DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBTD: Cán bộ tín dụng
DSCV: Doanh số cho vay
DSTN: Doanh số thu nợ.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NHNo & PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
NHNN: Ngân hàng Nhà nước.
NHNo: Ngân hàng Nông nghiệp.
QTDND: Quỹ tín dụng nhân dân.
9. TCTD: Tổ chức tín dụng
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta là một nước nông nghiệp, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước Đảng và Nhà nước luôn xác định phát triển làng nghề là chiến lược kinh tế quan trọng
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để phát triển khu vực kinh tế nông thôn. Hà Tây là một trong những tỉnh có ngành hàng tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển nhất trong cả nước. Hiện tại các làng nghề đang trong xu hướng phát triển, xuất hiện nhu cầu về vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh, bên cạnh đó cũng xuất hiện nhu cầu vốn để duy trì và khôi phục lại những làng nghề đang có xu hướng bị mai một. Từ đó các làng nghề đã tạo ra thị trường tín dụng giàu tiềm năng đối với các NHTM trên địa bàn.
Chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây trong thời gian qua đã đầu tư tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đạt nhiều thành tích, đóng góp tích cực trong quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên việc ngân hàng đầu tư vốn vào các làng nghề còn ở thế cầm chừng, phân tán làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển làng nghề cả về quy mô cũng như về chất lượng. Do vậy cần phải tìm các giải pháp nghiên cứu nhằm mở rộng cho vay có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn để khôi phục và phát triển các làng nghề, đồng thời tạo lợi thế cho ngân hàng chiếm lĩnh thị trường nông thôn rộng lớn, mở rộng đầu tư. Nhận thấy điều đó tôi đã mạnh dạn đưa ra vấn đề: “Mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
- Chương I. Lý luận cơ bản về cho vay đối với làng nghề của Ngân hàng Thương mại.
- Chương II. Thực trạng về hoạt động cho vay đối với làng nghề tại chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây trong thời gian qua.
- Chương III. Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
Với những điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được sự đóng góp, góp ý của các thầy cô và bạn bè để luận văn được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn.
Em muốn gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính đặc biệt là cô giáo Th.S Lê Thanh Tâm và thầy giáo PGS. TS Lê Đức Lữ cùng các cô chú phòng Tín Dụng chi nhánh NHNo&PTNT Hà Tây đã giúp em hoàn thành luận văn này.
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO VAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm cho vay trong NHTM
Cho vay ra đời từ rất sớm, khi mà xã hội có sự phân công lao động, sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Xét về mặt xã hội sự xuất hiện chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành sự phân hoá xã hội: của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một nhóm người, trong lúc đó một nhóm người khác có thu nhập thấp hoặc thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi họ gặp những biến cố rủi ro bất thường xảy ra. Từ đó nảy sinh nhu cầu đi vay để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội thực hiện việc điều hoà nhu cầu tạm thời của cuộc sống.
Vào thời kỳ cổ đại, người đi vay chủ yếu là người nông dân và thợ thủ công, họ phải đi vay với lãi suất rất cao. Bởi trong điều kiện sản xuất thấp kém, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, lại thêm gánh nặng sưu thuế và các tệ nạn xã hội khác, những người sản xuất nhỏ thường xuyên phải đối phó với những rủi ro xảy ra trong cuộc sống. Điều đó buộc họ phải đi vay để giải quyết những khó khăn cấp bách trong đời sống như: mua lương thực, thuốc men, đóng tô, đóng thuế… còn các tầng lớp khác đi vay là để giải quyết những thiếu hụt tạm thời với các nhu cầu cao. Như vậy hình thức đầu tiên của cho vay là cho vay nặng lãi.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động cho vay ngày càng phát triển. Bởi ở đó luôn tồn tại hai nhóm chủ thể: một nhóm chủ thể có vốn tạm thời chưa sử dụng đến và một nhóm khác thiếu vốn lại có nhu cầu bổ sung vốn tạm thời. Từ đó những chủ thể thừa vốn sẽ cho vay đối với những chủ thể thiếu vốn. Hoạt động cho vay ngày càng mở rộng và phát triển đặc biệt từ khi có sự ra đời của hệ thống ngân hàng. Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại, các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền vừa cho vay nặng lãi. Họ là những người kinh doanh tiền tệ hay còn gọi là những nhà buôn tiền. Đầu tiên những nhà buôn tiền đã dùng vốn tự có để cho vay nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, họ nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có những người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút cùng một lúc, đã tạo số dư thường xuyên ở trong két. Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi căn bản hoạt động của nhà buôn tiền - kẻ cho vay nặng lãi thành nhà buôn tiền - ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách hàng tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp nhiều tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện mở rộng và hạ lãi suất cho vay. Như vậy hoạt động cho vay trong ngân hàng đã ra đời ngay từ khi ngân hàng ra đời.
Hiện nay, ngân hàng là tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của nước CHXHCN Việt Nam ghi: “ Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Hoạt động chính của ngân hàng thương mại (NHTM) là huy động và sử dụng vốn nhằm thu lợi nhuận. Việc huy động vốn chính là quá trình tạo nên các khoản tài sản khác nhau của ngân hàng trong đó cho vay là khoản mục tài sản lớn và quan trọng nhất.
Như vậy, “cho vay: là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. ( Mục 2 - điều 3 - 1627/2001 QĐ – NHNN).
Từ định nghĩa trên có thể thấy cho vay có một số đặc điểm sau:
Tài sản giao dịch trong quan hệ cho vay là tiền. Tiền cho vay là một món nợ đối với cá nhân hay doanh nghiệp đi vay nhưng lại là một tài sản đối với ngân hàng. So sánh với các tài sản khác khoản mục tiền vay có tính lỏng kém hơn vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đó đến hạn thanh toán. Ví dụ: Một ngân hàng cho khách hàng vay một khoản tiền với thời hạn 2 năm, ngân hàng đó không thể thu hồi lại tiền của mình trước thời hạn 2 năm thời điểm mà khoản vay đến hạn trả. Các khoản tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn các tài sản khác.
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy ngân hàng khi cho vay phải có cơ sở để tin rằng khách hàng sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố cơ bản trong quản trị tín dụng. Khi quyết định cho khách hàng vay, ngân hàng phải có sự sàng lọc những người đi vay có triển vọng tốt ra khỏi những người có triển vọng xấu. Nhằm thực hiện sàng lọc có hiệu quả, ngân hàng cần tập hợp được nhiều thông tin đáng tin cậy về người đi vay. Đồng thời ngân hàng phải tiến hành giám sát để đảm bảo người vay sẽ sử dụng đúng mục đích, hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Trên thực tế một số cán bộ tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cho vay.
Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
Trong hoạt động cho vay, tiền vay được ngân hàng cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện của bên đi vay khi đến hạn. Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi với thời gian xác định được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với khách hàng nhận tiền cho vay của ngân hàng và là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay
Trong nền kinh tế thị trường cho vay ngày càng được mở rộng và trở nên
quan trọng. Chủ thể tham gia quan hệ cho vay bao gồm: ngân hàng, các đối tượng vay vốn (cá nhân, tổ chức kinh tế,…), cả Nhà nước trung ương cũng như các địa phương. Cho vay đã đem lại nhiều lợi ích không chỉ cho những đối tượng tham gia trong quan hệ cho vay mà còn đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Dưới đây ta xét vai trò của hoạt động cho vay đối với ngân hàng, đối tượng vay vốn và toàn bộ nền kinh tế:
a. Đối với NHTM:
Cho vay đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng. Trong các khoản mục sử dụng vốn thì cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất. Lãi từ hoạt động cho vay là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng, được dùng để chi trả các chi phí như: lãi tiền gửi, lãi tiền vay, các chi phí khác. Phần còn lại là lợi nhuận của ngân hàng. Có lợi nhuận ngân hàng sẽ sử dụng để đầu tư máy móc, thiết bị, mở rộng mạng lưới…phát triển kinh doanh.
Cho vay giúp ngân hàng sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động được. Ngân hàng huy động vốn từ dân cư, tổ chức kinh tế và phải trả chi phí cho hoạt động đó bao gồm các chi phí: quảng cáo, thuê nhân viên, lãi tiền gửi… trong đó chi phí lãi tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nếu ngân hàng huy động tiền và cất tiền vào trong két thì tiền không sinh lời trong khi ngân hàng lại phải trả chi phí cho số tiền đó. Cho vay sẽ giúp ngân hàng sử dụng được nguồn vốn đó đem lại nguồn thu cho ngân hàng để trang trải các chi phí. Mặt khác, cho vay càng tăng thì đến lượt nó sẽ thúc đẩy hoạt động huy động vốn tăng nhanh hơn.
b. Đối với đối tượng vay vốn:
Cho vay đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, không đứt đoạn. Các tổ chức kinh tế trong một thời điểm nào đó thiếu vốn để mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân,…do chưa thu được tiền bán hàng. Lúc này họ phải đi vay để duy trì quá trình sản xuất, họ có thể vay bạn bè hay người thân nhưng không phải lúc nào cũng có thể vay được. Hoạt động cho vay của NHTM sẽ đáp ứng nhanh nhất và kịp thời vốn cho họ để tiếp tục quá trình sản xuất.
Cho vay góp phần đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh và mở rộng sản xuất của khách hàng. Các khách hàng trong quá trình sản xuất luôn cần phải mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Muốn vậy họ cần phải đổi mới công nghệ, mua những thiết bị máy móc mới, xây dựng thêm nhà xưởng, thuê thêm lao động… chi phí cho những hoạt động này là rất lớn và bản thân các doanh nghiệp tại một thời điểm không thể có đủ vốn để chi trả. Vốn vay ngân hàng sẽ giúp họ thực hiện được điều đó trong khi bản thân doanh nghiệp chưa có đủ vốn .
Trên cơ sở sàng lọc và giám sát ngân hàng buộc các đối tượng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả. Trong nghiệp vụ cho vay của ngân hàng không phải đối tượng nào có nhu cầu đều được vay mà ngân hàng luôn có sự sàng lọc, lựa chọn. Ngân hàng sẽ chỉ thực hiện cho vay đối với khách hàng có uy tín, có phương án kinh doanh hiệu quả và có triển vọng phát triển. Do vậy mà các chủ thể vay vốn phải có một phương án vay vốn có hiệu quả và có tư cách đạo đức tốt. Khi cho vay, ngân hàng sẽ tiến hành giám sát, kiểm tra xem đối tượng vay vốn sử dụng vốn vay có đúng mục đích không? Nếu khách hàng sử dụng vốn vay không hiệu quả ngân hàng sẽ tư vấn để giúp họ có phương án có hiệu quả hơn hoặc nếu khách hàng sử dụng không đúng mục đích ngân hàng có thể thu hồi lại vốn cho dù chưa hết thời hạn vay vốn. Chính vì vậy mà khách hàng luôn phải sử dụng vốn đúng mục đích từ đó đem lại hiệu quả cho khách hàng, tránh rủi ro cho ngân hàng.
c. Đối với nền kinh tế:
Cho vay góp phần làm quá trình sản xuất diễn ra liên tục thường xuyên trong nền kinh tế, góp phần tạo sự tăng trưởng về kinh tế. Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp. Việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Nhờ được cung cấp vốn mà các chương trình, hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện, được bắt đầu và duy trì tạo sự phát triển cho nền kinh tế. Nhìn hẹp hơn, ở góc độ người đi vay, người cho vay thì cho vay đem lại khoản lợi cho cả hai bên. Lợi ích kinh tế của hai phía đạt được từ quan hệ cho vay chính là biểu hiện cụ thể nhất của sự tăng trưởng về kinh tế.
Cho vay là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn. Các ngành kinh tế kém phát triển thường đem lại hiệu quả kinh tế không cao nhưng nó có thể là rất cần thiết. Chẳng hạn: ngành nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho nền kinh tế nhưng đem lại lợi nhuận không cao bằng các ngành khác do vậy mà các doanh ngiệp thường không muốn đầu tư vào các ngành này. Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội, đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và là ngành chịu tác động nhiều nhất của điều kiện tự nhiên. Vì vậy trong giai đoạn trước mắt Nhà nước cần đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển.
Những ngành kinh tế mũi nhọn thường là những ngành mới phát triển đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Phát triển những ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành khác như: sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thường không đủ tiềm lực tài chính để đầu tư, không ai khác ngân hàng chính là người sẽ cho vay để tài trợ cho các ngành này.
Cho vay góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để sản xuất kinh doanh, việc phát triển sản xuất sẽ góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cho vay trực tiếp đối với khách hàng là cá nhân dưới hình thức cho vay tiêu dùng để mua sắm những thiết yếu cần thiết cho cuộc sống như: xây dựng nhà cửa, mua xe…. trong khi bản thân họ không có đủ tiền. Từ đó mà cho vay đã góp phần cải thiện đời sống của người dân.
Cho vay góp phần điều chỉnh cơ cấu đầu tư, từ đó tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngân hàng sẽ chỉ cho vay đối với các ngành có hiệu quả cao và có khả năng phát triển. Mặt khác, ngân hàng cũng cho vay theo chỉ định của Nhà nước, chính quyền địa phương trong đó có chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ở Việt Nam cho vay còn tác động vào quá trình hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi ngân hàng khi cho vay không phân biệt thành phần kinh tế mà sẵn sàng cho vay với các đơn vị hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả nợ ngân hàng đầy đủ.
1.1.3. Phân loại cho vay trong Ngân hàng Thương mại:
Dựa vào mục đích nghiên cứu mà người ta phân chia hoạt động cho vay theo nhiều hình thức khác nhau.
a/ Dựa vào mục đích sử dụng tiền vay:
Khi phân chia theo tiêu thức này, các nhà ngân hàng mong muốn tìm ra nguồn tiền trả nợ ngân hàng. Tuỳ theo mục đích sử dụng tiền vay mà người ta phân chia hoạt động cho vay của ngân hàng thành hai loại chính là:
Cho vay tiêu dùng: Mục đích của việc cho vay là người đi vay phải sử dụng tiền vay vào việc tiêu dùng, mua sắm tài sản… nhằm mục đích phục vụ lợi ích cá nhân. Khi thực hiện hình thức cho vay này cán bộ tín dụng (CBTD) đã phải tính đến nguồn tiền để trả ngân hàng đó chính là thu nhập cá nhân của người vay tiền. Hình thức phổ biến nhất của loại hình này là cho vay trả góp, một loại hình đã áp dụng rất thành công ở các nước đang phát triển. Ngân hàng có thể cho công chức vay để họ mua sắm ô tô, trả góp nhà ở. Điều này đã giúp cho sự tiêu thụ hàng hoá trở nên thuận lợi hơn, do vậy nó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cho vay để kinh doanh: mục đích của loại cho vay này là ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của họ, nhằm mở rộng sản xuất hay đáp ứng nhu cầu nào đó về tiền của doanh nghiệp. Dựa vào đặc điểm từng ngành mà ngân hàng sẽ thiết lập điều kiện cho vay, cách thức trả nợ dựa trên nguồn thu tiền hàng hoá của doanh nghiệp. Có thể phân chia loại hình này theo tiêu thức là: cho vay doanh nghiệp sản xuất hay cho vay doanh nghiệp thương mại; có thể phân chia theo ngành nghề kinh tế như: cho vay ngành nông nghiệp, cho vay ngành công nghiệp, cho vay ngành dịch vụ.
b/ Dựa theo thời hạn cho vay:
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng nhận được vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Theo thời hạn tín dụng cho vay được phân thành:
Cho vay không có thời hạn xác định: là những khoản cho vay mà thời điểm sử dụng tiền vay và thời điểm trả tiền vay không được kí kết tại thời điểm kí kết hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng. Thay vào đó ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau những điều kiện thu hồi tiền vay của ngân hàng hoặc điều kiện hoàn trả vốn vay của khách hàng. Tiền lãi của khoản vay này được xác định theo sự biến đổi lãi suất của ngân hàng.
Cho vay ngắn hạn: là những khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống nhằm bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp. Khoản vay này có lãi suất thấp, tính thanh khoản của món vay cao và độ rủi ro thấp.
Cho vay trung hạn: là những khoản cho vay có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm nhằm tài trợ cho các tài sản cố định như: sửa chữa, mua sắm thêm thiết bị vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn, thay đổi sản phẩm hàng hoá…Lãi suất của món vay trung hạn thường cao, tính thanh khoản của món vay thấp và độ rủi ro cao.
Cho vay dài hạn: Là những khoản cho vay có thời hạn 5 năm trở lên nhằm tài trợ cho các công trình xây dựng cơ bản: nhà, sân bay, cầu đường máy móc, thiết bị có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu phát triển sản xuất theo chiều rộng hoặc chiều sâu. Vì thời gian dài nên độ rủi ro của những khoản vay dài hạn là cao nhất, tính thanh khoản là thấp nhất nhưng lãi suất lại là cao nhất.
Các khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đều có thời hạn sử dụng tiền và thời điểm nhận vốn vay cũng như thời điểm hoàn trả được xác định cụ thể và chính xác ngay từ khi ký kết hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
c/ Dựa theo hình thức bảo đảm của khoản vay:
Cho vay có tài sản đảm bảo: là những khoản cho vay mà bên cạnh việc cho khách hàng vay vốn, ngân hàng còn lắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi vốn vay khi người vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Nghĩa vụ hoàn trả của khách hàng được thực hiện bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
+ Cho vay thế chấp: là hình thức mà người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
+ Cho vay cầm cố: Là hình thức mà người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết.
Cho vay không có tài sản đảm bảo: là những khoản vay mà ngân hàng không nắm giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là những điều kiện ràng buộc khác khi ký hợp đồng tín dụng. Căn cứ để ngân hàng có thể cho khách hàng vay theo hình thức này là: ý thức của khách hàng, tình hình tài chính, lịch sử tín dụng của khách hàng, lợi tức có thể có trong tương lai của dự án xin vay vốn…
+ Cho vay tín chấp: là hình thức cho vay của ngân hàng căn cứ vào uy tín, sự tin tưởng đối với khách hàng. Phát triển cho vay tín chấp rất có lợi bởi vì có những khách hàng có dự án tốt, khả năng sinh lời cao nhưng không có tài sản thế chấp vẫn có thể được vay vốn.
+ Bảo lãnh: là hình thức cho vay căn cứ vào sự bảo lãnh bằng uy tín của bên thứ ba. Người thứ ba khi đứng ra bảo lãnh sẽ cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng thay cho người đi vay khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
d/ Dưạ vào mức độ cho vay:
Cho vay trực tiếp: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng. Ngân hàng trực tiếp cho khách hàng vay vốn thông qua hồ sơ vay vốn mà khách hàng nộp cho ngân hàng. Khách hàng làm việc trực tiếp với CBTD để nộp đơn xin vay vốn, thoả thuận các vấn đề liên quan.
Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua tổ chức trung gian. Đó là các tổ, hội, đội như: hội phụ nữ, hội nông dân, nhóm sản xuất…Mục đích của các tổ chức này cùng quan tâm đến là vấn đề phát triển kinh tế làm giàu, xoá đói giảm nghèo, dựa trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Đối tượng đi vay là các hộ nông dân, người buôn bán nhỏ, các hộ nghèo, học sinh, sinh viên… hình thức cho vay này có hai loại.
+ Cho vay gián tiếp thông qua tổ chức trung gian: là các tổ hội, đội như: hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh…
+ Cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Hình thức cho vay này thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. Thông qua hình thức này sẽ giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí cho vay, giảm bớt rủi ro. Tuy nhiên hình thức này cũng bộc lộ nhiều nhược điểm: nhiều trung gian có thể lợi dụng vị thế của mình để tăng lãi suất hoặc lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình, còn các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc bán với giá đắt cho người vay vốn.
e/ Dựa vào phương thức vay vốn:
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Khi có nhu cầu vay vốn theo hình thức này khách hàng chuẩn bị một hồ sơ xin vay trong đó tự giới thiệu về mình, ghi số lượng tiền vay, thời hạn trả và phương án sử dụng tiền vay. Sau đó ngân hàng sẽ thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng.
Phương thức cho vay từng lần là phương thức truyền thống, thông dụng của các NHTM. Ưu điểm của phương thức này là đơn giản. Ngân hàng luôn kiểm soát được mục đích và hiệu quả sử dụng tiền vay. Tuy nhiên mỗi lần vay khách hàng lại phải làm hồ sơ xin vay. Điều này gây tốn kém cho khách hàng và ngân hàng để thẩm định lại những văn bản khách hàng mang đến. Điều này làm tăng chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương thức cho vay trong đó ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là hình thức cho vay mà không xác định chính xác được thời điểm cần vay và thời điểm hoàn trả, khối lượng tiền vay mà ở đây có sự xen kẽ giữa thời điểm vay và thời điểm hoàn trả tạo nên những nhu cầu về vốn không rõ ràng của khách hàng. Điều kiện để được cho vay theo hạn mức tín dụng là: có tín nhiệm với ngân hàng về việc trả nợ và vay vốn, có nhu cầu vay vốn thường xuyên, vòng luân chuyển vốn nhanh, thường xuyên có tiền nộp vào ngân hàng, kinh doanh ổn định.
Khi đến ngân hàng vay vốn khách hàng chỉ phải làm đơn xin vay lần đầu và các tài liệu liên quan đến việc vay vốn và thiết lập mối quan hệ theo phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Phương thức cho vay này tạo thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có tiền ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ động trong quản lý ngân quỹ của khách hàng. Tuy nhiên với phương thức cho vay này là rất rủi ro. Do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay đó.
Cho vay thấu chi: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Theo cách này ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng để khách hàng sử dụng số dư nợ trên tài khoản thanh toán trong một thời hạn nhất định. Khách hàng sử dụng vốn vay bằng cách phát hành séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ,..vượt quá số dư tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng có tiền nhập vào tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu cả gốc và lãi.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Do vậy phương thức này tạo thuận lợi cho khách hàng chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt thủ tục đơn giản, phần lớn là không có tài sản đảm bảo. Nhược điểm của phương thức này là rủi ro cao vì khi doanh nghiệp đặc biệt khó khăn thì các khoản vay thấu chi có thể không được khách hàng trả nợ.
Cho vay theo dự án đầu tư: là phương thức cho vay mà ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ, ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án. Mỗi lần rút vốn vay khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi mức vốn đã thoả thuận kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp mục đích sử dụng vốn vay trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm của phương thức này là: thời gian hoàn vốn chậm, lãi suất cao, giá trị khoản vay lớn.
g/ Các hình thức phân chia khác:
Cho vay một ngân hàng tài trợ hoặc hợp vốn (đồng tài trợ)
Cho vay theo đối tượng đi vay vốn: cho vay cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỂ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Tổng quan về làng nghề:
a. Khái niệm về làng nghề:
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều cho thấy làng xã có vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất, cũng như đời sống dân cư ở nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu sử học: làng xã xuất hiện từ thời các vua Hùng dựng nước; những xóm làng định canh đã được hình thành dựa trên cơ sở những công xã nông thôn. Công xã nông thông là một tập hợp các gia đình sống quây quần với nhau trong một khu vực địa giới nhất định.
Lúc đầu phần lớn các thành viên trong làng đều làm nông nghiệp. Sau đó có một bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau hình thành nên một số tổ chức theo nghề nghiệp như: phường gốm, phường dệt… Từ đó, các nghề được lan truyền rộng ra khắp làng và hình thành nên làng nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề thì đa phần các gia đình trong làng đều vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm nghề. Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hoá, các nghề mang tính chuyên môn sâu hơn và thường chỉ giới hạn trong quy mô nhỏ (làng) dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển hẳn sang nghề thủ công. Càng về sau xu hướng người lao động tách khỏi đồng ruộng chuyển sang làm nghề thủ công và sống bằng chính nghề đó ngày một tăng. Những làng nghề phát triển mạnh số hộ và số lao động làm nghề tăng nhanh và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều.
Như vậy làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra các làng nghề truyền thống và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá văn minh dân tộc. Trải qua thời gian dài của lịch sử, có những làng nghề vẫn được lưu giữ nhưng có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn, có những làng nghề mới ra đời. Lâu nay quan niệm về làng nghề vẫn chưa được thống nhất, có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có nhiều người thống nhất khái niệm làng nghề như sau:
“Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một làng có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng”.
Căn cứ để xác định một làng có phải làng nghề hay không dựa trên những tiêu thức sau:
Số hộ và số lao động làm nghề ở làng nghề đạt từ 50 % trở lên so với tổng số hộ và lao động của làng.
Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề ở làng nghề đạt trên 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
Những sản phẩm mà làng làm ra phải mang tính đặc thù của làng.
Có hình thức tổ chức phù hợp chịu sự quản lý của Nhà nước của chính quyền địa phương gắn với mục tiêu kinh tế xã hội và làng văn hoá của địa phương.
Tên nghề của làng phải được gắn với tên làng: nếu là làng có một nghề thì lấy nghề đó đặt tên cho làng. Nếu làng có nhiều nghề phát triển, sản phẩm nghề nào nổi tiếng nhất thì lấy nghề đó đặt tên làng. Chẳng hạn: làng dệt lụa Vạn Phúc (Hà Tây), làng gốm Bát Tràng (Hà Nội)…
Người ta có thể chia làng nghề ra thành hai loại: làng một nghề và làng nhiều nghề. Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có lác đác ở một vài hộ không đáng kể. Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỷ trọng nghề chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Cũng có thể chia làng nghề thành: làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
b. Đặc điểm của làng nghề:
Thứ nhất: Làng nghề phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề.
Về quy mô làng nghề: Đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh có quy mô nhỏ bình quân mỗi cơ sở làm nghề chỉ có khoảng vài chục triệu đồng. Làng nghề phát triển với nhiều loại mô hình sản xuất, hình thức tổ chức của các cơ sở làng nghề cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp nông thôn như: các hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã…Trong những năm gần đây còn xuất hiện những nghề mới như chế biến nông sản, thực phẩm… đã hình thành nên những công ty, doanh nghiệp tư nhân.
Về cơ cấu nghành nghề: đã có sự thay đổi thích ứng với cơ chế thị trường. Một số ngành phát triển mạnh như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, cơ kim khí.. Có thể nói cơ cấu những ngành nghề của làng rất phong phú. Ở các địa phương tỷ lệ ngành nghề cũng khác nhau do nhu cầu tiêu thụ và tiêu dùng khác nhau.
Về trình độ kỹ thuật: trước đây ở các làng nghề sử dụng công cụ thủ công là chủ yếu đến nay đã có sự kết hợp giữa thủ công và máy móc. Một số công cụ đã được cơ giới hoá, hiện đại hoá và áp dụng công nghệ tiến tiến vào sản xuất như thiết bị chế biến lương thực, thực phẩm, công nghệ sinh học… nhưng tỷ lệ này mới chỉ ở mức thấp.
Thứ hai: Về sản phẩm._. của làng nghề
Sản phẩm làng nghề là những sản phẩm tiểu thủ công nghiệp. Đối với các sản phẩm của các làng nghề truyền thống thì sản phẩm mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao. Bên cạnh những sản phẩm mang tính truyền thống còn có rất nhiều sản phẩm của những làng nghề mới làm cho các sản phẩm của các làng nghề ngày càng đa dạng, phong phú với nhiều chủng loại, thuộc nhiều ngành khác nhau. Nhờ bám sát nhu cầu thị trường mà các mặt hàng của làng nghề tăng lên nhanh chóng, chất lượng được nâng cao đáp ứng nhu cầu khách hàng. Đặc biệt những sản phẩm nghề truyền thống đã được cải tiến nhanh chóng, phù hợp với thị hiếu được người tiêu dùng trong và ngoài nước yêu thích và đang ngày càng chiếm ưu thế trên thị trường.
Thứ ba: Làng nghề có khả năng giải quyết tốt việc làm cho người lao động. Một đặc điểm nổi bật về lao động ở các làng nghề là lao động chủ yếu trong các hộ gia đình chiếm tới 90 % , chỉ còn khoảng 10 % nằm ở các doanh nghiệp. Nếu như trước đây lao động trong các làng nghề chủ yếu là thủ công thì ngày nay do có sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các làng nghề đã ứng dụng ngày càng nhiều khoa học công nghệ vào sản xuất nhất là ở các làng nghề mới. Một số tỉnh có làng nghề phát triển như: Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình…ngoài số lao động sử dụng tại địa phương còn thuê mướn nhân công ở bên ngoài rất nhiều, làm thị trường lao động ở nông thôn sôi động hẳn lên.
Lao động trong các làng nghề truyền thống có trình độ kỹ thuật cao, tay nghề giỏi, mang tính mỹ thuật độc đáo đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh những lao động có tay nghề cao ở các làng nghề truyền thống đại đa số trình độ lao động ở các làng nghề là thấp. Các chủ hộ, chủ cơ sở thường chưa qua trường lớp đào tạo nào nên trình độ quản lý yếu kém. Họ thường quản lý theo kinh nghiệm, kinh doanh theo kiểu chớp giật. Điều đó chỉ đem lại những lợi ích trước mắt không đem lại hiệu quả lâu dài cho họ.
Thứ tư: Về hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề.
Khi mới hình thành hình thức tổ chức kinh doanh của làng nghề là hộ gia đình gắn với các phường nghề, hội nghề như: phêng gốm, phường đúc đồng…Hiện nay hình thức tổ chức kinh doanh của làng nghề vẫn chủ yếu là hộ gia đình có nơi lên đến 90 % . Bên cạnh đó cũng đã tồn tại các hình thức hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy các hình thức này mới chỉ chiếm số ít nhưng nó đã cho thấy sự phát triển của làng nghề ở trình độ phát triển cao hơn.
c. Vai trò của làng nghề trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được coi là một chiến lược quan trọng mà Đảng đã đề ra. Để đạt được điều đó thì trước hết cần đẩy mạnh việc khai thác các tiềm năng sẵn có nhằm xoá dần tình trạng thuần nông, độc canh cây lúa tạo công ăn việc làm cho người lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Điều này chỉ có thể được thực hiện thông qua con đường khôi phục và phát triển các làng nghề. Từ đó ta có thể thấy được vai trò quan trọng của làng nghề như sau:
Phát triển làng nghề góp phần giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn.. Tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Các làng nghề đang ngày càng thu hút nhiều lao động không chỉ lao động ở địa phương mà còn cả lao động ở các địa phương khác đến làm thuê. Đồng thời, phát triển làng nghề còn kéo theo các dịch vụ khác phát triển tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Chẳng hạn ngành chế biến lương thực, thực phẩm tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi phát triển. Việc phát triển các làng nghề là giải pháp quan trọng nhằm khai thác tiềm lực ở nông thôn tạo điều kiện cho người lao động không có khả năng sản xuất nông nghiệp chuyển sang làm nghề mà họ có ưu thế hay người nông dân có việc làm lúc nhàn rỗi. Việc các ngành nghề thu hút lao động ở nông thôn sẽ hạn chế người dân di cư nên thành phố để tìm kiếm việc làm.
Các làng nghề đã tạo ra một khối lượng hàng hoá lớn đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá mở rộng thị trường. Phát triển làng nghề sẽ huy động tối đa nguồn lực sẵn có ở nông thôn như: tài nguyên đất đai, nguyên liệu, lao động… vào quá trình sản xuất kinh doanh, khai thác có hiệu quả nguồn vốn trong nhân dân, tay nghề của người lao động. Trên cơ sở đó làng nghề đang tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Hiện nay, ngày càng nhiều các mặt hàng của các làng nghề được xuất khẩu như: dệt len, gốm sứ, mây tre đan, điêu khắc… đặc biệt là các mặt hàng mang tính truyền thống như: dệt thổ cẩm, đồ gốm, mây tre đan… đang được người nước ngoài ưa thích. Nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam là nhờ vào những sản phẩm truyền thống đó.
Phát triển làng nghề góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn. Qua thực tế cho thấy thu nhập bình quân một người lao động làm nghề bao giờ cũng cao hơn thu nhập bình quân một lao động thuần nông. Một lao động làm nghề thường có thu nhập bình quân một tháng đạt khoảng 300000 – 1000000 đồng cá biệt có thể cao hơn. Đây là điều mà một người trồng lúa không thể đạt được trong một tháng. Thu nhập tăng lên người nông dân có điều kiện mua sắm những thiết bị phục vụ cho cuộc sống chẳng hạn ở một số làng nghề hiện nay có trên 80 % các hộ gia đình có xe máy. Thu nhập tăng người dân cũng sẽ tích luỹ nhiều hơn, cá biệt có hộ gia đình hàng năm tích luỹ được hàng trăm triệu đồng. Đời sống của người dân được cải thiện, những biểu hiện tiêu cực như trộm cắp.. cũng từ đó mà giảm dần, an ninh trật tự xã hội được ổn định.
Làng nghề sẽ chuẩn bị đội ngũ lao động có khả năng thích ứng với lĩnh vực công nghiệp, tạo cơ sở cho các doanh nghiệp hiện đại ra đời. Phát triển làng nghề đã thúc đẩy việc huy động nguồn lực trong nhân dân để đưa vào sản xuất kinh doanh làm cho nền kinh tế nông thôn có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Từ đó cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống…sẽ được cải thiện hay xây mới tạo thuận lợi cho việc đi lại là cơ sở để thu hút đầu tư phát triển những ngành công nghiệp. Ngày nay bên cạnh sản xuất thủ công các làng nghề cũng đã đầu tư vào những thiết bị máy móc hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ lao động ở nông thôn thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức kỷ luật trong công việc.
Bên cạnh đó, ở các làng nghề cũng có sự liên kết giữa các doanh nghiệp với các cơ sở sản xuất. Các doanh nghiệp có thể mua lại sản phẩm hay cung ứng nguyên liệu cho làng nghề hoặc tinh chế, lắp ráp một bộ phận của sản phẩm tạo thành một sản phẩm hoàn chỉnh để bán ra thị trường. Các doanh nghiệp này sẽ đảm bảo thị trường đầu vào, đầu ra, cung cấp thiết bị công nghệ, thậm chí có thể cả vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh ổn định. Mặt khác các doanh nghiệp có thể giảm bớt được những công việc chi tiết, phụ trợ để tập trung vào khâu then chốt hoàn thiện sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Phát triển làng nghề truyền thống góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Các làng nghề truyền thống có từ lâu đời, các sản phẩm là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Do vậy mà các sản phẩm truyền thống mang trong mình bản sắc dân tộc mà các dân tộc khác không có.
1.2.2. Sự cần thiết cho vay của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển làng nghề:
Thứ nhất, cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của làng nghề để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Các làng nghề muốn tồn tại và phát triển thì phải có vốn đầu tư. Việc đầu tư từ vốn ngân sách cho phát triển làng nghề còn rất hạn chế bởi khả năng tài chính của Nhà nước thấp. Bên cạnh đó, khả năng tự đầu tư của bản thân làng nghề là rất thấp. Sự hạn chế đó bắt nguồn từ hạn chế về thu nhập và khả năng tích luỹ của các hộ gia đình, cơ sở sản xuất. Để thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo điều kiện cho làng nghề phát triển đáp ứng vốn bằng vốn vay ngân hàng có ý nghĩa rất to lớn trong việc tài trợ vốn ban đầu cho sản xuất kinh doanh. Chính sự hỗ trợ vốn của ngân hàng đã giúp làng nghề mở rộng qui mô sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất với năng suất và chất lượng cao hơn. Bên cạnh đó, hoạt động cho vay của ngân hàng cũng giúp các hộ, cơ sở sản xuất có thể giải toả những tắc nghẽn trong sản xuất kinh doanh, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh đó được tiến hành một cách thuận lợi.
Khi công nghệ được đổi mới chất lượng sản phẩm sẽ được nâng cao, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Nếu qui mô sản xuất được mở rộng sẽ thu hút thêm nhiều lao động, số lượng sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều… làm tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ hai, hoạt động cho vay của Ngân hàng góp phần khôi phục các làng nghề truyền thống, hình thành và phát triển các làng nghề mới, từ đó góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Phát triển các làng nghề nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại với sản phẩm mũi nhọn là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản và cũng là thực hiện mục tiêu: “ ly nông bất ly hương” ở nông thôn. Làng nghề ở Việt Nam trong đó một bộ phận quan trọng là làng nghề thủ công truyền thống với sản phẩm đặc trưng là hàng mỹ nghệ tinh xảo. Các sản phẩm này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn chứa đựng ý nghĩa dân tộc. Vốn vay ngân hàng đã góp phần quan trọng trong việc khôi phục các làng nghề truyền thống, đồng thời phát triển các làng nghề mới. Từ đó giảm dần các hộ thuần nông góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nông – công nghiệp và dịch vụ.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với làng nghề:
a. Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
Chính sách tín dụng: chính sách tín dụng của một ngân hàng là hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt mục tiêu đã hoạch định của NHTM đó và hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn trong kinh doanh. Bất kỳ một chính sách tín dụng nào cũng đạt 3 mục tiêu: lợi nhuận của ngân hàng; an toàn, ít rủi ro; sự lành mạnh của khoản tín dụng. Một chính sách tín dụng luôn phải trả lời các câu hỏi: qui mô của các khoản cho vay là bao nhiêu? Thời hạn cho vay bao nhiêu là phù hợp? Sử dụng các hình thức cho vay nào? Lĩnh vực cho vay nào đang có xu hướng phát triển?
Chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Bất cứ ngân hàng nào muốn mở rộng hoạt động cho vay đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng, thích hợp với ngân hàng mình.
Qui trình tín dụng: Qui trình tín dụng bao gồm những quy định phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó được bắt đầu thực hiện từ khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi nợ. Hoạt động cho vay có được đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng… sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó bảo đảm chất lượng tín dụng.
Trình độ nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng: nhân tố con người luôn đóng vai trò hết sức quan trọng. Sự thành công trong hoạt động cho vay đối với làng nghề hay không phụ thuộc vào năng lực, trách nhiệm của người cán bộ tín dụng. Họ là những người trực tiếp quản lý toàn bộ số vốn từ khi đầu tư cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng. Trước khi cho vay CBTD phải phân tích kỹ phương án vay vốn, tình hình tài chính của các hộ, cơ sở sản xuất, kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay của các cơ sở. Làng nghề đang ngày càng mở rộng và phát triển, việc nâng cao năng lực, trách nhiệm nhân sự là rất cần thiết. Điều đó phòng tránh cho ngân hàng rủi ro trong cho vay đối với làng nghề.
Thông tin tín dụng: thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến việc cho vay, theo dõi quản lý tài khoản cho vay. Số lượng, chất lượng của thông tin về làng nghề có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân định tình hình về các làng nghề, các cơ sở để đưa ra những quyết định phù hợp. Vì vậy thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng lớn, khả năng mở rộng cho vay đối với các làng nghề càng lớn. Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ nguồn sẵn có của ngân hàng, khách hàng cung cấp, từ trung tâm thông tin tín dụng, từ các nguồn khác.
Trang thiết bị ngân hàng phục vụ cho hoạt động cho vay: Nếu một ngân hàng được trang bị đầy đủ, thiết bị công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tài chính, phạm vi, qui mô hoạt động sẽ giúp ngân hàng hoạt động tốt hơn.
Ngoài những nhân tố nêu trên thì công tác tổ chức của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Tổ chức ngân hàng phải được tổ chức một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống ngân hàng… để tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng, giúp ngân hàng theo dõi sát sao các khoản cho vay, từ đó đem lại hiệu quả cao trong hoạt động cho vay.
b. Nhân tố thuộc về làng nghề:
Việc ngân hàng có quyết định cho vay hay không phụ thuộc phần nhiều vào làng nghề. Ngân hàng sẽ thực hiện cho vay nếu làng nghề có đủ điều kiện.
Thứ nhất: Trước hết là nhu cầu vay vốn của khách hàng, đó phải là những nhu cầu cần thiết như vay để sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm duy trì hay phát triển sản xuất. Nhu cầu này tuỳ thuộc vào từng ngành nghề, mức vốn tự có và mở rộng sản xuất kinh doanh ở làng nghề. Chẳng hạn: làng nghề có nhu cầu tín dụng ngắn hạn để tài trợ cho vốn lưu động thường xuyên như mua nguyên vật liệu, sửa chữa máy móc, hàng dự trữ cho kỳ sau…Thông thường chu kỳ sản xuất kinh doanh của làng nghề là ngắn hơn so với chu kỳ sản xuất xây dựng cơ bản. Khách hàng ở các làng nghề cũng có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm tài sản cố định: máy móc, thiết bị, nhà cửa… khi mà vốn tự có của bản thân các cơ sở là không đủ.
Nhu cầu vay vốn của làng nghề phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề, đối tượng tài trợ, giai đoạn sản xuất kinh doanh và điều kiện của người vay. Do vậy nhu cầu của khách hàng khác nhau về quy mô, thời hạn, phương thức cho vay. Khi mở rộng cho vay với đối tượng khách hàng này, ngân hàng cần xem xét nhu cầu khách hàng cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu đó của mình.
Thứ hai: Tình trạng tài chính của làng nghề. Ngân hàng sẽ cho vay nếu nhận thấy khả năng tài chính của khách hàng là lành mạnh và có thể phát triển. Khi cho vay ngân hàng sẽ xem xét các yếu tố sau:
Khả năng trả nợ: được thể hiện trong hồ sơ hoạt động kinh doanh trước đây như: báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán và phương án sản xuất kinh doanh. Trong đó phương án sản xuất kinh doanh là rất quan trọng, nó phản ánh khả năng trả nợ trên cơ sở dự toán các luồng tiền trong tương lai.
Tài sản bảo đảm: Tài sản đảm bảo vẫn được coi là công cụ hữu hiệu nhất để hạn chế rủi ro. Tài sản bảo đảm phải dễ xác định giá trị, dễ mua bán có thể chuyển nhượng, thuộc sở hữu hợp pháp của khách hàng. Thông thường các hộ sản xuất thường đảm bảo bằng đất đai, nhà cửa, máy móc thiết bị. Đối với các doanh nghiệp thường là hàng tồn kho, khoản phải thu, máy móc thiết bị. Ngân hàng cũng cho khách hàng vay không có tài sản bảo đảm khi khách hàng đáp ứng được nhu cầu sau: tư cách và năng lực tài chính tốt hoặc là khách hàng có quan hệ lâu dài thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng. Tuy nhiên thực tế cho vay không có tài sản bảo đảm bằng tài sản vẫn chưa nhiều, các làng nghề thường chứa nhiều rủi ro do thị trường tiêu thụ và nguyên liệu biến động thường xuyên.
Thứ ba: Tư cách đạo đức, trình độ quản lý của khách hàng ở làng nghề cũng có vai trò quan trọng. Kinh nghiệm của nhiều cán bộ tín dụng cho thấy tư cách đạo đức, tính cách và năng lực quản lý của khách hàng quyết định rất nhiều đến nhu cầu, mục đích vay vốn của họ cũng như mức độ thành công của món vay. Cán bộ tín dụng có thể đánh giá họ thông qua một số tiêu thức như: có quan hệ tín dụng lâu dài và luôn trả nợ đúng hạn, phương án sản xuất hợp lý có triển vọng phát triển, trình độ giáo dục.
c.Các nhân tố khác:
Ngoài các nhân tố thuộc về ngân hàng và làng nghề thì nhân tố về môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường chính trị xã hội, môi trường công nghệ cũng rất quan trọng.
Về môi trường pháp lý:
Để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương khôi phục và phát triển các làng nghề để khai thác tối đa nguồn lực ở nông thôn. Ngân hàng với tư cách là đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ thì phải thường xuyên cập nhật những chủ trương chính sách của Nhà nước để biết được xu hướng phát triển trong tương lai, từ đó đưa ra chính sách tín dụng phù hợp. Bởi vì để phát triển một khu vực nào đó thì Nhà nước sẽ phải đầu tư vốn cho khu vực đó mà ngân hàng lại là kênh phân phối lớn và có hiệu quả nhất. Một khi đã đầu tư thì hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, nguyên liệu, thị trường đều phát triển từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề phát triển. Các làng nghề có phát triển thì nhu cầu vốn đầu tư càng tăng.
Bên cạnh chính sách của Nhà nước, mỗi địa phương đều có chính sách riêng phát triển kinh tế tại địa phương đó cho phù hợp. Ngân hàng cần theo dõi để có chính sách mở rộng phù hợp với định hướng của Nhà nước và địa phương nơi mình phục vụ.
Môi trường pháp lý cũng là nhân tố quan trọng, việc làng nghề được thừa nhận địa vị pháp lý và tạo khung pháp lý rõ ràng, thuận lợi cho các sản phẩm của làng nghề sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng yên tâm và có căn cứ để quyết định cho vay.
Môi trường kinh tế:
Các điều kiện kinh tế là những yếu tố khách quan thể hiện qua sự tăng trưởng kinh tế hay sự trì trệ của nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang có sự tăng trưởng: sức mua cao, xuất khẩu tăng, thu nhập của nhân dân ổn định…thì dễ dàng cho phép các ngân hàng mở rộng tín dụng. Ngược lại, khi nền kinh tế đang ở trong tình trạng trì trệ thì cho vay sẽ bị thu hẹp bởi các yếu tố lạm phát, khủng hoảng sẽ làm cho khả năng cho vay và khả năng trả nợ biến động lớn làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu nợ khi cho vay của ngân hàng.
Ngân hàng khi mở rộng cho vay cần xem xét chính sách kinh tế của nhà nước vì chính sách kinh tế sẽ điều tiết để ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế.
Chính sách tín dụng của đối thủ cạnh tranh cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Trong môi trường kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt, ngày càng nhiều ngân hàng tham gia thị trường bên cạnh đó các quỹ tín dụng nhân dân, công ty cho thuê tài chính cũng tham gia thị trường này. Khách hàng sẽ có nhiều lựa chọn để vay hơn, họ sẽ lựa chọn những ngân hàng có lãi suất thấp hay có những điều kiện ưu đãi. Chính vì vậy ngân hàng muốn mở rộng cho vay cần xem xét chính sách tín dụng của đối thủ cạnh tranh để có những điều chỉnh phù hợp.
Môi trường chính trị - xã hội:
Một nền kinh tế có tình hình chính trị ổn định sẽ tạo sự an toàn cho các khoản tín dụng từ đó thúc đẩy các ngân hàng mở rộng cho vay. Trong quan hệ tín dụng có sự kết hợp của ba yếu tố: khách hàng, ngân hàng, sự tín nhiệm. Trong đó sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng có độ tín nhiệm càng cao thì thu hút được khách hàng càng lớn. Khách hàng có tín nhiệm với ngân hàng thường được vay vốn dễ dàng với lãi suất thấp hơn so với các đối tượng khác. Ngoài yếu tố trên còn có các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay như đạo đức xã hội liên quan tới rủi ro tín dụng, trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo, hoặc do trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết dẫn tới sử dụng vốn vay không đúng mục đích hoặc kinh doanh kém hiệu quả… dẫn đến ngân hàng không thu được nợ.
Môi trường công nghệ:
Với trình độ phát triển như hiện nay, việc ứng dụng công nghệ vào mọi lĩnh vực trong cuộc sống là một tất yếu. Công nghệ hiện đại đã góp phần giảm một khối lượng lớn công việc cho con người, thay thế dần sức lao động cho con người. Ngân hàng cần phải không ngừng nghiên cứu môi trường công nghệ để biết được công nghệ nào đang phát triển từ đó lựa chọn lĩnh vực đầu tư đúng đắn.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHO VAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TẠI CHI NHÁNH NHNo & PTNT HÀ TÂY TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH NHNo & PTNT TỈNH HÀ TÂY TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây
a. Đặc điểm về tự nhiên:
Hà tây là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông hồng, nằm cạnh khu kinh tế tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long, hạt nhân kinh tế miền Bắc. Tỉnh có diện tích tự nhiên 2.193 km2, giáp với thành phố Hà Nội ở hai phía tây và nam với ba cửa ngõ vào thủ đô là các quốc lộ 1,2 và quốc lộ 32.
Hà Tây có 3 vùng địa lý khí hậu khác nhau: vùng đồng bằng Sông Hồng, vùng trung du và vùng miền núi. Tỉnh có 3 nhóm đất chính là nhóm đất màu nâu đỏ, nhóm đất phù sa, đất bồi và nhóm đất lầy thụt. Hà Tây có hai con sông lớn chảy qua là: sông Đà ở phía Tây và sông Hồng ở phía Bắc. Đây là các tuyến đường vận tải đường thuỷ lý tưởng để trao đổi hàng hoá đi Tây Bắc, Hà Nội, Hải Phòng.
Về tài nguyên: Hà Tây có một số khoáng sản chính là đá vôi, đá granit, cao lanh, vàng và sa khoáng, đồng, pyrit, than bùn, nước khoáng…với chất lượng và trữ lượng cho phép khai thác và chế biến ở quy mô công nghiệp vừa và lớn đặc biệt là công nghiệp khai thác và chế biến vật liệu xây dựng. Môi trường sinh thái ở Hà Tây trong nhiều năm qua đã được chú ý bảo vệ và cải tạo. Độ phì nhiêu của đất được tăng lên, đảm bảo sự canh tác bền vững.
Hà Tây là tỉnh có số lượng nhiều về di tích lịch sử (trên 300 di tích). Nhiều điểm du lịch của tỉnh đạt tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Các cảnh quan này được hình thành theo 3 cụm : Ba Vì – Suối Hai – Ao Vua, Đồng Mô - Ngải Sơn và cụm Thạch Thất - Quốc Oai. Do vậy mà tỉnh có điều kiện quy hoạch thành những trung tâm du lịch lớn.
Với những đặc điểm tự nhiên cơ bản trên, Hà Tây là tỉnh có địa lý thuận lợi, có nhiều tiềm năng về tài nguyên, cảnh quan có thể khai thác. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các làng nghề ở Hà Tây.
b. Đặc điểm về kinh tế - xã hội:
Năm 2005 dân số trung bình của tỉnh Hà Tây khoảng trên 2,5 triệu người tương đương 5,5 vạn hộ. Số người ở độ tuổi lao động là: 1.268.000. Trên 90 % dân số sống ở nông thôn, gần 80% dân số làm nông nghiệp, 1/3 số xã có làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Nhìn chung nhân dân trong tỉnh cần cù lao động có ý thức vươn lên, có nhận thức mới về sản xuất hàng hoá, năng động hơn trong sản xuất kinh doanh.
Kinh tế của tỉnh đạt mức tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2005, GDP tăng 11,7%, đặc biệt giá trị công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đạt 4.888 tỷ tăng 25% so với năm trước. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch tích cực theo mục tiêu đề ra: Công nghiệp xây dựng 38,4% (kế hoạch: 38%); Nông nghiệp thuỷ sản 31,39% ( kế hoạch: 32 % ); Dịch vụ du lịch 30,21 % (kế hoạch: 30%). Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều đạt và vượt kế hoạch, thu nhập bình quân đầu người đạt 410.000 đồng/tháng, tăng 31000 so với năm 2004. Nhiều khu cụm công nghiệp của trung ương, của tỉnh đã được quy hoạch và đang hình thành đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
(Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2005/ UBND tỉnh Hà Tây).
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh NHNo & PTNT Hà Tây.
NHNo & PTNT Hà Tây được thành lập tháng 10/1991 trên cơ sở sát nhập 8 đơn vị ngân hàng thuộc NHNo Hà Sơn Bình cũ và 6 đơn vị thuộc NHNo Hà Nội chuyển giao. Chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây hoạt động theo pháp lệnh ngân hàng và sự chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam. Ban đầu ngân hàng có 14 chi nhánh cơ sở, 28 phòng giao dịch và bàn tiết kiệm với tổng biên chế gồm 1081 người trên toàn tỉnh. Nguồn vốn huy động là 77 tỷ đồng, dư nợ là 46 tỷ đồng, chủ yếu là cho vay doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã (chiếm 90%). Chất lượng vồn đầu tư thấp, tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 17% tổng dư nợ. Kết quả tài chính lỗ trong kinh doanh.
Hiện nay ngân hàng có 67 điểm giao dịch, gồm trụ sở chính ở thị xã Hà Đông và 17 chi nhánh cấp II tại các huyện. Năm 2005, tổng nguồn vốn huy động đạt 4.767 tỷ đồng, tổng dư nợ là 4.242 tỷ đồng, nợ xấu chiếm tỷ trọng 2,5%/ tổng dư nợ. Như vậy sau hơn 10 năm chi nhánh đã có những bước phát triển vượt bậc: nguồn vốn huy động, dư nợ tăng trưởng cao, kết quả tài chính khá, đời sống của cán bộ viên chức được đảm bảo, góp phần đáng kể đối với hoạt động kinh doanh của ngành cũng như sự phát triển kinh tế của tỉnh.
Từ đặc điểm cơ bản về tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn, hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT Hà Tây có những thuận lợi và khó khăn sau:
Thuận lợi:
Tỉnh có trên 90 % dân cư sống ở nông thôn rộng lớn. Đây là địa bàn chính của ngân hàng nông nghiệp với nhiều tiềm năng chưa khai thác hết. Thời gian qua nhiều làng nghề đã được khôi phục và phát triển tạo điều kiện cho ngân hàng đẩy mạnh cho vay phát triển làng nghề.
Toàn tỉnh hiện nay có trên 2400 doanh nghiệp, 208 khu cụm công nghiệp đã được qui hoạch, thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư trong đó có trên 1000 doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Các doanh nghiệp này đang trong quá trình ổn định sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, đổi mới công tác quản lý, tiếp cận và thích nghi với thị trường, làm ăn có hiệu quả hoạt động đa dạng các ngành nghề kinh doanh. Đây là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng đẩy mạnh cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng và tối đa hoá lợi nhuận cho ngân hàng.
Chính sách lãi suất tín dụng thường xuyên được điều chỉnh phù hợp và có xu thế hội nhập lãi suất quốc tế. Chính sách lãi suất là đòn bẩy quan trọng kích thích mọi thành phần kinh tế mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, là cơ hội để ngân hàng mở rộng thị trường kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh các cấp các ngành đã chỉ đạo có hiệu quả các mặt công tác như: đền bù đất giải phóng mặt bằng; xây dựng đường giao thông, cụm điểm công nghiệp, khu dân cư, chính sách ưu tiên gọi vốn đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cơ bản theo hướng sản xuất hàng hoá tạo cơ hội thuận lợi lớn cho doanh nghiệp phát triển, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.
NHNo tỉnh Hà Tây có hệ thống màng lưới của các ngân hàng cơ sở rộng khắp từ tỉnh đến huyện.. Hiện nay tổng số cán bộ trong biên chế là 850 người trong đó có 432 cán bộ có trình độ đại học, trên đại học. Tập thể lãnh đạo ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong chỉ đạo hoạt động kinh doanh và đội ngũ cán bộ được đào tạo bồi dưỡng kiến thức nâng cao nghiệp vụ chuyên môn hàng năm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Khó khăn:
Hà Tây là một tỉnh có nền kinh tế chủ yếu là sản xuất thuần nông, trong mấy năm gần đây việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh hình thành nhưng vẫn chưa chuyển dịch rõ rệt. Những khu công nghiệp đã được quy hoạch nhưng chưa có chính sách hợp lý khuyến khích thu hút vốn đầu tư, chưa có ngành nghề kinh tế mũi nhọn. Việc sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước tiến hành chậm. Mặt khác trên địa bàn hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ lạc hậu khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế, hiệu quả sản xuất chưa cao, gây nên những khó khăn trong đầu tư tín dụng của ngân hàng.
Thị trường chính của NHNo là ở nông thôn mà chủ yếu là các hộ sản xuất, món vay nhỏ, chi phí cao. Trong quá trình kinh doanh tín dụng, ngân hàng tốn rất nhiều công sức trong việc điều tra thẩm định, quản lý và xử lý nợ khi cho vay. Mặt khác đối tượng vay vốn của ngân hàng nông nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, nên trong hoạt động cho vay lĩnh vực này chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với các lĩnh vực khác.
Trên địa bàn có 3 NHTM quốc doanh và 72 Quỹ tín dụng nhân dân cùng hoạt động môi trường cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt đòi hỏi phải có sự nỗ lực, quyết tâm cao của cán bộ nhân viên ngân hàng.
Nhận thức được điều đó, Ngân hàng Nông nghiệp Hà Tây đã xây dựng đề án chiến lược kinh doanh nhạy bén để mở rộng kinh doanh, giữ vững uy tín với khách hàng, nâng cao chất lượng hoạt động để đưa ngân hàng ngày càng phát triển.
Mô hình tổ chức của Chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây:
Hiện nay trên toàn tỉnh Ngân hàng có 17 NHNo & PTNT huyện, thị xã 45 Ngân hàng cấp 3 và 7 phòng giao dịch trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp tỉnh trung tâm NHNo & PTNT Hà Tây có chức năng chỉ đạo hệ thống các chi nhánh cấp dưới. Dưới các chi nhánh cấp huyện còn có các chi nhánh loại 4. Mô hình cơ cấu tổ chức của NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây được thể hiện ở sơ đồ sau:
Biểu 01. Mô hình cơ cấu tổ chức của NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
Giám đốc
Chi nhánh cấp 2 - GD
Phó giám đốc phụ trách các chuyên đề nghiệp vụ
Thường trực Công đoàn tỉnh
Phòng tổ nghiệp vụ
Công đoàn cơ sở thành viên
Phòng giao dịch
Chi nhánh
cấp 3
Phòng, tổ nghiệp vụ
* Tại chi nhánh cấp 2 có các phòng, tổ nghiệp vụ: phòng hành chính nhân sự, phòng tín dụng, phòng kế toán ngân quĩ, tổ thẩm định.
* Tại chi nhánh cấp 3 có các tổ tín dụng, tổ kế toán ngân quỹ.
* Tại hội sở chính: gồm 1 giám đốc và 3 phó giám đốc quản lý 12 phòng, tổ nghiệp vụ. Mô hình tổ chức tại hội sở chính thể hiện như sau:
Biểu 02. Mô hình cơ cấu tổ chức tại hội sở Chi nhánh NHNo & PTNT Hà Tây
Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo
Giám đốc
Các phó giám đốc
Phòng kế hoạch và nghiệp vụ
Phòng hành chính
Phòng kế toán ngân quĩ
Phòng tín dụng
Phòng ngoại tệ và thanh toán quốc tế
Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng vi tính
Phòng giao dịch
Tổ
Nghiệp vụ thẻ
Tổ tiếp thị
Phòng thẩm định
2.1.3. Khái quát hoạt động của chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây trong thời gian qua.
a. Hoạt động huy động vố._.ặt hàng xuất khẩu. Từng bước chuyển dịch cơ cấu tín dụng sang đối tượng ít rủi ro an toàn hơn, khai thác triệt để thế mạnh của từng chi nhánh đối với cho vay làng nghề đưa tốc độ cho vay cao hơn.
Trong cho vay đối với làng nghề, ngân hàng tạo mối quan hệ chặt chẽ với các hội phụ nữ, hội nông dân, với chính quyền các cấp mở rộng cho vay qua tổ nhóm tín chấp chiếm lĩnh thị trường vay vốn nhỏ lẻ, giữ vững uy tín của NHNo & PTNT Hà Tây.
Cùng với việc tổ chức xếp loại khách hàng nói chung cũng sẽ tổ chức xếp loại khách hàng ở các làng nghề theo quy định để làm cơ sở xét duyệt cho vay hợp lý nhằm khuyến khích các cơ sở, hộ sản xuất ở làng nghề mạnh dạn đến vay vốn ngân hàng
3.2. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT TỈNH HÀ TÂY.
Để góp phần khôi phục và phát triển làng nghề Hà Tây, một số giải pháp mở rộng cho vay dưới đây nên được thực hiện:
3.2.1. Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với làng nghề
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Với đặc điểm sản xuất kinh doanh đa dạng, nhu cầu vay vốn ngày càng tăng đòi hỏi chi nhánh NHNo& PTNT tỉnh Hà Tây phải có chính sách tín dụng riêng đối với làng nghề.
a. Mở rộng cho vay đối với làng nghề nên được đặt thành một nội dung lớn trong chiến lược phát triển của ngân hàng trong thời gian tới.
Với số lượng làng nghề trên toàn tỉnh nhiều như hiện nay nhưng tỷ lệ khách hàng ở làng nghề có quan hệ tín dụng với ngân hàng còn rất hạn chế. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng nên chú trọng cho vay làng nghề nhiều hơn, khi đặt thành một nội dung lớn, ngân hàng tất yếu sẽ xây dựng những biện pháp để mở rộng cho vay có hiệu quả. Từ đó nó trở thành một định hướng đối với cán bộ tín dụng khi ra quyết định cho vay.
b. Mở rộng quy mô tín dụng:
Các khoản cho vay đối với làng nghề thường là dưới 100 triệu, các khoản cho vay trên 100 triệu là rất ít. Với tốc độ phát triển sản xuất như hiện nay tại các làng nghề thì ngân hàng nên tăng mức cho vay đối với các hộ. Khi cho vay đối với làng nghề đặc biệt là đối với các hộ thì ngân hàng thường dựa vào tài sản đảm bảo để quyết định khối lượng khoản vay, do vậy mà các hộ thường được vay vốn dưới mức nhu cầu. Để tăng quy mô tín dụng cho làng nghề thì ngân hàng không nên quá coi trọng vào tài sản đảm bảo mà lấy tính khả thi của dự án sản xuất kinh doanh để làm cơ sở ra quyết định cho vay. Mặt khác, ngân hàng nên định giá tài sản đảm bảo của khách hàng ở các làng nghề theo giá thực tế của thị trường để nâng mức cho vay có thế chấp tương ứng giá trị tài sản đảm bảo.
c. Áp dụng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với làng nghề:
Lãi suất liên quan đến chi phí vốn của khách hàng nên nó đặc biệt được khách hàng quan tâm. Khách hàng luôn có sự so sánh lãi suất của các ngân hàng khác nhau để quyết định đi vay. Bởi vậy ngân hàng nên có cơ chế lãi suất ưu đãi đối với khách hàng tại các làng nghề.
Trong thời gian vừa qua ngân hàng quy định mức lãi suất chung áp dụng cho mọi đối tượng. Để hoà nhập kịp với cơ chế thị trường thì bản thân mỗi cơ sở, mỗi hộ sản xuất tại làng nghề phải nhanh chóng chuyển đổi công nghệ kỹ thuật nhưng nhu cầu vốn đòi hỏi lớn, thời gian phát huy hiệu quả chậm, lãi suất tiền vay đổ đều như các đối tượng thương mại dịch vụ khác sẽ là cản trở cho sản xuất làng nghề phát triển. Ngân hàng nên có sự hạch toán trên cơ sở lãi suất trần, đảm bảo lãi suất thực dương mà vẫn có tác dụng thúc đẩy kinh tế làng nghề phát triển. Bên cạnh việc sử dụng tích cực các nguồn vốn từ các tổ chức thế giới qua các dự án với lãi suất thấp, ngân hàng phải chọn đối tượng đầu tư phù hợp và có ưu tiên lãi suất theo những biện pháp xử lý thích ứng. Ngân hàng có thể giảm lãi suất cho vay đối với làng nghề trên cơ sở:
Giảm lãi suất nhưng không để có sự chênh lệch qua lớn giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Muốn vậy ngân hàng cần phải tìm các nguồn vốn rẻ, dài hạn hơn để tài trợ nhu cầu của làng nghề.
Hạ lãi suất với các dự án nằm trong chương trình, định hướng phát triển của Trung ương và địa phương. Các dự án xử lý môi trường của làng nghề cần được quan tâm xử lý như: nước thải, rác thải,…các dự án đổi mới máy móc thiết bị công nghệ và các dự án phát triển vùng nguyên liệu. Tạo ra sự ổn định lâu dài cho sự phát triển làng nghề.
d. Về cơ chế bảo đảm tiền vay:
Trong thực tế khi giải quyết một khoản vay của khách hàng ở các làng nghề, ngân hàng thường yêu cầu phải có tài sản đảm bảo và CBTD coi đây là điều kiện cơ bản bảo đảm an toàn khi cho vay. Mặc dù sau khi nghị định 178/1999/NĐ- CP ngày 29/12/1999 đã tạo sự thông thoáng và công bằng hơn với các đối tượng vay vốn. Cho vay không có tài sản đảm bảo được mở rộng cho phép ngân hàng lựa chọn khách hàng để cho vay khi không có tài sản đảm bảo nếu khách hàng có đủ điều kiện. Tuy nhiên khi cho vay đối với làng nghề, ngân hàng thường đòi hỏi có tài sản thế chấp và coi đó là yếu tố quan trọng khi ra quyết định cho vay.
Các chủ hộ và cơ sở làm nghề thường là người có tư cách đạo đức tốt nên ngân hàng có thể cho vay không cần tài sản đảm bảo. Đối với những cơ sở làng nghề đã có quan hệ tín dụng với ngân hàng, có uy tín, có tài chính lành mạnh, có năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh đang ở giai đoạn phát triển ngân hàng có thể dựa vào uy tín của họ để cho vay không có tài sản đảm bảo. Đối với khách hàng có quan hệ tín dụng lần đầu, có phương án kinh doanh có khả năng phát triển ngân hàng nên mạnh dạn sử dụng phương pháp đảm bảo tiền vay hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba nếu không có tài sản đảm bảo. Bảo lãnh của bên thứ ba thường là bảo lãnh của UBND huyện, hiệp hội nghề nghiệp, hợp tác xã… đối với các thành viên làm nghề. Đặc biệt đối với các làng nghề truyền thống thường gặp nhiều khó khăn ngân hàng có thể cho vay qua bảo lãnh. Trong trường hợp này ngân hàng nên đòi hỏi bên bảo lãnh nâng cao trách nhiệm khi bảo lãnh tức chia sẻ một phần hay toàn bộ khi rủi ro xảy ra đồng thời giám định kỹ chất lượng khoản vay trước khi hồ sơ vay vốn gửi lên ngân hàng. Có như vậy mới tạo điều kiện cho khách hàng ở làng nghề có điều kiện vay vốn và ngân hàng cũng có điều kiện mở rộng cho vay đối với làng nghề.
3.2.2. Đa dạng hoá các hình thức cho vay:
Đa dạng hoá các hình thức cho vay là một vấn đề tất yếu không chỉ cho vay đối với làng nghề mà đối với các đối tượng nói chung. Việc áp dụng nhiều hình thức cho vay sẽ đáp ứng nhu cầu vốn của các cơ sở, hộ sản xuất làng nghề đồng thời ngân hàng sẽ sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng. Điều này sẽ dẫn đến giảm được chi phí quản lý, chi phí hoạt động, lợi nhuận tăng lên, hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Hơn nữa nhu cầu về vốn của khách hàng là rất đa dạng mà việc áp dụng nhiều hình thức cho vay khác nhau là cần thiết, nó sẽ giúp ngân hàng tránh được nhiều rủi ro không đáng kể.
a. Mở rộng hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng
Hiện tại cho vay đối với làng nghề tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây phần lớn là áp dụng phương thức cho vay từng lần, một số ít các món vay là cho vay theo phương thức hạn mức tín dụng. Trong thời gian tới ngân hàng cần mở rộng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các hộ, cơ sở sản xuất có đủ điều kiện nhằm đơn giản thủ tục, giảm hồ sơ vay vốn đồng thời tiết kiệm chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng, đáp ứng kịp thời vốn cho làng nghề đặc biệt là các cơ sở có nhu cầu vốn thường xuyên.
b. Triển khai áp dụng hình thức tín dụng cho thuê tài chính đối với các làng nghề
Cho thuê tài chính là hoạt động cho vay trung và dài hạn giữa bên cho thuê và bên đi thuê trên cở sở hợp đồng cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Khi triển khai hình thức tín dụng này ngân hàng sẽ mua máy móc thiết bị theo yêu cầu của các hộ, cơ sở sản xuất và nắm quyền sở hữu với tài sản thuê; khách hàng nắm quyền sử dụng tài sản thuê và có trách nhiệm định kỳ thanh toán tiền thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê có quyền mua lại hoặc tiếp tục thuê hoặc trả lại tài sản thuê.
Tại các làng nghề số doanh nghiệp là khá nhiều nếu mạnh dạn áp dụng phương thức này sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp có được công nghệ hiện đại và đồng bộ để sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao. Mặt khác, do sản xuất ở nhiều làng nghề thường mang tính thời vụ nên nếu áp dụng hình thức này sẽ giúp họ tiết kiệm được những chi phí phát sinh khi máy không được sử dụng đồng thời khách hàng chỉ phải trả tiền thuê nên tiết kiệm được số tiền để mua nguyên liệu, trả lương… NHNo Việt Nam đã thành lập công ty cho thuê tài chính và bước đầu phát triển, đối tượng tìm đến đa phần là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây cần xây dựng đề án cụ thể để triển khai, phát triển tích cực nghiệp vụ này.
c. Đẩy mạnh cho vay đối với làng nghề qua các tổ chức trung gian:
Cho vay qua tổ chức trung gian là hình thức cho vay gián tiếp. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay….
Đa số khách hàng ở làng nghề đều phân tán, nằm sâu trong các ngõ xóm, điều kiện đi lại khó khăn, nhiều món vay nhỏ lẻ; chi phí hoạt động của ngân hàng cũng như chi phí giao dịch của khách hàng tăng cao làm giảm hiệu quả hoạt động từ cả hai phía. Mặt khác, do số lượng khách hàng ở các làng nghề lớn trong khi cán bộ tín dụng là không nhiều nên một cán bộ tín dụng phải phụ trách nhiều khách hàng từ 30 – 40 hộ, cơ sở sản xuất. Đây là nguyên nhân dẫn đến phát sinh nợ quá hạn hay tâm lý e ngại khi cho vay với khu vực này. Để khắc phục tình trạng trên, ngân hàng cần mở rộng hình thức tín dụng gián tiếp.
Ngân hàng cho vay qua tổ, hội, đội như: tổ hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân, hội phụ nữ, hội nông dân…Các tổ chức này sẽ đứng ra bảo lãnh cho các thành viên trong hội vay vốn của ngân hàng nhằm mục đích phát triển kinh tế cho các thành viên trong hội
Khi cho vay thông qua tổ chức như: Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức hội, đoàn thể… ngân hàng sẽ mua lại các giấy nợ trong hạn của Quỹ tín dụng nhân dân, các hội, các đoàn thể. Các tổ chức này thường gần với các làng nghề và có quan hệ gần gũi do vậy mà xác định đúng nhu cầu vay vốn và đảm bảo khả năng trả nợ tiền vay của khách hàng. Đối với những làng nghề cách xa ngân hàng, việc thu thập thông tin về khách hàng là rất khó khăn thì hình thức này tỏ ra có ưu thế rõ rệt mặc dù mạng lưới của chi nhánh đã rộng khắp toàn tỉnh.
Ngân hàng cũng nên đẩy mạnh cho vay qua tổ nhóm hợp tác. Tổ, nhóm hợp tác là loại hình mới xuất hiện ở các làng nghề Hà Tây tuy số lượng chưa nhiều nhưng đã tỏ ra có ưu thế rõ rệt. Đặc trưng của mô hình này là một số hộ sản xuất kết hợp với nhau thành lập tổ sản xuất và bầu ra một chủ hộ giỏi nhất và có uy tín làm tổ trưởng. Tổ hợp tác sẽ cùng nhau tìm thị trường đầu vào cung cấp nguyên liệu, sản suất sản phẩm và tìm thị trường đầu ra. Bên cạnh đó tổ hợp tác còn có thể ký chung một hợp đồng tín dụng. Điều này sẽ làm giảm chi phí cho ngân hàng bởi thay vì phải thẩm định, kiểm tra nhiều hợp đồng tín dụng thì CBTD chỉ phải kiểm tra một hợp đồng. Đối với các thành viên trong tổ hợp tác sẽ nhận được vốn vay mặc dù họ không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Như vậy, mô hình tổ chức nhóm sẽ buộc các chủ hộ phải giám sát, đồng thời giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình sử dụng tiền vay để hạn chế rủi ro phát sinh. Bên cạnh đó tổ hợp tác còn giúp ngân hàng trong khâu thẩm định dự án vốn vay cẩn thận, chu đáo ở các cơ sở trước khi gửi dự án lên ngân hàng, ấn định mức vay phù hợp với nhu cầu thực tế của từng đối tượng không quá cao hay quá thấp.
Ngân hàng có thể cho vay qua các người buôn. Họ là các doanh nghiệp, công ty, cửa hàng cung cấp nguyên liệu và thu mua sản phẩm của làng nghề. Việc cho vay theo cách này có thể hạn chế người vay sử dụng sai mục đích. Quá trình cho vay sẽ được tiến hành như sau:
Ngân hàng sẽ ký hợp đồng tín dụng với các cơ sở làng nghề.
Người vay mua hàng và bán hàng.
Các nhà buôn tập trung hóa đơn bán hàng gửi lên ngân hàng đề nghị thanh toán. Sau đó ngân hàng thu nợ của người vay.
Khi cho vay với hình thức này ngân hàng sẽ nắm chắc được số tiền cho vay được dùng cho việc mua nguyên liệu hay tiêu thụ sản phẩm, khắc phục rủi ro đối với cho vay trực tiếp do thị trường tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu không ổn định, phụ thuộc vào các nhà buôn và các nhà cung cấp nguyên liệu ở các tỉnh lân cận. Tuy nhiên khách hàng chưa quen với cách sử dụng và lập các chứng từ cũng như hình thức này. Do vậy CBTD cần phải hướng dẫn họ về cách lập chứng từ, qui trình để họ hiểu rõ được những ưu điểm của hình thức cho vay này.
3.2.3. Mở rộng cho vay trung và dài hạn để đổi mới trang thiết bị kỹ thuật công nghệ:
Hiện nay vấn đề đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất đã được các làng nghề chú trọng đặc biệt đối với các làng nghề chế biến lương thực thực phẩm như: làng nghề bánh kẹo dệt kim La Phù, làng nghề may công nghiệp may dân dụng thôn Thượng… Tuy nhiên sự chuyển đổi một số khâu trong quá trình sản xuất từ lao động thủ công lên lao động cơ khí hiện đại tiến tới là sự thay thế dây chuyền máy móc kỹ thuật cho sản xuất tại các cơ sở, hộ sản xuất làng nghề đòi hỏi vốn trung dài hạn là rất lớn, trong khi đó khả năng về vốn tự có của các cơ sở sản xuất là có hạn. Thời gian qua chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây chủ yếu cho vay ngắn hạn do chưa có sự tin tưởng về khả năng phát triển kinh tế làng nghề trong cơ chế thị trường. Do vậy người sản xuất làng nghề không có điều kiện nâng cao máy móc, kỹ thuật trong sản xuất. Một vài cơ sở sản xuất đã chủ động tự liên doanh, liên kết nhưng khả năng đó còn hạn chế.
Vì vậy để tạo điều kiện cho các cơ sở, hộ sản xuất tại các làng nghề đổi mới kỹ thuật công nghệ NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây cần mở rộng đầu tư tín dụng trung và dài hạn đúng mức, đúng đối tượng, góp phần nâng cao năng lực sản xuất của cơ sở, hộ sản xuất tạo tiền đề cho vay ngắn hạn hiệu quả. Trước mắt đối với những khoản vay này do thời gian dài nên ngân hàng cần đòi hỏi tài sản đảm bảo. Các tài sản này có thể là chính máy móc, thiết bị hình thành từ vốn vay.
3.2.4. Hoàn thiện quy trình tín dụng đối với làng nghề.
Quy trình tín dụng đối với làng nghề nên được hoàn thiện hơn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn. Do vậy ngân hàng nên quy định mức phán quyết đối với các khoản vay chẳng hạn: ngân hàng nên cho phép CBTD và trưởng phòng tín dụng có quyền quyết định những khoản vay dưới 100 triệu ( hiện nay là 50 triệu) những khoản vay trên 100 triệu thì phó giám đốc hoặc giám đốc có quyền quyết định. Điều này tạo sự chủ động cho CBTD khi quyết định cho vay đồng thời làm giảm khối lượng của ban lãnh đạo, qua đó mà có thể rút ngắn thời gian, thực hiện quy trình, nhanh chóng ra quyết định cho vay. Trong quá trình cho vay ngân hàng nên giải quyết nhanh gọn, linh hoạt tránh gây phiền hà, mất thời gian cho khách hàng, mạnh dạn áp dụng hình thức sổ vay vốn. Trong quá trình thẩm định CBTD nên chú ý đến đặc điểm của làng nghề để đánh giá tính khả thi của dự án như: tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, chất lượng sản phẩm, trình độ tay nghề của người thợ…
Trong quy trình tín dụng đối với làng nghề ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến công tác kiểm tra, kiểm toán trong hoạt động của chi nhánh. Xác định rõ hoạt động kiểm tra, kiểm toán nói chung, cho vay làng nghề nói riêng là một công việc vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác cho vay. Công tác kiểm tra thường là nhằm thực hiện hoàn chỉnh quy trình tín dụng và phát hiện những sai sót trong quá trình cho vay để kịp thời ngăn chặn, sửa chữa cải tiến và nâng cao hiệu quả, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Để thực hiện được điều đó ngân hàng cần tiến hành:
Công tác tự kiểm tra đối với CBTD: CBTD tự kiểm tra xem xét lại các khoản vay kiểm tra trước trong và sau khi cho vay. Tổ chức kiểm tra chéo giữa các CBTD, cụ thể hoá thành nhiệm vụ, phân công cán bộ phụ trách địa bàn này kiểm tra địa bàn khác để phát hiện và sửa chữa sai sót kịp thời.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra phân tích nợ hàng tháng, quý. CBTD kết hợp với kế toán, kiểm tra viên tiến hành phân tích nợ, xác định khả năng thu hồi nợ, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn. Từ đó có kế hoạch đôn đốc xử lý thu hồi nợ kịp thời.
Thành lập đoàn kiểm tra chuyên đề tín dụng đối với ngân hàng cơ sở. Quy định cụ thể đối với cán bộ chuyên trách, lãnh đạo các cấp kiểm tra bao nhiêu món vay hàng tháng.
3.2.5. Tăng cường biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng:
Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp để mở rộng cho vay đối với làng nghề chi nhánh cũng cần có biện pháp để phòng ngừa rủi ro tín dụng. Đồng thời với việc phân loại nợ hàng tháng, quý, trích quỹ dự phòng rủi ro theo quy định Ngân hàng cũng nên chủ động có những biện pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro. Ngân hàng có thể phối hợp với các công ty bảo hiểm để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay. Theo cách này ngân hàng sẽ làm đại lý để người vay vốn được mua bảo hiểm như: bảo hiểm đối với người vay vốn, bảo hiểm tài sản thế chấp, bảo hiểm tài sản hình thành từ vốn vay. Ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng mua bảo hiểm khi khách hàng đến vay vốn. Nếu làm được điều này sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thực sự yên tâm khi đầu tư vốn vào các làng nghề.
Ngân hàng nên mở rộng hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay tại các làng nghề số doanh nghiệp ngày một tăng, nếu thực hiện được điều này một mặt hỗ trợ cho doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư nâng cấp dây chuyền kỹ thuật nhưng thiếu tài sản thế chấp có thể được vay vốn ngân hàng. Mặt khác giúp doanh nghiệp và ngân hàng hạn chế rủi ro bất thường xảy ra trong quá trình sử dụng vốn và sản xuất kinh doanh.
3.2.6. Đổi mới công nghệ, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng:
Đổi mới hiện đại hoá công nghệ ngân hàng: là yêu cầu cấp thiết của hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay nếu như họ muốn tồn tại và phát triển. Đổi mới công nghệ ngân hàng không chỉ đơn thuần là trang bị kỹ thuật hiện đại mà còn gắn liền với việc đổi mới qui trình sản xuất. Thời gian trước đây khách hàng tự tìm đến ngân hàng thì hiện nay do sự cạnh tranh gay gắt nên ngân hàng cần tìm các biện pháp để tiếp cận khách hàng. Trên địa bàn tỉnh không chỉ có NHNo mới cho vay làng nghề mà cả Ngân hàng Công thương, QTDND cũng đang có những biện pháp để mở rộng cho vay đối với làng nghề. Do vậy NHNo cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trong việc vay vốn đối với khu vực nông nghiệp nông thôn, vốn là thị trường chính của ngân hàng. Ngân hàng có thể tập trung vào những khía cạnh sau:
Hiện đại hoá hệ thống thanh toán bằng việc trang bị hệ thống máy vi tính và cải thiện hệ thống thanh toán. Hiện nay, hệ thống máy tính của ngân hàng chưa được trang bị đầy đủ đặc biệt ở các ngân hàng huyện, ngân hàng cấp 4 hệ thống máy tính còn thiếu nếu có cũng là những máy cũ khả năng xử lý chậm. Việc trang bị thêm những thiết bị hiện đại sẽ giúp ngân hàng quản lý những khoản vay tốt hơn.
Triển khai toàn chi nhánh chương trình hiện đại hoá ngân hàng World Bank. Ở các ngân hàng cấp III, cấp IV chương trình sử dụng vẫn là Foxp chưa sử dụng chương trình WB, nên còn gây chậm chễ trong hoạt động cho vay.
Ngân hàng cần mở rộng cho vay đối với các đối tượng khác: Bên cạnh đó, để đẩy mạnh cho vay đối với làng nghề thì ngân hàng cần thiết mở rộng cho vay đối với các đối tượng khác theo hướng sau:
- Kết hợp việc đầu tư để thay đổi quy trình sản xuất cũ của làng nghề với việc đầu tư vốn cho vùng sản xuất, vùng cung cấp nguyên liệu và các cá nhân làm dịch vụ thu mua và cung cấp nguyên vật liệu cho làng nghề.
Trên cơ sở khái quát khả năng phát triển sản xuất và tiêu thụ hàng hoá của làng nghề như cho vay ứng trước tiền hàng, bảo lãnh mở L/C trả chậm với hàng nhập khẩu, cho vay để thu mua sản phẩm xuất khẩu.
Đồng thời với các biện pháp trên thì ngân hàng cũng nên mở rộng các dịch vụ ngân hàng bằng các biện pháp:
Thường xuyên tổ chức khảo sát nghiên cứu thị trường nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm để có kế hoạch và biện pháp mở rộng kinh doanh.
Ngân hàng nên thực hiện tư vấn cho các hộ, cơ sở sản xuất ở làng nghề về cách lập báo cáo, phương án, dự án… tư vấn về công nghệ, kỹ thuật, các đối tác cung cấp nguyên liệu, thu mua sản phẩm nhằm đảm bảo cơ sở cho làng nghề tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Ngân hàng cũng nên phối hợp với các ngành hữu quan như sở thương mại, sở công nghiệp,.. để có những thông tin chính xác về các làng nghề phục vụ đầu tư có hiệu quả.
Ngân hàng cần mở rộng các hình thức tiếp thị đối với làng nghề về các dịch vụ ngân hàng: Các khách hàng ở làng nghề đặc biệt là các hộ sản xuất chưa có thói quen quan hệ với ngân hàng. Do vậy ngân hàng không thể đợi cho khách hàng đến với mình mà mình phải tự tìm đến với khách hàng. CBTD có thể tìm đến các làng nghề đang phát triển để phổ biến về các điều kiện cần và đủ để vay vốn, những ưu đãi của ngân hàng, chỉ dẫn và giải đáp thắc mắc. Thông qua đó CBTD cũng có thể thu thập thông tin khách hàng ở các làng nghề về: qui trình công nghệ, sản phẩm của làng nghề…Điều này là không khó đối với ngân hàng bởi NHNo hiện đang có một hệ thống chi nhánh rộng khắp toàn tỉnh.
Ngân hàng cũng đẩy mạnh quảng cáo về các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp như: thu hộ, chi hộ, bảo lãnh… bằng cách tăng cường công tác quảng cáo trên báo chí, truyền thanh, truyền hình của địa phương, phát tờ rơi, treo băng rôn trước cửa ngân hàng…Chi nhánh có thể mở rộng củng cố màng lưới hệ thống ngân hàng liên xã, ngân hàng lưu động, củng cố vừa tạo điều kiện cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay đối với cơ sở làng nghề, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên việc mở rộng màng lưới cần đảm bảo yêu cầu sau: Phải gần với dân, sát dân, tiện lợi cho dân, mở tại các nơi mà làng nghề đang phát triển để vừa giữ vững thế mạnh hiện có với khách hàng truyền thống đồng thời thu hút thêm các cơ sở, hộ sản xuất tham gia vay vốn ngân hàng.
3.2.7. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng trong lĩnh vực cho vay làng nghề:
Trình độ, năng lực của CBTD là vấn đề then chốt ảnh hưởng quyết định đến chất lượng tín dụng. Để mở rộng cho vay đối với làng nghề có hiệu quả thì ngân hàng cần đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên sâu về làng nghề.
Trước hết một cán bộ tín dụng phải nắm vững nghiệp vụ tín dụng, hiểu rõ bản chất của các hình thức cho vay, phương thức vay..do đó sẽ lựa chọn hình thức, lãi suất phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Trong hoạt động cho vay đối với làng nghề có nhiều phức tạp đặc biệt là vấn đề tài sản đảm bảo do đó đòi hỏi CBTD phải hiểu rõ địa bàn mình phụ phụ trách, hiểu rõ về đặc điểm thị trường ngành nghề. Từ đó thấy được lĩnh vực ngành nghề nào đang có xu hướng phát triển. Đồng thời, CBTD phải luôn cập nhật những thông tin về nhà đất, công nghệ, lao động… bởi nó sẽ giúp CBTD khi thẩm định để ra quyết định cho vay.
Ngân hàng khuyến khích CBTD tự nghiên cứu, học tập để cập nhật kiến thức về pháp luật, thị trường, tin học … Bằng cách cung cấp các tài liệu, văn bản mới về chế độ chính sách của ngành, pháp luật của nhà nước.
Để tạo động lực cho CBTD say mê, nhiệt tình trong công tác thì ngân hàng cần có chế độ thưởng phạt công minh. CBTD là người trực tiếp, giám sát món vay nên nếu khoản vay an toàn thì không sao nhưng nếu khoản vay có vấn đề thì họ lại là người phải chịu trách nhiệm. Do vậy để khuyến khích cán bộ tích cực trong công tác cho vay, thu nợ ngân hàng nên có thêm chế độ khen thưởng kịp thời đối với CBTD thực hiện nhiều món vay an toàn, hiệu quả. Tránh tình trạng là cán bộ tín dụng có tâm lý e ngại khi cho vay đối với khách hàng ở làng nghề vì vay nhiều thì họ không được gì. Những hình thức khen thưởng nên được cụ thể hóa bằng vật chất. Ngược lại, đối với những cán bộ vi phạm qui trình nghiệp vụ tín dụng là trái với chính sách tín dụng ngân hàng thì nên có biện pháp xử lý kịp thời. Có như vậy mới nâng cao được trách nhiệm của CBTD trong hoạt động cho vay.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:
3.3.1. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam:
NHNo & PTNT Việt Nam cần sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể về các phương thức cho vay theo quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN để làm cơ sở cho NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây thực hiện.
Hỗ trợ giúp NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây về tài chính tạo điều kiện về cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị; tiếp tục xây mới trụ sở của ngân hàng loại 4, trang bị máy vi tính phục vụ triển khai chương trình World Bank.
Đơn giản các thủ tục, hồ sơ vay vốn tạo điều kiện giúp ngân hàng hoàn thiện hồ sơ nhanh chóng nhất, giảm bớt các thủ tục chi phí không cần thiết cho cả ngân hàng và khách hàng.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước:
NHNN là cơ quan chỉ đạo điều hành chính sách của toàn hệ thống ngân hàng trong đó có NHNo &PTNT Hà Tây do vậy NHNN có ảnh hưởng lớn đế hoạt động của chi nhánh. Để tạo thuận lợi cho NHNo Hà Tây mở rộng cho vay với làng nghề NHNN cần làm một số công việc sau:
NHNN cần có chính sách lãi suất ưu tiên đối với một số lĩnh vực đầu tư làng nghề.
- NHNN cần có chính sách xử lý rủi ro đối với nợ cho vay có tài sản đảm bảo nhưng không bán được. Giảm thời gian thử thách chuyển về nhóm nợ thấp hơn đối với gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn khi đã trả hết nợ.
3.3.3. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng:
a. Kiến nghị với nhà nước:
Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của kinh tế làng nghề yêu cầu các chính sách pháp luật phải đảm bảo giữa quy hoạch với chính sách, giữa khuyến khích và hạn chế nhằm mục tiêu kích thích cho làng nghề phát triển Nhà nước cần chú ý hoàn thiện một số chính sách sau:
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo môi trường kinh doanh cho làng nghề. Tạo mọi thuận lợi cho môi trường sản xuất kinh doanh ở làng nghề, đặc biệt chú ý chính sách trợ giúp làng nghề về thị trường tiêu thụ.
Cần hoàn thiện chính sách thuế đối với làng nghề chỉ nên đánh thuế các cơ sở sản xuất có đăng ký kinh doanh; chính sách công nghệ để tạo điều kiện cho các làng nghề đổi mới công nghệ.
Tạo điều kiện khuyến khích hoạt động của các hội nghề nghiệp.
b. Kiến nghị với các cơ quan khác:
Chỉ định cơ quan chức năng quản lý chủ quản đối với làng nghề để có thể thường xuyên giám sát và giúp đỡ các cơ sở làng nghề cả về quản lý, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm, nắm chắc các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của từng làng nghề nhằm giúp cơ quan cấp trên và các ngành chức năng có được số liệu chính xác để từ đó đưa ra quyết định đúng đắn.
Chỉ đạo ngành thuế phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu đề xuất các giải pháp thu thuế cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề, tạo điều kiện và kích thích sản xuất làng nghề phát triển đồng thời hướng dẫn các cơ sở, các hộ sản xuất dần đi vào chế độ hạch toán kinh tế, hoạt động theo đúng luật và chính sách ban hành.
Chỉ đạo kiên quyết và dứt điểm việc giải phóng mặt bằng xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong thời gian trước mắt để phát triển làng nghề.
KẾT LUẬN
Làng nghề có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của tỉnh Hà Tây. Trong những năm thực hiện đường lối của Đảng và tỉnh uỷ Hà Tây, nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục, nhiều làng nghề mới được hình thành, sản phẩm làm ra ngày càng đa dạng và phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề đã cho phép khai thác triệt để tiềm năng về lao động, nguyên liệu, trình độ tinh xảo của các nghệ nhân. Song khó khăn lớn nhất của làng nghề hiện nay là vốn đầu tư, điều này đang cản trở sự phát triển kinh doanh của làng nghề. Mở rộng cho vay phát triển làng nghề là vấn đề rất cần thiết. Việc đề xuất các giải pháp nghiên cứu nhằm mở rộng cho vay đối với làng nghề sẽ giúp làng nghề mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời giúp ngân hàng mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận.
Trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp luận văn đã tập trung hoàn thành một số nội dung chủ yếu:
Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về hoạt động cho vay và vấn đề mở rộng cho vay phát triển làng nghề. Cho vay đối với làng nghề có tác dụng rất lớn đến sự phát triển làng nghề: đáp ứng nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh của làng nghề và tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Chuyên đề đã phân tích thực trạng hoạt động cho vay đối với làng nghề ở chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây; những tồn tại, nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Chuyên đề đề cập đến định hướng kinh doanh của chi nhánh trong những năm tới và định hướng để mở rộng cho vay đối với làng nghề.
Mở rộng cho vay phát triển làng nghề là vấn đề cần thiết đòi hỏi sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp trong xã hội nên những ý kiến đề xuất chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề do vậy khó tránh khỏi những thiếu khuyết, vướng mắc và còn nhiều vấn đề sẽ tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện.
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo Th.S Lê Thanh Tâm, thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ cùng các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính và các cô chú phòng tín dụng NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đặng Chí Chơn: Tiền tệ và ngân hàng – NXB TP. Hồ Chí Minh năm 1992.
TS. Phan Thị Thu Hà: Giáo trình Ngân hàng thương mại – NXB Thống kê Hà Nội- 2004.
PGS.TS Lê Văn Tề: Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – NXB Thống Kê năm 2002.
Bùi Văn Vượng: Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam – NXB Hà Nội năm 1998.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX – NXB Chính Trị Quốc Gia.
Luật Các Tổ chức tín dụng Việt Nam.
NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2003, 2004, 2005.
Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2003, 2004, 2005. Quyết định 72/ QĐ – HĐQT – TD NHNo&PTNT Việt Nam.
Sổ tay tín dụng NHNo&PTNT Việt Nam
Sở công nghiệp Hà Tây:
Niên giám làng nghề tỉnh Hà Tây năm 2005.
Báo cáo tổng kết hoạt động làng nghề Hà Tây năm 2005
Tạp chí Dự báo kinh tế - năm 2005
Tạp chí Ngân hàng – năm 2004 & 2005.
Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ - năm 2005.
MỤC LỤC
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36398.doc