LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, với xu thế hội nhập thế giới, nhu cầu vốn nhằm để đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh đang là một vấn đề rất cấp thiết. Như ta đã biết rằng, hiện nay doanh nghiệp khi cần vốn sẽ có các cách huy đông như phát hành các giấy tờ có giá và đi vay Ngân hàng… Nhưng với cách phát hành ra các giấy tờ có giá ở nước ta vẫn chưa thực sự phổ biến, chính vì vậy vay ngân hàng vẫn là một hình thức truyền thống của các doanh nghiệp nước ta.
Đặc biệt trong những năm gần đây, hoạt động
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay kinh doanh ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại Eximbank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngân hàng tài chính đã được Đảng - Nhà Nước và các tổ chức kinh tế trên thế giới có sự quan tâm rõ rệt, đó chính là sự ra đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, dự án hiện đại hoá ngân hàng của ngân hàng quốc tế (WB) tài trợ vv… Đó là những điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng, phát triển ngành ngân hàng - tài chính. Song trên thực tế việc cung cấp, đáp ứng nhu cầu về tín dụng của ngân hàng đối với khách hàng còn nhiều hạn chế, cụ thể đó là hình thức tín dụng chưa phong phú , nguồn vốn còn hạn hẹp, quy mô còn nhỏ, chất lượng tín dụng còn chưa cao…
Chính vì vậy quá trình mở rộng cho vay là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi ngân hàng trong tình hình hiện nay. Bởi cho vay là một dịch vụ mang lại nguồn thu nhập chính cũng như danh tiếng của ngân hàng. Với việc phát triển các hình thức cho vay đã tác động trực tiếp tới các ngành kinh tế, tạo tính ổn định, vững chắc trong vai trò trung gian tài chính. Đặc biệt trong xu hướng hiện nay thì việc đầu tư vay vốn sản xuất kinh doanh đang ngày một lớn do xu thế phát triển của nền kinh tế, chính vì vậy mở rộng cho vay kinh doanh đang là một vấn đề quan tâm đối với ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Eximbank Hà Nội nói riêng.
Xuất phát từ nhận thức trên, qua thời gian thực tập tại Eximbank Hà Nội, em đã chọn đề tài: “Mở rộng cho vay kinh doanh ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại Eximbank Hà Nội” làm chuyên đề thực tập.
Chương I: Những vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1Khái niệm về ngân hàng
Quá trình hình thành của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất. Do các thương nhân khi đi buôn không thể mang theo nhiều tiền (chủ yếu được làm từ kim loại như vàng bạc) do đó họ có nhu cầu gửi tiền, nên các ngân hàng thợ vàng được hình thành. Đầu tiên các ngân hàng này thực hiện việc đổi các đồng tiền cho các nhà buôn, việc trao đổi này làm đa dạng các loại tiền, tăng quy mô tài sản của các nhà buôn đồng thời làm xuất hiện các loại thanh toán khác thay cho tiền kim loại.Và do tiền gửi vào và tiền rút ra không cùng lúc nên trong két của họ thường có số dư, các ông chủ ngân hàng đã tạm thời sử dụng số tiền này để cho vay. Lúc này ngân hàng thực hiện 2 chức năng đó là đổi tiền và đúc tiền cho khách hàng. Sau này do yêu cầu về quản lý việc đúc tiền do các Chính phủ thực hiện còn các ngân hàng chỉ thực hiện việc đổi tiền và thanh toán.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại. Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, qua các dịch vụ hoặc vai trò của nó đối với nền kinh tế. Định nghĩa thông qua các dịch vụ mà nó cung cấp như: “ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với các tổ chức tài chính khác”. Và Ngân hàng cũng có thể được định nghĩa thông qua hoạt động chủ yếu mà nó tiến hành. Theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hoạt động ngân hàng được đinh nghĩa là: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1. 2.Chức năng của ngân hàng
1.2.1 Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là vận chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chứ trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chỉ tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và (2) là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn.
Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian…Điều này cản trờ quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch. Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn bằng các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng thamgia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh toán của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính vàcó khả năng lựa chọn nhữung công cụ với các yếu tố rủi ro, lợi nhuận hấp dẫn nhất.
1.2.2 Tạo phương tiện thanh toán
Tiền-vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc nhà nước tập trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc bộ tài chính hoặc là ngân hàng trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng và các dịch vụ theo yêu cầu.Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (MO), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu ( tức là tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vau mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể tao cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán…
1.2.3 trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dich vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng . Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.3Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo được thông qua hoạt động huy động vốn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn ngân hàng. Trước đây, các Ngân hàng thương mại chủ yếu là nhận tiền gửi của những người gửi tiền tiết kiệm. Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hình thức huy đông vốn của ngân hàng thương mại rất phong phú, đa dạng.
Một lượng vốn lớn được ngân hàng thương mại huy động thông qua tài khoản séc, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tài khoản tiết kiệm, kỳ phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi…Bên cạnh đó khi cần vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay đầu tư, ngân hàng thương mại có thể vay các ngân hàng khác, chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước hoặc tại các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. Ngân hàng thương mại còn tạo lập nguồn vốn thông qua phát hành và bán các cổ phiếu, tạo lập các quỹ dự trữ từ lãi ròng.
Để có được lượng vốn thông qua hoạt động huy động vốn, các ngân hàng phải bỏ ra những chi phí nhất định bao gổm: lãi tiền gửi, lãi tiền vay, chi phí giao dịch…
1.3.2. Hoạt động trung gian
Đó là các hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm cung cấp các dịch vụ cho khách hàng.Thông qua các dịch vụ: Thanh toán, chuyển tiên,chi trả kiều hối, … Ngân hàng sẽ nhận được thu nhập dưới hình thức hoa hồng, lệ phí.
1.3.3. Hoạt động cho vay và đầu tư
Đây là nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn huy động để cho vay hoặc đầu tư chứng khoán. Các hoạt động này mang lại thu nhập chính cho ngân hàng, nhưng đây cũng là những hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, đưa đến nhiều tổn thất cho ngân hàng.
Hoạt động cho vay là hoạt động đặc trưng cơ bản mang tính chất truyền thống của ngân hàng. Cho vay là hoạt động sử dụng vốn, ngân hàng dùng vốn huy động được để cho vay, khi cho vay phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Có kế hoạch, mục đích
- Có bảo đảm bằng tài sản
- Chứng minh được nguồn trả nợ
- Hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi vay
Việc tuân thủ các nguyên tắc trên sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động cho vay của mình. Ngân hàng có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà có cách phân loại. Thông thường ngân hàng phân loại các khoản cho vay theo :
1.3.3.1.Phân theo hình thức cho vay
-Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để đựơc thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng)
+Thấu chi:
x
Trục y: Số tiền gửi thanh toán (đồng)
Trục x: Thời gia
Hạn mức thấu chi
Vay ngân hàng (thực hiện thấu chi)
Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ…vựot quá số dư tiền gửi đề chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả:
Số lãi phải trả =Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cở sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thởi gian và qui mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: Chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nôp, mua hàng. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với cá khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
-Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tìn dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chie tham gia vaòa một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ ) khác nhau.
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi.Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoạc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
-Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Khi khác hàng có thể thực hiện việc vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mứac cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêy yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát triển cho khách hàng.
Đây chính là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ do đó tạo chủ động quản kú ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoạc dư nợ lâu không giảm sút.
-Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng cỏ thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hợc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá đẻ dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Người vay cam kếy các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoác đơn nhập hàng và số tiền cần vay.Ngân hàng cho vay cà trả tiền cho người bán. Theo hìnhthức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp hợp lệ, đúng đối tượng ) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay, thu nhập bán hàng đềulà nguồn để chi trả cho ngân hàng.Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoạc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hoá tồn đọng…) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
-Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kì của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mứac nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
-Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ chức, tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ…Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các tổ chức này rất quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay dang cá tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay…Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc cácthành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thàh viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu cào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế ngươờ vay sử dụng tiền sai mục đích.
Cho vay trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng.Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình, để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
1.3.3.2.Phân theo thời gian:
-Cho vay ngắn hạn
Cho vay ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoạc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất.Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoạc gián tiếp, cho vay theo món hoạc theo hạn mức, có hoạc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi luân chuyển.
Cho vay ngắn hạn trong những trường hợp sau:
-Ngân hàng cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Hình thức phổ biến hiện nay là ngân hàng mua trái phiếu do kho bạc phát hành.Khả năng hoàn trả của Nhà nước rất cao, song cũng không loại trừ có những trường hợp Nhà nước mất khả năng chi trả khi đến hạn.
-Ngân hàng cho vay đối với tổ chức tài chính như các ngân hàng, các công ty tài chính, quĩ tín dụng…nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Một số côngtu chứng khoán vay vốn ngắn hạn của ngân hàng thương mại trong quá trình bảo lãnh và phân phối chứng khóan cho công ty phát hành. Hình thức cho vay có thể cho vay trực tiếp (trên thị trường liên ngân hàng ) hoặc cho vay gián tiếp thông uqa nắm giữ chứng khóan. Phần lớn cáckhảon cho vay này đều dựa trên uy tín của người vay, phần còn lại là dựa trên bảo lãnh của người thứ ba, họac dựa trên cầm cố chứng khoán thanh khoản cao.
-Ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp nhằm tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng đông nhất của các ngân hàng thương mại. Phần lớn các khoản cho vay này có thể có thế chấp hoạc cầm cố tài sản.
Các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng theo thời vụ là khách hàng chủ yếu của ngân hàng. Họ cần dự trữ cho thời vụ, hoặc tăng chi phí sản xuất. Vào mùa xây dựng các công ty xây dựng là khách hàng vay của ngân hàng.Họ cần có vốn để xây dựng trước công trình (hoặc từng hạng mục) trước khi chủ đầu tư thanh toán. Nguồn trả nợ chính là tiền thanh toán của chủ đầu tư.
Ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu, gồm cho vay xuất khẩu, nhập khẩu và cho vay thanh toán.
Ngân hàng cho vay đối với các công ty xây dựng và phát triển đô thị. Khoản cho vay này thường có thế chấp bằng chính bất động sản của người vay.
-Cho vay trung và dài hạn
-Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ…Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, để tồn tại và phát triển, nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng tăng.
-Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển. Vai trò của Nhà nước trong phát triển ngày càng được nhấn mạnh đặc biệt tại các nước đang phát triển, nơi mà khả năng tích lũy của các doanh nghiệp chưa cao.
-Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển.
+Mua trái phiếu
Các ngân hàng mua các trái phiếu trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình tài chính doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai…đều được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu.
+Cho vay theo các dự án
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định nhằm thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án (sản xuất kinh doanh). Phân tích (và thẩm định ) dự án là cơ sở để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích tài chính…trong đó phân tích tài chính là mục tiêu quan tâm hàng đầu của ngân hàng.
+Cho vay đối với người tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa. Hình thức cho vay tiêu dùng của các hãng là bán trả góp. Một số hãng đã phải vay ngân hàng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt.
Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển…
1.4 Các khoản cho vay kinh doanh ngắn hạn
1.4.1.Khái niệm và đặc điểm cho vay kinh doanh ngắn hạn
Cho vay kinh doanh ngắn hạn là hình thức cho vay kinh doanh mà thời hạn cho vay đến 12 tháng.
Cho vay kinh doanh ngắn hạn có những đặc điểm sau:
-Vốn vay ngắn hạn luân chuyển cùng chu kì sản xuất-kinh doanh của khách hàng. Cho vay ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng thiếu hụt tạm thời vốn lưu động trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc cho vay và thu nợ luôn diễn ra lúc bắt đầu cho tới khi kết thúc chu kì sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thường cho vay khi khách hàng phát sinh nhu cầu vốn để mua vật tư, nguyên liệu hoặc trang trải cấc cho phí sản xuất. Khi hàng hóa được tiêu thụ, khách hàng có thu nhập thì cũng là lúc ngân hàng thu hồi nợ. Xuất phát từ đặc điểm này, các ngân hàng thường quy định thời hạn cho vay trên cơ sở chu kì sản xuất của người vay. Chính vì vậy, thời gian thu hồi vốn trong cho vay ngắn hạn tương đối nhanh.
-Rủi ro của khoản vay ngắn hạn thấp hơn khoản vay trung và dài hạn bởi thời gian thu hồi vốn nhanh, và mức lãi suất cho vya ngắn hạn thấp hơn mức lãi suất cho vay trung và dài hạn.
-Hình thức cho vay phong phú.Ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng các loại hình cho vay ngắn hạn như: Cho vay ngắn hạn từng lần, cho vay thưo hạn mức, cho vay thấu chi, cho vay luân chuyển…Điều này vừa để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng và đồng thời giúp Ngân hàng phân tán rủi ro.
-Cho vay ngắn hạn là hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Đặc trưng của ngân hàng chính là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, trong đó nhận tiền gửi ngắn hạn là hoạt động huy động vốn chủ yếu. Chính vì vậy với sự phù hợp về lãi suất và thời hạn, các ngân hàng chủ yếu cho vay ngắn hạn.
1.4.2.Lý do cho vay kinh doanh ngắn hạn
1.4.2.1.Xuất phát từ nhu cầu vốn của doanh nghiệp
Trong sản xuất kinh doanh, ngoài số vốn ban đầu khi thành lập, doanh nghiệp còn luôn phải bổ sung, tăng vốn theo quy mô sản xuất, hoạt động. Doanh nghiệp có nhiều cách khác nhau để huy động nợ, trong đó vay ngân hàng là một nguồn hết sức quan trọng. Mỗi doanh nghiệp, căn cứ vào nhu cầu vốn, cơ cấu vốn và chi phí vốn của mình để lựa chọn cách thức huy động nợ phù hợp.
-Xét về cơ cấu vốn, doanh nghiệp vay ngắn hạn bởi vì:
+Doanh nghiệp thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tình trạng thiếu vốn thường xuyên đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm kiếm các nguồn vốn ngắn hạn thích hợp.Trong khi các nguồn huy động khác gặp khó khăn thì nguồn vốn ngắn hạn được vay tại ngân hàng lại tỏ ra dễ tiếp cân hơn.Với chức năng huy động và cho vay, là nơi tập trung vốn lớn, là nơi cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là nơi doanh nghiệp có thể tìm được nguồn vốn tài trợ lớn, đáp ứng những nhu cầu của mình.
+Doanh nghiệp duy trì một cơ cấu vốn hợp lý: Vay ngắn hạn các ngân hàng có thể nhằm duy trì cơ cấu vốn hợp lý cho doan nghiệp. Nói đến cơ cấu vốn là nói đến tỷ trọng các nguồn vốn chủ sở hữu.Một cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp muốn đạt được là cơ cấu làm tối đa giá trị tài sản của chủ sở hữu. Sử dụng nợ như thế nào để đạt được chi phí vốn tối ưu, từ đó tối đa giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp, đó là vấn đề quan trọng khi vay vốn ngân hàng nói chung và vay ngắn hạn nói riêng.
+Doanh nghiệp sử dụng nợ để tạo đòn bẩy tài chính.Vì chi phí nợ là chi phí trước thuế nên so với việc sử dụng vốn chủ sở hữu thì việc sử dụng nợ sẽ tiết kiệm được thuế cho doanh nghiệp, làm khuếch đại thu nhập cho chủ sở hữu. Do đó khi thiếu vốn tạm thời, cân nhắc giữa sinh lời và rủi ro, doanh nghiệp thích lựa chọn vay ngắn hạn để tạo đòn bẩy này.
-Xét về tính chất tài sản cần tài trợ doanh nghiệp vay kinh doanh ngắn hạn vì:
+Tài sản cần tài trợ là tài sản lưu động: Tài sản lưu động được thể hiện trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp là tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, các khoản phải thu và dự trữ. Đây là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trongquá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy nhằm tài trợ cho tài sản lưu động thì doanh nghiệp lựa chọn vay vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn tài trợ cho tài sản lưu động thông thường dành cho khoản mục dự trữ.
+Tài sản cần tài trợ là tài sản cố định: Tài sản cố định là những tư liệu lao động tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, trong đó hình thái vật chất không thay đổi từ chu kỳ sản xuất đầu tiên cho đến khi bị sa thảikhỏi quá trình sản xuất. Tài trợ cho tài sản cố định thường đòi hỏi nguồn vốn có thời hạn phù hợp đó là nguồn trung và dài hạn.._. Tuy nhiên, trong trường hợp tạm thời thiếu vốn để đầu tư cho máy móc, thiết bị và doanh nghiệp vẫn có khả năng hoàn trả nợ trong ngắn hạn thì vay ngắn hạn là giải pháp khả thi và hiệu quả hơn so với vay vốn trung và dài hạn vì chi phí vốn thấp hơn, thủ tục nhanh hơn, khả năng được vay lớn hơn.
1.4.2.2. Xuất phát từ yêu cầu quản lý của NH
Cho vay là hoạt động của một ngân hàng thương mại. Đây là hoạt động mang lại phần lớn thu nhập cho NHTM nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nhiều nhất. Chính vì vậy quản lý cho vay là cần thiết để ngân hàng có thể hoạt động an toàn. Quản lý cho vay theo thời hạn là một cách thức quản lý quan trong của ngân hàng thương mại.
-Chiến lược cho vay ngắn hạn của ngân hàng luôn có mối liên hệ chặt chẽ với chiến lược quản lý thanh khoản của ngân hàng.Thời hạn khoản vay liên quan đến tính thanh khoản của tài sản. Thời hạn càng dài thì tính thanh khoản càng kém, các khoản vay càng có nhiều rủi ro, vì vậy tăng thêm khoản mục cho vay ngắn hạn. Tính thanh khoản đòi hỏi quản lý kết hợp cung cầu thanh khoản với mục tiêu đảm bảo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng. Một điều kiện để quản lý kết hợp được cung và cầu thanh khỏan là việc tính tóan mức dự trữ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu thanh tóan. Chính vì vậy cho vay ngắn hạn là một vấn đề quan trọng trong quản lý thanh khỏan của ngân hàng. Nếu nguồn vốn chủ yếu ngân hàng huy động được có thời hạn ngắn thì việc cho vay mà phần lớn là trung và dài hạn sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản, dễ đưa ngân hàng tới chỗ mất khả năng thanh toán.
-Chiến lược cho vay ngắn hạn của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với chiến lược quản lý lãi suất, doanh thu, chi phí và lợi nhuận. Thời hạn là yếu tố để xác định lãi suất cho vay. Phần lãi này thể hiện doanh thu của ngân hàng, đồng thơi là chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do đó có thể dự báo thu nhập của ngân hàng.
1.4.3 Các khoản cho vay kinh doanh ngắn hạn
1.4.3.1.Các khoản cho vay mua hàng dự trữ
Từ trước tới nay, ngân hàng thường thích cho các hàng vay ngắn hạn, bổ sung tạm thời vốn hoạt động. Trên thực tế, cho tới sau chiến tranh thế giới II ngân hàng chủ yếu cấp tín dụng cho doanh nghiệp dưới hình thức các khoản cho vay tính tự thanh toán. Các khoản vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô hoặc hàng hoá (thành phẩm). Các khoản cho vay như vậy tận dụng chu kỳ tiền mặt thông thường trong một hãng kinh doanh như sau:
+Tiền mặt (bao gồm cả tiền vay ngân hàng ) được chi dùng mua dự trữ nguyên vật liệu và bán thành phẩm.
+Hàng hoá được sản xuất hoặc dự trữ để bán.
+Hàng đã bán (Thường bán chịu)
+Tiền mặt thu về (ngay khi bán hàng hoặc thu từ các khoản bán chịu)và được dùng để trả các khoản vay ngân hàng .
Trong trường hợp này, kỳ hạn của các khoản vay bắt đầu được tính từ khi hãng cần vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc (có thể trong vòng từ 60 đến 90 ngày) khi hãng thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho ngân hàng.
Mặc dù ngày nay ngânhàng không còn đơn thuần chỉ cho vay các khoản tự thanh toán như trước mà trong danh mục của nó đã xuất hiện thêm nhiều loại hình cho vay khác nhưng các khoản cho vay ngắn hạn - thường mang tính tự thanh toán - vẫn chiếm hơn 50% tổng giá trị các khoản mục cho vay kinh doanh trong hoạt động ngân hàng. Trên thực tế, phần lớn kì hạn của các khoản cho vay kinh doanh này chỉ kéo dài trong một vài tuần hoặc một vài tháng và thường liên quan chặt chẽ với nhu cầu tiền mặt ngắn hạn của người vay để phục vụ cho việc tài trợ mua hàng hoặc để trang trải chi phí sản xuất, nộp thuế, trả lãi cho trái phiếu cho các khoản nợ khác, trả cổ tức cho cổ đông.
1.4.3.2.Cho vay vốn lưu động
Đây là những khoản vay ngắn hạn đối với các hãng kinh doanh, với kỳ hạn kéo dài từ vài ngày đến 1 năm. Các khoản vay vốn có những đặc điểm gần giống với các khoản cho vay tự thanh toán nhuư đã được đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vay vốn lưu động được sử dụng để đáp ứng mức sản xuất và nhu cầu tín dụng trong các thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh. Ví dụ, một hãng sản xuất quần áo dự đoán rằng nhu cầu đối với quần áo học sinh vào mùa thu và quần áo ấm vào mùa đông là rất lớn, hãng này sẽ cần các khoản tín dụng ngắn hạn vào cuối mùa xuân và mùa hạ để mua vải và thuê thêm công nhân nhằm tăng sản lượng để đáp ứng hàng hoá cho người bán lẻ trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 12. Ngân hàng của hãng sẽ lập ra một hạn mức tín dụng thời hạn từ 6 đến 9 tháng cho phép hãng sản xuất quần áo có thể rút tiền khi cần trong suốt giai đoạn này. Quy mô của hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở dự tính về lượng vốn lớn nhất mà hãng có thể sẽ cần tại bất cứ thời điểm nào trong suốt kỳ hạn của hợp đồng tín dụng. Những khoản vay như vậya thường được tái lập với điều kiện người vay đã trả toàn bộ hoặc một phần đáng kể khoản vay.
Thông thường, các khoản cho vay vốn lưu động được đảm bảo bằng các khoản phải thu hoặc được thế chấp bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ phải chịu lãi suẩt (thường là thả nổi) trên lượng tiền vay thực tế họ đã sử dụng. Khoản lệ phí cam kết được tính trên phần tín dụng thuộc hạn mức không sử dụng và đôi khi được tính trên toàn bộ giá trị của hạn mức. Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có số dư bù tiền gửi.Số dư bù bao gồm lượng tiền gửi tối thiểu bắt buộc được xác định trên cở sở quy mô của hạn mức tín dụng.
1.4.3.3.Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng
Một hình thức cho vay ngắn hạn có bảo đảm phổ biến trong ngân hàng thương mại là cho vay hỗ trợ các công trình xây dựng nhà ở, các toà nhà văn phòng , trung tâm thương mại và các công trình khác. Mặc dù thời gian xây dựng công trình kéo dài nhưng các khoản cho vay lại chỉ mang tính tạm thời. Các khoản cho vay này cung cấp vốn cho bên thi công để thuê công nhân, thuê thiết bị xây dựng, mua vật liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng. Khi giai đoạn cây dựng kết thúc, bên thi công thường vay thế chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính khác (như công ty bảo hiểm hay quỹ hưu trí) để lấy tiền thanh toán cho các khoản vay xây dựng ngắn hạn. Trong thực tế, chỉ khi công ty xây dựng chắ hcắan có được một cam kết cho vay thế chấp để tiếp tục tài trợ dài hạn cho dự án sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng thì ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn. Gần đây, một vài ngân hàng đã cho vay với thời hạn khá dài từ 5 đến 7 năm, cung ứng vốn cho việc xây dựng và hoạt động trong giai đoạn của công trình.
1.4.3.4.Cho vay kinh doanh chứng khoán
Những người kinh doanh chứng khoán chính phủ và chứng khoán tư nhân thường cần sự hỗ trợ vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới và duy trì danh mục đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán này được bán hoặc đến hạn thanh toán.Các ngân hàng lớn nhất thường sẵn sàng cho vay đối với người kinh doanh chứng khoán vì những khoản cho vay này có chất lượng cao,thường được đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ mà nhà kinh doanh chứng khoán nắm giữ. Hơn nữa, nhiều khoản vay kinh doanh chứng khoán có kỳ hạn rất ngắn,chỉ vay qua đêm hoặc vài ngày, nhờ vậy ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị trường tín dụng trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng ngân hàng khác thuộc loại này là cho vay đối với các ngân hàng đầu tư, hỗ trợ cho hoạt động bảo kãnh phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty và các giấy nợ chính phủ.Việc bảo lãnh phát hành chứng khoán thường diễn ra khi ngân hàng đầu tư giúp đỡ khác hàng trong việc mua lãi công ty khác,giúp đỡ công ty phát hành đầu tư giúp đỡ khách hàng trong việc mua lại công ty khác, giúp đỡ công ty phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành thêm cổ phiếu để tăng quy mô vốn kinh doanh hiện có hoặc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu tư mới.Khi ngân hàng bán chứng khoán mới cho cácnhà đầu tư trên thị trường vốn thì khoản vay cùng với lãi sẽ được hoàn trả.
Ngân hàng cũng tiến hành cho vay trực tiếp đối với các tổ chức và cá nhân để mua cổ phiếu, trái phiếu, hợp đồng quyền chọn và các công cụ tài chính khác.Cục dự trữ liên bang Mỹ đã đưa ra quy định về việc cho vay tối đa là 50% giá trị chứng khoán được mua (theo quy định U). Tuy nhiên để hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường vốn đối với các doanh nghiệp nhỏ, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã ban hành quy định mới vào tháng 12/1997-Có hiệu lực từ 1/4/1998. Cho phép ngân hàng được quyền cho vay tới 100% tổng giá trị chứng khoán được mua của công ty nhỏ có đăng ký trên NASDAQ.
1.4.3.5.Cho vay kinh doanh bán lẻ
Các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy , đồ dùng gia đình nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các khoản phỉa thu mà người bán hàng hoá này sẽ nhận đựoc khi họ ký hợp đồng bán hàng trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ đựơc ngân hàng của người bán kẻ xem xét. Nếu đáp ứng các yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với một mức lãi suất thay đổi tuỳ theo chất lượng tín dụng người vay vốn, chất lượng của vật thế chấp và thời gian của mỗi khoản vay.
Đối với những người kinh doanh mô tô, ti vi, đồ nội thất và các hàng hoá lâu bền khác, ngân hàng có thể đồng ý tài trợ toàn bộ dự trữ tồ kho thông qua việc xác định kế hoạch sàn. Ngân hàng sẽ cấp tìn dụng cho người bán kẻ để họ có thể yêu cầu hãng sản xuất chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết cáckhoản vay như vậy có kỳ hạn 90 ngàyvà sau đó có thể được tái gia hạn với thời gian một tháng hay vài tháng. Để có đươcj khoản tín dụng này, người bán lẻ phải ký hợp đồng đảm bảo an toàn cho phép ngân hàng có quyền sở hữu hàng hoá trong trường hợp họ không thể thanh toán khoản vay. Sau đó, Nhà sản xuất sẽ có thể chuyển hàng cho người bán lẻ và gửi hoá đơn thanh toán cho ngân hàng. Định kỳ, ngân hàng sẽ cử cán bộ tới kiểm tra hàng hoá trong kho của người bán lẻ để xác định lượng hàng hoá đã được bán và lượng hàng tồn kho.Sau khi bán được hàng hoá, người bán lẻ sẽ gửi séc tới ngân hàng để thanh toán dầnkhoản nợ cho ngân hàng (được hiểu như một thoả thuận “trả tiền khi bán được hàng”).
Nếu cán bộ ngân hàng xác định thấy bất lỳ một hàng hoá nào đã được bán mà ngân hàng không nhận được tiền thanh toán (được hiểu như là “bán lận”) thì cán bộ ngân hàng sẽ phải yêu cầu người bán lẻ viết ngay séc trả tiền cho số hàng hoá đó. Nếu người bán lẻ không thanh toán được, ngân hàng có thể buộc phải thu hồi hàng và trả một phần hoặc toàn không thanh toán được, ngân hàng có thể buộc phải thu hồi hàng và trả lại một phần hoăc toàn bộ số hàng đó cho nhà sản xuất để thu hồi số vốn vay.Hợp đồng kế hoạch sàn thường bao gồm một khoản dự phòng tổn thất tín dụng, tích luỹ từ các khoản lãi thu được khi người vay trả tiền.Quy mô của quỹ dự phòng sẽ giảm nếu có bất cứ khoản vay nào không được giảm trừ một phần số lãi của hợp đồng trả góp.
1.4.3.6.Cho vay trên tài sản
Trong những năm gần đây, các khoản cho vay trên tài sản là khoản tín dụng được bảo đảm bằng các tài sản ngắn hạn của hãng, được dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong tương lai, ngày càng nhiều một tỷ trọng lớn trong tổng cho vay ngắn hạn. Tài sản chủ yếu được dùng để đảm bảo cho các khoản vay bao gồm các khoản phải thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng cho vay theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản phải thu hoặc trên giá trị hàng tồn kho.
Đối với hầu hết những khoản cho vay được thế chấp bằng các khoản phải thu hay hàng tồn kho, doanh nghiệp đi vay vẫn có quyền sở hữu đối với tài sản.Tuy nhiên, đôi khi quyền sở hữu cũng được chuyển sang cho ngân hàng để hạn chế rủi ro khi một số khoản nợ không được thanh toán như dự tính. Do ngân hàng phải gánh chịu hoàn toàn các chi phí phát sinh thêm và rủi ro của khoản cho vay bao thanh toán nên ngân hàng thường đưa ra mức lãi suất chiết khấu cao hơn và cho doanh nghiệp vay ít hơn giá trị ghi sổ của các khoản phải thu.
1.4.4.Vai trò của cho vay kinh doanh ngắn hạn
Cho vay kinh doanh ngắn hạn có vai trò rất quan trọng tron đời sống kinh tế, xã hội. Đây là nguồn vốn lớn của nền kinh tế. Nguồn vốn ngắn hạn vay NHTM đã góp phần ổn định, duy trì và mở rộng sản xuất đối với doanh nghiệp, nâng cao đời sống của các cá nhân, là cơ sở cho một nền kinh tế ổn định và phát triển. Cho vay kinh doanh ngắn hạn có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng,trong đó ngân hàng bản thân cũng là một doanh nghiệp.
1.4.4.1. Đối với nền kinh tế
Là một trung gian tài chính, NHTM là nơi tập trung tích tụ vốn và phân bổ đầu tư có hiệu quả trong nền kinh tế. Cho vay là một hoạt động mang tính chất đầu tư cho nền kinh tế của NHTM. Trong khi thị trường chứng khoán, các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các quỹ đầu tư…là chủ yếu trong việc đưa vốn trung và dài hạn vào nền kinh tế thì kênh dẫn vốn ngắn hạn lại chủ yếu là NHTM. Thị trường tiền tệ với trung gian tài chính là NHTM luôn là nơi cung cấp nguồn vốn rất lớn.
1.4.4.2. Đối với doanh nghiệp
-Cho vay kinh doanh ngắn hạn là nguồn bổ sung kịp thời cho các nhu cầu về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn này giúp các doanh nghiệp tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh hoặc giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn tạm thời về tài chính. Trong nhiều trường hợp, vay vốn ngân hàng còn là giải pháp nhằm giảm chi phí cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt kịp những cơ hội kinh doanh, tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
-Cho vay kinh doan ngắn hạn là yếu tố kích thích sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các điều kiện cho vay ngăn hạn tạo áp, lực buộc doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đối với doanh nghiệp lớn thì phần lớn vốn lưu động đều vay ngân hàng dưới hình thức cho vay ngắn hạn ứng trước nhằm đáp ứng các cơ hội kinh doanh. Do tính chất của cho vay ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi trên toàn bộ dư nợ, kể cả phần dư nợ chưa sử dụng đến, cho nên bắt buộc doanh nghiệp phải quay vòng vốn.
1.4.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay kinh doanh ngắn hạn
1.4.5.1. Những nhân tố thuộc về Ngân hàng Trung ương
Là đơn vị quản lý các ngân hàng thương mại, do đó các chính sách của Ngân hàng Trung ương ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động cho vay của các ngân hàng, như: Nghiệp vụ thị trường mở, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất, chính sách tái cấp vốn.
- Nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động của Ngân hàng Trung Ương mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn (Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, tín phiếu kho bạc, Chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung - cầu về giấy tờ có giá, tạo nên ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của ngân hàng thương mại và từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng Trung ương có thể thu hẹp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Và ngược lại, khi Ngân hàng Trung Ương mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, làm tăng khối lượng tiền tệ, sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng tín dụng.
- Chính sách lãi suất
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương trong việc cung ứng tiền vào lưu thông hoặc bớt tiền ra khỏi lưu thông, nhưng nó lại tác động trực tiếp tới hoạt động cho vay của các ngân hàng. Từ khi thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất, các ngân hàng được quyền thoả thuận lãi suất cho vay đối với khách hàng, điều đó đã tạo ra sự chủ động trong hoạt động tín dụng, điều đó đã thúc đẩy hoạt động này ngày càng phát triển.
- Chính sách dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc nhằm điều chỉnh khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại. Nếu khả năng thanh toán quá lớn,có nghĩa là ngân hàng đang dư thừa tiền thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng khả năng cho vay của các ngân hàng.Việc quy đinh tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của nên kinh tế.
- Chính sách tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các ngân hàng thương mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho ngân hàng, một mặt đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay của mình.
Ngân hàng Trung ương đang thực hiện cho vay tái cấp vốn cho các NHTM theo các hình thức sau:
+ Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
+ Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
+ Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn.
+ Cho vay trong thanh toán bù trừ.
+ Cho vay theo hình thức chỉ định.
1.4.5.2. Ảnh hưởng từ phía ngân hàng
- Hoạt động kinh doanh luôn luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro, trong khi đó nhiều doanh nghiệp ở nước lại thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý, thiếu chiến lược sản phẩm, mặt khác các doanh nghiệp sản xuất đều hết sức phức tạp, các báo cáo tài chính thường không được kiểm toán một cách chặt chẽ, mà đây lại là một nhân tố tác động đến quyết định cho vay của cán bộ tín dụng điều này đã gây nên tâm lý lo ngại cho cán bộ tín dụng - vốn luôn đặt nguyên tắc an toàn lên hàng đầu. Hơn nữa trong thực tế đã có rất nhiều trường hợp lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt vốn gây nên những thiệt hại lớn cho ngân hàng, do đó việc dè dặt khi cho các doanh nghiệp vay vốn là không thể tránh khỏi.
- Chi phí cho một hợp đồng tín dụng (chi phí thu thập thông tin, chi phí thẩm định, chi phí định giá tài sản bảo đảm,…) cũng gây một trở ngại đáng kể đối với các doanh nghiệp khi vay vốn.
- Nguồn vốn của một ngân hàng cũng ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. Phần lớn vốn cho các doanh nghiệp vay xuất phát từ tiền gửi của dân cư; tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội; tiền gửi của ngân hàng khác; tiền vay từ các tổ chức tín dụng, từ Ngân hàng Nhà nước; vay trên thị trường vốn. Ngân hàng nào huy động được nguồn vốn nợ lớn sẽ có điều kiện để mở rộng hoạt động cho vay và ngược lại ngân hàng nào huy động được ít vốn nợ sẽ khó có thể tăng cường hoạt động tín dụng.
- Nhằm phân tán rủi ro cho Ngân hàng thương mại, vì vậy theo quyết định 1627 thì tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản vay có nguồn uỷ thác của chính phủ, các tổ chức, cá nhân. Trong trường hợp khách hàng có nhu cầu vượt 15% vốn tự có thì các ngân hàng có thể cho vay hợp vốn. Cho nên quy mô vốn tự có của ngân hàng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng tín dụng.
- Kinh doanh tiền tệ là một lĩnh vực kinh doanh rất đặc biệt và đóng vai trò quan trọng, đòi hỏi các ngân hàng phải có trang thiết bị công nghệ hiện đại, không những đảm bảo chính xác các giao dịch mà còn đảm bảo được thời gian nhanh chóng. Nếu như các Ngân hàng thương mại không thực hiện các chương trình hiện đại hoá thì khó có thể kiểm soát các hoạt động cho vay dẫn đến việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp bị ảnh hưởng.
-Quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng cũng tác động đến khả năng cho vay đến các doanh nghiệp, nếu các ngân hàng có quy mô lớn, có mạng lưới rộng khắp thì sẽ thu hút được nhiều doanh nghiệp vay vốn. Đồng thời ngân hàng còn có điều kiện để tăng cường khả năng huy động vốn, cung cấp được nhiều sản phẩm, dịch vụ hơn cho khách hàng.
- Chính sách của Ngân hàng trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp. Nếu ngân hàng đang mở rộng cho vay kinh doanh ngắn hạn đối với doanh nghiệp thì sẽ có những ưu đãi về lãi suất, thời hạn, số vốn nhờ đó mà thu hút được các doanh nghiệp đến với mình. Ngược lại khi ngân hàng chuyển dịch đối tượng vay vốn sang các khách hàng cá nhân thì các điều kiện cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp cũng sẽ bị nâng lên.
- Hiện nay các Ngân hàng không chỉ chú trọng đến chất lượng, sự đa dạng của các sản phẩm dịch vụ mà còn tăng cường các hoạt động Marketing nhằm thúc đẩy khách hàng đến với mình. Đôi khi để thúc đẩy hoạt động cho vay các ngân hàng còn đưa ra nhiều chương trình khuyến mại nhờ đó đã giữ được các khách hàng của mình.
1.4.5.3. Ảnh hưởng từ phía doanh nghiệp
Xuất phát từ nhu cầu về vốn của mình mà các doanh nghiệp có quyết định vay vốn ngân hàng hay không. Khi có nhu cầu vay với tình hình tài chính lành mạnh, có tài sản thể chấp, hoặc khi có dự án khả thi…phù hợp với yêu cầu của ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ được ngân hàng tài trợ.
Với đặc điểm vốn chủ sở hữu thấp, còn non trẻ, năng lực cạnh tranh còn hạn chế nên chưa tạo lòng tin cho các nhà bảo lãnh, trình độ quản lý còn yếu kém, khó lập được phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có tính thuyết phục, báo cáo tài chính chưa minh bạch là những nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của doanh nghiệp.
Và tài sản thể chấp của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến khả năng vay vốn của doanh nghiệp.
Ngoài ra, một số các nhân tố khác như diễn biến kinh tế, chính trị, xã hội cũng ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay kinh doanh ngắn hạn đối với các doanh nghiệp.
Chương II:Thực trạng và giải pháp mở rộng cho vay kinh doanh ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng Eximbank Hà Nội
2.1.Giới thiệu về ngân hàng Eximbank Hà Nội
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Eximbank Hà Nội
2.1.1.1.Quá trình hình thành của ngân hàng Eximbank Hà Nội
Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của chủ tịch hội đồng bộ trrưởng với tên gọi đầu tiên là “Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam”(Việt Nam Export Import Bank). Ngân hàng đã chính thức đi vào họat động ngày 17/01/1990.
Và chi nhánh Eximbank Hà Nội là một trong những chi nhánh đầu tiên được thành lập theo giấy chấp thuận số 0002 ngày 22/09/1992 của NHNN và theo giấy phép đặt tại văn phòng chi nhánh số 00503/GP-UB của UBND thành phố Hà Nội.Tháng 11/1992 Eximbank Hà Nội bắt đầu đi vào hoạt động tại địa điểm tạm thời 66B Trần Hưng Đạo, nay có trụ sở chính đặt tại 19 phố Trần Hưng Đạo, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngoài trụ sở chính hiện nay, Eximbank Hà Nội còn có các chi nhánh cấp II là Chi nhánh Láng Hạ tại 54 K1 Thành Công, Quận Ba Đình, Hà Nội. Chi Nhánh Hai Bà Trưng tại 384 Bạch Mai, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.Chi nhán Long Biên Tại 562 Nguyễn Văn Cừ, Quận Long Biên, Hà Nội.
Eximbank chi nhánh Hà Nội có :
Trụ sở: Số 19, phố Trần Hưng Đạo, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Fax: (84.4)826 7798
Telex: 411308 EIBHN VT
SWIFT: EBVIVN2X
Wesbite: http:// eximbank.com.vn
Cũng như Ngân hàng chính, Eximbank Hà Nội là đơn vị chuyên doanh về tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu, đồng thời trong xu hướng xây dựng Eximbank trở thành một ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ, đa năng, hiện đại kết hợp tài trợ xuất nhập khẩu, Eximbank Hà Nội đã thực hiện tốt công tác phục vụ khách hàng khu vực phía Bắc, hỗ trợ hoạt động của Eximbank tại hội sở chính và các chi nhánh khác trong cùng hệ thống, hoạt động kinh doanh ngân hàng hiệu quả làm tăng vốn cho hệ thống.
2.1.1.2.Quá trình phát triển của ngân hàng Eximbank Hà Nội
Từ năm 1992-2000 là quá trình xây dựng của ngân hàng, quá trình này ngân hàng mới được thành lập nên gặp nhiều khó khăn.
Đến năm 2001-2002 ngân hàng bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt do tỷ lệ nợ quá hạn rất cao, và thời gian dài không có lãi.Trong hoàn cảnh khó khăn đó, ngân hàng đã có những giải pháp hợp lý, kiên trì để vượt qua sóng gió.
Năm 2003, Eximbank đã phát hành cổ phiếu, cơ cấu lại nguồn vốn tăng năng lực tài chính và nâng hệ số an toàn vốn từ 7,16% đến 10,02%, nhưng đồng thời cũng tạo áp lực nặng nề từ phía các cổ đông muốn chia cổ tức. Các chi nhánh được chỉ đạo phải tự cân đối nợ, có thể mở rộng quy mô nhưng phải tiết kiệm chi phí, tăng hiệu suất lao động.Toàn ngân hàng quyết tâm vượt khó khăn này. Cùng tham gia xử lý nợ với Eximbank có các chuyên gia ngành ngân hàng và ngân hàng nhà nước.
Quý ba năm 2004, công ty mua bán nợ Bộ Tài chính đã mua một số khoản nợ có thế chấp của Eximbank, giúp giảm gánh nặng cho ngân hàng. Việc xử lý nợ là cần thiết nhưng việc kinh doanh không thể ngừng lại. Eximbank đã nỗ lực phát triển thế mạnh của mình là mảng thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, lấy lại niềm tin nơi khách hàng. Eximbank đã tạo ra được những dịch vụ mới mạng tính riêng biệt với giá hấp giẫn, chất lượng dịch vụ không ngừng được nâng cao.Từ năm 2004, ngân hàng đã có lãi nhưng tất cả đều trích dự phòng rủi ro. Đến năm 2005, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng là 224 tỷ đồng, sau bù đắp rủi ro dư 19 tỷ đồng ngân hàng đã quyết định chia cổ tức với tỷ lệ là 3,2%. Năm 2006 lợi nhuận tăng lên là 23 tỷ.Với những nỗ lực của mình, tới nay Eximbank đã vượt qua khỏi khó khăn và đang có những bước phát triển mới khả quan. Ngân hàng đã đạt mục tiêu không chỉ lợi nhuận mà còn cả thị phần trên thị trường tài chính .Chậm hơn các ngân hàng khác do gặp phải những khó khăn, trong năm 2007 ngân hàng Eximbank Việt Nam nói chung và ngân hàng Eximbank Hà Nội nói riêng đang cố gắng hết mình để tiến tới hội nhập và phát triển. Đến nay ngân hàng đã thực hiện nhiều dịch vụ, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của khách hàng, hướng tới nghiệp vụ vừa truyền thống vừa hiện đại.
2.1.1.3.Cơ cấu tổ chức
Tổ xử lý thông tin
Phòng Tín Dụng -Đầu Tư
Phòng Dịch vụ khách hàng
Phòng Thanh Toán quốc tế
Phòng Ngân Quỹ
Phòng KD Tổng Hợp
Phòng HC Nhân Sự
Ban giám đốc
Tổ PCCN-Thẩm Định Giá
Tổ Kiểm Tra Nội Bộ
Phòng Giao Dịch Hàng Than
Phòng Giao Dịch Bạch Mai
Sơ đồ 2.1:Cơ cấu tổ chức của ngân hàng
*Ban Giám Đốc
Ban giám đốc Eximbank Hà Nội có nhiệm vụ và quyền hạn điều hành mọi hoạt động của chi nhánh, quản lý tài sản và nhân sự của chi nhánh theo các quy đinh của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam và theo uỷ quyền của Tổng giám đốc Eximbank Việt Nam,chịu trách nhiệm trước Tổng Giám Đốc và trước pháp luật về kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh
*Phòng tín dung – đầu tư:
Là bộ phận quan trọng trong nghiệp vụ sử dụng vốn mang lại hiệu quả phát triển sản xuất,thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tăng tích luỹ.
Phòng tín dụng - đầu tư chia làm nhiều tổ: tổ tín dụng doanh nghiệp,tổ tín dụng cá nhân,tổ cho vay du học ,tổ bảo lãnh…
Nhiệm vụ chung của phòng :
-Nghiên cứu, nắm tình hình thu lượm thông tin kinh tế ,lập hồ sơ kinh tế , phân tích khách hàng và tính toán hiệu quả kinh tế để đầu tư .
-Cho vau theo dõi việc sử dụng vốn va, thu hồi nợ vay,
-Hợp tác liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế để sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả .
-Nghiên cứu các yêu cầu bảo lãnh thanh toán, dự thầu, thực hiện hợp đồng... cho khách hàng .
-Thực hiện công tác tư vấn, cho vay du học .
-Báo cáo các thống kê và phân tích hiệu quả kinh tế về nghiệp vụ tín dụng bảo lãnh và đầu tư.
*Phòng Dich vụ khách hàng
-Tổ chức thực hiện nhiệm vụ kế toán giao dịch trực tiếp với khách hàng theo đúng các quy định.
-Thực hiện việc đóng, mở tài khoản cho khách hàng, thực hiện các giao dịch có liên quan đến tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Eximbank Hà Nội.
-Thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh phát hành có ký quỹ đủ 100%.
-Thực hiện nghiệp vụ rút vốn, lãi các sổ tiết kiệm của Eximbank Hà Nội, hạch toán nghiệp vụ cầm cố sổ tiết kiệm theo yêu cầu của các phòng có liên quan
-Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến dịch vụ kiều hối, bán ngoại tệ đi công tác nước ngoài cho các doanh nghiệp có tài khoản tại ngân hàng Eximbank,bán ngoại tệ phục vụ cho du học sinh .
-Trao đổi, phối hợp với các phòng nghiệp vụ có liên quan để phối hợp công tác nhằm nâng cao hiệu quả công tác kế toán giao dịch của chi nhánh.
* Phòng thanh toán quốc tế.
-Tổ chức thực hiện nghiệp vụ thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu có chứng từ của khách hàng Eximbank Hà Nội theo đúng quy định.
-Thực hiện việc phát hành, tiếp nhận, tu chỉnh, thanh toán L/C, nghiên cứu kỹ các điều khoản, kịp thời phát hiện những điểm không hợp lý để lưu ý đơn vị xuất nhập khẩu tu chỉnh .
-Hướng dẫn đơn vị xuất nhập khẩu lập chứng từ thanh toán cho chính xác, nghiên cứu, tư vấn cho cá đơn vị xuất khẩu, áp dụng linh hoạt phương thức thanh toán có lợi nhất.
-Thực hiện nghiệp vụ chiết khấu chứng từ xuất hàng cho doanh nghiệp theo quy định .
-Thực hiện lệnh thanh toán cho ngân hàng nước ngoài liên quan đến nghiệp vụ thanh toán L/C và nhờ thu của các chi nhánh trong hệ thống Eximbank thưo đề nghị của chi nhánh.
-Thực hiện các thủ tục đòi tiền hàng xuất khẩu với ngân hàng nước ngoài và đối với khách hàng xuất khẩu liên quan tới nghiệp vụ thanh toán xuẩt khẩu.
-Thu các khoản thủ tục phí, điện phí đối với ngân hàng và khách hàng xuất khẩu liên quan tới nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu
-Chuyển tiền thanh toán cho ngân hàng nước ngoài cho các chi nhánh theo L/C ,nhờ thu hàng xuất khẩu.
-Kiểm soát lại các nghiệp vụ liên quan trong khâu đối ngoại trước khi chuyển tiền ra nước ngoài .
*Phòng Ngân quỹ:
Bộ phận thu đổi tiền ,mua bán ngoại tệ tại quầy thu phát tiền ,kiểm đếm tiền và boả quản tiền, các dấy tờ có giá trị.
Nhiệm vụ của phòng là :
-Thực hiện thu chi chính xác kịp thời và quản lý chặt chẽ tiền mặt nội tệ và ngoại tệ, séc và các giấy tờ có giá trị ở kho quỹ, theo dõi tồn quỹ để kịp thời báo cáo với lãnh đạo để có kế hoạch điều chuyển.
-Thực hiện đúng nội quy, chế độ, ghi chép đối chiếu, bảo quản kho quỹ để đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản.
-Ngiên cứu biện pháp chống tiền giả ,theo dõi ngoại tệ đang lưu hành và hết thời hạn lưu hành, phổ biến và hướng dẫn các đơn vị thu ngoại tệ tránh nhầm lẫn thất thoát tài sản.
-Thực hiện các nghiệp vụ mua bán, thu đổi ngoại tệ và VND tại quầy, phòng ngân quỹ bao gồm các tổ giao dịch thu, giao dịch chi, tổ mua bán và thu đổi ngoại tệ, tổ tiết kiệm, tổ kho và kiểm ngân.
*Kinh doanh tổng hợp:
-Thực hiện việc quản lý tài khoản tiền gửi của chi nhánh tai ngan hàng Nhà Nước và các ngân hàng thương mại trong nước.Giao nhận chứng từ, hạch toán các báo cáo đối chiếu, tra soát, theo dõi số dư tài khoản, có kế hoạch điều vốn đảm bảo đủ vốn thanh toán.
-Thực hiện nghiệp vụ thanh toán bù trừ, xử lý, thực hiện các lệnh chuyển tiền nhận từ phiên thanh toán bù trừ và hạch toán .
-Cân đối kế toán hàng ngày, hàng tháng, th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5569.doc