hàng thương mại. Vì vậy, thông qua sự tác động tới những đối tượng này mà Ngân hàng cũng chịu sự tác động theo trong quá trình kinh doanh của mình nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng.
Bên cạnh đó, các văn bản luật thuộc các ban ngành khác có liên quan đến lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Ngân hàng như Luật đầu tư nước ngoài, Luật thuế, Quy định về giảm thiểu các thủ tục hành chính… được ban hành và sửa đổi ngày càng tiến gần với thông lệ của quốc tế, tiến bộ của nhân loại cũng góp phần không nhỏ tạo điều kiện thông suốt các hoạt động của Ngân hàng cũng như là hoạt động cho vay tiêu dùng.
Thứ hai là môi trường kinh tế - chính trị. Đây là một nhân tố không kém phần quan trọng so với môi trường Luật pháp. Những chỉ tiêu như thu nhập quốc dân (GDP), tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ thất nghiệp… phản ánh trung thực thực trạng nền kinh tế của một quốc gia. Nếu một nước có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định thì đời sống của người dân cũng có xu hướng phát triển theo, nhu cầu tiêu dùng trong xã hội tăng mạnh. Vì vậy, cho vay tiêu dùng sẽ được phát triển với nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập bình quân đầu người tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm...
Tình hình chính trị tác động mạnh đến nền kinh tế nên cũng tác động tới cho vay tiêu dùng. Như chúng ta đã biết với một quốc gia thường xuyên có bạo loạn, lật đổ, đảo chính, bất ổn về chính trị, biểu tình phản đối… thì nền kinh tế không thể phát triển được. Do vậy ở tại những nước này, hầu hết các hoạt động của Ngân hàng cũng bị suy giảm chứ không riêng gì cho vay tiêu dùng. Và ngược lại, quốc gia nào có nền chính trị ổn định, không có khủng bố, bạo loạn hay lật đổ… thì hoạt động của các Ngân hàng thương mại trong đó có hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba là môi trường văn hóa - xã hội. Các yếu tố thuộc môi trường văn hóa - xã hội bao gồm: tập quán xã hội, thói quen tiêu dùng, trình độ dân trí, thị hiếu người dân, an ninh trật tự, an toàn xã hội… có tác động không nhỏ tới cho vay tiêu dùng. Bên cạnh việc quyết định tới nhu cầu chi tiêu của các cá nhân, hộ gia đình. Chúng còn ảnh hưởng tới cả phương thức thỏa mãn cũng như thói quen tài trợ của họ. Nếu cộng đồng có thói quen hưởng thụ, luôn muốn thỏa mãn các nhu cầu của mình một cách nhanh chóng, và không ngừng mong muốn cải thiện và nâng cao cuộc sống hiện tại thì cho vay tiêu dùng sẽ có cơ hội phát triển. Còn ngược lại, với một cộng đồng mà các cá nhân trong đó chủ yếu không thích mua sắm, không có thói quen tiêu dùng quá mức những gì mà họ kiếm được tại thời điểm hiện tại thì xu hướng chung của họ là sẽ tiết kiệm chứ không phải là đến Ngân hàng vay vốn để chi tiêu. Do đó, cho vay tiêu dùng sẽ hoạt động hết sức khó khăn trong một môi trường như thế. Điều này cũng giải thích vì sao ở các nước phương Tây, cho vay tiêu dùng lại phát triển mạnh mẽ, tỷ trọng cho vay tiêu dùng chiếm khoảng 40% đến 50% trên tổng dư nợ, còn ở hầu hết các nước phương Đông thì tỷ lệ này không cao lắm, riêng Việt Nam thì chỉ mới chiếm khoảng 5%. Ngoài ra tình hình an ninh, trật tự xã hội cũng góp phần đáng kể trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng. Với một xã hội an toàn, an ninh đảm bảo thì càng có nhiều nhu cầu trong việc chi tiêu, hưởng thụ. Vậy nên càng có nhiều cá nhân tìm đến Ngân hàng để được tài trợ nhằm thỏa mãn nhu cầu mà khả năng thanh toán hiện tại chưa đáp ứng được.
1.2.6.2. Nhóm các nhân tố vi mô
Các nhân tố này đều phát sinh từ hai phía, cả về phía những khách hàng lẫn các Ngân hàng thương mại.
Một là những nhân tố xuất phát từ phía khách hàng
Khả năng tài chính của khách hàng: Đây là một trong số các chỉ tiêu mà Ngân hàng nào cũng quan tâm tới khi tiến hành cho khách hàng vay vốn. Ngay từ khi tiến hành thẩm định, Ngân hàng không chỉ rất quan tâm tới khả năng tài chính hiện tại mà còn đặc biệt chú ý nhiều đến khả năng về thu nhập tương lai của khách hàng. Với những khách hàng có tình hình tài chính càng khả quan và ổn định thì Ngân hàng càng muốn cho vay. Đối với cho vay tiêu dùng thì tiêu chí này càng quan trọng và có thể nói là các Ngân hàng xem nó quan trọng nhất trong việc quyết định cấp tín dụng cho khách hàng. Vì thực tế, phần lớn các khoản cho vay tiêu dùng thường có những cam kết hoàn trả nợ của khách hàng bằng thu nhập thường xuyên trong tương lai của họ. Vậy nên, người có thu nhập càng cao, khi khách hàng tiến hành trả nợ cho Ngân hàng sẽ gây ra ít ảnh hưởng nhất tới những chi tiêu trong sinh hoạt của chính họ, ít ảnh hưởng đến tình hình tài chính của gia đình họ. Như vậy là khoản tín dụng mà Ngân hàng đã cấp sẽ an toàn hơn rất nhiều.
Đạo đức của khách hàng: Nhân tố này ảnh hưởng đến hành vi trả nợ của khách hàng. Nếu khách hàng có đạo đức tốt, có ý muốn trả nợ cho Ngân hàng thì thiện chí trả nợ sẽ được thực hiện. Còn nếu không thì Ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc thu hồi nợ gốc chứ chưa nói đến thu lãi.
Tài sản đảm bảo: Cơ sở để phòng ngừa rủi ro tín dụng chính là tài sản đảm bảo. Nếu khoản vay tiêu dùng nào mà khách hàng có tài sản đảm bảo thì càng an toàn cho Ngân hàng. Vì nếu khách hàng không có khả năng thanh toán thì Ngân hàng có thể phát mại tài sản để thu hồi một phần hay toàn bộ nợ của chính khách hàng đó. Vậy nên ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các Ngân hàng khi tiến hành cấp tín dụng tiêu dùng cho các khách hàng đều yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo.
Hai là những nhân tố xuất phát từ phía Ngân hàng
Nguồn nhân lực: Đây là một nhân tố không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng mà còn ảnh hưởng đến hầu hết các nghiệp vụ khác của Ngân hàng. Nếu Ngân hàng có các cán bộ tín dụng với đạo đức nghề nghiệp cao, có tinh thần yêu công việc thì hoạt động tín dụng sẽ hạn chế được phần nào rủi ro và tạo ra khả năng phát triển rất lớn. Thêm vào đó, việc tiếp xúc và giao tiếp trực tiếp với khách hàng và nhân viên tín dụng diễn ra khá thường xuyên và liên tục. Do đó, vai trò của nhân viên tín dụng là rất quan trọng. Các Ngân hàng không chỉ cần một đội ngũ nhân viên có năng lực, có trình độ, có tư cách đạo đức mà còn phải đông đảo về cả số lượng.
Công tác thẩm định: Như đã trình bày ở đặc điểm của cho vay tiêu dùng, quá trình thẩm định khách hàng vay tiêu dùng diễn ra có rất nhiều khó khăn. Đây chính là nguyên nhân gây ra thời gian thẩm định khá dài. Vì vậy, khách hàng không mặn mà lắm với cho vay tiêu dùng. Cho nên, các Ngân hàng nếu tiến hành khâu này một cách nhanh chóng, nhưng vẫn đảm bảo chính xác, không gây phiền hà cho khách hàng sẽ tạo ra một ấn tượng tốt với khách hàng. Đặc biệt, điều này sẽ giúp cho các Ngân hàng dễ dàng lôi kéo được đối tượng khách hàng cá nhân như trong cho vay tiêu dùng.
Trình độ công nghệ thông tin: Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng, đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng, và càng quan trọng hơn trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Đây là cơ sở của khả năng và mức độ sẵn sàng phục vụ khách hàng của Ngân hàng. Hệ thống công nghệ thông tin càng hiện đại càng góp phần tiện lợi và hiệu quả trong hoạt động nói chung của Ngân hàng và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Khách hàng được phục vụ tốt hơn thì thị trường càng có cơ hội mở rộng.
Nguồn vốn của Ngân hàng: Một điều kiện vô cùng quan trọng trong việc mở rộng, đi sâu vào các hoạt động cho vay tiêu dùng đấy chính là nguồn vốn. Nếu một Ngân hàng có vốn lớn thì càng có cơ hội đầu tư nhiều vào trang thiết bị, vào nguồn nhân lực… cho hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông qua đó, cho vay tiêu dùng ngày càng được mở rộng. Thêm vào đó, Ngân hàng cũng mạnh dạn hơn trong việc triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ của cho vay tiêu dùng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
2.1.1. Lịch sử hình thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội thường được gọi là Ngân hàng Quân đội (tên tiếng Anh: Military Bank) được thành lập theo Quyết định số 00374/ GP – UB ngày 30 tháng 12 năm 1993 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội và hoạt động theo Giấy phép số 0054/ NH – GP ngày 14 tháng 9 năm 1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với thời gian hoạt động là 50 năm. Ngân hàng chính thức đi vào hoạt động vào ngày 4 tháng 11 năm 1994.
Khi mới thành lập, mục đích ban đầu của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội là nhằm hỗ trợ cho các đơn vị quân đội làm kinh tế. Cùng với sự phát triển lớn mạnh của đất nước, Ngân hàng Quân đội không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Vì thế trong thời điểm hiện tại khách hàng của Ngân hàng Quân đội là mọi đối tượng trong nền kinh tế như: các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, các hiệp hội, các công ty tài chính… Với phương châm hoạt động an toàn, hiệu quả và luôn đặt lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của Ngân hàng, những năm qua Ngân hàng Quân đội luôn là người đồng hành tin cậy của khách hàng và uy tín của Ngân hàng ngày càng được củng cố và phát triển. Trong thời gian gần đây, Ngân hàng Quân đội được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đánh giá là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu của Việt Nam.
2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức của Ngân hàng TMCP Quân đội
Đại Hội Đồng Cổ Đông
Công ty Chứng khoán Thăng Long
Công ty AMC
Ban Kiểm Soát
Công ty quản lý quỹ
Hội Đồng Quản Trị
Phòng Đầu tư & Dự án
Khối mạng lưới bán hàng
Các Uỷ Ban Cao Cấp
Khối Tresury
Khối Khách hàng cá nhân
Tổng Giám Đốc
Khối khách hàng doanh nghiệp
Phòng Kiểm Tra, Kiểm Soát Nội Bộ
Khối quản lý tín dụng
Phòng KHTH & Pháp chế
Phòng KHTH & Pháp chế
Trung tâm công nghệ thông tin
Khối Tổ chức - Nhân sự - Hành chính
Phòng nghiên cứu phát triển
& Xây dựng chính sách
Sở giao dịch và chi nhánh
2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban
Phòng Hành chính: Tiếp nhận, xử lý, bảo quản, chuyển giao văn bản; đăng ký văn phòng phẩm; cung cấp và sửa chữa các phương tiện, điều kiện vật chất cho hoạt động của Ngân hàng; văn thư lưu trữ quản lý con dấu; lễ tân, hậu cần, tổ xe, in ấn và phô tô tài liệu.
Phòng Kế hoạch tổng hợp: Phân tích, đánh giá hoạt động của nền kinh tế, thị trường, đối thủ cạnh tranh; xây dựng kế hoạch cho toàn hệ thống; đề xuất các giải pháp, hướng dẫn đơn vị lập kế hoạch và báo cáo, theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch.
Phòng Tài chính: Thực hiện thanh toán bù trừ, kết hợp quản lý tài khoản của khách hàng.
Phòng Marketing: Thực hiện quảng bá hình ảnh, sản phẩm dịch vụ của NHTMCPQĐ; quản lý vấn đề quan hệ công chúng, xây dựng và triển khai các chương trình chăm sóc khách hàng, nghiên cứu phát triển các sản phẩm dịch vụ mới; quản lý và phát triển thương hiệu của Ngân hàng Quân đội.
Phòng Nguồn vốn: Quản lý tài sản nợ có; quản lý nguồn vốn, tiến hành kinh doanh ngoại tệ.
Phòng Quản lý tín dụng: Tái thẩm định các hồ sơ vượt mức phán quyết; quản lý đăng ký giao dịch đảm bảo, soạn thảo các quy trình, quy chế tín dụng.
Phòng Phát triển khách hàng doanh nghiệp: Đề ra chính sách phát triển sản phẩm doanh nghiệp, quản lý phòng KHDN thuộc các chi nhánh.
Phòng Phát triển khách hàng cá nhân: Đề ra chính sách phát triển sản phẩm cá nhân, quản lý hoạt động của phòng KHCN thuộc các chi nhánh.
Phòng Thanh toán quốc tế: Bảo lãnh chứng từ xuất khẩu, mở L/C, tài trợ xuất nhập khẩu, chuyển tiền…
Phòng Công nghệ thông tin: Nghiên cứu triển khai và quản lý công nghệ thông tin phục vụ cho mọi hoạt động của Ngân hàng.
Phòng Tổ chức nhân sự: Soạn thảo hợp đồng lao động, quyết định bổ nhiệm, điều chuyển…, quản lý hồ sơ và thông tin nhân viên…
Phòng Nghiên cứu và phát triển xây dựng chính sách: Thực hiện nghiên cứu, đề xuất định hướng, giải pháp, chính sách hoạt động Ngân hàng.
Trung tâm thẻ: Phát hành thẻ ATM, quản lý các dịch vụ liên quan đến thẻ ATM.s
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội thời gian qua
2.1.4.1. Kết quả một số lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội
Trong hơn 12 năm hoạt động vừa qua, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội đã đạt được những kết quả khả quan về mọi mặt. Đặc biệt trong những năm gần đây, với những thành tựu mà Ngân hàng đã và đang có càng chứng tỏ NHTMCPQĐ là một trong những Ngân hàng Thương mại cổ phần có uy tín cao và vị trí vững chắc trên thị trường, chiếm được lòng tin của các khách hàng.
Về vốn điều lệ
Ban đầu khi mới thành lập, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội chỉ có số vốn điều lệ 20 tỷ đồng chủ yếu dựa vào vốn góp của các doanh nghiệp quân đội. Nhưng sau một thời gian hoạt động, Ngân hàng đã không ngừng tăng dần số vốn điều lệ. Ta có thể nhìn thấy tốc độ tăng trưởng nhanh chóng về qui mô vốn điều lệ của Ngân hàng Quân đội qua một số năm gần đây như sau:
Bảng 2.1: Quy mô vốn điều lệ của NHTMCPQĐ qua các năm
(đơn vị: tỷ đồng)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Vốn điều lệ
170,919
209,051
229,051
280,000
350,000
450,000
1.045,200
(Nguồn báo cáo thường niên NHTMCPQĐ hàng năm)
Đặc biệt, vốn cổ phần huy động từ dân cư và các doanh nghiệp ngoài quân đội tăng một cách nhanh chóng. Nói chung, vốn điều lệ gia tăng đã góp phần tăng khả năng tài chính của Ngân hàng Quân đội ngày một mạnh hơn, là điều kiện cơ sở cho Ngân hàng mở rộng hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay cũng như các sản phẩm dịch vụ khác. Dự kiến trong thời gian tới, Ngân hàng tiếp tục tăng vốn điều lệ vừa nhằm tăng khả năng cạnh tranh vừa đảm bảo độ an toàn vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, phấn đấu trở thành một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam.
Về hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Quân đội không ngừng tăng lên về quy mô và có sự thay đổi tích cực trong cơ cấu huy động. Trong đó, lượng vốn huy động từ dân cư tăng trưởng mạnh trong các năm. Năm 2004 tổng vốn huy động của Ngân hàng đạt 4.933 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2003, đạt 120% kế hoạch năm, lượng tiền gửi dân cư tăng bằng 1,82 lần so với năm 2003 dẫn tới tổng số dư tiền gửi dân cư trong năm này gần bằng tổng số dư của vài năm trước. Đến năm 2005 Ngân hàng đã huy động được tổng số vốn là 7.046,68 tỷ đồng, tăng 42,85% so với năm 2004, bằng 117,4% kế hoạch năm, lượng vốn huy động từ dân cư ước đạt 2.387,5 tỷ đồng tăng 60% so với năm 2004. Và năm 2006, tổng vốn huy động đạt 11.241 tỷ đồng, tăng 59,52% so với năm 2005, bằng 122,18% kế hoạch năm, trong đó vốn huy động được từ dân cư tăng và đạt 4.576,84 tỷ đồng, tăng 91,7% so với đầu năm. Trong nhiều năm liền, Ngân hàng luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đã đề ra. Kết quả trên có được từ những thành công của hai chương trình “Tiết kiệm dự thưởng”,“Tiết kiệm có thưởng” và rất nhiều nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường quảng bá hình ảnh, thương hiệu của Ngân hàng Quân đội. Uy tín của Ngân hàng Quân đội ngày càng tăng lên, xứng đáng với thương hiệu “vững vàng, tin cậy” mà Ngân hàng đã đề ra.
Biểu đồ 2.1: Tổng vốn huy động của NHTMCPQĐ trong một vài năm
(Nguồn báo cáo thường niên NHTMCPQĐ hàng năm)
Về hoạt động tín dụng
Như các Ngân hàng thương mại khác, hoạt động tín dụng chiếm một tỷ trọng cao trong danh mục đầu tư của Ngân hàng Quân đội. Năm 2004, tổng dư nợ đạt 3921,3 tỷ đồng tăng 32,2% so với đầu năm. Năm 2005, hoạt động sử dụng vốn đạt hiệu quả khá cao, dư nợ tín dụng là 4470,2 tỷ đồng, tăng gần 14% so với năm 2004. Đến năm 2006, dư nợ đạt 6181,59 tỷ đồng tăng 38,3% so với năm 2005, tăng 6,58% so với kế hoạch đề ra.
Trong những năm qua, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội luôn tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, cơ cấu lại nợ vay, tích cực thu hồi nợ đọng, từng bước xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động của quản lý tín dụng các cấp, thực hiện nghiêm túc Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước. Với quan điểm “Mở rộng tín dụng trên cơ sở kiểm soát được rủi ro tín dụng” trong quá trình phát triển tín dụng của mình, NHTMCPQĐ đã mở rộng thêm nhiều hình thức cho vay mới: cho vay mua ô tô trả góp, cho vay du học, cho vay cổ phần hóa, tài trợ xuất nhập khẩu… Thế nên các hoạt động này đã đạt được hiệu quả cao và đóng góp một phần không nhỏ vào thành công chung của hoạt động tín dụng nói chung. Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu thị trường, chọn lựa khách hàng, thẩm định, giải ngân, thu hồi nợ… được tiến hành một cách rất chặt chẽ, theo đúng quy trình nghiệp vụ. Vì vậy, các khoản nợ quá hạn mới phát sinh của Ngân hàng đã giảm thiểu, phần lớn nợ đọng được thu hồi nhanh chóng và tỷ lệ nợ quá hạn vẫn nằm trong hạn mức cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Theo báo cáo thường niên năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn nhóm 2,3,4,5 là 6,85%, tỷ lệ nợ quá hạn nhóm 3,4,5 đạt 2,85%.
Biểu đồ 2.2: Tổng dư nợ của NHTMCPQĐ qua các năm
(Nguồn báo cáo thường niên NHTMCPQĐ hàng năm)
Về các hoạt động phi tín dụng
Với thời gian hoạt động 12 năm qua, bên cạnh hoạt động tín dụng Ngân hàng Quân đội cũng chú trọng tới phát triển các dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng để có thể đáp ứng khách hàng một cách nhanh nhất nhưng vẫn đảm bảo an toàn, thuận tiện, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Đặc biệt trong năm 2006, Ngân hàng Quân đội đã triển khai nhiều dịch vụ mới như dịch vụ Mobile Banking, Internet Banking… và kết hợp với những dịch vụ đã có góp phần vào kết quả chung của NHTMCPQĐ.
Về hoạt động bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội trong nhiều năm liền đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp nhiều lợi nhuận cho chính Ngân hàng. Năm 2004, tổng số dư bảo lãnh đạt 1.163,6 tỷ đồng.Năm 2005, tổng số dư bảo lãnh là 1330 tỷ đồng, tăng 14,3% so với năm trước. Doanh số bảo lãnh tăng mạnh mà chất lượng bảo lãnh vẫn được đảm bảo. Kể từ khi cung cấp dịch vụ, NHTMCPQĐ vẫn chưa phải thực hiện một nghĩa vị bảo lãnh nào. Tổng phí bảo lãnh thu được ngày càng tăng. Năm 2005 tăng 45,26% so với năm 2004; năm 2006 thu phí bảo lãnh đạt 24,031 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này đã góp phần đưa NHTMCPQĐ trở thành Ngân hàng có phí bảo lãnh thu được cao nhất trong hệ thống các Ngân hàng thương mại cổ phần.
Về hoạt động kinh doanh thẻ
Năm 2004 là năm đầu tiên Ngân hàng Quân đội triển khai sản phẩm thẻ ATM Active Plus. Đây là kết quả của sự hợp tác giữa Ngân hàng Quân đội và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cùng 11 Ngân hàng thành viê khác. Sản phẩm thẻ ATM Active Plus của NHTMCPQĐ có những điểm vượt trội hơn các sản phẩm thẻ ATM khác, khách hàng sử dụng sản phẩm thẻ sẽ được bảo hiểm cá nhân 24 giờ trong ngày tại công ty Bảo hiểm Viễn Đông. Kết quả đạt được của hoạt động này là rất khả quan. Năm 2006 tổng số thẻ phát hành toàn hệ thống là 36.562 thẻ, tăng 4,54 lần so với đầu năm, triển khai lắp đặt 52 POS và 32 ATM. Với mục tiêu đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm thẻ, NHTMCPQĐ đang tích cực hoàn thiện đề án, ổn định tổ chức, đầu tư thiết bị, công nghệ, bổ sung nhân lực, mở rộng quan hệ hợp tác để mở ra một thời kỳ phát triển mới đối với hoạt động dịch vụ thẻ.
Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Ngân hàng Quân đội thực hiện hoạt động kinh doanh này không chỉ phục vụ các khách hàng có nhu cầu mà còn phục vụ cho chinh Ngân hàng. Doanh thu và lợi nhuận luôn tăng cao. Đến 31 tháng 12 năm 2006, lợi nhuận tăng 40% so với năm trước, đạt 35,64 tỷ đồng.
Về hoạt động thanh toán quốc tế
Ngân hàng Quân đội bắt đầu thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế vào năm 1996. Cho đến nay, hoạt động này đã phát triển vững chắc, nâng cao vị thế của NHTMCPQĐ trên thị trường tài chính tiền tệ. Về tổng kinh ngạch xuất khẩu: Năm 2005 là 691 triệu USD và Năm 2006 tăng lên 14,5% đạt 791,407 triệu USD. Cùng với doanh thu tăng, thu phí dịch vụ cũng tăng vào năm 2006 đạt 15,6 tỷ đồng, đạt 114% kế hoạch, tăng 13,87% so với cùng kỳ năm trước. Về quan hệ với các Ngân hàng đại lý có nhiều bước tiến. Năm 2005, Ngân hàng Quân đội chỉ mới thiết lập quan hệ đại lý với 350 Ngân hàng khắp các khu vực. Thì nay, năm 2006 NHTMCPQĐ đã tạo dựng quan hệ với 500 Ngân hàng và chi nhánh trên toàn thế giới. Ngoài ra, Ngân hàng còn được một số Ngân hàng lớn trên thế giới cấp hạn mức tín dụng xác nhận L/C với giá trị lớn, rút ngắn thời gian thông báo L/C tại thị trường trung Quốc và thực hiện tốt hoạt động thanh toán hàng đổi hàng với các Ngân hàng Nga.
Về phát triển nguồn nhân lực
Khi mới thành lập, Ngân hàng Quân đội chỉ có 25 nhân viên. Nhưng hơn 12 năm hoạt động vừa qua, đội ngũ nhân viên không ngừng tăng lên. Trong năm 2005, nhận rõ vị trí trọng yếu của chiến lược phát triển nguồn nhân lực, ngoài việc tuyển dụng bổ sung trên 200 cán bộ nhân viên có kinh nghiệm, NHTMCPQĐ đã liên tục tổ chức các chương trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực chuyên nghiệp cho cán bộ nhân viên, chú trọng bố trí sắp xếp nhân sự, không ngừng cải thiện các chính sách đối với người lao động, chăm lo văn hóa Ngân hàng với phương châm “vững vàng - hợp tác - tin cậy”. Tính đến cuối năm 2006, NHTMCPQĐ có đến 1050 cán bộ nhân viên trên toàn hệ thống, trong đó 820 cán bộ nhân viên thuộc Hội sở và các chi nhánh, 230 thuộc các công ty trực thuộc, hơn 75% số cán bộ nhân viên có bằng đại học và trên đại học.
Về phát triển mạng lưới và công ty trực thuộc
Năm 1994, khi NHTMCPQĐ vừa mới được thành lập chỉ có 1 điểm giao dịch, cơ sở vật chất hết sức khiêm tốn. Trong suốt thời gian hoạt động của mình, Ngân hàng Quân đội đã rất chú trọng tới phát triển và mở rộng mạng lưới các chi nhánh, các phòng giao dịch trên tất cả các vùng miền. Năm 2005, số lượng chi nhánh và phòng giao dịch của Ngân hàng là 25, có 2 công ty trực thuộc và Hội sở chính được chuyển về Tòa nhà Ngân hàng Quân đội tại số 3 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội. Tính đến cuối năm 2006, NHTMCPQĐ đã có thêm 13 chi nhánh và phòng giao dịch mới; số công ty trực thuộc hiện nay là 4 gồm: Công ty chứng khoán Thăng Long, Công ty quản lý nợ và khai thác._.óp, cho vay mua và sửa chữa nhà. Chính vì thế khả năng cạnh tranh của Ngân hàng sẽ bị hạn chế. Đồng thời với cách tập trung dư nợ quá nhiều vào hai sản phẩm này sẽ gia tăng rủi ro cho Ngân hàng khi có sự thay đổi bất lợi trong thị trường ô tô và nhà đất.
2.2.5.4. Tình hình nợ quá hạn cho vay tiêu dùng
Như phần lý thuyết Chương I trình bày về đặc điểm của cho vay tiêu dùng, chúng ta đã biết cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao. Nhưng tại Ngân hàng Quân đội, tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng là rất thấp. Đây là kết quả của việc kiểm soát rủi ro tín dụng chặt chẽ, thường xuyên theo dõi các khoản vay và đốc thúc nợ. Quá trình thu nợ lãi và gốc thực hiện theo đúng quy trình nghiệp vụ, diễn ra hết sức nghiêm túc.
Năm 2001 khi Ngân hàng bắt đầu triển khai cho vay tiêu dùng, do chưa có kinh nghiệm, chưa có chiến lược cho vay tiêu dùng cho nên nợ quá hạn vào cuối năm 2001 của cho vay tiêu dùng là khá cao. Nhưng sau năm 2001, tình hình đã được cải thiện, nợ quá hạn chỉ phát sinh với các khoản trả góp. Tuy nhiên, sau khi gia hạn nợ khách hàng đã hoàn trả đầy đủ cho Ngân hàng. Trong 3 năm trở lại đây, tỷ lệ nợ quá hạn của cho vay tiêu dùng ngày càng giảm. Nếu phân loại nợ theo quyết định 493 thì tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng Quân đội năm 2006 là 6,85%. Trong khi đó, tỷ lệ nợ quá hạn của hoạt động cho vay tiêu dùng là thấp hơn 2,75%. Một trong những lý do làm cho tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng thấp như vậy là vì các khoản vay tiêu dùng của Ngân hàng Quân đội có nguồn trả nợ ổn định hơn so với các nguồn trả nợ của các hình thức cho vay khác. Và đây cũng chính là kết quả sự nỗ lực của chính NHTMCPQĐ trong việc khắc phục một nhược điểm lớn của cho vay tiêu dùng đó là tính rủi ro cao.
2.2.5.5. Thu từ lãi của hoạt động cho vay tiêu dùng
Bảng 2.8: Thu từ lãi của hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ giai đoạn 2004 – 2006
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Thu
Tỷ lệ%
Thu
Tỷ lệ%
Thu
Tỷ lệ %
Lãi cho vay tiêu dùng
39
12,91
57
15,45
92
17,83
Lãi cho vay khác
263
87,09
312
84,55
424
82,17
Tổng cộng
302
100,00
369
100,00
516
100,00
(Nguồn Báo cáo kết quả kinh doanh NHTMCPQĐ)
Ở phần trước trình bày về dư nợ cho vay tiêu dùng, chúng ta cũng biết được rằng dư nợ của hoạt động này tại Ngân hàng Quân đội thấp hơn nhiều so với dư nợ của các hoạt động cho vay khác, nên lãi thu được từ cho vay tiêu dùng cũng thấp hơn. Nhưng qua các năm, thu từ lãi của hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ luôn tăng với tốc độ gia tăng khá nhanh, góp một phần không nhỏ vào lợi nhuận của Ngân hàng.
Mặc dù tổng thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Quân đội hiện nay còn thấp so với các hình thức cho vay khác, nhưng nếu xét mức thu lãi trên một đồng vốn cho vay thì hoạt động cho vay tiêu dùng lại cao hơn nhiều. Chứng tỏ, một đồng vốn Ngân hàng bỏ ra, thì hoạt động cho vay tiêu dùng đem lại một nguồn thu lãi cao hơn so với các hình thức cho vay khác. Mặt khác tại Ngân hàng Quân đội chi phí của các hình thức cho vay là gần như tương đương nhau. Vậy nên, cho vay tiêu dùng mang lại hiệu quả cao hơn các hoạt động cho vay khác. Đây chính là sản phẩm mang lại lợi ích kinh tế cao cho Ngân hàng và trong tương lai sắp tới Ngân hàng cần mở rộng hoạt động này.
Bảng 2.9: Mức thu lãi trên một đồng vốn cho vay tại NHTMCPQĐ thời kỳ 2004 – 2006
(Đơn vị: Đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Lãi cvtd/1 đồng vốn cho vay
0,107
0,120
0,124
Lãi cvk/1 đồng vốn cho vay
0,074
0,078
0,078
(Nguồn Báo cáo tín dụng & kết quả kinh doanh NHTMCPQĐ)
2.2.6. Đánh giá khái quát về cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội
2.2.6.1. Thành tựu đạt được
Như vậy thông qua phân tích kết quả cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Quân đội trong giai đoạn 2004 - 2006 ta nhận thấy Ngân hàng triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng là một chính sách hoàn toàn hợp lý. Hoạt động này đã thu được một số thành công đáng kể như sau:
Tốc độ tăng trưởng dư nợ, tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cao và ổn định
Tỷ lệ nợ quá hạn thấp
Mức thu lãi trên một đồng vốn vay cao
Số lượng khách hàng ngày càng tăng
Có được những thành tựu như trên một phần là do Ngân hàng đã có những chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn, biết thu hút khách hàng, các cán bộ tín dụng đã cố gắng khắc phục những khó khăn hiện có, cùng với đó là sự ủng hộ của các Ngân hàng khác cũng như các đối tác, các khách hàng.
2.2.6.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được như trên thì hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội còn có những hạn chế như:
Dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ còn thấp
Thu từ lãi của cho vay tiêu dùng còn thấp hơn các hình thức cho vay khác, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng thu lãi từ hoạt động tín dụng
Sản phẩm chưa đa dạng, chỉ mới triển khai các sản phẩm thông thường mà hầu hết các Ngân hàng khác đều có, chưa có sự khác biệt để thu hút các khách hàng
Dư nợ tập trung quá nhiều vào các sản phẩm truyền thống
Với những hạn chế ở trên, có hai nhóm nguyên nhân gây ra đó là những nguyên nhân từ phía Ngân hàng – nguyên nhân chủ quan và những nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân chủ quan
So với những Ngân hàng khác thì có thể nói Ngân hàng Quân đội có ít kinh nghiêm hơn trong hoạt động cho vay tiêu dùng. Vì khi Ngân hàng bắt đầu triển khai hoạt động này vào năm 2001 thì một số Ngân hàng bán lẻ tiêu biểu tại Việt Nam đã tiến hành từ trước và đã thu được khá nhiều kinh nghiệm. Hơn nữa thị trường mục tiêu ban đầu mà Ngân hàng lựa chọn không phải là cho vay tiêu dùng mà là cho vay các doanh nghiệp quân đội. Vậy nên, để có thể đủ sức cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại khác, năm 2001 Ngân hàng Quân đội vừa nghiên cứu vừa triển khai ứng dụng lĩnh vực cho vay tiêu dùng nên kết quả ban đầu đạt được không như những Ngân hàng khác là điều hết sức dễ hiểu. Thêm vào đó, vì vừa triển khai vừa đúc rút kinh nghiệm cho nên để đảm bảo an toàn Ngân hàng cũng không dám triển khai nhiều sản phẩm ngay từ đầu cho nên dẫn tới kết quả là sản phẩm của hoạt động cho vay tiêu dùng còn hạn chế so với các Ngân hàng thương mại khác. Nhưng trong những năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng ngày càng được Ngân hàng chú trọng và phát triển. Với sự quan tâm như vậy, hy vọng trong thời gian tới hoạt động này sẽ phát triển hơn nữa.
Hoạt động Marketing của Ngân hàng Quân đội chưa thực sự hiệu quả. Thời gian qua, hầu hết hoạt động Marketing của Ngân hàng chỉ nhằm để quảng bá hình ảnh của Ngân hàng thông qua các phương tiện như báo, tạp chí, trang web. Với những phương tiện như vậy thì tác động còn rất ít tới các đối tượng có nhu cầu cho vay tiêu dùng. Hơn thế, các kênh quảng bá của Ngân hàng chủ yếu tập trung vào hoạt động chung chứ chưa có được sự quảng bá về cho vay tiêu dùng. Trong khi đó, một số Ngân hàng thương mại khác đã và đang hết sức chú trọng vào công tác Marketing, đặc biệt họ rất quan tâm và đã sử dụng truyền hình - một phương tiện quảng bá có tính đại chúng - làm kênh quảng cáo nhằm giới thiệu về nhiều hoạt động của họ trong đó có cho vay tiêu dùng và các sản phẩm hiện có của Ngân hàng. Mà thực tế, phương tiện này chưa được Ngân hàng Quân đội sử dụng thường xuyên. Thông qua truyền hình sẽ có rất nhiều đối tượng không chỉ quan tâm đến vị trí, hình ảnh của NHTMCPQĐ mà còn quan tâm nhiều tới các sản phẩm của Ngân hàng nói chung và lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng.
Về nguồn nhân lực của Ngân hàng như đã trình bày ở những phần trước, hiện nay Ngân hàng Quân đội còn thiếu một đội ngũ cán bộ nhân viên tín dụng có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, số lượng còn quá mỏng, thiếu kinh nghiệm, tuổi nghề chỉ mới 3 - 4 năm. Thêm vào đó, Ngân hàng Quân đội vừa tiến hành đổi mới cơ cấu tổ chức của mình theo hướng Ngân hàng hiện đại, một số phòng ban vừa thành lập, chia tách nên hoạt động còn chưa hiệu quả, còn thiếu kinh nghiệm. Trong một thời gian dài, hầu hết các cán bộ tín dụng chủ yếu thực hiện cho vay đối với doanh nghiệp nên khi họ chuyển sang lĩnh vực cho vay tiêu dùng họ không thể tránh khỏi những bở ngỡ, phải vừa làm vệc vừa trang bị thêm kiến thức, vừa đúc rút kinh nghiệm. Ngoài ra, cùng với đổi mới cơ cấu, Ngân hàng Quân đội cũng tiến hành mở rộng các chi nhánh, mở rộng quy mô và cơ cấu sản phẩm cho nên dẫn tới tình trạng thiếu nhân viên tín dụng, đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Như vậy hiệu quả của cho vay tiêu dùng sẽ bị giảm sút khá nhiều.
Nguyên nhân khách quan
Mặc dù trong thời gian qua, nhiều văn bản pháp luật về cho vay tiêu dùng đã hình thành và áp dụng nhưng trên thực tế thì hành lang pháp lý của hoạt động này còn chưa hoàn toàn đảm bảo. Một số quy định không rõ ràng như về phát mại và xử lý tài sản, tiến trình và cơ chế thực hiện một số văn bản liên quan còn chậm... Chính những điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay tiêu dùng.
Nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng cùng với đó những yêu cầu mà khách hàng đưa ra với Ngân hàng ngày càng nhiều. Khách hàng không chỉ muốn nhu cầu của mình được Ngân hàng đáp ứng, thủ tục đơn giản, thời gian xét duyệt nhanh chóng, sản phẩm có chất lượng cao mà còn yêu cầu thái độ phục vụ của Ngân hàng phải nhiệt tình, niềm nở, cởi mở. Vậy nên Ngân hàng gặp phải rất nhiều khó khăn đối với những khách hàng khó tính, có yêu cầu cao. Mặc dù hiện nay, các nhân viên của Ngân hàng Quân đội đã cố gắng rất nhiều tuy nhiên sự lựa chọn vẫn thuộc về khách hàng.
Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại đã làm cho hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội gặp phải rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với cho vay tiêu dùng. Hầu hết các Ngân hàng khác đều có những thay đổi về một số thuộc tính của sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng, lôi kéo khách hàng. Trong khi đó, với sản phẩm còn hạn chế, rất phổ biến nên việc thu hút lôi kéo khách hàng bằng sản phẩm đa dạng, có tính cạnh tranh cao tại Ngân hàng Quân đội là vấn đề hết sức khó khăn.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
Năm 2007 là năm đầu tiên các cam kết WTO và PNTR chính thức có hiệu lực, góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với khối Ngân hàng, năm 2007 được dự đoán sẽ là cuộc cạnh trang quyết liệt về thị phần giữa các Ngân hàng cổ phần với các Ngân hàng quốc doanh và giữa các Ngân hàng cổ phần với nhau. Đồ thị tăng trưởng năm 2007 của các Ngân hàng cổ phần được dự đoán đi lên ngang bằng, lãi suất tiền gửi tăng cao do các Ngân hàng đẩy mạnh cạnh tranh bằng lãi suất. Đặc biệt đến tháng 4 năm 2007, khi các Ngân hàng nước ngoài được thành lập chi nhánh 100% vốn thì thị trường Ngân hàng sẽ càng cạnh tranh sôi động hơn, thị phần sẽ được chia sẻ.
Với những dự báo lạc quan về một nền kinh tế tăng trưởng mạnh dựa trên những kết quả đạt được trong năm 2006, NHTMCPQĐ đặt ra cho mình một mục tiêu an toàn và hiệu quả, theo định hướng phát triển bền vững và đảm bảo mức tăng trưởng của toàn hệ thống trên 40% (trừ chỉ tiêu dư nợ). Vốn điều lệ đạt tối thiểu 1.800 tỷ đồng, tăng 72% so với năm 2006, vốn chủ sở hữu đạt tối thiểu 3.400 tỷ đồng, tăng 1,4 lần. Vốn huy động tối thiểu đạt 16.500 tỷ đồng, tăng 46%, dư nợ đạt 8.300 tỷ đồng, tăng 34% đảm bảo nợ nhóm 3+4+5 dưới mức 3%, trong đó chú trọng đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng. Tăng tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo. Song song với đó, NHTMCPQĐ cũng tiếp tục mở rộng mạng lưới hoạt động trên phạm vi toàn quốc với tối thiểu 65 điểm giao dịch đến 31 tháng 12 năm 2007; nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị, điều hành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ nhân viên theo hướng chuyên nghiệp và đáp ứng yêu cầu quản lý, kinh doanh. Ngoài ra, NHTMCPQĐ không ngừng đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm dành cho khách hàng cá nhân cùng với việc tập trung hoàn thiện, đóng gói các sản phẩm hiện có, tăng tỷ lệ thu phí tín dụng trong tổng doanh thu, mở rộng và nâng cao chất lượng danh mục đầu tư. Bên cạnh đó, NHTMCPQĐ sẽ tiếp tục triển khai đề án thương hiệu theo lộ trình, tăng cường quảng bá hình ảnh thương hiệu của mình, hoàn thiện quy trình sản phẩm dịch vụ, quy trình ngiệp vụ.
Có thể nói, những mục tiêu và kế hoạch mà Ngân hàng Quân đội đặt ra cho năm 2007 là rất tham vọng, tạo tiền đề cho yêu cầu tăng trưởng mới cho những năm tiếp theo. Để đạt được mục tiêu đó, toàn thể cán bộ nhân viên Ngân hàng Quân đội sẽ phải nỗ lực hết sức mình để hoàn thành kế hoạch đề ra. Với những két quả đã đạt được, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng và hy vọng vào thành công của NHTMCPQĐ trong năm tới.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
Trên cơ sở phân tích một số hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Quân đội chưa thực sự cao, chưa được mở rộng tương xứng với khả năng của Ngân hàng trong thời gian qua. Sau đây, em xin đề xuất nhóm các giải pháp nhằm khắc phục hạn chế mà Ngân hàng hiện đang gặp phải, đồng thời phát huy các thế mạnh của mình để có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng thời gian tới.
3.2.1. Giải pháp về sản phẩm dịch vụ
Một trong những hạn chế lớn của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội là các sản phẩm dịch vụ chưa thực sự hoàn thiện, chưa phong phú.
3.2.1.1. Hoàn thiện các sản phẩm hiện có
Hiện nay, Ngân hàng Quân đội đang cung cấp một số sản phẩm cho vay tiêu dùng tuy nhiên việc triển khai các sản phẩm là không đồng đều. Vậy nên, điều cần thiết hiện nay là hoàn thiện các sản phẩm hiện có.
Đối với sản phẩm cho vay mua ô tô trả góp:
- Về thời hạn vay: Đây là một trong những yếu tố quan trọng tới quyết định vay vốn của khách hàng. Vì trên thực tế, khách hàng khi vay vốn với thời hạn ngắn thì rất khó có khả năng trả nợ đúng hạn, đồng nghĩa với đó chính là tạo áp lực trả nợ quá lớn cho khách hàng. Tại Ngân hàng Quân đội hiện nay, thời hạn của sản phẩm này là 36 tháng (3 năm). Vì vậy sẽ hạn chế khả năng thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng. Hơn nữa trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, Việt Nam chính thức gia nhập vào WTO, các Ngân hàng Việt Nam và Ngân hàng Quốc tế sẽ cạnh tranh bình đẳng hơn thì việc thay đổi thời hạn vay của cho vay mua ô tô trả góp phù hợp với các Ngân hàng Quốc tế tại Việt Nam là hoàn toàn hợp lý. Cũng là sản phẩm này nhưng tại ANZ thời hạn vay là 4 năm, của HSBC là 54 tháng (4,5 năm)… vậy thì Ngân hàng Quân đội nên kéo dài hơn nữa thời hạn cho vay thành 5 năm. Có như vậy Ngân hàng vừa có thể cạnh tranh với các Ngân hàng khác, thu hút được nhiều khách hàng hơn, khách hàng sẽ yên tâm hơn về khả năng trả nợ của mình, các sản phẩm dịch vụ khác cũng có điều kiện phát triển theo.
- Ngân hàng Quân đội có thể liên kết với các hãng sản xuất ô tô, có thể phát triển thêm sản phẩm này theo hình thức cho vay gián tiếp. Quan trọng là Ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định khách hàng một cách chặt chẽ, không nên quá tin tưởng vào lựa chọn của các công ty liên kết. Còn về quy trình nghiệp vụ thực hiện thì đối với đội ngũ nhân viên thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng thêm, nâng cao trình độ nghiệp vụ thì hoàn toàn có đủ khả năng thực hiện. Hơn thế thông qua hình thức liên kết này không chỉ Ngân hàng tìm kiếm được nhiều khách hàng hơn mà còn phát triển được mối quan hệ với đối tác, có thể cung cấp cho các công ty liên kết này nhiều sản phẩm dịch vụ khác của mình. Hoạt động của Ngân hàng sẽ phát triển một cách toàn diện hơn.
Đối với sản phẩm cho vay mua và sửa chữa nhà:
- Về thời hạn vay: So với các hình thức cho vay tiêu dùng khác, cho vay mua & sửa chữa nhà là khoản tài trợ của Ngân hàng có giá trị lớn nhất. Vì giá trị căn nhà thường lớn nên khi Ngân hàng tiến hành cho vay khoảng 50% - 60% giá trị căn nhà cũng là một con số rất lớn. Vậy nên, khách hàng chỉ với thời hạn tối đa 5 năm rất khó có thể trả nợ cho Ngân hàng. Vì vậy để thuận lợi và thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng, cũng như Ngân hàng không gặp vấn đề khó khăn trong công tác thu hồi nợ thì NHTMCPQĐ nên tăng thời hạn cho vay lên thành 7 năm. Với thời hạn vày dài như thế, khách hàng sẽ mạnh dạn và chủ động tìm đến Ngân hàng vay vốn hơn.
- Cũng giống như sản phẩm cho vay mua ô tô trả góp, cho vay mua & sửa chữa nhà cũng có thể liên kết với các đơn vị chủ thầu xây dựng chung cư. Đây là một biện pháp giúp hoàn thiện hơn nữa sản phẩm cho vay này.
Đối với sản phẩm cho vay du học
Đây là một trong những sản phẩm khá hoàn thiện thuộc lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Nhưng không phải không có hạn chế, đấy chính là chính sách quảng bá về sản phẩm này không nhiều. Với xu thế ngày càng tăng nhu cầu vay du học, thế nhưng dư nợ của sản phảm này chỉ chiếm 4,5% tổng dư nợ cho vay tiêu dùng. Biện pháp đưa ra nhằm cải thiện tình hình này có thể tiến hành chính là:
Thứ nhất, Ngân hàng nên tổ chức giới thiệu sản phẩm cho vay du học tới các khách hàng tiềm năng của Ngân hàng như các học sinh trung học phổ thông, các sinh viên ngay tại các trường trung học, đại học. Có như vậy thì khi có nhu cầu tìm một nguồn tài chính hỗ trợ cho du học, chính họ sẽ nghĩ ngay đến Ngân hàng Quân đội.
Thứ hai, Ngân hàng có thể liên kết với trung tâm tư vấn du học, để trong số những thông tin mà trung tâm cung cấp cho các cá nhân có nhu cầu có thêm thông tin về sản phẩm này. Qua đó, tạo điều kiện cho sản phẩm để khách hàng biết đến và cân nhắc lựa chọn
Thứ ba, bên cạnh liên kết với các trung tâm tư vấn du học NHQĐ cũng nên có các mối quan hệ với đại sứ quán của các nước mà khách hàng thường có nhu cầu du học. Để qua đó, họ giới thiệu về sản phẩm cho vay du học tới các đối tượng có nhu cầu.
Đối với sản phẩm cho vay đối với cán bộ công nhân viên
Những khoản vay của sản phẩm này thường có giá trị không lớn lắm, thời hạn ngắn, nguồn trả nợ chính là thu nhập hàng tháng của khách hàng. Mà như chúng ta đã biết, khách hàng truyền thống của Ngân hàng Quân đội chính là các doanh nghiệp. Vậy nên, chúng ta có thể thông qua các doanh nghiệp này triển khai quảng bá hình thức cho vay này, cũng như tiến hành quy trình nghiệp vụ cho vay. Cụ thể Ngân hàng sẽ tiếp xúc với ban lãnh đạo của các doanh nghiệp này, sau đó doanh nghiệp sẽ giới thiệu sản phẩm này cho các cán bộ công nhân viên, lập một danh sách những người có nhu cầu vay vốn và gửi tới cho Ngân hàng. Cán bộ tín dụng của Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra, thẩm định thông tin mà doanh nghiệp cung cấp, nếu khách hàng nào đủ khả năng và đáp ứng được những điều kiện mà Ngân hàng đưa ra, Ngân hàng có thể tiến hành cấp tín dụng cho họ. Quá trình giải ngân và thu hồi nợ cũng được tiến hành thông qua doanh nghiệp. Như vậy là sản phẩm này có cơ hội phát triển hơn, quan hệ giữa Ngân hàng với doanh nghiệp ngày càng được tăng cường và củng cố. Thêm vào đó, đối với những khoản vay này cũng cần gia tăng thời hạn cho vay vì với thu nhập hàng tháng của mình khách hàng nhiều lúc sẽ gặp vấn đề khó khăn trong thanh toán nợ với Ngân hàng và chi phí trang trải cho sinh hoạt. Vì vậy, khi được gia hạn các khách hàng sẽ giảm thiểu được gánh nặng này.
3.2.1.2. Triển khai các sản phẩm mới
Sản phẩm mà Ngân hàng cần triển khai hiện nay chính là cho vay để đổi nhà. Đây là một sản phẩm mà ACB đã triển khai và thu được nhiều thành công. Vì hiện nay, nhu cầu đổi ngôi nhà hiện tại để có ngôi nhà tốt hơn đang có xu hướng gia tăng. Hơn thế Ngân hàng Quân đội hoàn toàn có thể cung cấp dịch vụ này. Vì tài sản mới được hình thành nếu Ngân hàng tài trợ cho khách hàng chính là ngôi nhà mới tốt hơn, giá trị sẽ cao hơn và Ngân hàng có thể xem nó như là tài sản đảm bảo cho khoản vay của khách hàng. Hơn nữa căn nhà cũ cũng có giá trị, Ngân hàng chỉ tài trợ thêm một phần của phần thiếu hụt khi khách hàng tiến hành đổi nhà. Như vậy mục tiêu an toàn của hoạt động Ngân hàng vẫn được đảm bảo, thu nhập Ngân hàng sẽ tăng lên, danh mục sản phẩm được phát triển.
Hiện nay, có rất nhiều Ngân hàng thương mại đã và đang triển khai hoạt động cho vay mua ô tô đã qua sử dụng. Đây cũng có thể là một sản phẩm mà Ngân hàng có thể cung cấp. Nhưng vì là ô tô đã qua sử dụng nên giá trị còn lại của ô tô nhiều khi không cao. Cho nên, khi tiến hành hoạt động này Ngân hàng Quân đội cần chú ý cao tới khâu thẩm định khách hàng, thẩm định tài sản - chính là ô tô đã qua sử dụng, mức cho vay phải hợp lý, và cần phải có những quy định chặt chẽ khác về hình thức cho vay này để nhằm đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro cho khoản vay (loại ô tô đã qua sử dụng bao lâu, giá trị còn lại tối thiểu phải bằng bao nhiêu phần trăm nguyên giá…)
Sản phẩm thứ ba Ngân hàng có thể triển khai chính là cho vay mua xe máy. Đây cũng là một sản phẩm mà nhiều Ngân hàng hiện đang khai thác. Nhu cầu mua xe máy tăng cao trong những năm gần đây. Khi triển khai hình thức cho vay này, Ngân hàng có thể đưa ra hạn mức cho vay đối với khách hàng là tối đa 75% giá trị xe, sẽ phải thanh toán nợ theo hình thức trả góp hàng tháng. Vì vậy Ngân hàng hoàn toàn có khả năng thực hiện vì giá trị món vay cũng không quá cao, nguồn trả nợ cho Ngân hàng có thể được đảm bảo bằng thu nhập hàng tháng của chính khách hàng. Kết quả là doanh số cho vay sẽ tăng cao, nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng.
3.2.2. Đơn giản hóa điều kiện cho vay
Đối với hầu hết các sản phẩm cho vay của Ngân hàng, một trong những điều kiện bắt buộc đối với các khách hàng khi làm đơn xin vay chính là phải có hộ khẩu thường trú tại địa bàn Hà nội. Hơn thế, đến thời điểm hiện nay Ngân hàng Quân đội chỉ có chi nhánh ở một số tỉnh thành phố như Hà nội, Hải phòng, Đà nẵng, Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Việt trì… Vì vậy điều kiện vay vốn cộng thêm số lượng chi nhánh còn tập trung như vậy dẫn tới một bộ phận khách hàng không nhỏ bị bỏ qua. Do đó, điều kiện này Ngân hàng Quân đội nên bỏ qua để có thể mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng.
3.2.3. Tăng cường hoạt động Marketing
Hiện nay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội đã có phòng Marketing với chức năng nhiệm vụ được xác định rất cụ thể. Tuy nhiên, hiện nay tác dụng của hoạt động Marketing với hoạt động cho vay tiêu dùng còn rất hạn chế. Để có thể phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng trong thời gian tới, Ngân hàng cần tăng cường hơn nữa các hoạt động Marketing về các sản phẩm cho vay tiêu dùng. Vì đối tượng khách hàng của cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình có những đặc điểm khác biệt so với các đối tượng khách hàng khác. Đối tượng khách hàng này có thể nói là rất ít đọc các tạp chí chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng, thế nhưng đây chính là một trong những kênh quảng cáo chính của Ngân hàng Quân đội. Vì thế nên Ngân hàng chưa quảng bá được nhiều tới các đối tượng khách hàng về sản phẩm cho vay tiêu dùng của mình. Để khắc phục, Ngân hàng có thể tiến hành lựa chọn các kênh quảng cáo như:
- Quảng cáo trên truyền hình - một kênh thông tin mang tính đại chúng. Đây là một hình thức mà khá nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam lựa chọn và đã thu được rất nhiều thành công. Mỗi hình ảnh, mỗi lời nói về các sản phẩm cho vay tiêu dùng có thể tới trực tiếp người xem, người nghe, tác động trực tiếp vào chính sự lựa chọn của khách hàng. Mặc dù có thể nói chi phí cho việc quảng cáo qua truyền hình cao hơn so với chi phí quảng cáo qua báo chí nhưng hiệu quả mà nó mang lại là hết sức to lớn. Bên cạnh đó, Ngân hàng Quân đội cũng có thể tiến hành tài trợ cho một chương trình cụ thể nào đó của truyền hình mà phù hợp với chính Ngân hàng. Qua đây, số lượng khách hàng quan tâm và lựa chọn Ngân hàng sẽ tăng lên, sản phẩm cho vay tiêu dùng sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn hiện nay.
- Quảng cáo qua thư điện tử về một số sản phẩm như cho vay du học, cho vay mua ô tô trả góp… Hiện nay, Internet là một kênh thông tin được khá nhiều người sử dụng ở Việt Nam, đặc biệt là các đối tượng như học sinh, sinh viên, những cá nhân và gia đình có thu nhập cao. Thông qua đó, Ngân hàng có thể giới thiệu về các sản phẩm cho vay tiêu dùng, thông điệp mà Ngân hàng muốn gửi tới khách hàng.
3.2.4. Tiếp tục hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng và tăng cường bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng
Về công nghệ Ngân hàng, hiện nay Ngân hàng Quân đội đã và đang đầu tư phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng các phần mềm quản trị hàng đầu. Tuy nhiên, để hoạt động cho vay tiêu dùng có khả năng mở rộng thì Ngân hàng cần phải đầu tư công nghệ cho lĩnh vực này nhiều hơn nữa. Ngân hàng cần phải nghiên cứu và triển khai hệ thống thông tin trực tuyến giữa khách hàng và các bộ phận phụ trách mảng tín dụng tiêu dùng. Có như vậy mới tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng, có thể không cần phải tới Ngân hàng nhưng họ cũng có thể nắm bắt được các thông tin cần thiết về các sản phẩm dịch vụ cho vay tiêu dùng. Thêm vào đó, Ngân hàng sẽ nắm bắt nhanh chóng và chính xác nhu cầu của khách hàng để rồi có thể mở rộng các sản phẩm thuộc lĩnh vực cho vay tiêu dùng ngày một đa dạng, phong phú và chất lượng không ngừng nâng cao.
Còn về nguồn nhân lực luôn là yếu tố cực kỳ quan trọng quyết định tới thành công của Ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Vậy nên, điều cần thiết đầu tiên là phải tăng số lượng nhân viên tín dụng. Hiện nay, mặc dù thường xuyên tuyển dụng thêm nhiều nhân viên mới nhưng so với tốc độ phát triển của Ngân hàng thì số lượng nhân viên còn quá ít, tình trạng một cán bộ tín dụng phải kiêm nhiệm cùng một lúc quá nhiều khách hàng thường xuyên xảy ra. Chính vì thế hiệu quả hoạt động sẽ không cao. Song song với phát triển số lượng nhân viên là nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng. Nhân viên tín dụng phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về kỹ thuật nghiệp vụ của cho vay tiêu dùng. Hiện nay, Ngân hàng đã và đang tổ chức bồi dưỡng đào tạo các cán bộ tín dụng không chỉ trong nước mà còn ngoài nước. Hy vọng hình thức đào tạo này tiếp tục được Ngân hàng duy trì, đặc biệt là bồi dưỡng nâng cao về nghiệp vụ cho vay tiêu dùng để Ngân hàng có đủ nguồn lực mở rộng hoạt động này.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào về hoạt động cho vay tiêu dùng. Vậy nên, để tạo thuận lợi cho hoạt động này, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng ban hành các quyết định cụ thể đối với lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó, các quy chế về đảm bảo tiền vay, xử lý tài sản đảm bảo cần được nghiên cứu và ban hành sao cho hợp lý và thuận lợi hơn; áp dụng nhiều hơn hệ thống các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động Ngân hàng.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải tạo dựng một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng. Đặc biệt là giữa các Ngân hàng thương mại cổ phần và các Ngân hàng thương mại Nhà nước.
3.3.2. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước
Như chúng ta dã biết mọi hoạt động trong nền kinh tế đều chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Trong những năm qua, nhiều chính sách, văn bản pháp luật mới ban hành đã góp phần tạo cơ hội cho các Ngân hàng thương mại phát triển và hoạt động an toàn hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó, không phải không có bất cập xảy ra và đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các Ngân hàng thương mại.
Với những lợi ích mà hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại không chỉ riêng gì cho các Ngân hàng mà còn đối với các khách hàng, với nền kinh tế, hy vọng Chính phủ cũng như các cơ quan ban ngành sẽ tạo mọi điều kiện cho hoạt động cho vay này phát triển. Đó là ổn định nền kinh tế, xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp, đẩy nhanh tốc độ giải quyết các văn bản liên quan tới hoạt động của Ngân hàng (cấp sổ đỏ, thực hiện công chứng các giấy tờ cần thiết…)…
KẾT LUẬN
Tóm lại Ngân hàng Quân đội triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với xu thế phát triển của các Ngân hàng thương mại và của nền kinh tế. Hoạt động này đã mang lại nhiều lợi ích to lớn cho người tiêu dùng, cho Ngân hàng và cho toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, hoạt động này còn gặp phải một số khó khăn, hạn chế. Vậy nên, với một lĩnh vực mới mẻ như thế này các Ngân hàng thương mại trong đó có Ngân hàng Quân đội còn phải quan tâm và chú trọng nhiều hơn nữa.
Hiện nay khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, nhiều Ngân hàng quốc tế sẽ được phép thành lập các chi nhánh tại Việt Nam thì hoạt động cho vay tiêu dùng thời gian tới hứa hẹn sẽ còn phát triển và mở rộng hơn nữa. Sự cạnh tranh sẽ càng sôi động hơn, thị phần sẽ phải chia sẻ. Do vậy đòi hỏi Ngân hàng Quân đội phải có chiến lược đúng đắn, sách lược hợp lý đối với cho vay tiêu dùng nhằm mở rộng, thúc đẩy hoạt động này phát triển.
Bằng phương pháp nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận kết hợp với tình hình thực tế của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Quân đội chuyên đề này đã thể hiện những nội dung cơ bản nhất về hoạt động này tại NHTMCPQĐ cũng như đưa ra một số giải pháp, kiến nghị với các cơ quan, ban ngành có liên quan. Tuy nhiên, chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo, của Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ nhân viên Ngân hàng cũng như của các bạn để có thể hoàn thiện tốt hơn nữa chuyên đề này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Peter S.Rose (2004), “Quản trị Ngân hàng thương mại”
PGS.TS Phan Thị Thu Hà (2006), “Ngân hàng thương mại”
PGS.TS Lê Văn Tề (2004), “Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại”
Báo cáo thường niên NHTMCPQĐ các năm 2004, 2005 và 2006
Báo cáo tín dụng NHTMCPQĐ các năm 2004, 2005 và 2006
Bản tin nội bộ tháng 2 năm 2007
Thời báo Sài gòn số 31 - 2005 ngày 28/7/2005
Trang web Military.com.vn; VN Express; VietNamnet…
NHẬN XÉT CỦA NGÂN HÀNG
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
Hà Nội, ngày tháng năm 2007
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32136.doc