Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Đống Đa

MỤC LỤC Lời nói đầu Lĩnh vực ngân hàng được coi là lĩnh vực quan trọng, là chìa khoá cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, lĩnh vực ngân hàng lại là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp, hoạt động ngân hàng đòi hỏi người tham gia phải có hiểu biết về chuyên môn và có những kinh nghiệm nhất định. Để trở thành một cử nhân kinh tế, mỗi sinh viên không chỉ cần có kiến thức về lý thuyết mà còn cần những hiểu biết về thực tế. Những kiến thức được học tập, nghiên cứu tại nhà trường là lý luận căn b

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản giúp sinh viên có thể nắm bắt, đáp ứng được các đòi hỏi của công việc. Nhưng thực hiện như thế nào, quy trình cụ thể thế nào thì chỉ có những hoạt động trong thực tiễn mới có câu trả lời chính xác nhất. Là một sinh viên của khoa Ngân hàng - Tài chính, trường Học Viện Ngân Hàng hệ cao đẳng, đối với em, thời gian thực tập cuối khoá học là dịp để tìm hiểu về thực tế, làm quen với quy trình công việc, bổ sung những kinh nghiệm mà mình còn thiếu. Trong thời gian này, em thực tập ở chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa. Tại đây em đã được tiếp xúc với nhiều vấn đề thực tế, em thấy rằng cho vay tiêu dùng là lĩnh vực đang ngày càng được mở rộng, nó sẽ là tiêu điểm cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính trong tương lai và hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Thế nhưng lĩnh vực cho vay tiêu dùng lại là một lĩnh vực phức tạp, có nhiều đặc thù như là: các món vay nhỏ lẻ, phải dàn trải chi phí cho nhiều khoản vay, có mức độ rủi ro cao… để có thể mở rộng cho vay tiêu dùng thật không đơn giản. Chính vì thế mà sau thời gian thực tập ở chi nhánh Đống Đa, em đã quyết định chọn đề tài chuyên đề thực tập là: ”Mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đống Đa”. Được sự giúp đỡ của các anh chị đang công tác tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa, em xin trình bày chuyên đề thực tập của mình gồm ba phần chính: Chương 1: Cơ sở cho vay tiêu dùng tại NHTM. Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa Do điều kiện còn hạn chế nên một số công tác tại chi nhánh em không có điều kiện tìm hiểu sâu. Mặc dù có nhiều cố gắng song trong chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong có sự góp ý của thầy, cô để bài viết trở lên hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn. Sinh viên: Trần Trọng Nguyên Chương 1: Cơ sở lý thuyết về cho vay tiêu dùng tại NHTM 1.1 Hoạt động cơ bản của NHTM 1.1.1 Khái niệm về NHTM NHTM là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng còn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Chính vì tầm quan trọng của ngân hàng mà hầu hết mọi người đều muốn hiểu về ngân hàng trước hết là một khái niệm đầy đủ, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, vấn đề là các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính, bao gồm cả các công ty kinh doanh chức khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng và ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ môi giới khác. Các tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình mà chúng cung cấp:”Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiêm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều dịch vụ tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu. Ví dụ, luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”. 1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả, đặc biệt là trong điều kiện danh mục dịch vụ của ngân hàng đang ngày càng mở rộng đến mức đôi khi ngân hàng còn được gọi là bách hoá tài chính. 1.1.2.1 Mua bán ngoại tệ. Đây có thể coi là một trong những loại hình dịch vụ mà ngân hàng thực hiện đầu tiên ngay từ khi nó được hình thành trong lịch sử. Các ngân hàng mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. 1.1.2.2 Nhận tiền gửi. Các ngân hàng không chỉ hoạt động dựa vào vốn tự có của mình mà các ngân hàng còn tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng cho việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. 1.1.2.3 Cho vay Ÿ Cho vay thương mại Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản suất kinh doanh. ŸCho vay tiêu dùng Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tang trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. ŸTài trợ cho dự án Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ kỹ thuật cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất, 1.1.2.4 Bảo quản tài sản hộ Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ. 1.1.2.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ thực hiện bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần đến ngân hàng để lấy tiền mặt mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ… 1.1.2.6 Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp, cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mỗi liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có nhiều kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. 1.1.2.7 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chinh phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. 1.1.2.8 Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác… 1.1.2.9 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn(Leasing) Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản suất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết, thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó các ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung dài hạn. 1.1.2.10 Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn. Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng công bố các tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. 1.1.2.11 Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán. 1.1.2.12 Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hoặc gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con , ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí. 1.1.2.13 Cung cấp các dịch vụ đại lý Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp nơi. Nhiều ngân hàng (thường là ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… 1.2 Hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM. 1.2.1 Khái niệm về cho vay tiêu dùng. Trên thực tế, cho vay tiêu dùng có thể được hiểu một cách rất đơn giản là hoạt động cho vay của ngân hàng đối với cá nhân và hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá, nhưng các ngân hàng đã liên tục phát triển và trở thành những tổ chức cung cấp tín dụng chính trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho ngân hàng có được vị trí thống trị trên lĩnh vực này là ngân hàng đã không ngừng khai thác nguồn tiền gửi của dân cư và coi đây là nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất. Hơn nữa, theo một số nghiên cứu gần đây thì tín dụng tiêu dùng thường là một trong những khoản mục tài sản mang lại nhiều nhất cho các ngân hàng. Đến ngày nay các ngân hàng đang ngày càng tập trung 1 tỷ lệ ngày càng lớn nguồn vốn vào lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên dịch vụ cho vay mà ngân hàng cung cấp cho người tiêu dùng có thể là một trong những dịch vụ mang chi phí cao nhất với nhiều rủi ro nhất đối với ngân hàng vì tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia đình có thể thay đổi nhanh chóng tuỷ vào tình trạng công việc và sức khoẻ của họ. Chính vì lý do đó mà các khoản cho vay tiêu dùng phải được quản lý chặt chẽ và linh hoạt trước những vấn đề có liên quan. Đặc điểm cho vay tiêu dùng. Từ trước đến nay, cho vay tiêu dùng vẫn được các ngân hàng coi là khoản mục mang lại lợi nhuận khá cao với lãi suất “cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, như vậy với cho vay tiêu dùng ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao (vì đã bao hàm một phần bù rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Vậy tại sao các khoản tiêu dùng lại mang lãi suất cao? Một lý do chính đã được lý giải là vì các khoản mục cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Nó tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng,khi mà người dân cảm thấy lạc quan về tương lai. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy không tin tưởng nhất là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc mượn từ ngân hàng. Hơn nữa khi vay tiền, người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất. Người tiêu dùng quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất (mặc dù rõ ràng chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến quy mô số tiền được trả). Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố quan trọng mà hộ gia đình vay tiền quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng. Những người có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn so với mức thu nhập hàng năm của mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập chính có học vấn cao cũng vậy. Với họ, việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp. 1.2.3 Những loại hình cho vay tiêu dùng. Trong khi số lượng các loại tín dụng tiêu dùng đang ngày càng tăng nhanh thì các loại hình cũng ngày càng đa dạng, việc phân loại cho vay tiêu dùng cũng có rất nhiều cách. Với mỗi tiêu thức sẽ đem lại một cách phân chia, chẳng hạn: 1.2.3.1 Phân loại cho vay tiêu dùng dựa vào mục đích (tiền vay sẽ được dùng vào việc gì). Cho vay tiêu dùng cư trú. Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân và hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng phi cư trú. Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản vay nhằm tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí gia đình, giải trí, du lịch,y tế... 1.2.3.2 Phân loại theo hình thức thanh toán (như loại cho vay đó sẽ được thanh toán làm nhiều lần hay thanh toán một lần khi đến hạn). Ÿ Cho vay tiêu dùng trả góp. Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả các khoản tiền bằng nhau (bao gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho va. Phương thức này thường được áp dụng cho những món vay có giá trị lớn hoặc thu nhập định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán một lần vay. Ÿ Cho vay tiêu dùng trả một lần khi đến hạn. Cho vay tiêu dùng phi trả góp là phương thức mà tiền vay sẽ được thanh toán cho khách hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thông thường các khoản vay này có thời hạn nhỏ và thời gian không dài. Ÿ Cho vay tiêu dùng tuần hoàn. Theo phương thức này, ngân hàng sẽ cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai, trong thời gian tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập dự kiến từng kỳ. Khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ, một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng. 1.2.3.3 Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay. Khách hàng có thể bảo đảm bằng nhiều loại tài sản khác nhau, có thể bảo đảm bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay của ngân hàng hoặc bảo đảm bằng uy tín của mình. Bảo đảm bằng tài sản thuộc sở hữu hay sử dụng lâu dài của khách hàng. Ÿ Cho vay cầm cố. Đây là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay với điều kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Danh mục và điều kiện của tài sản cầm cố được ngân hàng quy định cụ thể dựa trên quy định của pháp luật và chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Các tài sản cầm cố là các tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc nắm giữ không ảnh hưởng đến quy trình hoạt động của khách hàng, chẳng hạn như: các loại giấy tờ có giá, kim loại quý, ngoại tệ mạnh… Ÿ Cho vay thế chấp. Trong hình thức cho vay này, người vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời hạn đã cam kết. Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường là bất động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất… hoặc là những động sản mà việc nắm giữ nó không thuận tiện như ô tô, xe máy… Việc thế chấp bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng tài sản trong thời gian vay, tuy nhiên quá trình sử dụng có thể làm biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế. Việc định giá tài sản đảm bảo cũng là một khó khăn đòi hỏi phải có sự thẩm định kỹ lưỡng, tránh định giá quá cao gây thiệt hại cho ngân hàng hoặc định giá quá thấp gây ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. Tuy nhiên đối với cho vay tiêu dùng thì tài sản đảm bảo cũng không quá lớn như nhà xưởng, dây chuyền sản xuất… như đối với cho vay kinh doanh. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản đó không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng làm vật đảm bảo. Chẳng hạn khách hàng vay tiền mua ô tô, ngân hàng có thể yêu cầu lấy chính chiếc ô tô đó làm vật bảo đảm, khi khách hàng không có khả năng hoàn trả thì ngân hàng sẽ phát mại ô tô đó để thu nợ. Để đảm bảo rằng khách hàng sẽ không bán hoặc sử dụng không cẩn thận, làm giảm giá trị của tài sản, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải cam kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ hưởng là ngân hàng đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu tài sản cho ngân hàng. 1.2.3.4 Phân loại theo phương thức cho vay Cho vay gián tiếp Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho vay thông qua những công ty bán lẻ, hội, tổ hợp tác… loại hình này không đòi hỏi ngân hàng phải tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Ưu điểm của loại hình này là dễ dàng cho phép tăng doanh số cho vay tiêu dùng, tiết kiệm hơn, giảm được chi phí cho vay, mở rộng quan hệ với khách hàng và các tổ chức khác đồng thời có sự bảo đảm của tổ chức nên cũng khá an toàn… Nhưng nó cũng có nhiều hạn chế như khó kiểm soát được khách hàng do không được tiếp xúc trực tiếp với họ, không tiến hành thẩm định được đối với từng khách hàng trước khi cho vay… Cho vay trực tiếp. Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này, So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, loại hình này có một số ưu điểm như: Ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của cán bộ tín dụng được đào tạo một cách có bài bản, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng, do đó các quyết định trực tiếp từ ngân hàng sẽ có chất lượng hơn, từ đó giảm thiểu rủi ro cho các khoản vay. Mặt khác, cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián tiếp vì ngân hàng và khách hàng có thể chủ động hơn trong quan hệ tín dụng mà không phải thông qua trung gian. Ngân hàng có thể thực hiện thêm nhiều dịch vụ khác có liên quan, và khách hàng có thể được hưởng một dịch vụ tốt hơn thông qua một hệ thống dịch vụ hoàn hảo. 1.2.3.5 Kết hợp nhiều cách phân loại. Do nếu chỉ dùng một tiêu thức để phân loại thì khó có thể bao quát được toàn bộ các loại hình cho vay tiêu dùng, còn nếu dùng nhiều tiêu thức riêng biệt để phân loại thì sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong việc lựa chọn hình thức vay vốn. Một cách phân loại phổ biến là kết hợp nhiều tiêu thức với nhau để tạo ra được một bảng danh mục các hình thức cho vay tiêu dùng dễ quản lý đối với cán bộ tín dụng và dễ hiểu đối với khách hàng, ví dụ: Ÿ Cho vay  mua, sửa chữa xây dựng mới nhà cửa Ÿ Cho vay mua ô tô, xe máy trả góp Ÿ Cho vay trang trải các chi phí mua sắm đồ dùng gia đình, chi phí y tế... Ÿ Cho vay thông qua thẻ tín dụng, séc... Ÿ Cho vay du học Ÿ Cho vay cầm cố sổ tiết kiệm và giấy tờ có giá Ÿ Cho vay cán bộ công nhân viên Đôi khi nếu phân loại dựa trên một danh mục như thế này có thể tạo ra những nhầm lẫn giữa cho vay tiêu dùng và các loại hình tín dụng khác, thậm chí đôi khi cán bộ tín dụng có thể dùng một bộ hồ sơ vay vốn đối với các loại hình khác nhau này, chẳng hạn đối với cho vay cầm cố giấy tờ có giá thì không nhất thiết phải sử dụng khoản vay vào mục đích tiêu dùng... Tuy nhiên, theo nhiều quan điểm thì điều này lại tạo ra sự linh động, dễ dàng cho khách hàng, về phía nhà quản lý ngân hàng thì phải tăng cường năng lực để có thể quản lý chặt chẽ các khoản vay. 1.2.4 Lãi suất và phương thức cho vay áp dụng cho các khoản cho vay tiêu dùng. Cũng như các khoản cho vay khác, phần lớn các khoản cho vay tiêu dùng được định giá trên lãi suất cơ bản cộng với mức lợi nhuận cận biên và phần bù rủi ro. Ví dụ, lãi suất của khoản vay tiêu dùng thanh toán nhiều lần có thể tính theo mô hình thanh toán tổng hợp chi phí như sau.: Chi phí hoạt động khác (gồm lương của công nhân viênNH) Chi phí huy động vốn cho vay của ngân hàng Phần bù rủi ro tổn thất tín dụng Phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn Lợi nhuận cận biên Lãi suất khoản vay người tiêu dùng phải trả = + + + + + + Trên thực tế, xét trên phương diện lãi suất, điều khách hàng quan tâm hơn là phương pháp tính lãi và cách thức hoàn trả. Những phương pháp thông dụng nhất để tính lãi cho các khoản vay tiêu dùng là: tỷ lệ chiết khấu, phương pháp lãi đơn, niên kim cố định và trả gốc cố định… Phần lớn các khoản cho vay tiêu dùng đều mang lãi suất cố định, không thay đổi theo điều kiện của thị trường tín dụng bởi vì phần lớn các khoản vay này có kỳ hạn ngắn hạn hoặc trung hạn. Thế nhưng với những khoản cho vay dài hạn, có thể lên tới 20 năm, thì lãi suất cố định sẽ gây ra nhiều rủi ro đối với cả ngân hàng cho vay và khách hàng vay vốn. Chính vì vậy mà đối với những món vay dài, nhiều ngân hàng áp dụng lãi suất thả nổi. Tuy nhiên lãi suất hợp đồng phải được gắn với mức lãi suất cơ bản do NHNN ban hành hay là lãi suất của trái phiếu Chính phủ để đảm bảo công bằng cho người vay. Cùng với sự đa dạng của cách thức tính lãi, các ngân hàng cũng xây dựng nhiều phương thức cho vay, thông thường các ngân hàng sẽ sử dụng các phương thức sau: Ÿ Phương thức cho vay từng lần. Ÿ Phương thức cho vay theo hạn mức thấu chi. Ÿ Phương thức cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng. Ÿ Phương thức cho vay trả góp. Ÿ Cho vay thông qua tổ chức kinh tế khác. 1.2.5 Quy trình nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. 1.2.5.1 Tiếp nhận hồ sơ xin vay. Thời điểm tiếp nhận hồ sơ xin vay là thời điểm đầu tiên khách hàng và nhân viên tín dụng nói chuyện với nhau về khoản vay. Tại đây nhân viên tín dụng phải giúp đỡ khách hàng lập được một bộ hồ sơ đầy đủ theo quy định của ngân hàng tuỳ thuộc mỗi một khu vực và mỗi loại hình cho vay tiêu dùng vì cần phải có những yêu cầu về giấy tờ và cách lập hồ sơ theo cách thức khác nhau. Không chỉ dừng lại ở đây, công việc tiếp nhận hồ sơ còn phải thực hiện Marketing trước khi khách hàng đến với ngân hàng. Chỉ có như thế thì khách hàng mới hiểu rõ hơn về các sản phẩm của ngân hàng, sẽ có nhiều người hơn chủ động đến với ngân hàng và công việc hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ xin vay cũng đơn giản hơn khi khách hàng đã biết những thông tin thông qua công đoạn Marketing. 1.2.5.2 Đánh giá một đơn xin vay tiêu dùng. Đặc điểm và mục đích: yếu tố chính trong việc phân tích cần được xét duyệt 1 đơn xin vay tiêu dùng là đặc điểm của người đi vay và khả năng thanh toán của họ. Nhân viên tín dụng phải được bảo đảm rằng những khách hàng vay vốn có ý thức rõ ràng về trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ. Thêm vào đó người đi vay phải có mức thu nhập và tài sản giá trị để đảm bảo rằng họ có khả năng hoàn trả khoản vay. Đối với các cá nhân, trong đơn xin vay tiêu dùng thường gồm có: giấy xác nhận là cán bộ công nhân viên, giấy tờ chứng minh về thu nhập hàng tháng, các giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo, các giấy tờ hỗ trợ khác chứng minh về mục đích, nhu cầu sử dụng vốn vay, kế hoạch trả nợ… Ngân hàng sử dụng các báo cáo này để ước tính nhu cầu vốn, trong đó có nhu cầu tài trợ, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ, các thiệt hại có thể xảy ra nếu khách hàng không trả, hoặc không trả đầy đủ, giá trị các tài sản có thể phát mại khi cần thiết… Thông thường thì những đặc điểm cơ bản của những người đi vay được bộc lộ thông qua mục đích của việc vay tiền. Cán bộ tín dụng phải hỏi xem khách hàng sẽ dùng khoản tiền vay vào việc gì. Liệu mục đích đó có phù hợp với mục đích cho vay của ngân hàng không. Có bằng chứng nào chứng tỏ khách hàng sẽ không hoàn trả khoản vay đó không. Một cán bộ tín dụng lâu năm thường khuyên những người mới vào nghề là nên bỏ thời gian đi gặp từng khách hàng bởi vì qua những cuộc gặp gỡ như vậy họ sẽ dễ dàng phát hiện ra những biểu hiện gian dối hoặc nhược điểm trong tính cách cũng như sự thành thật của người đi vay. Trong trường hợp khách hàng có chất lượng tín dụng thấp thì ngân hàng thường yêu cầu phải có người đứng ra bảo lãnh về việc hoàn trả khoản vay. Tuy nhiên nhiều ngân hàng chỉ xem việc có người bảo lãnh là một đảm bảo về mặt tâm lý hơn là một nguồn đảm bảo thực sự, các nhà quản lý ngân hàng thường do dự không muốn thực hiện nhiều khoản cho vay có bảo lãnh vì điều đó có thể dẫn đến tổn thất cho cả người bảo lãnh mở tài khoản tại ngân hàng. Mức thu nhập: với các cán bộ tín dụng, mức thu nhập và sự ổn định trong thu nhập là những thông tin quan trọng. Những khách hàng có mức lương cơ bản và mức lương còn lại sau khi nộp thuế cao sẽ được đánh giá cao. Cán bộ tín dụng cũng đồng thời tiến hành kiểm tra người chủ cơ quan nơi khách hàng làm việc để đánh giá độ chính xác của mức thu nhập, độ dài thời gian làm việc, nơi cư trú và các thông tin khác được ghi trên đơn xin vay. Số dư các tài khoản tiền gửi: một tiêu thức gián tiếp về tổng thu nhập và sự ổn định thu nhập của khách hàng là số dư tiền gửi trung bình hàng ngày mà khách hàng duy trì, người cán bộ tín dụng cũng phải kiểm tra con số này qua các ngân hàng có liên quan. ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, các ngân hàng đều có quyền dùng số dư tiền gửi của khách hàng để bù đắp rủi ro tín dụng, quyền này cho phép ngân hàng có thể tịch thu số tiền còn lại trong tài khoản gửi tiền của khách hàng mở tại ngân hàng để bù đắp các khoản vay mà khách hàng đó không thanh toán đúng hạn. Tuy nhiên khách hàng thường được thông báo trước một số ngày nhất định. Sự ổn định về việc làm và nơi cư trú: trong những yếu tố chính mà cán bộ tín dụng có kinh nghiệm sẽ quan tâm là khoảng thời gian làm việc. Hầu hết các ngân hàng đều không muốn cho vay đối với những người chỉ mới làm việc tại nơi làm việc hiện tại được một vài tháng, nhất là cho vay những khoản tiền lớn. Thời gian sống tại nơi cư trú hiện tại cũng thường được coi trọng vì nếu một khoảng thời gian một người sống tại một nơi càng lâu thì có thể tin ràng cuộc sống của người đó càng ổn định. Còn nếu một người thường xuyên thay đổi chỗ ở thì sẽ là một yếu tố bất lợi cho ngân hàng khi quyết định cho vay. Hoạt động đảo nợ: các cán bộ tín dụng rất nhạy cảm với những bằng chứng về việc quy mô của các khoản nợ tăng so với thu nhập hàng năm, hàng tháng của khách hàng. Cũng như đối với tình trạng số dư của tài khoản thẻ tín dụng tăng nhanh hay tình trạng séc phát ra bị gửi trả lại, việc đảo nợ theo kiểu vay tiền từ người này để trả cho người kia bị hầu hết các ngân hàng phản đối. Làm thế nào để hoàn thiện một đơn xin vay tiêu dùng: Một đơn xin vay tiêu dùng không thể luôn hoàn hảo trong mọi tình huống với mọi đối tượng khách hàng, những rủi ro và các tổn thất có thể xảy ra ngay từ khi khách hàng lập đơn xin vay. Các ngân hàng chỉ có thể cố gắng hoàn thiện một đơn xin vay tiêu dùng bằng cách sử dụng từng mẫu đơn xin v._.ay tiêu dùng đối với từng loại hình tiêu dùng riêng biệt đã được phân loại một cách phù hợp nhất với tình hình kinh tế – xã hội ở địa phương. Với cố gắng càng chi tiết càng tốt sẽ góp phần hoàn thiện đơn xin vay tiêu dùng, tuy nhiên điều này không hẳn đã tốt, khách hàng có thể sẽ thấy phiền lòng vì điều này và đối với một ngân hàng lơn sẽ rất khó để thiết lập các mẫu đơn hoàn hảo cho từng chi nhánh của mình trên các địa phương khác nhau. 1.2.5.3 Thu thập các thông tin khác có liên quan. Những thông tin qua hồ sơ xin vay của khách hàng là chưa đủ để ngân hàng có thể quyết định có cho vay hay không đặc biệt là đối với các khoản vay tiêu dùng có rủi ro cao. Chính vì thế mà ngân hàng cần phải thu thập thêm các thông tin để đánh giá chính xác được chất lượng tín dụng trước khi cho vay. Ngân hàng có thể có được các thông tin khác về khách hàng thông qua mối quan hệ lâu dài, thông qua nguồn thông tin từ các ngân hàng khác, thông tin từ địa phương, thông tin từ các tổ chức mà cá nhân đó tham gia… Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lý thông tin khác: Ÿ Phỏng vấn trực tiếp là rất quan trọng, bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người vay vốn: thăm quan nhà riêng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động về cá nhân xin vay vốn, xem xét vật thế chấp… phỏng vấn trực tiếp giúp cán bộ ngân hàng loại trừ các báo cáo “ma”, cảm nhận cái đang diễn ra… Ÿ Mua hoặc tìm kiếm thông tin thông qua các trung gian (qua các cơ quan quản lý, qua các bạn hàng, chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin và tư vấn…). Rất nhiều người vay lần đầu tiên đến với ngân hàng, hoặc chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Tìm hiểu khách hàng này trong thời gian ngắn là không đơn giản. mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian giúp phân tích người vay qua các mối quan hệ của họ, cho thấy uy tín, tình trạng rủi ro, phát triển hay suy thoái. 1.2.5.4 Phân tích tín dụng. Công việc phân tích tín dụng là công việc quan trọng, quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập phần lớn thông qua phân tích tín dụng với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc hoàn trả đúng hạn. Do đó mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro. Nội dung phân tích tín dụng là thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định uy tín, tư cách pháp lý, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay… trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hiệu quả của phương án vay vốn… Phân tích tín dụng là công việc nghiêm túc không thể làm chiếu lệ. Trong môi trường gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng, khách hàng, đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện quy trình phân tích nhanh, gọn, và tiết kiệm chi phí; đây cũng là hoạt động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban và cán bộ ngân hàng. Do đó phân tích tín dụng phải được tiến hành theo một quy trình nhất định. Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực xử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Nội dung phân tích: Ÿ Đánh giá đạo đức của khách hàng. Rủi ro đạo đức là điều mà không một ngân hàng nào mong muốn. Chính vì thế bằng nhiều cách các ngân hàng cố gắng đánh giá chính xác nhất đạo đức của khách hàng. Ÿ Đánh giá phương án vay vốn của khách hàng. Phương án vay vốn logic, hợp lý, khả thi là điều kiện tăng thêm đảm bảo về đạo đức khách hàng và khả năng trả nợ của khách hàng. Ÿ Đánh giá tài sản của khách hàng: Ngân hàng thường yêu cầu các khách hàng cá nhân cung cấp cho ngân hàng những thông tin về tài sản của họ. Các thông tin về tài sản cho thấy quy mô, chất lượng tài sản, khả năng quản lý tài sản của khách hàng. Hơn nữa tài sản (tất cả hoặc một phần) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời. Ÿ Đánh giá các khoản nợ: nợ của người vay có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, về thời gian, gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay trung và dài hạn); Ngân hàng cũng quan tâm đến nợ quá hạn của khách hàng và các nguyên nhân… để có thể đánh giá chính xác hơn về khách hàng. Sau khi đánh giá từng mặt của cá nhân vay vốn, trong cho vay tiêu dùng đối với cá nhân và hộ gia đình rất cần thiết phải có hệ thống tính điểm và các tỷ lệ để tổng hợp thông tin và đưa ra một kết luận về năng lực của khách hàng. Hệ thống tính điểm đối với tín dụng tiêu dùng. Hệ thống tính điểm tín dụng có ưu điểm là có thể nhanh chóng giải quyết một số lượng lớn các yêu cầu mà không cần dùng nhiều sức người, điều đó có thể sẽ giảm chi phí hoạt động; và đó có thể là cách đánh giá có hiệu quả thay thế việc sử dụng những cán bộ tín dụng thiếu kinh nghiệm. Điều này giúp giảm bớt những khoản nợ khó đòi. Nhiều khách hàng cũng muốn những lá đơn của họ được xem xét nhanh chóng thông qua một hệ thống tính điểm tự động. Thông thường khách hàng gọi điện về một khoản vay và trong vòng vài phút ngân hàng sẽ liên lạc với văn phòng tín dụng để có được hồ sơ của khách hàng qua hệ thống nối vi tính nối mạng và sẽ có được quyết định nhanh chóng. Hệ thống tính điểm tín dụng thường dựa trên cơ sở các mô hình đặc biệt hoặc một số kỹ thuật có liên quan, trong đó một vài biến số sẽ được kết hợp lại để đánh giá về điểm số cho mỗi lá đơn. Nếu lá đơn đó đạt mức điểm giới hạn thì nó gần như sẽ được thông qua trừ trường hợp có những thông tin không bình thường. Ngược lại nếu lá đơn đó đạt điểm thấp hơn điểm giới hạn thì lá đơn đó đã gần như bị bác bỏ trừ trường hợp có yếu tố giảm nhẹ. Những biến số quan trọng nhất được dùng trong hệ thống này là xếp loại chất lượng tín dụng, tuổi tác, tình trạng hôn nhân, số người ăn theo, số nhà cửa sở hữu, thu nhập ròng, có điện thoại hay không, số lượng và loại tài khoản, loại nghề nghiệp, thời gian làm việc tại nơi chỗ làm hiện tại… Lý luận cơ sở của hệ thống này là ngân hàng có thể định dạng được các yếu tố về tài chính, kinh tế và động cơ của khách hàng để tách riêng các khoản cho vay loại tốt với loại tồi thông qua việc quan sát, tổng hợp, thu thập từ số đông những khách hàng đã vay nợ từ trước đến nay. Hơn nữa, ngân hàng giả định rằng các yếu tố tài chính và các yếu tố khác mà trước đây đã từng tạo ra sự khác biệt giữa những khoản tín dụng tốt và những khoản có chất lượng không tốt vẫn có thể được áp dụng trong tương lai, với tỷ lệ sai sót rất nhỏ. Rõ ràng là các giả định ngầm này có thể sai nếu nền kinh tế hoặc các yếu tố khác thay đổi đột ngột. Và đây là lý do khiến hệ thống tính điểm này thường xuyên được kiểm tra lại. Hệ thống tính điểm này thường lựa chọn từ 7 đến 12 yếu tố từ đơn xin vay của khách hàng và đánh giá mỗi khoản mục bằng cách cho điểm từ 1 đến 10. 1.2.5.5 Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoản thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các Luật, Quy định. Do vậy cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cần cân nhắc kỹ lưỡng hợp đồng tín dụng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Sau đây là nội dung chính của hợp đồng tín dụng: Ÿ Khách hàng: Họ tên, địa chỉ, chứng minh thư nhân dân... Ÿ Mục đích sử dụng vốn vay: khách hàng phải ghi rõ vay vốn để làm gì. Ÿ Số lượng tín dụng: Là số tiền (hoặc hạn mức tín dụng) ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng. Số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoản thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau. Ÿ Lãi suất: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng trả đồng thời xác định rõ tính chất của lãi suất (là lãi suất cố định hay biến đổi trong suốt kỳ hạn tín dụng). Nếu lãi suất có thay đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó. Ÿ Phí: Để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí (ví dụ phí cam kết) được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết. Mức phí và các điều kiện nộp phải được thể hiện trong hợp đồng tín dụng. Ÿ Thời hạn tín dụng: Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng (có khoản cho vay không xác định trước thời hạn). Thời hạn tín dụng có thể chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ; thời gian trả nợ có thể được chia thành nhiều kỳ hạn nợ nhỏ. Ÿ Các loại đảm bảo: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có) cho các khoản tín dụng (kèm theo các hợp đồng phụ). Các nội dụng quan trọng liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm, người bảo quản, quyền sử dụng đối với các đảm bảo… đều phải được xác định và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng. Ÿ Giải ngân: Hợp đồng tín dụng thường xác định các điều kiện và kỳ hạn giải ngân. Thường các khoản cho vay nhỏ và trong thời gian ngắn, ngân hàng cấp tiền vay vào đầu kỳ. Đối với các khoản vay lớn và trong thời gian dài, ngân hàng cấp tiền theo nhiều kỳ hạn và với các điều kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn. Ÿ Điều kiện thanh toán: bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận về cách thức thanh toán lãi và gốc (ngày trả, cách trả). Ÿ Các điều kiện khác: Bao gồm thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thể chấp và các hoạt động khác của người vay, phong toả tài sản, điều kiện và phương thức phát mại tài sản, báo cáo định kỳ, phạt vi phạm hợp đồng… 1.2.5.6 Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng. Sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền hoặc thanh toán tiền hộ cho khách hàng như đã thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ… Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được bảo đảm còn ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ, ngân hàng cần có các biện pháp sử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay… khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do vậy cho tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình quan trọng, trong giai đoạn này, ngân hàng có thể đưa ra các quyết định nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu. 1.2.5.7 Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới. Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ, đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “trục trặc” trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm hiểu nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng đó. Ÿ Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn yếu kém không cách gì cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi… Ÿ Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm. 1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng. 1.3.1.1 Chính sách tín dụng của ngân hàng Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng, với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách tín dụng của ngân hàng như: Ÿ Chính sách khách hàng Ÿ Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng. Ÿ Lãi suất và phí suất tín dụng. Ÿ Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ. Ÿ Các khoản đảm bảo. Ÿ Chính sách đối với các tài sản có vấn đề. Hoạt động cho vay tiêu dùng là một trong những lĩnh vực chịu điều chỉnh mạnh mẽ từ chính sách tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng chỉ có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng khi có mục tiêu mở rộng rõ ràng được thể hiện như một cương lĩnh trong chính sách tín dụng. Tại chính sách tín dụng, các mục tiêu đã được cụ thể hoá thành hoạt động của ngân hàng. 1.3.1.2 Hoạt động Marketing của ngân hàng. Trong mỗi giai đoạn, mỗi ngân hàng đều có một chiến lược Marketing riêng biệt phù hợp với những điều kiện hiện tại. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng trên cơ sở này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo các chính sách để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng từ đó mà đạt được mục tiêu đề ra. Lĩnh vực cho vay tiêu dùng là một xu hướng mới, đặc biệt là đối với Việt Nam, chính vì thế mà công tác Marketing tốt sẽ quyết định sự thành công của việc mở rộng cho vay tiêu dùng. 1.3.1.3 Mạng lưới của ngân hàng. Trong điều kiện ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, thì việc một ngân hàng hiện hữu ngay trong nhà khách hàng là điều đã trở nên bình thường. Tại bất kỳ đâu khách hàng cũng có thể tiến hành kiểm tra tài khoản hay thực hiện các giao dịch với ngân hàng. Tuy nhiên trên thực tế, hầu hết các khách hàng đều muốn được trực tiếp đến giao dịch với ngân hàng, nơi mà họ có thể được trực tiếp nói chuyện hay được nghe những lời khuyên từ nhân viên tín dụng. Do đó cùng với việc xây dựng các tiện ích từ loại hình ngân hàng trực tuyến, các ngân hàng cũng chú trọng phát triển một mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch nhằm phục vụ khách hàng được tốt hơn, đặc biệt là trong điều kiện công nghệ còn chưa phổ cập rộng rãi tại nhiều quốc gia rất nhiều quốc gia trên thế giới. Trong hoạt động cho vay tiêu dùng các ngân hàng thường mở những chi nhánh, phòng đại diện tại những khu dân cư, nơi có nhiều mục đích vay vốn nhằm phục vụ cuộc sống. Tại những địa điểm gần khách hàng, ngân hàng có thể dễ dàng tiến hành cho vay, thẩm định, giải ngân… có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng. 1.3.1.4 Công nghệ của ngân hàng Công nghệ đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các tiện ích, tốc độ xử lý thông tin và đưa ra các quyết định phù hợp với khách hàng luôn đảm bảo sự thành công trong công việc tín dụng. Ngân hàng không chỉ cung ứng những sản phẩm có trình độ kỹ thuật phù hợp với môi trường kỹ thuật tại địa phương mà còn phải đi trước xã hội một bước trong những ứng dụng về khoa học kỹ thuật. Chỉ có như thế ngân hàng mới có thể phục vụ đối với hầu hết mọi tầng lớp dân cư và có thể kiểm soát được mặt trái của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là với các sản phẩm cho vay tiêu dùng qua mạng và mua hàng qua mạng. 1.3.1.5 Hệ thống dịch vụ của ngân hàng Một ngân hàng hiện đại là một ngân hàng đa năng với nhiều tiện ích từ nhiều sản phẩm dịch vụ, trên thực tế, nhiều ngân hàng đã tự hào vì họ là một bách hoá tài chính. Một số quan điểm cho rằng loại hình ngân hàng chuyên doanh cũng có ưu điểm vì sự chuyên môn hoá của họ, tuy nhiên đa số quan điểm lại ủng hộ hơn một hệ thống dịch vụ đa dạng có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau để đem lại cho khách hàng sự thoả mãn tối đa. Cho vay tiêu dùng là một trong những sản phẩm của ngân hàng, nó sẽ được mở rộng và phát triển hơn nữa nếu bên cạnh nó có một hệ thống các sản phẩm có thể hỗ trợ nó tốt nhất. Chẳng hạn như đối với hình thức cho vay mua nhà, khách hàng có thể đến với ngân hàng để nhờ tư vấn về thị trường bất động sản với một khoản phí nhỏ. Ngay trong hoạt động cho vay tiêu dùng cũng cần sự đa dạng hoá, khách hàng có thể tìm đến với ngân hàng để thực hiện một hay nhiều mục đích tiêu dùng nếu ngân hàng đó có một danh mục đa dạng các hình thức cho vay tiêu dùng khác nhau. 1.3.1.5 khả năng đánh giá các khoản vay. Một ngân hàng với khả năng thẩm định, phân tích tốt các khoản vay có thể giúp ngân hàng loại bỏ được những khoản cho vay có vấn đề và giảm thiểu được những trường hợp từ chối những khoản vay tốt. Hoạt động cho vay tiêu dùng là loại hình chứa nhiều rủi ro và khó đánh giá nhất, tuy nhiên nếu có thể đánh giá chính xác được mức độ rủi ro của các khoản vay, ngân hàng có thể tăng đáng kể trong số lượng cũng như doanh số các khoản vay. 1.3.2 Nhóm các nhân tố thuộc về môi trường hoạt động của ngân hàng. 1.3.2.1 Môi trường chính trị. Quy định về hoạt động cho vay ảnh hưởng rất lớn đến danh mục cho vay của ngân hàng, bởi vì danh mục cho vay có vai trò rất lớn đối với trạng thái rủi ro và an toàn trong hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy theo luật, có một số hạn chế nhằm đảm bảo công bằng, an toàn. Tuy nhiên điều gây khó khăn cho các ngân hàng chính là từ những quy định chung chung. Nhiều khi, trong mỗi thời kỳ, với mỗi mục tiêu phát triển kinh tế khác nhau, các chính sách có thể thay đổi, gây những tác động không nhỏ tới các hoạt động ngân hàng nói chung và việc mở rộng cho vay tiêu dùng nói riêng. Ngoài ra thì tình hình an ninh, trật tự xã hội... cũng có những ảnh hưởng nhất định đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Chẳng hạn, tình hình an ninh, trật tự xã hội tốt thì người dân có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn là dự phòng cho sự kiện bất thường, từ đó ngân hàng có thể mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng trong một xu hướng tiêu dùng tăng cao. 1.3.2.2 Môi trường dân cư. Mỗi một địa phương có một đặc điểm riêng về nhân khẩu, Đó là độ tuổi trung bình, thu nhập bình quân, trình độ dân trí, thói quen tiêu dùng... Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng thì môi trường nhân khẩu có ảnh hưởng rất lớn. Theo những nghiên cứu về ảnh hưởng của môi trường nhân khẩu đối với cho vay tiêu dùng tại nhiều ngân hàng cho thấy: Ÿ Xu hướng tiêu dùng thay đổi theo độ tuổi của con người, Trong đời người ai cũng có những thời điểm có nhu cầu tiêu dùng lớn, thậm chí vượt ra khỏi mức thu nhập gấp nhiều lần. Ở Việt Nam, theo tổng hợp từ VNEXPRESS, độ tuổi tiêu dùng nhiều nhất là từ 25-35, càng trở về sau thì mức độ tiêu dùng cũng giảm đi. Ÿ Xu hướng tiêu dùng có sự khác biệt theo trình độ dân trí. Đối với những người có trình độ hiểu biết, đặc biệt là về lĩnh vực ngân hàng thì xu hướng sử dụng các khoản vay để phục vụ cho mục đích tiêu dùng thường lớn hơn và diễn ra với tần suất nhiều hơn so với những người khác. Ÿ Thói quen tiêu dùng của người dân tại mỗi địa phương cũng có những ảnh hưởng nhất định tới việc mở rộng cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Tại nhiều khu vực, người dân đòi hỏi những mặt hàng khác nhau phục vụ cho nhu cầu đời sống hàng ngày. Chính thói quen này đã tạo nên mức độ tiêu dùng khác nhau tại mỗi khu vực. 1.3.2.3 Môi trường kinh tế. Xu hướng tiêu dùng của dân cư thường có ảnh hưởng lớn từ xu hướng phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế có xu hướng phát đạt thì hoạt động tiêu dùng cũng có xu hướng mở rộng hơn. Người tiêu dùng có kỳ vọng về một thu nhập cao trong tương lai và sẽ dễ dãi hơn đối với các quyết định tiêu dùng. Họ sẵn sàng chi những khoản tiền lớn, thậm chí hơn nhiều lần so với mức thu nhập hiện tại. Điều này sẽ rất thuận lợi cho ngân hàng thực hiện các khoản cho vay tiêu dùng. Ngược lại nếu nền kinh tế có xu hướng thu hẹp thì người dân có xu hướng tích luỹ nhiều hơn là tiêu dùng, và doanh số cho vay tiêu dùng của ngân hàng có chiều hướng giảm xuống. 1.2.3.4 Môi trường kỹ thuật Đó là sự phát triển của khoa học, công nghệ, sự sáng tạo của con người trong lĩnh vực kỹ thuật và mức độ áp dụng thành tựu khoa học vào cuộc sống đời thường. Các nhà ngân hàng phải luôn nắm bắt sự thay đổi của môi trường kỹ thuật, tạo điều kiện áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động kinh doanh 1.3.2.4 Sự cạnh tranh từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Trong một môi trường ngày càng có nhiều sự cạnh tranh như thời đại ngày nay thì sự thành công chỉ có thể có khi đã là người chiến thắng trong cạnh tranh. Với việc hàng loạt các ngân hàng với quy mô khác nhau đang ngày càng chú ý hơn tới lĩnh vực cho vay tiêu dùng như một nguồn lợi nhuận không thể thiếu trong tương lai thì hiển nhiên mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực này đang ngày càng tăng lên. Để có thể mở rộng được hoạt động cho vay tiêu dùng, các ngân hàng phải liên tục thay đổi chính bản thân mình nhằm tăng cường sức cạnh tranh. Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa 2.1 Khái quát về chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa 2.1.1 Quá trình phát triển và tổ chức bộ máy của chi nhánh Đống Đa 2.1.1.1 Quá trình phát triển. Năm 1998,hệ thống Ngân hàng chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp.Từ đó,cùng với cơ chế quản lý mới của hệ thống NH và những nhu cầu mới trong cơ chế thị trường như tiết kiệm,đầu tư gia tăng,hệ thống NH ngày càng được mở rộng và phát triển.NHNo & PTNT Việt Nam là một trong những NH có mạng lưới chi nhánh cấp 1 được thành lập theo QĐ/27/06/1988 của Tổng Giám Đốc NHNo & PTNT Việt Nam trên cơ sở tách chuyển từ NHNo Thành phố nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu tư,phát triển kinh tế thủ đô, đặc biệt thong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chi nhánh NHNo & PTNT Đống Đa là chi nhánh cấp II của NHNo & PTNT Hà Nội được thành lập năm 2000,nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trên dịa bàn và góp phần mở rộng quy mô hoạt động của NHNo & PTNT Hà Nội,trụ sở chính đặt tại 154 Tôn Đức Thắng.Từ ngày 1/04/2008 chi nhánh ngân hàng đã chuyển sang mô hình ngân hàng cấp I trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam,trụ sở chính dặt tại 3/37 Đê La Thành-Đống Đa-Hà Nội. Hiện nay trụ sở ngân hàng đã chuyển về một trụ sở khang trang tại 211 Xã Đàn - Đống Đa - Hà Nội. 2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức Ban giám đốc Các phòng ban: -Phòng Hành chính nhân sự -Phòng Kế hoạch kinh doanh -Phòng kế toán ngân quỹ -Phòng kiểm soát - Phòng dịch vụ marketing Các phòng giao dịch: -PDG Số 23:54 Tôn Đức Thắng -PGD Số 24 : Số 1 Nguyên Hồng -PGD Số 25 : Số 158 Thái Thịnh -PDG số 26 :318 Xã Đàn Ban giám đốc:1 giám đốc,3 phó giám đốc có nhiệm vụ: +)Xây dựng chương trình theo kế hoạch và điều hành công việc hoạt động kinh doanh của chi nhánh theo sự chỉ đạo của ngành,NH thành phố -NH cấp ủy quyền cơ sở. +)Kịp thời phổ biến và kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách,công tư,chỉ thị và nghị đinh của ngành đối với cán bộ công nhân viên. +)Chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và đời sống của CBCNV trong chi nhánh. Phòng Hành chính nhân sự: Chức năng: +Tư vấn tham mưu cho Giám đốc về pháp lý có liên quan đến toàn bộ hoạt động của chi nhánh. +Thực hiện việc quản lý nhân sự,đào tạo và công tác hành chính,thi đua khen thưởng, thông tin tiếp thị,quản trị chi nhánh. Nhiệm vụ: +Nghiệp vụ hành chính nhân sự +Nghiệp vụ Marketing Phòng kế hoạch kinh doanh: +Xây dựng chiến lược khách hàng,đề xuất chính sách và có kế hoạch từng bước mở rộng quan hệ tín dụng với các Doanh nghiệp, hộ sản xuất ,khách hàng cá nhân trên địa bàn. +Tiếp nhận thẩm định và trực tiếp cho vay các dự án và chương trình vay vốn của các doanh nghiệp,khách hàng cá nhân theo quy định của ngân hàng TW,cũng như của ngân hàng cấp trên. +Thường xuyên phân tích,kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn,phân loại nợ…..để tìm biện pháp thu hồi nợ đúng hạn. +Lập báo cáo theo định kỳ và theo yêu cầu của lãnh đạo. +Thực hiện các nhiệm vụ khác của lãnh đạo chi nhánh giao. Phòng Kế toán ngân quỹ: 11 đồng chí có nhiệm vụ giúp giám đốc tổ chức thực hiện chế độ hạch toán kế toán ,quản lý tài chính,kinh doanh dịch vụ theo quy định của NHNo &PTNT Việt Nam và pháp luật hiện hành. +Thực hiện nghiệp vụ Kế toán_Ngân quỹ: Trực tiếp hạch toán kế toán ,hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam. Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính,quyết toán kế hoạch thu,chi tài chính đối với chi nhánh trên địa bàn để trình ngân hàng cấp trên phê duyệt. Quản lý và sử dụng quỹ chuyên dụng theo quy định Tổng hợp lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán kế toán ,quyết toán và câc báo cáo theo quy định. Thực hiện các khoản nộp ngân sách theo quy định Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định Quản lý ,sử dụng thiết bị thông tin,điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của NHNo & PTNT Chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề. +Nghiệp vụ dịch vụ +Nghiệp vụ điện toán Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ: Thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của NHNo &PTNT về tổ chức và hoạt động của bộ máy kiểm tra và kiểm soát nội bộ. Phòng giao dịch Huy động vốn trong nước cả nội và ngoại tệ của mọi tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo quy định về hình thức huy động vốn của NHNo & PTNT Việt Nam. Cho vay: Tổ chức giải ngân thu lãi thu nợ theo hợp đồng tín dụng,các hình thức cho vay khác theo quy định của NHNo & PTNT và giám đốc chi nhánh Đống Đa. +Nghiên cứu ,tìm hiểu,giới thiệu khách hàng,phân loại khách hàng +Mở tài khoản TG và làm dịch vụ chuyển tiền,thực hiện thu chi tiền mặt và các dịch vụ NH theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam và giám đốc chi nhánh Đống Đa. +Đảm bảo an toàn quỹ tiền mặt,các loại chứng từ có giá,thẻ phiếu trắng các loại hồ sơ lưu về KH và quản lý tốt các trang thiết bị. +Tuyên truyền giải thích các quy định về huy động vốn,thủ tục cho vay và các dịch vụ ngân hàng khác.Tiếp thu ý kiến đóng góp của KH về hoạt động để phản ánh kịp thời cho đơn vị quản lý.0 Phòng dịch vụ Marketing 2.2 Thực trạng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNO&PTNT Đống Đa 2.1.1 Tình hình cho vay tiêu dùng của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Ở các nước phát triển, tỷ trọng cho vay tiêu dùng thường chiếm 40-50% trên tổng dư nợ, thì tỷ lệ này của các TCTD Việt Nam chỉ chiếm 5% trên tổng dư nợ tín dụng. Với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện nay và với số dân trên 82 triệu người đang mở ra thị trường cho vay tiêu dùng vô cùng rộng lớn và đầy tiềm năng. Tuy nhiên hiện nay, một số thủ tục cho vay tiêu dùng vẫn còn vướng mắc. Ví dụ như thủ tục cho vay có tài sản bảo đảm là nhà, đất phải qua nhiều thủ tục quá phức tạp, nên nhiều nhu cầu vay nhưng không vượt qua được về thủ tục hành chính, do đó không tiếp cận được các khoản vay, nhiều thủ tục khách hàng không biết rõ như việc đăng kí giao dịch bảo đảm chưa được hướng dẫn đầy đủ...; việc quản lí các khoản vay tiêu dùng đối với cán bộ, công chức, viên chức có nhiều khó khăn do các khoản vay này thường được bảo đảm bằng tiền lương, trong khi tiền lương của cán bộ quá thấp, nên thời gian thu hồi nợ thường dài và cá biệt một số trường hợp ý thức của người đi vay chưa cao nên việc thu hồi nợ gặp khó khăn. Một số cơ quan quản lý lao động xác nhận cho cán bộ, công chức, và người lao động của cơ quan mình vay vốn cùng một lúc ở nhiều TCTD khác nhau, nhưng không thông tin cho NH biết hoặc thông tin không kịp thời, nên có trường hợp người đi vay đã chết, chuyển công tác hay thôi việc nhưng NH vẫn không nắm được dẫn đến khó khăn trong công tác thu hồi nợ. Việc cho vay du học hiện cũng gặp nhiều khó khăn do còn thiếu các quy định và không đồng bộ nhất là đối với nhu cầu vay bằng ngoại tệ. Đối với việc cho vay đi xuất khẩu lao động hoặc làm việc ở nước ngoài có thời hạn còn khô khăn, do các DN được phép xuất khẩu lao động thường ở xa các TCTD. Vì vậy, để hoàn thành thủ tục vay vốn khách hàng rất mất thời gian và làm chậm tốc độ giải ngân. Hiện nay, Nhà nước đang tiến hành tổ chức, sắp xếp lại các DNNN, do đó sự ổn định và đảm bảo thu nhập cho cán bộ, viên chức và người lao động bị ảnh hưởng đáng kể, tác động không nhỏ tới quyết định cho vay của NH... 2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Đống Đa Tình hình tài chính tháng 12/2007 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu QTN chung Tổng thu nhập nội bảng 99.764 Tổng chi nội bảng 92.312 Quỹ TN đạt được 20.604 Qũy tiền lương năng suất 2.033 Hệ số tiền lương năng suất 6.08 b. tình hình tài chính 12/2008 Đơn vị :triệu đồng Chỉ tiêu QTN chung Tổng thu nhập 946 119.959 Tổng chi (chưa bao gồm ngoại tệ) 87.853 Quỹ thu nhập thực tế (chưa lương) 12.903 Quỹ tiền lương 3.765 Hệ số tiền lương 1.5 c. Báo cáo công tác kinh doanh tháng 12năm 2009 1. Nguồn vốn Đơn vị: triệu đồng , USD, EUR Chỉ tiêu KH năm 2009 Thực hiện T12/2009 Tăng giảm so với 30/11/2009 Tăng giảm so với 31/12/2008 Tăng giảm so với KH 2009 Tổng nguồn 1.742.048 844.693 32.713 -82.627 -897.355 1. Nội tệ 1.600.000 684.019 33.201 -145.109 -915.981 - TG Dân cư 400.000 328.329 16.265 46.937 -71.671 -TG TCTD 200.000 200.000 +150.000 - TG TCKT 1.200.000 355.690 49.466 -142.046 -844.310 2. Ngoại tệ quy đổi 142.048 160.674 -488 62.482 18.626 - TG Dân cư 117.900 151.437 444 53.993 33.537 - TG TCKT 24.148 9.237 -932 8.489 -14.911 a. USD (nguyên tệ) 6.598.440 -70.474 2.033.575 Quy đổi 118.383 -1._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26904.doc