Tài liệu Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội Lê Trọng Tấn: LỜI MỞ ĐẦU
Cách đây khoảng hơn 20 năm về trước, khái niệm Cho vay tiêu dùng còn khá mới đối với hoạt động của các ngân hàng Việt Nam. Nhưng chỉ một vài năm trở lại đây, cho vay tiêu dùng đã trở thành mục tiêu của nhiều ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống ngày càng cao. Đó là điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng nói chung và lĩnh vực cho vay t... Ebook Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội Lê Trọng Tấn
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội Lê Trọng Tấn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêu dùng nói riêng phát triển.
Trong những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Quân Đội Lê Trọng Tấn luôn tự hào là chi nhánh xuất sắc về tất cả các hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng và đóng góp lợi nhuận cao cho hệ thống. Trong hoạt động tín dụng của chi nhánh thì cho vay tiêu dùng là hoạt động được chú trọng phát triển và đóng góp ngày càng lớn vào kết quả kinh doanh của Chi nhánh. Cho vay tiêu dùng đã có sự tăng trưởng về số lượng cũng như chất lượng, tuy nhiên hoạt động này của Chi nhánh chưa được phát huy hết khả năng.
Trong thời gian tới, Chi nhánh Ngân hàng Quân Đội Lê Trọng Tấn sẽ gặp nhiều thách thức từ sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước khác trên địa bàn cũng như ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là về ngân hàng bán lẻ. Trong đó, cho vay tiêu dùng chứa đựng nhiều cơ hội cũng như thách thức nhất đối với mỗi ngân hàng thương mại. Trong điều kiện đó, Chi nhánh Lê Trọng Tấn phải có một chiến lược mở rộng cho vay tiêu dùng hiệu quả. Để thực hiện chiến lược này, cần có các giải pháp đồng bộ và thực tiễn. Xuất phát từ yêu cầu này, đề tài nghiên cứu “Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội Lê Trọng Tấn” đã được thực hiện.
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Chương 2. Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội Lê Trọng Tấn
Chương 3. Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Lê Trọng Tấn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em đã cố gắng nghiên cứu nhiều nguồn tài liệu khác nhau để hoàn thành đề tài nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót cả về nội dung lẫn hình thức. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để chuyên đề tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái quát về cho vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm cho vay của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Không chỉ có vậy, ngân hàng còn là tổ chức cho vay đối với doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Sự ra đời của các ngân hàng thương mại đã đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế. Đó là cầu nối, là người dẫn vốn cho các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế.
Trong các hoạt động của ngân hàng thì cho vay là hoạt động cơ bản và truyền thống nhất. Nó tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng và giúp ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động một cách hiệu quả nhất.
Khái niệm về cho vay có thể được hiểu như sau: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng theo đó ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích nhất định trong thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại
Căn cứ vào thời hạn cho vay
Phân chia cho vay theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của cho vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Căn cứ vào thời hạn cho vay thì cho vay được chia làm ba loại gồm:
Cho vay ngắn hạn
Là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn
Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 5 năm. Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành nên vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn
Là loại cho vay có thời hạn từ trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên tới 20 - 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm. Các khoản vay thuộc loại này được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm với khách hàng
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm 2 loại:
Cho vay không bảo đảm
Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, thường là khách hàng thường xuyên làm ăn có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay, ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có bảo đảm
Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Sự bảo đảm cho phép các ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất từ quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng không có hoặc không đủ để trả nợ ngân hàng. Hình thức này thường áp dụng với các khách hàng chưa có uy tín, hoặc uy tín không cao đối với ngân hàng.
Căn cứ vào phương thức cho vay
Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trên só dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo, khách hàng có thể rút vốn một lần hoặc nhiều lần nhưng tổng số tiền của các khoản rút vốn không được vượt quá số tiền vay ghi trong hợp đồng.
Cho vay theo hạn mức
Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư nợ tối đa tại thời điểm tính. Trong kỳ khách hàng có thể vay - trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.
Đây là hình thức vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh, có quan hệ lâu dài với ngân hàng, có khả năng tài chính và sản xuất kinh doanh ổn định.
Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Các khoản phải thu và hàng hóa trong kho sẽ trở thành tài sản đảm bảo cho khoản vay.
Đối tượng áp dụng của hình thức cho vay này là các doanh nghiệp thương mại hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay - trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường áp dụng với những khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả góp mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng.
Cho vay trả góp có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng chính hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ cũng bị ảnh hưởng. Do rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Căn cứ vào nguồn gốc của khoản vay
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
Cho vay trực tiếp
Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Hình 1.1. Mô hình cho vay trực tiếp
Cấp vốn (1)
Ngân hàng
Khách hàng
Thanh toán nợ (2)
Cho vay gián tiếp
Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Mô hình cho vay gián tiếp được thực hiện như sau:
Hình 1.2. Mô hình cho vay gián tiếp
Cấp tín dụng (1) Khách hàng
Ngân hàng
Người thanh toán nợ
Thanh toán nợ (2)
Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay
Theo căn cứ này cho vay được chia thành hai loại:
Cho vay tiêu dùng
Là các khoản cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình như mua nhà, sửa chữa nhà, mua phương tiện đi lại, học tập, khám chữa bệnh, du lịch…
Cho vay sản xuất kinh doanh
Là các khoản cho vay đối với các tổ chức, doanh nghiệp để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh như mua nguyên vật liệu đầu vào, mua sắm máy móc thiết bị…
Cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Khái niệm cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại chịu sự cạnh tranh gay gắt của nhiều đối thủ, không chỉ là các ngân hàng thương mại khác mà còn có các tổ chức tài chính
Tuy nhiên, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các ngân hàng đã liên tục phát triển và trở thành những tổ chức cung cấp chính về lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Có được điều này là do ngân hàng đã thu hút được nguồn tiền gửi trong dân cư. Bên cạnh đó, các cá nhân và hộ gia đình cũng nhận thức được rằng, họ có thể vay lại tiền từ chính ngân hàng khi họ có nhu cầu.
Vào những năm 1980, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều phương tiện kết nối với khách hàng như Internet, máy rút tiền tự động… Bên cạnh đó, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của dân chúng đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống ngày càng cao. Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động ngân hàng nói chung và lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói riêng.
Cho vay tiêu dùng ra đời đã giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa tiêu dùng và khả năng thanh toán của cá nhân người tiêu dùng. Trên thực tế, nhiều khi người tiêu dùng chưa có ngay được những khoản thu nhập lớn ở hiện tại mà phải qua quá trình tích lũy lâu dài. Khi đó, ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng. Người tiêu dùng được sử dụng hàng hóa mà họ muốn, tất nhiên là với cam kết hoàn trả đúng thời hạn và đầy đủ.
Khái niệm cho vay tiêu dùng có thể được hiểu như sau: “Cho vay tiêu dùng là một hình thức qua đó ngân hàng chuyển cho khách hàng (cá nhân hay hộ gia đình) quyền sử dụng một lượng giá trị (tiền) trong một khoảng thời gian nhất định, với những thỏa thuận mà hai bên đã ký kết (về số tiền cấp, thời gian cấp, lãi suất phải trả…) nhằm giúp cho khách hàng có thể sử dụng những hàng hóa và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một cuộc sống cao hơn”.
Cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh khác nhau ở nguồn trả nợ. Do cho vay kinh doanh nhằm tài trợ cho hoạt động kinh doanh với mục đích sinh lời nên nguồn trả nợ trong loại cho vay này chủ yếu từ khoản lợi nhuận tăg thêm do việc thực hiện phương án sử dụng tiền vay. Cho vay tiêu dùng lại khác. Do hoạt động tiêu dùng không trực tiếp sinh lời nên nguồn trả nợ của loại cho vay này chủ yếu là thu nhập thường xuyên của người đi vay trong tương lai (loại trừ tín dụng ngắn hạn). Thu nhập này có thể là tiền công, tiền lương hoặc thu nhập từ các nguồn khác. Do nguồn trả nợ khác nhau, mục đích sử dụng khác nhau mà cho vay kinh doanh và cho vay tiêu dùng còn khác nhau ở nhiều điểm khác nữa như rủi ro, phương thức cho vay, lãi suất…
Đặc điểm cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Khách hàng vay và mục đích vay
Khách hàng vay là các cá nhân và hộ gia đình. Mục đích vay nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình, không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động lớn đến nhu cầu vay tiêu dùng. Những người có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn so với thu nhập hàng năm của mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập chính có học vấn cao cũng như vậy. Với họ, vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp.
Quy mô và số lượng
Quy mô món vay nhỏ nhưng số lượng món vay lớn. Sở dĩ như vậy là do các cá nhân vay nhằm mục đích tiêu dùng mà giá trị hàng hóa dịch vụ tiêu dùng là không quá lớn nên quy mô của từng món vay là không lớn. Hơn nữa, đa số khách hàng vay tiêu dùng đều đã có sự tích lũy trước, ngân hàng chỉ là người hỗ trợ để cho việc mua được sản phẩm là dễ dàng hơn khi việc tích lũy vẫn chưa đủ. Tuy quy mô của từng món vay nhỏ nhưng tổng quy mô món vay lại rất lớn do số lượng khách hàng có nhu cầu vay tiêu dùng lớn.
Chi phí và rủi ro
Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và độ rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của hệ thống ngân hàng.
Do giá trị của những hàng hóa tiêu dùng thường không lớn hoặc khách hàng chỉ vay một số lượng nhỏ để bổ sung số tiền còn thiếu. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải tiến hành theo đủ mọi thủ tục cho vay bao gồm thẩm định hồ sơ, thẩm định khách hàng, giải ngân, kiểm soát sau khi cho vay… dẫn đến chi phí cho vay cao.
Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng cũng rủi ro hơn cho vay kinh doanh. Những nguyên nhân khách quan có thể đưa đến rủi ro cho các khoản vay là tình hình kinh tế vĩ mô bất ổn, thiên tai, tình trạng thất nghiệp gia tăng… Tình trạng sức khỏe, tình hình công việc, đạo đức của người vay cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro của món vay.
Quản lý sau cho vay cũng là một vấn đề lớn mà ngân hàng gặp phải. Do quy mô món vay nhỏ nhưng số lượng món vay lớn và đối tượng cho vay chủ yếu là cá nhân nên ngân hàng khó có thể kiểm soát cặn kẽ tình hình thu nhập và khả năng tài chính của từng khách hàng. Các thông tin mà ngân hàng nhận được có tính chính xác không cao phụ thuộc vào tính trung thực của người vay, do đó làm rủi ro và chi phí tăng lên.
Lãi suất
Do những đặc điểm về chi phí và rủi ro đã nêu trên nên lãi suất cho vay tiêu dùng thường được định giá cao hơn lãi suất cho vay thương mại. Các khoản cho vay tiêu dùng thường có lãi suất cứng nhắc, do vậy ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động tăng. Nếu như cho vay kinh doanh, lãi suất được điều chỉnh theo thị trường, thì lãi suất của cho vay tiêu dùng lại được ấn định, phổ biến là cho vay trả góp.
Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định mức lãi suất thực tế đối với cho vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Song phần lớn, lãi suất được xác định dựa trên lãi suất cơ bản cộng với phần lợi nhuận cận biên và phần bù đắp rủi ro, có thể đưa ra công thức tính tổng quát như sau:
Lãi suất cho vay tiêu dùng
=
Chi phí huy động vốn
+
Chi phí hoạt động khác
+
Rủi ro tổn thất dự kiến
+
Phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn
+
Lợi nhuận cận biên
Lợi nhuận
Do rủi ro cao và chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ của cho vay tiêu dùng lớn nên ngân hàng thường đặt lãi suất rất cao đối với các khoản cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó, số lượng các khoản vay tiêu dùng lại khá nhiều, khiến cho tổng quy mô cho vay tiêu dùng là rất lớn, cùng với tiền lãi thu được từ mỗi khoản vay làm cho tổng lợi nhuận thu được từ cho vay tiêu dùng là đáng kể.
Nhu cầu vay
Nhu cầu vay của khách hàng có tính nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Nó tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng và giảm đi trong thời kỳ nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái. Trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng, mọi người dân thấy lạc quan về tương lai, họ nhận thấy cơ hội việc làm nhiều hơn và thu nhập của họ khả quan hơn, do đó họ có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn và nhu cầu vay tiêu dùng tăng lên. Ngược lại trong nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng hay suy thoái, rất nhiều cá nhân, hộ gia đình cảm thấy không tin tưởng lạc quan, tình trạng thất nghiệp tăng lên, thu nhập của họ trở nên bất ổn định hơn và do đó họ hạn chế vay mượn từ ngân hàng.
Tuy nhiên, nhu cầu vay kém nhạy cảm với lãi suất vì người vay quan tâm đến số tiền phải trả hàng tháng hơn là mức lãi suất mà họ phải chịu mặc dù chính lãi suất ghi trong hợp đồng ảnh hưởng đến quy mô số tiền phải trả.
Nguồn trả nợ
Nguồn trả nợ của khách hàng được trích từ thu nhập, không nhất thiết phải là kết quả của công việc sử dụng những khoản vay đó. Vì vậy, những khách hàng có việc làm, mức thu nhập ổn định và có trình độ học vấn là những tiêu chí quan trọng để ngân hàng thương mại quyết định cho vay. Hơn nữa, thu nhập của người vay phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của họ. Nếu khách hàng là người buôn bán, thu nhập của họ có thể cao nhưng không ổn định. Chỉ cần một biến động không tốt về giá cả những mặt hàng mà họ kinh doanh có thể làm giảm thu nhập của họ và do đó làm giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Phân loại cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Căn cứ vào mục đích vay
Căn cứ vào mục đích vay, cho vay tiêu dùng được chia làm hai loại:
Cho vay tiêu dùng cư trú
Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc sửa chữa nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình. Đặc điểm của những món vay này là quy mô thường lớn, thời gian dài. Do đó, với các khoản tín dụng này thì ngân hàng dễ gặp phải rủi ro về lãi suất khi lãi suất huy động tăng trong ngắn hạn, bởi lãi suất cho vay tuy được điều chỉnh theo lãi suất thị trường nhưng ba tháng mới được điều chỉnh một lần.
Cho vay tiêu dùng không cư trú
Là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí… Đặc điểm của những khoản cho vay này thường là có quy mô nhỏ, thời gian tài trợ ngắn, do đó mà mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những khoản cho vay tiêu dùng cư trú.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay tiêu dùng trả góp
Theo hình thức tài trợ này thì người đi vay trả nợ cho ngân hàng (gồm cả gốc và lãi) theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn, thu nhập định kỳ của người đi vay không đủ để thanh toán hết một lần số nợ vay.
Cho vay tiêu dùng trả một lần
Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
Cho vay tiêu dùng gián tiếp
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp
Đây là hình thức trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ khách hàng.
Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Cho vay tiêu dùng đang ngày càng được các ngân hàng thương mại mở rộng, phát triển và đa dạng hóa sản phẩm, mang lại sự thỏa mãn tối đa cho khách hàng. Một trong những yếu tố thúc đẩy cho vay tiêu dùng phát triển là mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Các ngân hàng thương mại thông qua mối quan hệ này thấy được nhu cầu vay từ phía người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Các nhà sản xuất cần vốn để mở rộng sản xuất, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, đẩy nhanh tiêu thụ hàng hóa, còn người tiêu dùng cần tìm nguồn tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu hiện tại mà khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được.
Mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại có thể được hiểu là sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng các khoản vay tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình, mà chủ yếu là gia tăng về số lượng các khoản vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại.
Việc đánh giá mở rộng cho vay tiêu dùng thông qua các chỉ tiêu cụ thể là việc không thể thiếu đối với các ngân hàng thương mại. Những chỉ tiêu đó cho thấy quá trình mở rộng hoạt động này có đạt được các mục tiêu mà ngân hàng đề ra hay không, có đóng góp như thế nào đối với sự phát triển của cả ngân hàng, nếu không thì phải làm gì, tác động vào chỉ tiêu nào… Một số chỉ tiêu mà các ngân hàng hay xem xét là:
Doanh số cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Doanh số cho vay tiêu dùng và tốc độ tăng doanh số cho vay tiêu dùng phản ánh mức độ mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại, nó thể hiện cho vay tiêu dùng được phát triển theo chiều rộng (tức là gia tăng về số lượng) như thế nào. Nói cách khác, quy mô cho vay tiêu dùng càng lớn, tốc độ cho vay tiêu dùng càng nhanh, cho vay tiêu dùng càng được mở rộng.
Trên thực tế việc tăng doanh số cho vay tiêu dùng cả về quy mô và tốc độ chỉ có ý nghĩa đầy đủ khi so sánh tương quan với doanh số của các loại hình cho vay khác của ngân hàng hay tổng doanh số cho vay của ngân hàng. Mở rộng cho vay tiêu dùng sẽ đạt được khi doanh số, tốc độ tăng doanh số cho vay tiêu dùng cao hơn so với mức trung bình của các loại hình cho vay khác (xét theo con số tương đối).
Dư nợ cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Dư nợ cho vay tiêu dùng phản ánh lượng tiền ngân hàng cho khách hàng vay nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng, hay số tiền khách hàng còn nợ ngân hàng tại thời điểm đó. Dư nợ cho vay tiêu dùng càng lớn, tốc độ tăng dư nợ càng nhanh, càng chứng tỏ cho vay tiêu dùng đã được mở rộng.
Xét trên khía cạnh toàn ngân hàng thì mở rộng cho vay tiêu dùng chỉ đạt được khi tỷ lệ dư nợ cho vay tiêu dùng trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng tăng so với trước đó và tốc độ tăng dư nợ cho vay tiêu dùng lớn hơn hoặc ít nhất bằng tốc độ tăng dư nợ của ngân hàng.
Dư nợ cho vay tiêu dùng năm nay
=
Dư nợ cho vay tiêu dùng năm trước
+
Doanh số cho vay tiêu dùng năm nay
-
Doanh số thu nợ cho vay tiêu dùng năm trước
Số lượng khách hàng vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Với đặc điểm nổi bật của loại hình cho vay này là quy mô các khoản vay thường nhỏ, vì thế nếu không thu hút được một lượng khách hàng đủ lớn thì doanh số, lợi nhuận cho vay tiêu dùng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Số lượng khách hàng càng nhiều tức là hoạt động cho vay của ngân hàng đó càng phát triển, càng thu hút được nhiều khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Các ngân hàng rất quan tâm đến chỉ tiêu này vì nó thể hiện sự mở rộng thị trường cho vay của ngân hàng cũng như khẳng định sự định hướng đúng đắn trong chính sách tín dụng của ngân hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Nhân tố chủ quan
Qui mô vốn tự có và tổng nguồn vốn
Vốn tự có là một trong những tiêu chí quan trọng nhất khi đánh giá năng lực của một ngân hàng thương mại. Vốn tự có càng lớn thì chứng tỏ tiềm lực của ngân hàng càng mạnh, càng có điều kiện thuận lợi trong việc phát triển hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động tín dụng.
Vốn tự có của ngân hàng phải đảm bảo theo hệ số Cook (tỷ lệ an toàn vốn tự có tối thiểu trên tổng tài sản có rủi ro là 8%), vì thế khi mở rộng hoạt động kinh doanh, tài sản của ngân hàng tăng lên thì ngân hàng phải đồng thời tăng vốn tự có của mình tương ứng. Mở rộng cho vay tiêu dùng phải tính đến vốn tự có để đảm bảo được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Vì thế muốn phát triển cho vay tiêu dùng các ngân hàng phải luôn chú trọng tới gia tăng vốn điều lệ hay là vốn tự có của mình.
Ngoài yếu tố vốn tự có, khi phát triển cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại còn phải xem xét đến quy mô tổng nguồn vốn của ngân hàng. Với quy mô nguồn vốn lớn, ngân hàng sẽ có thể cho vay với số lượng lớn, đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng. Khả năng huy động vốn cũng là một yếu tố quan trọng, nó phải đáp ứng được nhu cầu cho vay với quy mô lớn tại bất kỳ thời điểm nào.
Như vậy với quy mô vốn tự có và tổng nguồn vốn lớn ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đề ra và thực hiện các chiến lược phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng so với các ngân hàng có qui mô nhỏ.
Chính sách cho vay của ngân hàng
Chính sách cho vay của ngân hàng được hiểu một cách đơn giản là một tuyên bố về tiêu chuẩn đối với danh mục cho vay của ngân hàng. Một chính sách cho vay rõ ràng sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho ngân hàng. Nó hướng dẫn cho đội ngũ nhân viên tín dụng cấc thủ tục, các bước phải tuân thủ và chỉ rõ pahmj vi trách nhiệm của họ. Nó giúp cho ngân hàng hướng tới một danh mục cho vay hiệu quả, có thể đạt được nhiều mục tiêu. Những trường hợp ngoại lệ đối với chính sách cho vay của ngân hàng phải được dẫn giải đầy đủ và lý do phải được giải thích rõ ràng. Bên cạnh đó, chính sách cho vay cũng phải linh hoạt để phù hợp với những thay đổi trong nền kinh tế.
Nếu chính sách cho vay tiêu dùng không nằm trong chính sách cho vay của ngân hàng thì các cá nhân khó có thể vay được những khoản tiền để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Chỉ trừ những trường hợp mà ngân hàng chắc chắn rằng sẽ thu hồi được khoản nợ từ những khách hàng có uy tín. Điều đó được hiểu là chính sách cho vay này không khuyến khích những người dân đi vay để phục vụ cho mục tiêu sinh hoạt và họ sẽ gặp các khó khăn trong quá trình vay vốn. Ngược lại, khi một ngân hàng xác định cho vay tiêu dùng là một hướng kinh doanh và là mục tiêu của ngân hàng thì ngân hàng mới dồn hết nỗ lực và khả năng để tập trung phát triển lĩnh vực này. Tóm lại, chính sách cho vay của ngân hàng có ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển đối với cho vay tiêu dùng tại ngân hàng đó.
Nguồn nhân lực
Do đặc điểm của hoạt động cho vay tiêu dùng đòi hỏi nguồn nhân lực lớn cả về số lượng lẫn chất lượng, đây là một yếu tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển cho vay tiêu dùng của các ngân hàng. Một nguồn nhân lực có trình độ cao là một lợi thế trong cạnh tranh của mỗi ngân hàng, vì nó có thể tăng cường khả năng thu hút khách hàng, nâng cao vị thế của ngân hàng, giảm rủi ro trong cho vay tiêu dùng. Nếu ngân hàng có một nguồn nhân lực yếu kém sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng cho vay đối với người tiêu dùng, một hoạt động chứa nhiều rủi ro nhưng mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, do sản phẩm của các ngân hàng là những sản phẩm mang tính dịch vụ, chính vì thế mà trong lĩnh vực ngân hàng, con người đóng vai trò quan trọng. Khi một khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng thì nhân viên ngân hàng chính là người hướng dẫn, giúp họ hiểu được cặn kẽ dịch vụ mà họ đang cần. Do đó, nếu nhân viên đó có thái độ khó chịu khi hướng dẫn khách hàng thì khách hàng sẽ cảm thấy chất lượng dịch vụ ở ngân hàng này không tốt. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, khách hàng sẵn sàng lựa chọn ngay một ngân hàng khác mà chất lượng phục vụ tốt hơn.
Đội ngũ nhân viên tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến cho vay tiêu dùng. Họ là người quyết định chất lượng tín dụng của ngân hàng và thực thi chính sách cho vay một các tích cực nhất. Qua các nhân viên tín dụng, khách hàng nhìn thấy được hình ảnh của ngân hàng.
Trình độ công nghệ và quản lý
Khi đề ra chiến lược phát triển cho vay tiêu dùng các ngân hàng phải quan tâm tới công nghệ và trình độ quản lý của mình, nó sẽ tạo nên những thuận lợi hay khó khăn cho ngân hàng. Ngân hàng có trình độ công nghệ và quản lý hiện đại sẽ là một yếu tố thúc đẩy mở rộng cho vay tiêu dùng: rút ngắn thời gian cho vay đối với mỗi cá nhân, tạo được uy tín, sự tin tưởng đối với khách hàng… qua đó làm tăng doanh số cho vay, gia tăng lợi nhuận. Khi đề ra chiến lược mở rộng, ngân hàng phải đánh giá lại trình độ công nghệ và quản lý của mình ở mức nào trong tương quan so sánh với các ngân hàng cạnh tranh và trình độ phát triển công nghệ ngân hàng trên thế giới. Các ngân hàng phải phát triển công nghệ và nâng cao năng lực quản lý để có thể giành chiến thắng trong mảng thị trường đem lại nhiều lợi nhuận như thị trường cho vay đối với người tiêu dùng.
Chất lượng của các khoản vay tiêu dùng
Chất lượng của các khoản vay tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng ngân hàng thương mại. Nếu ngân hàng đang có dư nợ quá hạn cho vay tiêu dùng lớn, tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng cao thì ngân hàng đó sẽ phải cân nhắc khi tiếp tục mở rộng cho vay tiêu dùng bởi cho vay tiêu dùng là một hoạt động rủi ro cao, dễ xảy ra tình trạng mất vốn đối với ngân hàng.
Chất lượng của khoản vay tiêu dùng được phản ánh bởi chỉ tiêu nợ quá hạn cho vay tiêu dùng. Nợ quá hạn cho vay tiêu dùng là khoản nợ cho vay tiêu dùng đến thời điểm hoàn trả của khách hàng mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi được. Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng được đo bằng dư nợ quá hạn cho vay tiêu dùng trên tổng dư nợ cho vay tiêu dùng.
Khi ngân hàng chuyển nợ quá hạn cho vay tiêu dùng nghĩa là rủi ro không thu hồi được nợ gốc và lãi của ngân hàng đã tăng lên và có thể dẫn đến mất vốn. Tỷ lệ nợ quá hạn cao phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng không tốt, chứa đựng nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Một tỷ lệ nợ quá hạn thấp chứng tỏ sự phát triển an toàn và ổn định của hoạt động cho vay tiêu dùng. Sự phát triển cho vay tiêu dùng không chỉ là sự gia tăng về số lượng mà còn phải đi cùng với chất lượng của các khoản vay nghĩa là các khoản vay tiêu dùng phải thoả mãn được nhu cầu tiêu d._.ùng của người vay và ngân hàng thu được hết nợ gốc và lãi vào cuối thời hạn trả nợ. Vì thế các ngân hàng khi phát triển hoạt động tín dụng này luôn chú trọng tới việc đảm bảo an toàn cho các khoản cho vay tiêu dùng, để hạn chế tới mức thấp nhất có thể chấp nhận được tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng.
Nhân tố khách quan
Nhân tố thuộc về khách hàng
Một là, Trình độ của khách hàng càng cao thì xu hướng tiêu dùng càng nhiều. Trước kia, khi trình độ dân cư còn hạn chế thì khi cần tiền để giải quyết một việc gì đó, người dân ít khi nghĩ đến việc tìm đến ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của thời đại, về nhận thức của người dân cũng được nâng lên. Nếu như trước đây, người dân còn có cảm giác ngại ngùng khi đến ngân hàng thì ngày nay khái niệm “ngân hàng” đã trở nên không còn xa lạ đối với người dân. Dân chúng dần dần quen thuộc với những dịch vụ và tiện ích mà ngân hàng đem lại và số lượng người dân đến với ngân hàng cũng nhiều hơn, nhất là khi mức sống của họ được nâng lên. Những người có trình độ cao có xu hướng muốn nâng cao mức sinh hoạt hàng ngày của họ, ngay cả khi họ chưa đủ khả năng tài chính để thực hiện việc đó.
Hai là, Nhu cầu thực tế của khách hàng phụ thuộc vào từng giai đoạn cụ thể. Trước kia, khi cuộc sống của con người gặp nhiều khó khăn như cơm không đủ no, áo không đủ mặc thì nhu cầu của họ chỉ là được ăn no và mặc ấm. Nhưng khi cuộc sống được nâng cao thì nhu cầu của họ không chỉ dừng lại ở đó mà họ muốn những hàng hóa cao cấp hơn nữa. Do vậy tùy vào từng giai đoạn cụ thể sẽ xuất hiện những nhu cầu nổi bật cần tài trợ. Vấn đề ở đây là ngân hàng phải phát hiện được những nhu cầu đó một cách nhanh nhất để đáp ứng kịp thời vì những người cung cấp sớm nhất sẽ có ưu thế trong việc thu hút khách hàng.
Nhân tố thuộc về môi trường hoạt động của ngân hàng
Một là, Chính sách phát triển cho vay tiêu dùng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Chính phủ và Ngân hàng nhà nước quản lý các ngân hàng thương mại, vì thế mỗi chính sách, quy định đưa ra sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của hệ thống ngân hàng. Mở rộng cho vay tiêu dùng là một trong các chính sách nhằm mục đích nâng cao mức sống của người dân, thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong chiến lược phát triển kinh tế chung. Các chính sách có thể trực tiếp hay gián tiếp tác động tới hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng. Chính phủ có thể khuyến khích các ngân hàng mở rộng và phát triển cho vay tiêu dùng hay bằng các chính sách tác động tới người tiêu dùng, thúc đẩy họ tiêu dùng vào hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn. Dù là tác động trực tiếp hay gián tiếp, các chính sách của Chính phủ có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Hai là, Thị trường cho vay tiêu dùng.
Thị trường cho vay tiêu dùng tổng hợp từ rất nhiều yếu tố, bao gồm quy mô dân cư, sự phát triển kinh tế, sự cạnh tranh và các yếu tố khác. Mỗi yếu tố khác nhau sẽ có tác động khác nhau tới hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại.
Quy mô của dân cư càng lớn thì tổng nhu cầu tiêu dùng càng cao, số người tìm đến ngân hàng để thỏa mãn nhu cầu đó càng nhiều. Ngân hàng sẽ dễ dàng phát triển cho vay tiêu dùng tại những địa điểm đông dân cư sinh sống, đây là một tiêu chí hàng đầu khi lựa chọn thị trường cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên, quy mô dân cư lớn mới chỉ phản ánh nhu cầu tiêu dùng tiềm năng, chưa phản ánh được nhu cầu tiêu dùng có thể thanh toán. Nhu cầu tiêu dùng có thể thanh toán ở đây chính là mức sống của dân cư, hay là sự phát triển kinh tế. Người tiêu dùng phải có mức sống khá mới có thể có khả năng chi trả các khoản nợ và lãi cho ngân hàng. Khi nền kinh tế phát triển, mức sống của người dân tăng lên, thì người dân càng có khả năng chi trả hàng hoá dịch vụ để nâng cao điều kiện sống. Đây là điều kiện đủ cho việc phát triển cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại.
Các yếu tố thuộc về văn hoá xã hội cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại, nó có thể là một yếu tố vô hình đẩy nhanh hay hạn chế sự phát triển hoạt động này trong nền kinh tế. Trong đó yếu tố tâm lý của các cá nhân và hộ gia đình là một yếu tố đặc biệt quan trọng, nếu họ có tâm lý thích tiêu dùng, và thường chi tiêu vượt quá khả năng chi trả hiện tại thì họ sẽ có thói quen tìm đến ngân hàng vay tiền để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Ngược lại, nếu các cá nhân và hộ gia đình không sẵn sàng chi trả nhiều cho nhu cầu tiêu dùng thì việc phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng phải tính đến các rào cản về văn hoá xã hội để có những chiến lược phát triển cho vay tiêu dùng phù hợp và hiệu quả.
Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng lớn, các ngân hàng luôn cố gắng nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm làm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Cho vay tiêu dùng là một hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nên các ngân hàng hiện nay rất chú trọng phát triển hoạt động này: tăng chất lượng phục vụ, đa dạng hoá sản phẩm, tìm thị trường mới… làm cho sự cạnh tranh trên thị trường là rất gay gắt. Do đặc điểm của cho vay tiêu dùng nên trên thị trường này tất cả các ngân hàng từ ngân hàng có quy mô nhỏ đến quy mô lớn đều có khả năng cạnh tranh. Trong môi trường cạnh tranh cao như vậy, mỗi ngân hàng phải có chiến lược Marketing hiệu quả nhằm đem lại sự khác biệt trong sản phẩm, dịch vụ cho vay của mình so với các đối thủ.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI LÊ TRỌNG TẤN
Khái quát về NHTMCP Quân Đội
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTMCP Quân Đội
Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội (Military Bank - MB) được thành lập vào năm 1994. Trải qua hơn 13 năm hoạt động, MB liên tục kinh doanh có hiệu quả và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đánh giá là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam.
Ngân hàng TMCP Quân Đội là pháp nhân được hình thành từ vốn góp của các doanh nghiệp Quân Đội và các cổ đông trong cả nước. Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển khu vực kinh tế quốc phòng, các doanh nghiệp Quân Đội cần có một nguồn vốn hỗ trợ và các dịch vụ ngân hàng để đáp ứng kịp thời nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngày 4 tháng 11 năm 1994, Ngân hàng Quân Đội đã chính thức được khai trương và đi vào hoạt động theo Quyết định số 00374/GP-UB (ngày 30 tháng 12 năm 1993) của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội và Giấy phép số 0054/NH-GP (ngày 14 tháng 9 năm 1994) của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Hiện nay, ngân hàng có trụ sở chính được đặt tại số 3 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.
MB phục vụ các đối tượng khách hàng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cá nhân. Với phương châm hoạt động “VỮNG VÀNG - TIN CẬY”, luôn đặt lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của Ngân hàng, những năm qua, MB luôn là người đồng hành tin cậy của khách hàng. Ngân hàng đã không ngừng đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng phục vụ, nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Từ chỗ chỉ có một điểm giao dịch với 25 cán bộ, nhân viên, cơ sở vật chất hết sức khiêm tốn vào ngày đầu thành lập, đến nay quy mô của Ngân hàng đã lớn mạnh gấp nhiều lần. Từ 20 tỷ đồng vốn điều lệ khi mới thành lập, đến nay vốn điều lệ của MB đã là 2000 tỷ đồng. Military Bank đang dự kiến sẽ tăng vốn điều lệ thêm 1400 tỷ đồng nữa để đạt số vốn điều lệ là 3400 tỷ đồng vào cuối năm 2008.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển, MB liên tục mở rộng mạng lưới hoạt động. Đến nay, MB đã có 66 chi nhánh và điểm giao dịch tại các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng. Riêng năm 2006, MB đã mở thêm 13 điểm giao dịch mới, trong đó có những địa phương lần đầu tiên MB có mặt là Việt Trì, Bình Định, Cần Thơ. Mạng lưới các ngân hàng đại lý của MB cho đến nay cũng đã mở rộng tới hơn 500 ngân hàng ở trên 70 quốc gia, đảm bảo thanh toán và giao dịch với tất cả các châu lục trên thế giới, hợp tác cung cấp các dịch vụ ngân hàng toàn cầu.
Song song với việc mở rộng mạng lưới hoạt động, MB luôn chú trọng công tác đầu tư phát triển nguồn lực và ứng dụng công nghệ mới. Ngày 18/01/2006, ngân hàng TMCP Quân Đội đã ký kết hợp đồng cung cấp phần mềm quản trị ngân hàng T24 với tập đoàn Temenos của Thụy Sỹ. Đây là một giải pháp dành cho hệ thống ngân hàng tích hợp hàng đầu trên thế giới, giúp nâng cao hiệu suất giao dịch và đảm bảo truy cập vào mọi thời điểm, đồng thời tăng cường tính an toàn, bảo mật của hệ thống.
Việc phát triển nguồn nhân lực thông qua một chính sách nhất quán giữa thu hút, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đã giúp cho Ngân hàng một nguồn nhân lực ổn định và mang tính chuyên nghiệp ngày càng cao. Với đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ (phần lớn cán bộ quản lý có tuổi đời dưới 35), tỷ lệ nam nữ lần lượt là 40% và 60%, trên 75% tốt nghiệp đại học trong và ngoài nước; hơn 1000 con người đang lao động và sáng tạo ở MB đã đóng vai trò mang tính quyết định cho những thành công của Ngân hàng.
Hiệu quả hoạt động của MB luôn được các cơ quan quản lý, đối tác cũng như khách hàng đánh giá cao. MB liên tục được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A và trao tặng nhiều bằng khen cho những thành tích xuất sắc; nhiều năm liền nhận được các giải thưởng thanh toán quốc tế do các ngân hàng uy tín quốc tế trao tặng như HSBC, Standard Chatered Bank, UBOC; được người tiêu dùng bình chọn là Thương hiệu mạnh liên tục trong hai năm liền 2005 và 2006; đạt cúp vàng Top ten thương hiệu Việt, ngành Ngân hàng - tài chính năm 2006; … và nhiều giải thưởng có uy tín, giá trị khác.
Cơ cấu tổ chức của NHTMCP Quân Đội
Đối với một ngân hàng nói chung, tổ chức bộ máy hợp lý, khoa học đóng vai trò không nhỏ trong việc tăng hiệu suất công việc, dẫn đến tăng thu nhập, giảm rủi ro cho ngân hàng. Tổ chức bộ máy vừa phải đảm bảo quyền và hiệu quả kiểm soát của Ban giám đốc, vừa tăng tính độc lập tương đối của các thành viên. Ngân hàng TMCP Quân Đội là một doanh nghiệp cổ phần, quy mô lớn, với nhiều chi nhánh và có các công ty hạch toán độc lập. Vì vậy tổ chức bộ máy của Ngân hàng mang tính chuyên môn hóa cao. Các chi nhánh cấp một của Ngân hàng có nhiều phòng chuyên sâu như tín dụng doanh nghiệp, tín dụng tiêu dùng, thẩm định và bảo lãnh, kế toán và thanh toán quốc tế, ủy thác…
Hình 2.1. Mô hình tổ chức của Ngân hàng TMCP Quân Đội
(Nguồn: Website www.militarybank.com.vn)
Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHTMCP Quân Đội Lê Trọng Tấn
Chi nhánh NHTMCP Quân Đội Lê Trọng Tấn là chi nhánh cấp 2 thuộc hệ thống ngân hàng TMCP Quân Đội, trực thuộc Chi nhánh cấp 1 Điện Biên Phủ và hiện đang quản lý 1 phòng giao dịch Định Công. Chi nhánh được thành lập ngày 18 tháng 6 năm 2003. Tuy mới chỉ có 3 năm hoạt động nhưng Chi nhánh Lê Trọng Tấn được đánh giá là ngôi sao đang lên trong ngôi nhà chung MB.
Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động thành công nhất của Chi nhánh trong thời gian qua.
Hình 2.2. Tổng vốn huy động của MB Lê Trọng Tấn qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh MB Lê Trọng Tấn 2005, 2006, 2007)Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn của MB Lê Trọng Tấn
Đơn vị: Tỷ đồng
2005
2006
2007
2006/2005
2007/2006
Tổng số dư tiền gửi của khách hàng
466,54
821,26
1019,49
176%
124%
Tiền gửi không kỳ hạn
140,06
134,30
239,79
96%
179%
Tiền gửi có kỳ hạn
326,48
686,96
779,70
210%
114%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh MB Lê Trọng Tấn 2005, 2006, 2007)
Có thể nhận thấy hoạt động huy động vốn của MB Lê Trọng Tấn phát triển với tốc độ khá cao và ổn định. So với năm 2005, tổng số vốn huy động đã tăng lên 1,76 lần và đến năm 2007, con số này là 1,24 lần. Kết quả này là phù hợp với sự phát triển của hoạt động huy động vốn của cả MB. Đối với MB Lê Trọng Tấn, năm 2007 có sự thay đổi trong cơ cấu tiền gửi. Tiền gửi có kỳ hạn giảm nhưng tiền gửi không kỳ hạn lại tăng đột biến. Đó có thể là kết quả của việc các ngân hàng chạy đua lãi suất khiến cho khách hàng không muốn gửi tiền với kỳ hạn dài. Tuy nhiên nhìn chung tổng số vốn huy động của ngân hàng cũng tăng cao cho thấy ngân hàng ngày càng thu hút được khách hàng đến gửi tiền tại ngân hàng.
Hoạt động tín dụng
Đối với hoạt động tín dụng, chi nhánh tập trung đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng và cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến ngày 31/12/2007, tổng dư nợ đạt 390,98 tỷ đồng tăng 133% so với đầu năm. Về cơ cấu dư nợ cho vay, tỷ trọng cho vay khối khách hàng cá nhân có xu hướng tăng lên trong tổng dư nợ cho vay chứng tỏ cho vay tiêu dùng đang đóng góp ngày càng cao vào kết quả hoạt động chung của Chi nhánh.
Hình 2.3. Cơ cấu dư nợ cho vay của MB Lê Trọng Tấn
Đơn vị: Tỷ đồng
Trong năm, theo chủ trương tập trung nâng cao tín dụng toàn MB, Chi nhánh đã cơ cấu lại nợ vay, từng bước xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động của quản lý tín dụng, thực hiện nghiêm túc Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước. Đến 31/12/2007, tỷ lệ nợ quá hạn nhóm 2, 3, 4, 5 là 5,45%, tỷ lệ nợ quá hạn nhóm 3, 4, 5 là 5,16% trong đó nợ quá hạn chủ yếu là thuộc khối khách hàng doanh nghiệp, đặc biệt là Tổng Công ty Thành An, nợ quá hạn của khối khách hàng cá nhân chiếm tỷ lệ nhỏ.
Kết quả kinh doanh
Với các kết quả như trên, tổng doanh thu năm 2007 của MB Lê Trọng Tấn là 105,70 tỷ đồng. Trong đó thu từ hoạt động cho vay là 98,38 tỷ đồng chiếm 93,1%, tăng 1,2 lần so với năm 2006.
Tình hình gia tăng lợi nhuận trước thuế của MB Lê Trọng Tấn được biểu diễn qua hình sau:
Hình 2.4. Lợi nhuận trước thuế của MB Lê Trọng Tấn qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 2005, 2006, 2007)
Lợi nhuận trước thuế của MB Lê Trọng Tấn tăng dần qua các năm và tăng nhanh trong năm 2007 lên đến con số 20 tỷ đồng. Đây là một kết quả rất khá đối với một chi nhánh cấp 2 có tuổi đời còn rát trẻ như MB Lê Trọng Tấn. Nhận thấy tiềm năng phát triển của Chi nhánh, Ngân hàng TMCP Quân Đội đang có kế hoạch phát triển MB Lê Trọng Tấn thành chi nhánh cấp 1 trong năm 2008.
Định hướng và kế hoạch năm 2008, Chi nhánh tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn, tập trung cơ cấu lại vốn huy động theo xu hướng nâng cao tỷ trọng vốn không kỳ hạn trong tổng vốn huy động để nhằm giảm chi phí huy động vốn. Mục tiêu năm 2008 là đẩy mạnh cho vay tiêu dùng với những khách hàng có thu nhập khá và cao, tận thu phí dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng.
Thực trạng cho vay tiêu dùng của Chi nhánh NHTMCP Quân Đội Lê Trọng Tấn
Quy trình cho vay tiêu dùng của Chi nhánh NHTMCP Quân Đội Lê Trọng Tấn
Qui trình tín dụng có 7 bước, từ khi tiếp xúc khách hàng đến khi tất toán hồ sơ.
Hình 2.5. Sơ đồ nghiệp vụ cho vay tiêu dùng
THẨM ĐỊNH
HỒ SƠ
THẨM ĐỊNH TÀI SẢN ĐẢM BẢO
TRÌNH HỒ SƠ CHO BAN TÍN DỤNG
HOÀN THIỆN HỒ SƠ VÀ KÝ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
KIỂM TRA VÀ XỬ LÝ NỢ VAY
TẤT TOÁN VÀ LƯU TRỮ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
TIẾP XÚC
KHÁCH HÀNG
GIẢI NGÂN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Phân tích thực trạng cho vay tiêu dùng của Chi nhánh NHTMCP Quân Đội Lê Trọng Tấn
Doanh số cho vay tiêu dùng
Doanh số cho vay tiêu dùng của MB Lê Trọng Tấn tăng dần qua các năm, thể hiện sự tăng trưởng về số lượng của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh. Đặc biệt năm 2007, doanh số này tăng vọt so với năm 2006 với tốc độ tăng 131,3% tương đương với 59,33 tỷ đồng. Tốc độ tăng doanh số trong năm 2007 cao đột biến là do nhu cầu tiêu dùng, mua sắm của dân cư tăng mạnh, nhất là vào dịp cuối năm. Để phân tích kỹ hơn, ta sẽ lần lượt xem xét doanh số cho vay tiêu dùng theo thời hạn và doanh số cho vay tiêu dùng theo mục đích.
Doanh số cho vay tiêu dùng theo thời hạn
Theo thời hạn cho vay, cho vay tiêu dùng được chia thành ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong đó cho vay trung hạn có tỷ trọng lớn nhất, phản ánh đúng thực trạng nhu cầu mua sắm các vật dụng lâu bền như ô tô, bất động sản. Tỷ trọng cho vay trung hạn cũng tăng dần qua các năm, và đến năm 2007, tỷ trọng cho vay trung hạn đã vượt qua con số 50% trên tổng doanh số cho vay tiêu dùng. Tốc độ tăng của doanh số cho vay trung hạn cũng đạt cao nhất so với ngắn hạn và dài hạn. Năm 2007, tốc độ tăng doanh số cho vay trung hạn cũng tăng vọt, tăng 195,9% so với năm 2006 và đạt tới giá trị 60,48 tỷ đồng.
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng của Chi nhánh Ngân hàng Quân Đội Lê Trọng Tấn trong 3 năm qua là khá ổn định và ở mức cao. Tổng doanh số tăng nhanh vào năm 2007 do sự tăng trưởng kinh tế đạt mức cao 8,5% và các điều kiện sống của người dân không ngừng được cải thiện, một số lớn có thu nhập khá đã có nhu cầu mua sắm các vật dụng đắt tiền và lâu bền.
Việc tỷ trọng cho vay trung hạn chiếm phần lớn trong doanh số cho vay chứng tỏ cơ cấu cho vay của ngân hàng đang nghiêng về cho vay trung hạn hơn là ngắn hạn và dài hạn. Điều đó phù hợp với thực tế bởi việc Chính phủ cắt giảm thuế nhập khẩu khi Việt Nam gia nhập WTO làm cho ô tô được nhập khẩu vào Việt Nam nhiều hơn với giá rẻ hơn. Hơn nữa thu nhập của người dân cũng khá lên. Đối với họ việc sở hữu một chiếc ô tô không còn điều khó khăn nữa. Vì thế, tỷ trọng cho vay trung hạn cũng tăng lên.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, Chi nhánh cần xem xét lại cơ cấu cho vay theo thời hạn của mình bởi số lượng dân cư trên địa bàn Hà Nội sẽ ngày càng đông lên, do vậy nhu cầu về nhà ở sẽ rất lớn. Hơn nữa, mức sống của người dân càng ngày càng cao nên nhu cầu mua nhà, xây nhà để ở thay vì thuê nhà sẽ tăng cao. Ngoài ra, trong tương lai, việc mua sắm ô tô dùng làm phương tiện giao thông sẽ giảm xuống do các tuyến đường giao thông ở Hà Nội không mở rộng kịp với sự tăng lên của số lượng các phương tiện giao thông, nên sẽ gây ra tắc đường và ô nhiễm môi trường, lúc đó nhu cầu về ô tô của người dân sẽ giảm. Chính vì vậy mà Chi nhánh cần đẩy mạnh cho vay dài hạn, giảm tỷ trọng cho vay trung hạn trong cơ cấu cho vay tiêu dùng.
.
Bảng 2.2. DOANH SỐ CHO VAY TIÊU DÙNG THEO THỜI HẠN
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch 2006/2005
Chênh lệch 2007/2006
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Tuyệt đối
%
Tuyệt đối
%
Tổng doanh số CVTD
33,76
100,00
45,17
100.00
104,50
100.00
11,41
33,8
59,33
131,3
Ngắn hạn
13,34
39,51
15,29
33,85
24,02
22,99
1,95
14,6
17,83
116,6
Trung hạn
13,89
41,14
20,44
45,25
60,48
57,88
6,55
47,2
40,04
195,9
Dài hạn
6,53
19,34
9,44
20,90
20,00
19,14
2,91
44,6
10,56
111,86
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh MB Lê Trọng Tấn 2005, 2006, 2007)
Doanh số cho vay tiêu dùng theo mục đích
Cùng với sự tăng trưởng của doanh số cho vay tiêu dùng, các hình thức cho vay theo mục đích đều tăng cao so với năm trước. Trong số đó, cho vay với mục đích mua, sửa chữa nhà có tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh số cho vay tiêu dùng của MB Lê Trọng Tấn và có xu hướng tăng trong cơ cấu cho vay tiêu dùng theo mục đích của chi nhánh. Năm 2006, tỷ trọng này giảm nhẹ do thị trường bất động sản đóng băng sau cơn sốt thị trường bất động sản năm 2005. Nhưng sau đó, đến năm 2007, tỷ trọng này lại tăng cao, phản ánh nhu cầu mua nhà đất tăng lên, nhất là vào dịp cuối năm 2007. Chính vì lý do đó mà tốc độ tăng doanh số cho vay mua, sửa chữa nhà cũng tăng nhanh, đặc biệt là vào năm 2007, tốc độ đó lên tới 177,3% so với năm 2006.
Tốc độ tăng trưởng nhanh của tổng doanh số cho vay tiêu dùng trong năm 2007 có sự đóng góp phần lớn của sự tăng trưởng hoạt động cho vay mua nhà. Doanh số năm 2007 đã tăng 45,74 tỷ đồng so với 2006, tốc độ tăng là 151,7%, cao hơn mức tăng của tổng doanh số cho vay tiêu dùng của chi nhánh.
Cũng tăng trưởng nhanh không kém cho vay mua nhà là cho vay mua ô tô của chi nhánh. Cho vay mua ô tô là một trong những sản phẩm phát triển nhanh nhất hiện nay của các ngân hàng thương mại, vì cùng với mức sống tăng cao thì nhu cầu mua sắm ô tô của người dân phục vụ việc sinh hoạt và công việc ngày càng cao. Vì thế tốc độ tăng trưởng của hoạt động này ở chi nhánh tăng nhanh, từ doanh số 9,23 tỷ đồng năm 2005 đã tăng lên 10,96 tỷ đồng năm 2006, và đến năm 2007 con số này đã tăng gấp đôi so với năm 2006. Tuy nhiên tỷ trọng cho vay mua ô tô vẫn còn thấp trong tổng doanh số và so với cho vay mua, sửa chữa nhà, chỉ đạt mức trung bình 24% trong cả 3 năm qua.
Đối với cho vay du học, doanh số cho vay chiếm tỷ trọng thấp, chỉ đạt mức trung bình hơn 8% trên tổng doanh số cho vay tiêu dùng cả chi nhánh. Năm 2006, tỷ trọng doanh số cho vay du học trong cơ cấu cho vay tiêu dùng theo mục đích của chi nhánh có tăng lên song lại giảm xuống trong năm tiếp theo. Điều này là không phù hợp với nhu cầu thực tế. Bởi việc đi du học không còn lạ lẫm đối với người Việt Nam, càng ngày càng có nhiều người đi du học ở nước ngoài và không phải ai cũng có đủ nguồn tài chính đủ để trang trải cho chi phí du học đó. Tuy doanh số cho vay du học của chi nhánh vẫn tăng lên, tuy nhiên tốc độ tăng chậm và tỷ trọng giảm cho thấy hoạt động cho vay du học chưa được chú trọng đúng mức.
Hoạt động cho vay tiêu dùng khác cũng tăng trong 3 năm qua nhưng tốc độ tăng còn chậm và tỷ trọng còn khá thấp. Loại hình cho vay nay cần được chi nhánh quan tâm hơn trong thời gian tới bởi đây là những khoản vay nhỏ, dễ trả nợ, tốc độ quay vòng vốn nhanh và ít rủi ro.
Bảng 2.3. DOANH SỐ CHO VAY TIÊU DÙNG THEO MỤC ĐÍCH
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch 2006/2005
Chênh lệch 2007/2006
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Tuyệt đối
%
Tuyệt đối
%
Tổng doanh số
33,76
100
45,17
100
104,50
100
11,41
33,80
59,33
131,3
Cho vay mua, sửa chữa nhà
20,23
59,92
25,82
57,16
71,59
68,51
5,59
27,63
45,77
177,3
Cho vay mua ô tô
9,23
27,34
10,96
24,26
22,46
21,49
1,73
18,74
11,50
104,9
Cho vay du học
2,30
6,81
5,95
13,17
7,45
7,13
3,65
158,70
1,50
25,21
Cho vay tiêu dùng khác
2,00
5,92
2,44
5,40
3,00
2,87
0,44
22,00
0,56
22,95
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh MB Lê Trọng Tấn 2005, 2006, 2007)
Dư nợ cho vay tiêu dùng
Dư nợ cho vay tiêu dùng theo thời hạn
Tổng dư nợ cho vay tiêu dùng tăng chậm trong năm 2006 nhưng tăng mạnh trong năm 2007. Tốc độ tăng năm 2006 chỉ có 14,08% nhưng tốc độ đó đã tăng vượt bậc lên 177,99% vào năm 2007 do nhu cầu tiêu dùng lớn của dân cư khi nền kinh tế đạt mức tăng trưởng khá 8,5 % và mức sống của người dân ngày càng được nâng cao.
Cũng giống như doanh số cho vay trung hạn, dư nợ cho vay trung hạn có tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng, phản ánh sự ưa thích tiêu dùng các hàng hóa lâu bền của người dân. Năm 2007, theo sự tăng nhanh của của tổng doanh số, tốc độ tăng cho vay trung hạn cũng tăng lên 174,61% so với năm 2006 và dư nợ đạt mức 45,64 tỷ đồng. Dư nợ cho vay trung hạn vẫn có tỷ trọng lớn nhất và tốc độ tăng cao nhất so với cho vay ngắn hạn và dài hạn.
Tuy nhiên, đối với dư nợ cho vay dài hạn, chênh lệch giữa năm 2006 và 2005 là một số âm, cho thấy dư nợ dài hạn năm 2006 đã giảm đi so với năm 2005. Tuy mức giảm không lớn nhưng cùng với việc tăng của doanh số cho vay dài hạn, cho thấy năm 2006, doanh số thu nợ của chi nhánh đã tăng lên. Điều đó phản ánh chất lượng của khoản vay đã tăng lên, tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu được cải thiện. Nhưng sang năm 2007, tốc độ tăng dư nợ dài hạn lại tăng vọt, tốc độ đó lớn hơn tốc độ tăng doanh số cho vay dài hạn rất nhiều chứng tỏ năm 2007 việc thu nợ của chi nhánh không tốt hoặc có thể các khoản vay của chi nhánh chưa đến hạn trả.
Bảng 2.4. DƯ NỢ CHO VAY TIÊU DÙNG THEO THỜI HẠN
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
31/12/2006
31/12/2007
Chênh lệch 2006/2005
Chênh lệch 2007/2006
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Tuyệt đối
%
Tuyệt đối
%
Tổng dư nợ
28,63
100
32,66
100
90,79
100
4,03
14,08
58,13
177,99
Ngắn hạn
9,04
31,58
10,11
30,96
23,4
25,77
1,07
11,84
13,29
131,45
Trung hạn
13,54
47,29
16,62
50,89
45,64
50,27
3,08
22,75
29,02
174,61
Dài hạn
6,05
21,13
5,93
18,16
21,75
23,96
-0,12
-1,98
15,82
266,78
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh MB Lê Trọng Tấn 2005, 2006, 2007)
Dư nợ cho vay tiêu dùng tại chi nhánh biến động theo sát sự biến động của doanh số cho vay tiêu dùng. Trong đó, dư nợ cho vay trung hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất và có tốc độ tăng cao nhất, đóng góp phần lớn vào sự gia tăng của tổng dư nợ toàn chi nhánh.
Dư nợ cho vay tiêu dùng theo mục đích
Cho vay mua, sữa chữa nhà có giá trị lớn và thời gian trả nợ lâu dài nên dư nợ theo mục đích cho vay này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dư nợ. Trong 3 năm, tỷ trọng dư nợ cho vay luôn ổn định ở mức khá cao, trên 50%. Tuy nhiên tỷ trọng đó đang có xu hướng giảm dần trong cơ cấu tổng dư nợ cho vay tiêu dùng, thay vào đó, tỷ trọng cho vay mua ô tô lại tăng nhanh chứng tỏ người dân đang ưa thích mua sắm ô tô hơn mua nhà và xây nhà. Tuy nhiên trong dài hạn, tỷ trọng dư nợ cho vay mua ô tô sẽ phải giảm đi do nhu cầu tất yếu và cấp thiết hơn của người dân, đó là nhu cầu nhà ở.
Tỷ trọng cho vay hỗ trợ du học khá ổn định. Tuy chỉ đạt mức bình quân 7,10% trong tổng dư nợ hàng năm của chi nhánh, nhưng tốc độ tăng vẫn luôn ở mức cao và ngày càng tăng nhanh hơn, phản ánh đúng nhu cầu trong ngắn hạn và dài hạn của người dân.
Không có sự biến động lớn trong tỷ trọng của dư nợ cho vay tiêu dùng khác, từ 10,3% năm 2005 giảm xuống 9,22% năm 2006 và tăng lên 13.33% năm 2007. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng của dư nợ tăng nhanh qua các năm, lúc đầu tăng chậm không đáng kể (2%/ năm) sau tăng rất nhanh (trên 300%) và đạt giá trị dư nợ cho đến năm 2007 là 12,1 tỷ đồng. Sự tăng trưởng với tốc độ năm sau cao hơn năm trước gấp nhiều lần phản ánh sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của người dân và khả năng đáp ứng của ngân hàng ngày càng cao, tiến bộ vượt bậc.
Bảng 2.5. DƯ NỢ CHO VAY TIÊU DÙNG THEO MỤC ĐÍCH
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2005
31/12/2006
31/12/2007
Chênh lệch 2006/2005
Chênh lệch 2007/2006
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Tuyệt đối
%
Tuyệt đối
%
Tổng dư nợ
28,63
100
32,66
100
90,79
100
4,03
14,08
58,13
178
Cho vay mua, sửa chữa nhà
17,12
59,8
19,27
59
45,39
50
2,15
12,56
26,12
136
Cho vay mua ô tô
6,41
22,39
7,53
23,06
28,7
31,61
1,12
17,47
21,17
281
Cho vay du học
2,15
7,51
2,85
8,73
4,6
5,07
0,7
32,56
1,75
61,4
Cho vay tiêu dùng khác
2,95
10,3
3,01
9,22
12,1
13,33
0,06
2,03
9,09
302
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh MB Lê Trọng Tấn 2005, 2006, 2007)
Đánh giá về thực trạng cho vay tiêu dùng của Chi nhánh NHTMCP Quân Đội Lê Trọng Tấn trong thời gian qua
Kết quả đạt được
Kết quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại MB Lê Trọng Tấn nhìn chung là đã phát triển khá tốt. Cho vay tiêu dùng trở thành một hoạt động chính trong mục tiêu phát triển cho vay cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng. Sau đây là một số kết quả cụ thể mà MB Lê Trọng Tấn đã đạt được:
Một là, các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về số lượng của hoạt động cho vay đều tăng. Doanh số cho vay, dư nợ cho vay đều có tốc độ tăng hàng năm trên 30%, một con số khá cao so với các ngân hàng thương mại khác. Kèm theo đó là tỷ trọng dư nợ và doanh số cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ, doanh số của chi nhánh ngày càng cao, cho thấy ngân hàng ngày càng dành nhiều nguồn lực vào việc phát triển cho vay tiêu dùng trong quá trình hoạt động.
Hai là, nguồn vốn huy động của MB Lê Trọng Tấn tăng đều và ổn định, tạo ra nguồn vốn lớn đáp ứng được nhu cầu vay tiền của mọi khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp. Nguồn vốn huy động lớn nhất của chi nhánh là tiền gửi tiết kiệm của dân cư trên địa bàn, đây là một nguồn vốn ổn định và có số lượng rất lớn. Khả năng thu hút vốn huy động một cách linh hoạt đã giúp chi nhánh có đủ vốn đáp ứng nhu cầu vay tiêu dùng của người dân trên địa bàn Hà Nội trong ba năm qua.
Ba là, sản phẩm cho vay tiêu dùng của MB Lê Trọng Tấn rất đa dạng đáp ứng được nhu cầu vay của người tiêu dùng. Việc phát triển sản phẩm cho vay của ngân hàng dựa vào thị trường, khi nhu cầu tiêu dùng mới xuất hiện và tiềm năng, thì ngân hàng sẽ nghiên cứu và tạo ra sản phẩm cho vay thích hợp, đáp ứng nhu cầu đó. Sản phẩm cho vay mua ô tô được phát triển từ sản phẩm cho vay mua xe máy trước đây là một ví dụ cho sự phát triển các sản phẩm mới của ngân hàng đáp ứng nhu cầu thị trường.
Bốn là, thời gian xét duyệt cho vay tiêu dùng được rút ngắn xuống còn 2 - 5 ngày tùy vào giá trị và mục đích món vay. Việc rút ngắn thời gian giúp cho ngân hàng có được các lợi thế cạnh tranh so với các ngân hàng quốc doanh, với thủ tục phức tạp và kéo dài.
Năm là, chất lượng cho vay tiêu dùng nhìn chung đã được cải thiện tốt hơn khi mà ngân hàng đã ban hành các thể lệ cho vay tiêu dùng: thể lệ cho vay mua, xây dựng, sửa chữa nhà; thể lệ cho vay mua ô tô; thể lệ cho vay du học. Ngân hàng còn ban hành Bảng xếp hạng tín dụng, nhờ vậy nhân viên tín dụng có thể rút ngắn thời gian, thủ tục mà vẫn giảm được rủi ro tín dụng. Các qui chế, qui định cụ thể đã làm giảm các nguy cơ xảy ra khi cho vay, tăng chất lượng của cho vay tiêu dùng.
Sáu là, trong ba năm phát triển cho vay tiêu dùng, thị phần cho vay tiêu dùng của MB Lê Trọng Tấn đã tăng lên đáng kể, tạo ra được các lợi thế cạnh tranh với các ngân hàng thương mại cổ phần khác trên địa bàn.
Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Ngoài những thành tựu đã đạt được, cho vay tiêu dùng của MB Lê Trọng Tấn cũng còn bộc lộ một số hạn chế.
Một là, mặc dù trong phương châm hoạt động là đáp ứng mọi nhu cầu khách hàng, nhưng trên thực tế cho vay tiêu dùng của ngân hàng phần lớn là cho vay mua nhà, cho vay mua ô tô và cho vay du học. Cho vay tiêu dùng khác (cho vay mua các gói sản phẩm tiêu dùng gia đình như ti vi, tủ lạnh, máy giặt; cho vay đi du lịch, chữa bệnh…) chưa thực sự phát triển. Rõ ràng, cơ cấu cho vay tiêu dùng của ngân hàng chưa thực sự đa dạng, ngân hàng chưa khai thác hết tiềm năng của thị trường.
Hai là, trong thời gian tới, cơ cấu cho vay tiêu dùng của Chi nhánh cần có sự thay đổi. Nhu cầu về ô tô có thể sẽ giảm xuống bởi các vấn đề về giao thông, còn nhu cầu về nhà ở, du học và tiêu dùng sinh hoạt khác sẽ tăng ngày càng nhanh hơn.
Ba là, thời hạn giải quyết một khoản vay, từ khi tiếp xúc khách hàng đến khi giải ngân còn khá dài so với các ngân hàng khác (như EximBank với sản phẩm cho._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12834.doc