Mở rộng cho vay dự án đầu tư tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Chi nhánh Thủ Đô

LỜI NÓI ĐẦU Trong giai đoạn đất nước đang đi vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cũng như phát triển hội nhập thì việc đầu tư vào các dự án sẽ mang lại lợi nhuận về kinh tế và đảm bảo đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, tăng cường hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước, các tổ chức tài chính-ngân hàng quốc tế đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả cao, ổn định và phát triển bền vững. Nhận thức được điều đó, xu hướng các NHTM

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay dự án đầu tư tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Chi nhánh Thủ Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện nay là đưa hoạt động mở rộng cho vay dự án đầu tư làm hoạt động chủ đạo theo hướng phát triển của Ngân hàng. Hiện nay AGRIBANK bắt đầu tập trung đối tượng vào các doanh nghiệp với các dự án đầu tư mang tầm cỡ quốc gia, vậy nên nghiên cứu mở rộng cho vay theo dự án đầu tư là rất cần thiết, vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa mang lại lợi ích thiết thực cho nhà nước, cũng như nền kinh tế nước nhà. Việc nghiên cứu mở rộng, phát triển hình thức cho vay theo dự án đầu tư, giúp cho ngân hàng có thể tiếp cận được gần hơn với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đồng thời góp phần tạo điều kiện, chứng tỏ được vị thế của mình trong quốc gia cũng như khu vực. Chính vì thế, với mục đích làm sáng tỏ thêm một số bất cập, hạn chế cũng như việc đề ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác cho vay đầy tiềm năng của Ngân hàng, em xin được chọn đề tài: “ Mở rộng cho vay dự án đầu tư tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Thủ Đô” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Phạm vi nghiên cứu đề tài: Quy mô : Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Thủ Đô Thời gian: Là 1 chi nhánh mới được thành lập, nên thời gian nghiên cứu trong vòng gần 2 năm trở lại đây, và kế hoạch cho những năm sắp tới. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày theo 3 chương: Chương I: Tổng quan về dự án đầu tư và cho vay theo dự án đầu tư của Ngân hàng Thương mại. Chương II: Thực trạng mở rộng cho vay theo sự án đầu tư tại NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô. Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay theo dự án đầu tư tại NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô. Thực hiện phương châm giáo dục của Đảng, Nhà trường : “ Học đi đôi với hành, Nhà trường gắn liền với xã hội”. Vì vậy trong quá trình thực tập tìm hiểu thực tiễn vừa qua, em đã tiếp thu được những kiến thức bổ ích về hoạt động mở rộng cho vay dự án đầu tư của NHTM, mà đặc biệt là hoạt động tín dụng tại NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô. Đây cũng là lần đầu tiên tiếp xúc với thực tế nên bài viết của em không tránh khỏi những sai sót, em xin kính mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo và các cô, chú cán bộ tại Chi nhánh để bài viết của em được hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CHO VAY THEO DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Dự án đầu tư : 1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư: - Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian dự án nhằm thu về lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội. - Quản lý đầu tư xây dựng là quản lý Nhà nước về quá trình đầu tư và xây dựng từ bước xác định dự án đầu tư để thực hiện đầu tư và cả quá trình đưa dự án vào khai thác, sử dụng đạt mục tiêu đã định. - Vậy dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. 1.1.2. Đặc điểm và phân loại đầu tư: Một dự án có thể xác định theo nhiều cách. Các dự án có thể là do các bộ ngành hữu quan đề xuất, có thể bắt nguồn từ quá trình xây dựng các kế hoạch kinh tế quốc gia hay các doanh nghiệp tư nhân hoặc nhà nước cũng có các dự án đòi hỏi chính phủ phải trợ giúp hoặc phê chuẩn trước khi thực hiện. Khi thực hiện 1 dự án bao giờ cũng có sự mâu thuẫn tiềm ẩn về lợi ích giữa những người thực hiện dự án và toàn xã hội. Lý do là lợi ích của dự án và các chương trình công cộng chỉ tập trung cho 1 bộ phận dân chúng. Chẳng hạn như, một đập thủy lợi chỉ giúp ích cho một nhóm hộ nông dân trong vùng ảnh hưởng của đập mà thôi. Nói một cách khác, một dự án đầu tư chỉ giúp ích cho một bộ phận cộng đồng nào đó . Những đối tượng nhận biết được lợi ích do dự án mang lại cho mình nên có xu hướng ủng hộ mạnh mẽ. Đồng thời nếu các chi phí của dự án được cung cấp phần lớn bằng tiền ngân sách chung của chính phủ, là kinh phí được phân bố rộng rãi cho toàn xã hội, thì sẽ không có một nhóm người nào thấy mình phải chịu phần lớn gánh nặng chi phí của dự án. Kết quả có thể đoán trước được là những người được hưởng lợi từ dự án có xu hướng tạo thành một nhóm lên tiếng ủng hộ dự án mạnh mẽ, trong khi có nhóm người thua thiệt (là những người gánh chịu chi phí dự án) lại quá phân tán và những mất mát cá nhân trong số họ quá nhỏ, nên họ không thể trở thành đối tượng có hiệu quả để chống lại nhóm đối tượng hưởng lợi mang tính tập trung cao. Nói cụ thể 1 dự án có thể chi phí cao 100% trong khi mức lợi ích chỉ là 50% nếu xét trên toàn xã hội, nhưng nếu nhóm hưởng lợi chỉ chịu 5% mức tổng chi phí của dự án, họ sẽ thấy đó là một dự án vô cùng tốt và sẽ gây áp lực mạnh mẽ để dự án được thực hiện. Chính vì vậy mà chúng ta cần sớm có hệ thống thẩm định dự án tốt nhằm bảo vệ lợi ích của cả quốc gia. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, bởi trên thực tế, cũng có các áp lực ủng hộ dự án và các chương trình phát sinh từ trong bộ máy chính quyền. Các bộ, ngành, chức năng thường đề xuất các dự án và việc họ coi trọng các dự án mà họ nghĩ là phục vụ cho lợi ích chung, cũng là một điều tự nhiên và phụ hợp. Nhưng điều này chưa đủ đảm bảo là các dự án mà họ đề xuất thực sự có hiệu quả về mặt kinh tế xã hội. Chúng ta cần các quy trình thẩm định chính thức, vì hệ thống này sẽ giúp chúng ta tránh được những lựa chọn đầu tư sai lầm. Chỉ có những suy nghĩ ảo tưởng mới khiến chúng ta cho rằng nhiệt tình của các cơ quan trong chính quyền, của các quan chức đối với dự án mà họ xây dựng và đệ trình lại không là nguyên nhân đáng kể, có thể đưa đến sai lầm. Phân loại: Các dự án đầu tư có thể dựa theo các căn cứ sau đây: Căn cứ nguồn tài lực khan hiếm của dự án. Số vốn đầu tư. Sự tác động của các dự án đầu tư khác đến lợi ích thu được từ dự án đầu tư được xem xét. Một dự án có thể tự đứng vững một cách độc lập. Loại dự án khác chỉ có thể thành công khi có thêm các dự án đầu tư khác yểm trợ. Loại thứ 3, các dự án vô tác dụng nếu có các dự án cạnh tranh khác được thông qua. * Dự án đầu tư phụ thuộc vào dự án đầu tư độc lập. - Dự án độc lập về mặt kinh tế: Dự án đầu tư A không phụ thuộc ( độc lập ) dự án B về mặt kinh tế khi thỏa mãn 2 điều kiện: Dự án A phải có tính khả thi về mặt kỹ thuật mặc dù dự án B có được chấp thuận hay không. Lợi ích dự kiến của dự án A không bị chi phối bới sự chấp thuận dự án B hay không Dự án phụ thuộc về mặt kinh tế: Nếu do việc thực hiên dự án 2 mà lợi ích dự kiến của dự án 1 tăng lên thì dự án 2 được coi như là bổ sung cho dự án 1. Nếu do việc thực hiên dự án 2 mà lợi ích dự kiến của dự án 1 giảm xuống thì dự án 2 được coi như là thay thế cho dự án 1. Dự án loại trừ nhau: Trường hợp dự án 1 bị loại hoàn toàn khi dự án 2 được thông qua thì 2 dự án được coi là loại trừ nhau. Hình thức lợi ích thu được: Các lợi ích gia tăng do chi phí thấp( tăng hiệu quả): Bộ phận chức năng liên quan chặt chẽ đến dự án đầu tư: Ví dụ như công ty dầu mỏ có thể phân loại dự án đầu tư theo các hoạt động : Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển,… Phân loại ngành nghề theo lĩnh vực kinh doanh. Mức độ cần thiết của dự án. Phân loại theo quy mô. Tùy theo tính chất, hình thức, quy mô, người ta phân làm 3 nhóm chính A, B, C, và quy định quyền hạn, cấp chính quyền xét duyệt. Dự án tạo thu nhập. Mục tiêu chính của dự án này là tạo ra lợi nhuận. Dự án phát triển. Mục tiêu chính là tạo ra sự phát triển của một vùng, 1 miền, hoặc của 1 quốc gia. Đặc điểm: Các đặc điểm của 1 loại dự án như sau: Dự án là một công việc không thường kỳ: Bảng 1: So sánh dự án với công việc thường nhật: Dự án . Công việc định kỳ. Điều ngoại lệ của các chức năng thông thường. Định rõ trong công việc thường kỳ. Các hoạt động của dự án có liên quan đến nhau. Các hoạt động không liên quan đến nhau. Mục tiêu và hạn chót là cụ thể. Mục tiêu và hạn chót là chung chung. Kết quả ( out put ) phải rõ ràng . Không có kết quả nào được định rõ. Các hoạt động của dự án có liên quan nhau: Các hoạt động của dự án phải liên quan với nhau theo một trật tự thời gian nhất định, chẳng hạn như một công việc chỉ có thể bắt đầu khi một số công việc khác đã kết thúc hoặc có những mốc thời gian của các giai đoạn chính của dự án. Mục tiêu và hạn chót là cụ thể: Một dự án phải có một mục tiêu rõ ràng và cụ thể, hơn nữa nó phải có hạn chót (deadline). Kết quả phải rõ ràng: Các kết quả phải thể hiện rõ các mục tiêu của dự án Ba điều kiện ràng buộc của dự án: Kết quả Thời hạn Ngân sách Phần lớn công sức đều được bỏ ra trong khâu thiết lập dự án hơn là khâu đánh giá các dự án đã thực hiện được. Để thực hiện công tác đánh giá này, chúng ta cần tiến hành đánh giá khâu quản lý hành chính của dự án ngay khi dự án đi vào giai đoạn vận hành. Các cán bộ quản lý giai đoạn vận hành phải hiểu rõ rằng việc thẩm định kỹ lưỡng các kết quả của dự án phải được tiến hành trong suốt thời gian hoạt động của nó. Bằng cách này, các dữ liệu cần thiết có thể được xây dựng thông qua các hoạt động tài chính và kiểm soát thông thường, tạo điều kiện cho việc thẩm định được thực hiện với chi phí thấp nhất. Việc này còn cho chúng ta thấy các biến số quan trọng nhất trong việc thiết kế và thực hiện dự án, nó đã quyết định sự thành công hoặc thất bại của dự án, để sao cho những kinh nghiệm thành công được lặp lại và những kinh nghiệm thất bại bị loại trừ. Đối với dự án đầu tư không thuộc vốn ngân sách nhà nước, thì phải có văn bản thẩm định của các cấp, các ngành liên quan mới được đưa vào hoạt động. Đây là những dự án mở rộng, nhà nước không thể dừng thanh toán hay thu hồi vốn thanh toán cho dự án. Và các chủ đầu tư phải chịu mọi trách nhiệm về hậu quả của dự án khi dự án đi vào hoạt động. Bởi vậy dự án không thuộc vốn ngân sách nhà nước cũng phải chịu sự thẩm định, giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng nên khi đi vào hoạt động sẽ không chịu các điều kiện ràng buộc về thời gian mà chỉ chịu các điều kiện về kết quả và vốn đầu tư. 1.2. Cho vay theo dự án đầu tư. 1.2.1. Khái niệm cho vay theo dự án đầu tư: Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định… nhằm thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án ( sản xuất kinh doanh ). Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Vậy: Cho vay theo dự án đầu tư là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu vốn, thực hiện các dự án đầu tư mới, dự án mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đầu tư dây chuyền sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, văn phòng làm việc, xây dựng di dời nhà xưởng sản xuất vào Khu chế xuất – Khu công nghiệp…, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. * Xác định số tiền cho vay: Số tiền cho vay = Tổng mức đầu tư của dự án – Vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự có tham gia – Nguồn vốn huy động khác. 1.2.2. Các nguyên tắc và căn cứ cho vay: * Nguyên tắc: Khi khách hàng vay vốn của Ngân hàng phải đảm bảo các nguyên tắc sau: - Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. - Phải hoàn trả nợ gốc và tiền lãi theo đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. * Căn cứ cho vay: Thông qua các phương pháp phân tích tài chính dự án để đánh giá hiệu quả của dự án đó là các chỉ số NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, tỷ suất thu nhập bình quân… Ngân hàng có thể kiểm soát được hoạt động cũng như tính khả thi của dự án để quyết định việc cho vay dự án. Bên cạnh việc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá thích hợp, ngân hàng đặc biệt quan tâm tới thời gian và các nguồn có thể dùng để trả nợ ngân hàng. Do vậy, trong những trường hợp không phải là dự án mới – tạo pháp nhân mới – ngân hàng luôn phân tích tài chính của người vay kết hơp với phân tích dự án. Một doanh nghiệp có tình hình tài chính mạnh là cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay để thực hiện dự án. Các nguồn thu khác của người vay có thể sẽ trở thành nguồn trả nợ cho ngân hàng bên cạnh nguồn thu dự án. Nhu cầu đầu tư theo dự án = Nhu cầu đầu tư + Nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định vào tài sản lưu động Nhu cầu đầu tư này được tính dựa trên tổng hợp các chi phí xây dựng, giải phóng mặt bằng, mua và lắp đặt các thiết bị,… và các tài sản lưu động dự trữ cần thiết để bắt đầu quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, khách hàng có thể lập kế hoạch vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động. Sau khi phân tích nhu cầu vốn đầu tư của người vay, ngân hàng sẽ xem xét kỹ lưỡng các nguồn vốn tài trợ như nguồn tự có, chiếm dụng của người cung cấp, vay các tổ chức tín dụng khác,… Ngân hàng phân tích các yêu tố sau: Quy mô và thời hạn của mỗi nguồn. Tính khả thi của mỗi nguồn và các điều kiện để dự án tiếp cận được nguồn. Nhiều nguồn tài trợ được thực hiện dưới hình thái hiện vật, ví dụ, vốn góp dưới hình thức quyền sở hữu công nghệ, quyền sử dụng đất, mặt nước, rừng, quyền khai thác, nhà xưởng, thiết bị có sẵn, … Việc tính giá trị các loại tài sản này rất phức tạp, tuy nhiên là rất cần thiết đối với ngân hàng. Trong nhiều trường hợp, các tài sản góp này sẽ trở thành vật thế chấp cho ngân hàng. Một số nguồn tài trợ có thể có thời gian không dài như tín dụng thương mại ( mua trả chậm thiết bị ). Người cung cấp có thể bán trả chậm trong một vài năm. Người vay phải trả khi mà các máy móc này mới chỉ hoạt động trong thời gian ngắn. Kế hoạch trả nợ này ảnh hưởng trực tiếp đến thu nợ của ngân hàng. Các nguồn tài trợ đều gắn với những điều kiện nhất định như vốn Nhà nước cấp phụ thuộc vào kế hoạch và khả năng chi của ngân sách Nhà nước; khoản tài trợ để mua thiết bị chỉ được thực hiện khi nhà xưởng đã xây xong… Nếu ngân hàng là người cấp tín dụng duy nhất, trong trường hợp quy mô tín dụng lớn, rủi ro của ngân hàng sẽ rất cao. Việc có nhiều bên tham gia cấp tín dụng sẽ san sẻ rủi ro cho ngân hàng, song lại đòi hỏi ngân hàng phải phân tích kỹ các nguồn và chủ tài trợ. Ngân hàng tính toán quy mô tín dụng như sau: Tín dụng của NH = Nhu cầu đầu tư – Các nguồn khác tham gia tài trợ. Trong trường hợp để hạn chế rủi ro, ngân hàng có thể yêu cầu tài sản đảm bảo và cho vay dựa trên giá trị của tài sản đảm bảo. Tín dụng của NH = Giá trị tài sản thế chấp x Tỷ lệ ngân hàng tham gia. Tín dụng của ngân hàng có thể bao gồm cả cho vay, cho thuê, bảo lãnh cả ngắn, trung và dài hạn. Thời điểm tài trợ của ngân hàng cũng rất khác nhau, có thể tài trợ ngay từ đầu để người vay thực hiện xây dựng cơ sở vật chất, hoặc bảo lãnh để nhập thiết bị, hoặc cho vay để trả cho người trả chậm, cho vay ứng trước phần vốn của Nhà nước cấp. Trong trường hợp ngân hàng yêu cầu phải có tài sản đảm bảo ( tài sản loại 1 ), ngân hàng có thể quyết định phần tài trợ của mình theo giá trị của tài sản đảm bảo. Ngoài ra ngân hàng còn đề ra các căn cứ để phát tiền vay: Hợp đồng tín dụng. Hợp đồng và chứng từ cung ứng vật tư, thiết bị, công nghệ, dịch vụ… Biên bản xác nhận giá trị khối lượng công trình hoàn thành ( đã được nghiệm thu từng hạn mục hoặc toàn bộ công trình ) hoặc các văn bản xác nhận tiến độ thực hiện dự án. Mỗi lần nhận tiền vay, khách hàng phải ký giấy nhận nợ Trong trường hợp thời gian chưa vay được vốn ngân hàng, khách hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí theo dự án được duyệt thì ngân hàng có thể xem xét cho vay bù đắp nguồn vốn đã sử dụng trước. Trường hợp hết thời gian giải ngân theo lịch đã thỏa thuận ban đầu mà khách hàng chưa sử dụng vốn vay ghi trong hợp đồng tín dụng, nếu khách hàng đề nghị thì ngân hàng có thể xem xét, thỏa thuận và ký kết bổ sung hợp đồng tín dụng tiếp tục phát tiền vay phù hợp với tiến độ thi công cụ thể Ngân hàng và doanh nghiệp thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mức phí cam kết sử dụng tiền vay trong trường hợp doanh nghiệp không sử dụng hết mức vốn vay đã thỏa thuận. 1.2.3. Quy trình cho vay: Đối tượng cho vay: Tất cả các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ hoặc các dự án đầu tư phục vụ đời sống, trừ những nhu cầu vốn không được cho vay và hạn chế như sau: Mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi. Thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm. Đáp ứng nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật cấm. Ngoài ra, mọi tổ chức kinh tế có dự án đầu tư phù hợp đều được xem xét, thẩm định và đưa ra các quyết định cho vay như: Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị kinh doanh có giấy phép đăng ký kinh doanh; Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty hợp doanh. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và cơ quan, đơn vị trực thuộc các tổ chức trên. b. Quy trình và thời gian xét duyệt cho vay: Cán bộ tín dụng được phân công giao dịch với khách hàng có nhu cầu vay vốn có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn và tiến hành thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định. Trưởng phòng tín dụng hoặc tổ trưởng tín dụng có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ và báo cáo thẩm định do cán bộ tín dụng lập, tiến hành xem xét, tái thẩm định (nếu cần thiết) hoặc trực tiếp thẩm định trong trường hợp kiêm làm cán bộ tín dụng, ghi ý kiến vào báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) và trình giám đốc quyết định. Giám đốc NH nơi cho vay căn cứ báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) do phòng tín dụng trình, quyết định cho vay hoặc không cho vay: + Nếu cho vay thì NH nơi cho vay cùng khách hàng lập hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay (trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản); + Khoản vay vượt quyền phán quyết thì thực hiện theo quy định hiện hành của NHNN Việt Nam; + Nếu không cho vay thì thông báo cho khách hàng biết. Hồ sơ khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay đựơc chuyển cho kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán kế toán, thanh toán, chuyển thủ quỹ để giải ngân cho khách hàng (nếu cho vay bằng tiền mặt). Bộ hồ sơ vay vốn bao gồm: Giấy đề nghị vay vốn; Dự án vay vốn trả nợ; Hồ sơ pháp lý; Hồ sơ về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; Hồ sơ về tài sản đảm bảo; Các loại hồ sơ khác,... 1.3. Mở rộng cho vay theo dự án đầu tư. 1.3.1. Khái niệm về mở rộng cho vay theo dự án đầu tư: Mở rộng cho vay theo dự án đầu tư là các phương thức, đề xuất, giải pháp nhằm phát triển các hoạt động cho vay dự án của ngân hàng đối với các doanh nghiệp. Từ đó có thể tăng doanh số cũng như quy mô và địa bàn hoạt động cho vay của Ngân hàng. Việc mở rộng cho vay theo dự án đầu tư cũng góp phần tăng lượng khách hàng tiềm năng và hỗ trợ tài chính cho các Doanh nghiệp thực hiện đầu tư các dự án mới, các dự án nâng cấp, mở rộng sản xuất kinh doanh; Giúp các Doanh nghiệp thuận lợi trong việc triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Ngoài việc quy định cụ thể hơn các khoản cho vay phục vụ đời sống được áp dụng lãi suất thỏa thuận, Ngân hàng Nhà nước cũng mở rộng hơn cơ chế cho vay nội tệ với cả các khoản vay trung và dài hạn nhắm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển. Việc mở rộng cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận là giải tỏa ách tắc nguồn vốn cho nền kinh tế. Thời gian qua do vướng trần lãi suất cho vay nên dẫn đến chuyện ngân hàng thu phí cho đủ sở hụi gây méo mó trong hoạt động tín dụng. Thêm vào đó do bị vướng trần lãi suất huy động nên các ngân hàng khó thu hút nguồn tiền gửi tiết kiệm dẫn đến nguồn vốn cho vay bị hạn hẹp. Với quyết định cho vay với lãi suất thỏa thuận đầu ra của đồng vốn trung, dài hạn đã được tháo gỡ. Cùng với quyết định cho vay theo lãi suất thỏa thuận Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng xác định và kiểm soát các giới hạn tín dụng đối với một khách hàng và lĩnh vực cho vay để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Quyết định này hay hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận với các nhu cầu vay vốn phục vụ đời sống và quy định về lãi suất đối với các khoản vay trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh đã ban hành trước đó. Đây được xem là một điều kiện tốt cho các ngân hàng, vì có cơ hội để tăng trưởng dư nợ đối với khoản vay trung, dài hạn. Song, chưa hết mừng, các ngân hàng đã vội lo. Vì thực tế, để huy động được nguồn vốn trung, dài hạn trong bối cảnh hiện nay không dễ, trong khi theo quy định, NHTM chỉ được sử dụng 30% vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay theo dự án đầu tư. Theo truyền thống, việc mở rộng đầu tư các dự án thông thường được đánh giá dựa trên chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV). Phương pháp đánh giá dự án đầu tư dựa vào chỉ tiêu NPV bao gồm hai bước chủ yếu: Xác định các dòng tiền kỳ vọng của dự án. Tính toán giá trị hiện tại ròng của dự án dựa trên một tỷ suất chiết khấu được điều chỉnh theo rủi ro. Dự án sẽ được tiến hành nếu NPV > 0. Công thức: Trong đó: CFt: Dòng tiền ròng năm thứ t. k: Lãi suất chiết khấu. n: Số năm thực hiện. Ưu điểm: Tính đến giá trị thời gian của tiền. Cho biết lợi nhuận của dự án đầu tư và giúp doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận Nhược điểm: NPV không cho biết khả năng sinh lời tính bằng tỷ lệ phần trăm nên không thuận tiện cho việc so sánh cơ hội đầu tư. NPV không quan tâm đến sự khác biệt về thời gian hoạt động của các dự án nên việc lựa chọn dự án có NPV lớn nhất sẽ không được chính xác. NPV dùng chung 1 lãi suất chiết khấu cho tất cả các năm hoạt động của dự án nhưng tỷ lệ chiết khấu luôn thay đổi theo sự thay đổi của các yếu tố kinh tế - xã hội. Không thấy được giá trị lợi ích thu được từ một đồng vốn đầu tư. Phương pháp này khó tính toán vì đòi hỏi phải xác định chính xác chi phí vốn. Một hạn chế nữa của phương pháp này là: quy tắc NPV giả thiết doanh nghiệp sẽ quản trị dự án một cách thụ động, không tính đến khả năng doanh nghiệp có thể điều chỉnh dự án khi phải đối mặt với tình huống không chắc chắn, ví dụ: nên mở rộng hay thu hẹp quy mô của dự án, nên lựa chọn thời điểm đầu tư nào là thích hợp, nên tiếp tục duy trì hay từ bỏ dự án .v.v. Nói cách khác, quy tắc NPV không phản ánh được tính linh động trong quản trị mà doanh nghiệp có thể có trong quá trình đầu tư. Mặc dù có những phương pháp phân tích hỗ trợ thêm để giúp cho các nhà quản trị tài chính có thể đánh giá dự án trong trường hợp không chắc chắn, chẳng hạn như phân tích tình huống, phân tích độ nhạy, mô phỏng Monte Carlo, các phương pháp này vẫn không tính đến những cơ hội cho phép doanh nghiệp điều chỉnh dự án khi tình hình thực tế có sự thay đổi. Trong thực tế, mỗi dự án đầu tư thường kèm theo nhiều lựa chọn, cho phép các doanh nghiệp có thể linh động trong quá trình đầu tư khi họ đã có những thông tin chính xác hơn về những dự báo liên quan đến dự án. Cân nhắc những lựa chọn này khi đánh giá dự án có thể giúp cho doanh nghiệp có quyết định đúng đắn hơn khi đầu tư. Chỉ tiêu suất thu hồi nội bộ - IRR. IRR chính là 1 lãi suất r% mà nếu ta dùng lãi suất này để chiết khấu dự án thì sau n năm, tức hết thời hạn đầu tư dự án đã tự nó hoàn vốn và không lãi, không lỗ. Lãi suất này không phải do chủ đầu tư lựa chọn mà bản thân dự án tự cân đối đã có, nghĩa là đã khách quan hơn. IRR còn được sử dụng để đo lường, sắp xếp các dự án có triển vọng theo thứ tự, từ đó khiến cho công ty có thể dễ dàng hơn trong việc cân nhắc nên thực hiện dự án nào. Nếu giả định rằng tất cả các yếu tố khác của các dự án là như nhau thì dự án nào có tỉ suất hoàn vốn nội bộ cao nhất thì dự án đó có thể được ưu tiên thực hiện đầu tiên. IRR đôi khi còn được gọi là tỉ suất hoàn vốn kinh tế ERR (economic rate of return). Cách xác định: Trong đó: k1: Lãi suất chiết khấu ứng với NPV dương gần tới 0. k2: Lãi suất chiết khấu ứng với NPV âm gần tới 0. NPV1: Giá trị hiện tại ròng ứng với lãi suất chiết khấu k1. NPV2: Giá trị hiện tại ròng ứng với lãi suất chiết khấu k2. Ưu điểm: Có tính đến giá trị thời gian của tiền Phương pháp IRR cho biết khả năng sinh lời của dự án tính bằng tỷ lệ phần trăm vì vậy thuận tiện cho việc so sánh các cơ hội đầu tư. Nhược điểm: IRR có thể cho kết quả sai lệch nếu như có hai hoặc nhiều dự án loại trừ nhau đem so sánh vì IRR không xét đến quy mô dự án đầu tư. Do không tính toán trên cơ sở chi phí vốn của dự án, phương pháp IRR có thể dẫn đến nhận định sai về khả năng sinh lời của dự án. Phương pháp IRR có thể mâu thuẫn với phương pháp NPV khi chi phí vốn thay đổi. Phương pháp IRR có thể gặp vấn đề về giá trị. Có thể coi IRR là tốc độ tăng trưởng mà một dự án có thể tạo ra được. Vì tỉ lệ hoàn vốn nội bộ thực tế của một dự án khi thực hiện xong luôn khác với tỉ lệ ước tính nên một dự án có tỉ lệ IRR tương đối cao so với các dự án khác thì vẫn có khả năng sẽ tạo ra tăng trưởng cao hơn. Ý nghĩa quan trọng nhất của IRR là lãi suất phân biệt vùng lời và vùng lỗ của dự án trong thời hạn đầu tư, nếu dự án phải gánh chịu 1 lãi suất lớn hơn IRR thì dự án đã lỗ. IRR là một chỉ số thường xuyên được sử dụng. Nhưng vì chỉ sử dụng một tỉ lệ chiết khấu duy nhất trong việc tính toán IRR nên sẽ có nhiều tình huống ảnh hưởng tới IRR. Nếu một nhà đầu tư tiến hành định giá hai dự án, cả hai đều sử dụng chung một tỉ suất chiết khấu, cùng dòng tiền ước tính, cùng chịu rủi ro  như nhau và thời gian thực hiện ngắn, IRR có thể là một chỉ số hiệu quả. Nhưng vấn đề là ở chỗ tỉ suất chiết khấu luôn thay đổi theo thời gian. Ví dụ sử dụng lãi suất trái phiếu kho bạc làm tỉ suất chiết khấu. Mức lãi suất này có thể thay đổi từ 1% đến 20% trong vòng 20 năm, do đó dẫn đến sai lệch trong tính toán. Thời gian hoàn vốn. Thời gian hoàn vốn T là thời gian cần thiết để có thể hoàn trả lại đủ vốn đầu tư bỏ ra, tức là thời gian cần thiết để cho tổng hiện giá của thu hồi vừa bằng tổng hiện giá của vốn đầu tư. Thông thường, tâm lí của nhà đầu tư đều muốn thời gian hoàn vốn ngắn. Thời gian hoàn vốn là công cụ đơn giản nhất và dễ áp dụng nhất đối với tất cả các cá nhân, bất kể là người làm nghiên cứu hay người kinh doanh. Tuy vậy thời gian hoàn vốn được coi là công cụ phân tích có nhiều hạn chế trong việc ứng dụng, bởi vì nó không tính đến Giá trị thời gian của dòng tiền, rủi ro hay các yếu tố khác như chi phí cơ hội. Điểm hòa vốn – BEP Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó, doanh thu ngang bằng với chi phí, tức là giao điểm giữa hàm doanh thu và hàm chi phí. Hay nói cách khác, tại điểm hòa vốn doanh nghiệp bắt đầu thu được lợi nhuận. Xác định được điểm hòa vốn nhằm: Thiết lập một mức giá hợp lý. Đạt mục tiêu hiệu quả nhất trong khi kết hợp giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi. Để xác định thu hút và phân bổ tài chính trong các chiến lược khác nhau trong doanh nghiệp. Được sử dụng trong phân tích tính hiệu quả của dự án kinh doanh. Ưu điểm: - Cho biết doanh nghiệp cần sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu sản phẩm hoặc sau bao nhiêu thời gian thì bù đắp được những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra hoặc đạt được lợi nhuận theo dự kiến. Từ đó có thể đề ra các biện pháp để tránh rủi ro và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Trên cơ sở phân tích hòa vốn vó thể lựa chọn các phương án sản xuất khác nhau hoặc đưa ra các quyết định có tính chiến lược lâu dài cho doanh nghiệp. Nhược điểm: - Hầu hết các chi phí trong doanh nghiệp đều rất phức tạp và không thể phân chia một cách hoàn toàn rành mạch thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. Vì vậy, việc phân tích hòa vốn sẽ gặp nhiều khó khăn. - Phân tích hòa vốn không quan tâm đến giá trị thời gian của tiền. Chẳng hạn, chi phí cố định có thể được phân bổ trước khi tính toán các chi phí biến đổi và trước khi tạo ra thu nhập. Khi phân tích hòa vốn trong những khoảng thời gian ngắn, việc bỏ qua giá trị thời gian của tiền thường ít ảnh hưởng, nhưng nếu phân tích trong một khoảng thời gian dài, chi phí và doanh thu phải được thể hiện dưới hình thức giá trị hiện tại. Điều này đòi hỏi phải áp dụng hình thức phân tích độ nhạy với yêu cầu tính chính xác cao và với mức doanh thu mà tại đó NPV > 0. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay theo dự án đầu tư. 1.4.1. Nhân tố chủ quan. - Quy mô, mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch và uy tín của ngân hàng Quy mô, mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch và uy tín của ngân hàng có ảnh hưởng quan trọng tới cho vay dự án đầu tư. Nếu ngân hàng có quy mô lớn, lượng vốn huy động cao, có mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch rộng, uy tín của ngân hàng cao thì khả năng phát triển cho vay dự án đầu tư của ngân hàng cao và ngược lại một ngân hàng co quy mô nhỏ uy tín thấp thì việc mở rộng cho vay dự án đầu tư tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và rất khó cạnh tranh được với các ngân hàng khác. Công nghệ và trình độ quản lý của ngân hàng Công nghệ ngân hàng và khả năng quản lý có tác động tới hoạt động cho vay dự án đầu tư. Một ngân hàng có công nghệ hiện đại, thủ tục cho vay nhanh chóng, chính xác thì việc thẩm định cũng như cho vay sẽ thuận lợi hơn. Từ đó tạo điều kiện duy trì và thu hút thêm nhiều khách hàng mới cho ngân hàng Chính sách định hướng phát triển của ngân hàng Định hướng phát triển của ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển cho vay dự án đầu tư, từ đó quyết định các chính sách phù hợp để có thể thu được kết quả tốt nhất. Nếu định hướng của ngân hàng là phát triển cho vay dự án đầu tư thì hoạt động của ngân hàng cần chú ý đến các chính sách khách hàng, quy mô và giới hạn tín dụng của khách hàng, lãi suất, thời hạn tín dụng, tài sản đảm bảo… Cho vay theo dự án đầu tư là hướng đi mà nhiều ngân hàng đang hướng tới và đặt làm hướng cho vay chính trong giai đoạn hiện nay bởi nền kinh tế thế giới đang phục hồi và phát triển, nhu cầu xây dựng, đầu tư các dự án phục vụ đời sống cũng tăng theo. Chính vì thế phát triển cho vay theo dự án đầu tư đang là hướng đi mang lại nguồn lợi đáng kể cho các ngân hàng trong giai đoạn này. Tuy nhiên cho vay theo dự án đầu tư luôn hàm chứa rủi ro cao bởi lượng vốn cho vay thường là rất lớn, do đó ngân hàng cần có chính sách hợp lý để đồng thời mở rộng được hoạt động cho vay dự án đầu tư và đảm bảo an toàn tín dụng. 1.4.2. Nhân tố khách quan. - Môi trường kinh tế, thị trường, đối thủ cạnh tranh,… Một môi trường tốt đảm bảo sự tin cậy đối với các ._.doanh nghiệp có dự án đầu tư. Đồng thời trong bối cảnh Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực, việc thực thi Luật cạnh tranh và duy trì môi trường cạnh tranh sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam, đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, nền kinh tế và người tiêu dùng, tạo cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khi tham gia cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử. - Tính khả thi của dự án: Dự án đầu tư là căn cứ quan trọng nhất để quyết định việc bỏ vốn đầu tư, là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư. - Hệ thống pháp luật nhà nước: Nhà nước ban hành Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Thuế, … và ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành các Luật trên đồng thời với các ván bản dưới Luật khác, nhằm khuyến khích đầu tư, mặt khác đảm bảo thu hút vốn đầu tư vào các dự án, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Nền kinh tế nước ta vẫn giữ mức tăng trưởng nhanh, sự phát triển của các ngành kinh tế tạo nhu cầu và thị trường lớn hơn cho ngành công nghiệp Điện cả quy mô và phạm vi. Công cuộc đổi mới gắn liền với những cơ chế quản lý mới của nền kinh tế, trong đó, các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh đã tạo được nguồn nội lực làm khả năng tự đầu tư được đảm bảo. Chủ trưởng đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thời gian vừa qua không những chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, mà đã thực sự tạo khả năng huy động vốn tốt hơn cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng. Đây là những nhân tố quan trọng tạo môi trường kích thích việc đa dạng hóa huy động vốn đầu tư các dự án ở nước ta. - Sự phát triển của thị trường tài chính: Với hai dòng tài chính trực tiếp và gián tiếp, thị trường tài chính là nơi mà các dự án đầu tư có thể được huy động vốn với các kỳ hạn và cách thức khác nhau phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu một thị trường tài chính phát triển, thì đó là điều kiện thuận lợi tạo cho các doanh nghiệp có nhiều cơ hội lựa chọn và khai thác nguồn vốn phù hợp với đặc điểm hoạt động của mình. Một thị trường tài chính phát triển đòi hỏi phải có hệ thống thông tin được công khai trên thị trường, phải phát triển cạnh tranh trên cơ sở có sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ thích hợp. Ở Việt Nam, thị trường tài chính đã và đang phát triển, góp phần cung ứng vốn cho hoạt động của các ngành kinh doanh, cũng như trong việc thu hút các nhà đầu tư tham gia thị trường. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính quốc tế phát triển là nơi cung ứng vốn cho ngành tốt nhất để phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế có tác dụng kích thích Việt Nam phát triển, nền kinh tế Việt Nam chuyển nhanh sang nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh doanh phải tuân theo quy luật của thị trường. Nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập nền kinh tế thế giới, trong đó thị trường tiền tệ và thị trường vốn cũng đang phát triển và đây là điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa huy động vốn để phát triển mở rộng đầu tư các dự án. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và thực sự đã hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thị trường vốn quốc tế có quy mô lớn là một cơ hội cho đầu tư phát triển. Xu thế phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập kinh tế thế giới: Hội nhập kinh tế thế giới đưa nền kinh tế của đất nước gắn kết với nền kinh tế của thế giới, là một phần của nền kinh tế thế giới. Việc mở rộng thị trường sẽ giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào nước ta, cũng như các doanh nghiệp nước ta hướng đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh tốt, phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Việc hội nhập sẽ đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút được một lượng lớn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy mới chỉ gia nhập được 3 năm nhưng Việt Nam cũng đã khẳng định được vị thế của mình, không thể so sánh được với sự thần kỳ kinh tế của Nhật Bản trong những năm 1960, sự trỗi dậy kinh tế đầy ngoạn mục của Hàn Quốc trong những năm 1970-1980 và sự tăng trưởng kinh tế vũ bão của Trung Quốc vào những thập niên cuối thế kỷ XX, nhưng những gì mà chúng ta đã đạt được cũng đã là một sự thay đổi lớn lao. Mức sống, nhu cầu đòi hỏi của dân cư. Đất nước phát triển sẽ kéo theo đời sống của người dân được nâng cao, những nhu cầu, đòi hỏi về ăn ở, đi lại cũng sẽ tăng. Việc đầu tư các dự án xây dựng, dịch vụ nhằm phục vụ nhu cầu đòi hỏi của con người cũng là một hướng đi đúng đắn. Một môi trường kinh tế xã hội phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao và ổn định là tiền đề quan trọng cho phát triển cho vay dự án đầu tư. Đặc điểm thị trường nơi Ngân hàng hoạt động cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cho vay dự án. Nó bao gồm rất nhiều yếu tố trong đó như mức thu nhập của dân cư, trình độ học vấn, đạo đức,… Tất cả những yếu tố trên đều tác động đến khả năng phát triển cho vay dự án đầu tư. Khả năng thu thập thông tin. Hiện nay, trình độ khoa học phát triển, thông tin ngày càng được thu thập và cập nhật một cách nhanh chóng và chính xác. Nắm bắt được yếu tố này cũng sẽ giúp cho Ngân hàng có những bước đi đúng đắn trong việc tìm kiếm cũng như quyết định cho vay dự án đầu tư một cách có hiệu quả và hạn chế được thấp nhất những rủi ro. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO VAY THEO DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NHNN&PTNT CHI NHÁNH THỦ ĐÔ 2.1. Giới thiệu NTNN&PTNT chi nhánh Thủ Đô. Đôi nét về NHNN&PTNT Việt Nam Năm 1988: Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp hình thành trên cơ sở tiếp nhận từ Ngân hàng Nhà nước: tất cả các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện, Phòng Tín dụng Nông nghiệp, quỹ tiết kiệm tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp TW được hình thành trên cơ sở tiếp nhận Vụ Tín dụng Nông nghiệp Ngân hàng Nhà nước và một số cán bộ của Vụ Tín dụng Thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Vụ Kế toán và một số đơn vị. Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ký Quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thay thế Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp là Ngân hàng thương mại đa năng, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật. Ngày 01/03/1991 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 18/NH-QĐ thành lập Văn phòng đại diện Ngân hàng Nông nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và ngày 24/6/1994, Thống đốc có văn bản số 439/CV-TCCB chấp thuận cho Ngân hàng nông nghiệp được thành lập văn phòng miền Trung tại Thành phố Quy Nhơn - tỉnh Bình Dịnh. Ngày 22/12/1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 603/NH-QĐ về việc thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp các tỉnh thành phố trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp gồm có 3 Sở giao dịch (Sở giao dịch I tại Hà Nội và Sở giao dịch II tại Văn phòng đại diện khu vực miền Nam và Sở giao dịch 3 tại Văn phòng miền Trung) và 43 chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tỉnh, thành phố. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp quận, huyện, thị xã có 475 chi nhánh. Năm 1993  Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam ban hành quy chế thi đua khen thưởng tạo ra những chuẩn mực cho các cá nhân và tập thể phấn đấu trên mọi cương vị và nhiệm vụ công tác. Tổ chức được hội nghị tổng kết toàn quốc có các giám độc chi nhánh huyện suất sắc nhất của tỉnh thành phố. Ngày 30/7/1994 tại Quyết định số 160/QĐ-NHN9, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận mô hình đổi mới hệ thống quản lý của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, trên cơ sở đó, Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cụ thể hóa bằng văn bản số 927/TCCB/Ngân hàng Nông nghiệp ngày 16/08/1994 xác định: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam có 2 cấp: Cấp tham mưu và Cấp trực tiếp kinh doanh. Đây thực sự là bước ngoặt về tổ chức bộ máy của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam và cũng là nền tảng cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sau này. Ngày 7/3/1994 theo Quyết định số 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ , Ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam hoạt động heo mô hình Tổng công ty Nhà nước với cơ cấu tổ chức bao gồm Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc, bọ máy giúp việc bao gòm bộ máy kiểm soát nội bộ, các đơn vị thành viên bao gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc, hạch toán độc lập, đơn vị sự nghiệp, phân biệt rõ chức năng quản lý và chức năng điều hành, Chủ tịch Hội đồng quản trị không kiêm Tổng Giám đốc. Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, hoạt động theo Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam, đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (AGRIBANK) hiện là Ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế Việt Nam.. AGRIBANK là ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ CBNV, màng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Đến tháng 3/2007, vị thế dẫn đầu của AGRIBANK vẫn được khẳng định với trên nhiều phương diện: Tổng nguồn vốn đạt gần 267.000 tỷ đồng, vốn tự có gần 15.000 tỷ đồng; Tổng dư nợ đạt gần 239.000 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu theo chuẩn mực mới, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là 1,9%. AGRIBANK hiện có hơn 2200 chi nhánh và điểm giao dịch được bố chí rộng khắp trên toàn quốc với gần 30.000 cán bộ nhân viên. AGRIBANK luôn là ngân hàng luôn chú trọng đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển màng lưới dịch vụ ngân hàng tiên tiến. AGRIBANK là ngân hàng đầu tiên hoàn thành giai đoạn 1 Dự án Hiện đại hóa hệ thông thanh toán và kế toán khách hàng (IPCAS) do Ngân hàng Thế giới tài trợ và đang tích cực triển khai giai đoạn II của dự án này. Hiện AGRIBANK đã vi tính hoá hoạt động kinh doanh từ Trụ sở chính đến hầu hết các chi nhánh trong toàn quốc; và một hệ thống các dịch vụ ngân hàng gồm dịch vụ chuyển tiền điện tử, dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, dịch vụ ATM, dịch vụ thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT. Đến nay, AGRIBANK  hoàn toàn có đủ năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, tiện ích cho mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước. Là ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam trong việc tiếp nhận và triển khai các dự án nước ngoài, đặc biệt là các dự án của WB, ADB, AFD. Các dự án nước ngoài đã tiếp nhận và triển khai đến cuối tháng 2/2007 là 103 dự án với tổng số vốn trên 3,6 tỷ USD, số vốn qua NHNo là 2,7 tỷ USD, đã giải ngân được 1,1 tỷ USD. Với vị thế là ngân hàng thương mại hàng đầu Việt nam, AGRIBANK  đã nỗ lực hết mình, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, đóng góp to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế của đất nước. Lịch sử ra đời của NHNN&PTNT chi nhánh Thủ Đô Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Thủ Đô được thành lập theo quyết định số 1445/QĐ – HĐQT – TCCB ngày 20/11/2008. Trước kia NHNN&PTNT chi nhánh Thủ Đô tiền thân là NHNT&PTNT Bùi Thị Xuân được thành lập vào ngày 01/04/2008, tách ra từ NHNN&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội. Sau đó chính thức đổi tên như hiện nay vào ngày 22/12/2008 với Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Thủ Đô. Trụ sở chính : Số 91 - Phố Huế - Quận Hai Bà Trưng – Thủ đô Hà Nội Tuy mới thành lập vào tháng 04/2008 và phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nhưng NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô đã thiết lập được mối quan hệ sâu sắc với khách hàng trên địa bàn và 1 số vùng lân cận. Đó chính là nền tảng để Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh vươn lên khẳng định vị thế của NHNN&PTNT trên thị trường và để xứng đáng với danh hiệu là : “Doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam” Công tác tổ chức của NHNN&PTNT chi nhánh Thủ Đô Chỉ mới đi vào hoạt động được hơn 1 năm và còn gặp rất nhiều khó khăn về nhân sự, cán bộ nhân viên chi nhánh kinh nghiệm kinh doanh chưa nhiều nhưng, với phương châm vừa học vừa làm, đội ngũ cán bộ nhân viên đã không ngừng nâng cao trình độ, tiếp cận thị trường, đưa NHNN&PTNT chi nhánh Thủ Đô từng bước phát triển theo mô hình tổ chức của ngân hàng hiện đại. Căn cứ vào hoạt động thực tế, hoạt động kinh doanh của ngân hàng bộ máy tổ chức của ngân hàng được sắp xếp. Tính đến nay, toàn bộ chi nhánh có 65 cán bộ công nhân viên chức( không kể nhân viên làm hợp đồng). Trong đó có 4 đồng chí có trình độ Thạc sỹ và còn lại có trình độ Đại học. Làm việc tại trụ sở chính và 4 phòng giao dịch trên địa bàn Hà Nội cụ thể là: Phòng giao dịch số 8 Phòng giao dịch số 9 Phòng giao dịch Bùi Thị Xuân Phòng giao dịch Hai Bà Trưng Trụ sở chính tập trung đông nhất cán bộ nhân viên của toàn chi nhánh làm việc tại các phòng như là: Phòng kế hoạch kinh doanh ( Phòng tín dụng) Phòng kế toán ngân quỹ Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ Phòng hành chính vv… Chức năng nhiệm vụ các phòng ban BAN GIÁM ĐỐC QUAN HỆ KHÁCH HÀNG QUỸ TIẾT KIỆM VĂN PHÒNG PHÒNG BAN THUỘC HỘI SỞ CHI NHÁNH TRỰC THUỘC PHÒNG QUẢN LÝ RỦI RO PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 8 PHÒNG TÍN DỤNG PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 9 PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ TOÁN PHÒNG GIAO DỊCH BÙI THỊ XUÂN PHÒNG DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG PHÒNG TỔ CHỨC NHÂN SỰ PHÒNG GIAO DỊCH HAI BÀ TRƯNG PHÒNG KẾ HOẠCH TỔNG HỢP PHÒNG THANH TOÁN QUỐC TẾ PHÒNG ĐIỆN TOÁN Phòng quan hệ khách hàng A. Cá nhân: a. Đề xuất kế hoạch chính sách: - Xây dựng và tham mưu cho Giám đốc chi nhánh triển khai các kế hoạch ngân sách, các chỉ tiêu tài chính và thương mại trong quan hệ với các khách hàng. b. Thiết lập, duy trì phát triển mối quan hệ với khách hàng. - Duy trì, phục vụ đối với khách hàng hiện tại đồng thời thiết lập mối liên hệ với các khách hàng tiềm năng trong thị trường mục tiêu để mở rộng khách hàng. - Theo dõi, quản lý việc sử dụng hạn mức của khách hàng. c. Tiếp thị, bán các sản phẩm cho khách hàng: d. Trực tiếp thực hiện việc tiếp thị, tiếp nhận, hướng dẫn khách hàng, duy trì và phát triển quan hệ của Chi nhánh với các khách hàng. B. Doanh nghiệp: a. Đề xuất kế hoạch, chính sách: - Xây dựng và tham mưu cho Giám đốc chi nhánh triển khai các kế hoạch ngân sách, các chỉ tiêu tài chính và thương mại, cân đối lãi lỗ trong quan hệ với các khách hàng. b. Thiết lập, duy trì phát triển mối quan hệ với khách hàng. - Duy trì, phục vụ đối với khách hàng hiện tại đồng thời thiết lập mối liên hệ với các khách hàng tiềm năng trong thị trường mục tiêu để mở rộng khách hàng. c.Tiếp thị, bán các sản phẩm cho khách hàng: - Trực tiếp thực hiện việc tiếp thị, quản lý, chăm sóc, duy trì và phát triển quan hệ của Chi nhánh với các khách hàng. d. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Ban giám đốc. Phòng Kế hoạch kinh doanh( Phòng tín dụng) a. Trực tiếp thực hiện yêu cầu nghiệp vụ về quản trị tín dụng của Chi nhánh theo quy trình, quy định của NHNN và của Chi nhánh. b.Tiếp nhận hồ sơ cấp tín dụng/bảo lãnh từ Phòng Quan hệ khách hàng và nhập dữ liệu đầy đủ, chính xác vào hệ thống quản lý và chịu trách nhiệm lưu trữ toàn bộ hồ sơ theo quy định. c. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Ban giám đốc. Phòng Quản lý rủi ro. a. Thực hiện rà soát, đánh giá và thẩm định rủi ro tín dụng đối với khách hàng. b. Đầu mối tham mưu, đề xuất với Giám đốc chi nhánh xây dựng những văn bản hướng dẫn công tác quản lý rủi ro, xây dựng chương trình và các giải pháp thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro theo quy định, quy trình của Nhà nước và NHNN về công tác quản lý rủi ro. Phòng dịch vụ khách hàng Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giao dịch với khách hàng (từ khâu tiếp xúc, tiếp nhận yêu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng của khách hàng, hướng dẫn thủ tục giao dịch, mở tài khoản, gửi tiền rút tiền, thanh toán, chuyển tiền...); tiếp thị giới thiệu sản phẩm dịch vụ ngân hàng; tiếp nhận các ý kiến phản hồi của khách hàng về dịch vụ, tiếp thu, đề xuất hướng dẫn cải tiến để không ngừng đáp ứng sự hài lòng của khách hàng. Phòng Thanh toán quốc tế Thực hiện xử lý các giao dịch tài trợ thương mại theo đúng quy trình tài trợ thương mại và hạch toán kế toán những nghiệp vụ liên quan mà phòng thực hiện trên cơ sở hồ sơ đã được phê duyệt. Thực hiện nghiệp vụ phát hành bảo lãnh đối ứng theo đề nghị của ngân hàng nước ngoài. Thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền quốc tế (nếu được giao) Phòng Kế hoạch Tổng hợp Công tác kế hoạch - nguồn vốn: a. Tham mưu, giúp việc cho Giám đốc chi nhánh điều hành nguồn vốn; chịu trách nhiệm về việc đề xuất chính sách biện pháp, giải pháp phát triển nguồn vốn và các biện pháp giảm chi phí vốn để góp phần nâng cao lợi nhuận; đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn vốn theo chủ trương và chính sách của Chi nhánh/NHNN; trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ với các khách hàng theo quy định và trình Giám đốc giao hạn mức mua bán ngoại tệ cho các phòng có liên quan. b. Đầu mối, tham mưu, giúp việc Giám đốc chi nhánh tổng hợp, xây dựng kế hoạch kinh doanh, kế hoạch phát triển của Chi nhánh hàng năm, trung và dài hạn; xây dựng chương trình tháng, quý để thực hiện kế hoạch kinh doanh; xây dựng chính sách marketing, chính sách phát triển khách hàng, chính sách huy động vốn và lãi suất của chi nhánh, chính sách phát triển dịch vụ của Chi nhánh, kế hoạch phát triển mạng lưới và các kênh phân phối sản phẩm. Phòng điện toán Phối hợp với Phòng điện toán khu vực và trực tiếp quản lý mạng, quản trị hệ thống phân quyền truy cập, kiểm soát tại Chi nhánh, tổ chức vận hành hệ thống thiết bị tin học và các chương trình phần mềm được áp dụng ở Chi nhánh theo đúng quy định, quy trình của ngân hàng. Phòng Tài chính - Kế toán Tổ chức thực hiện và kiểm tra công tác hạch toán kế toán chi tiết, kế toán tổng hợp và chế độ báo cáo kế toán, theo dõi quản lý tài sản (giá trị), vốn, quỹ của Chi nhánh theo đúng quy định của nhà nước và Ngân hàng. Phòng Tổ chức - Nhân sự a. Trực tiếp thực hiện chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm, quản lý lao động; theo dõi thực hiện nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể; theo dõi tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo và kế hoạch phát triển nguồn lực đảm bảo nhu cầu phát triển của Chi nhánh theo quy định. b. Đầu mối đề xuất, tham mưu với Giám đốc chi nhánh về xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực phù hợp với hoạt động và điều kiện cụ thể của chi nhánh (tuyển dụng bố trí sắp xếp, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm….) và các văn bản hướng dẫn quy trình về tổ chức, cán bộ, chính sách đối với người lao động theo Nội quy lao động, Thoả ước lao động tập thể, Công tác thi đua khen thưởng. c. Tham gia ý kiến về kế hoạch phát triển mạng lưới, chuẩn bị nhân sự cho mở rộng mạng lưới, phát triển các kênh phân phối sản phẩm và trực tiếp hoàn tất thủ tục mở Qũy tiết kiệm/Điểm giao dịch/Phòng giao dịch/Chi nhánh mới. d. Quản lý (sắp xếp, lưu trữ, bảo mật) hồ sơ cán bộ; quản lý thông tin (lưu trữ, bảo mật, cung cấp...) và lập báo cáo liên quan đến nhiệm vụ của Phòng theo quy định. Văn phòng a.Trực tiếp thực hiện công tác quản lý hành chính văn phòng của Chi nhánh theo quy định. b.Thực hiện các công tác hậu cần và chịu trách nhiệm đảm bảo điều kiện vật chất, đảm bảo an ninh cho hoạt động của Chi nhánh, đảm bảo điều kiện làm việc và an toàn lao động của cán bộ công nhân viên; trực tiếp quản lý, mua sắm, bảo quản tài sản đảm bảo sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm theo quy định. c.Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Ban giám đốc. Các phòng giao dịch Thực hiên các chức năng như một ngân hàng thu nhỏ. Ở các phòng giao dịch hầu như chia làm 3 văn phòng nhỏ: Phòng giám đốc, phòng tín dụng và phòng giao dịch. Các hoạt động cho vay diễn ra ở phòng giao dịch, được đóng dấu bởi phòng tín dụng và trình lên phòng giám đốc để ký kết. Khi diễn ra các hoạt động cho vay và thế chấp, thì giám đốc và các cán bộ tín dụng có nhiệm vụ kiểm tra chặt chẽ hợp đồng và các giấy tờ thế chấp nếu có. 2.2. Tình hình hoạt động của NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô trong những năm gần đây. Tình hình huy động vốn: Với chức năng trung gian tài chính Ngân hàng làm cầu nối giữa những người có lượng tiêng tạm thời nhàn rỗi và những người có nhu cầu sử dụng vốn. Nguồn huy động là nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng với định hướng kinh doanh của mình, NHNN&PTNT Việt Nam đã có những chính sách huy động vốn hợp lý, đẩy mạnh việc khai thác vốn trong các tần lớp dân cư với nhiều biện pháp và các sản phẩm phù hợp như: Mở rộng mạng lưới giao dịch thay đổi cơ cấu nguồn vốn linh hoạt trong việc sử dụng chính sách lãi suất tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch với Chi nhánh, từ đó nhanh chóng lấy được uy tín của khách hàng trên mọi miền, NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô đã không ngừng cải tiển quy trình nghiệp vụ để phục vụ khách hàng kịp thời, nhanh chóng, thuận tiện, an toàn. Các loại hình huy động vốn đa dạng như: Tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm bảo đảm bằng vàng, tiết kiệm dự thưởng,vv… và còn rất nhiều hình thức khác nữa. Đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp dân cư Ngân hàng luôn quan tâm đến việc rèn luyện tác phong giao dịch lề lối làm việc và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của các cán bộ nhân viên, do vậy nguồn vốn được huy động của chi nhánh không ngừng tăng lên theo các năm. 2.2.2. Tình hình sử dụng vốn: Nghiệp vụ tín dụng có vai trò hế sức quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng làm tốt hoạt động huy động vốn mà hoạt động sử dụng vốn kém hiệu quả đầu tư không đúng lúc, đúng chỗ thì kết quả kinh doanh cũng không được như mong muốn. Mặt khác, hoạt động tín dụng của các ngân hàng Thương mại chứa đựng rất nhiều rủi ro phụ thuộc vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Chính vì vậy, việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả là hoạt động quan trọng nhất của các Ngân hàng Thương mại và nó quyết định đến hiệu quả kinh doanh, đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng đó. Hiểu được tầm quan trọng của nghiệp vụ tín dụng này, thời gian qua, NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô đã bám sát mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đầu tư vào các thành phần kinh tế, tìm kiếm mở rộng khách hàng. Sử dụng đa dạng các hình thức đầu tư tranh thủ các nguồn tại trợ uyer thác đầu tư cho vay phát triển kinh tế địa phương. Do đó mà dư nợ đầu tư tín dụng tại Chi nhánh Thủ Đô tăng trưởng không ngừng. Bảng 1: Báo cáo kết quả kinh doanh cuối năm 2009 của NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô. (Lấy đến hết tháng12 năm 2009) (Đơn vị: Triệu đồng) Chỉ tiêu KH Năm TH 31/12 2008 TH 30/06 2009 TH 31/12 2009 +;- So 31/12/09 +;- So KH '31/12/08 '30/06/09 (+;-) % I. Tổng nguồn vốn 1,346,887 890,179 1,172,086 1,216,784 326,605 44,698 (130,103) 90.3% + Nguồn nội tệ 1,200,000 799,108 972,751 858,030 58,922 (134,721) (341,970) 71.5% + Ngoại tệ 146,887 91,017 179,335 358,754 267,683 179,419 211,867 244.2% Phân theo TP KT 1,346,887 890,179 1,172,086 1,216,784 326,605 44,698 (130,103) 90.3% + Tiền gửi, tiền vay các TCTD 50,000 41,181 72,683 22,683 31,502 72,683 + Tiền gửi, tiền vay các TCKT 562,549 689,009 718,195 155,646 29,186 718,195 + Tiền gửi dân cư 499,433 277,630 441,896 425,906 148,276 (15,990) (73,527) 85.3% + Nguồn vốn ủy thác 0 0 - - - II. Tổng dư nợ 834,955 538,747 892,310 818,445 279,698 (73,865) (16,510) 98.0% - Dư nợ nội tệ 750,000 460,864 794,234 735,051 274,187 (59,183) (14,949) 98.0% - Dư nợ ngoại tệ 84,955 77,883 98,076 83,394 5,511 (14,682) (1,561) 98.2% ( Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp ) Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh lấy đến ngày 31/12/2009 cho thấy: Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2009 đạt 1,216,784 triệu đồng, so với tháng trước tăng 44,698 triệu đồng; trong đó tiền gửi các tổ chức tín dụng tăng 31,502 triệu đồng. Tổng dư nợ đến 31/12/2009 đạt 818,445 triệu đồng, giảm so với 20/11/2009 là 73,865 triệu đồng và so kế hoạch năm 2009 đạt 98% Tài chính: + Tổng thu : 153,299 triệu đồng + Tổng chi: 141,163 triệu đồng + Hệ số lương đạt được là 1.42 Nguồn vốn nội tệ : 858,030 triệu đồng. Nguồn vốn ngoại tệ là 358,754 triệu đồng. Là một chi nhánh mới được thành lập không lâu, nhưng có thể thấy tổng nguồn vốn mà Chi nhánh Thủ Đô huy động được trong năm vừa qua là không nhỏ, tăng dần theo các thời kỳ. Trong đó cơ cấu nguồn vốn hầu như không thay đổi qua các kỳ, nguồn tiền gửi, tiền vay từ các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại hình huy động. Điều này khẳng định hơn nữa từ những bước đi đúng đắn về các hoạt động cho vay dự án đầu tư của Chi nhánh trong năm qua. Về cơ cầu nguồn vốn nội tệ và ngoại tệ. Nhìn chung, cơ cấu nguồn huy động không có biến động lớn, song nguồn huy động nội tệ lại giảm dần về tỷ trọng trong năm vừa qua. Điều này được lý giải là do các doanh nghiệp có xu thế tìm đến vốn vay ngoại tệ. Trong năm vừa qua, tỷ giá hối đoái đi vào ổn định, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do đứng ở mức tương đối thấp và kéo sát lại với tỷ giá niêm yết của Ngân hàng. Chính sự ổn định này đã thu hút doanh nghiệp vay ngoại tệ, vì áp lực lãi suất thỏa thuận tiền đồng tăng cao. Lý do khiến vay ngoại tệ hấp dẫn doanh nghiệp là bởi chênh lệch giữa lãi suất vay bằng VND và USD là khá lớn. Mặc dù đã có sự điều chỉnh giảm, nhưng hiện lãi suất cho vay bằng VND vẫn ở mức 14 – 17%/ năm, trong khi đó, vay vốn bằng ngoại tệ, doanh nghiệp chỉ phải trả cho Ngân hàng ở mức lãi suất khoảng 4 – 6%/ năm. Điều này cho thấy vay ngoại tệ sẽ có lợi hơn đối với những doanh nghiệp có nguồn thu bằng USD. Mặt khác, trong bối cảnh thị trường hiện nay khi tỷ giá hối đoái đang có chiều hướng giảm nhẹ và ổn định hơn so với trước thì lo ngại về rủi ro tỷ giá cũng phần nào giảm bớt, điều này khiến các doanh nghiệp mạnh dạn hơn với tín dụng USD. Nắm bắt được điều này, Ngân hàng cũng đã những sản phẩm cho vay ngoại tệ có tính phòng ngừa cao hơn giúp những doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển đổi sang VND khi tỷ giá có chiều hướng biến động, giảm rủi ro cho các nhà nhập khẩu sử dụng vốn vay bằng USD để nhập nguyên liệu. 2.2.3. Các loại hình tín dụng được áp dụng tại Chi nhánh Thủ Đô. NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô là một Ngân hàng Thương mại Quốc doanh, hoạt động thường xuyên với các thành phần kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống và các dự án đầu tư của các tổ chức kinh tế - xã hội. Vì vậy NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô có đầy đủ 3 loại hình tín dụng. Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn tới 1 năm, thường cho vay bổ sung, thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và cá nhân phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu dùng Tín dụng trung hạn: Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được sử dụng phục vụ nhu cầu mu sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh c. Tín dụng dài hạn: Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm và được sử dụng cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, đầu tư xây dựng các doanh nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng tín dụng dài hạn để hình thành vốn cố định một phần vốn tối thiểu cho sản xuất( Tuy nhiên tại thời điểm hiện tại NHNN&PTNT Thủ Đô chưa phát sinh khoản vay dài hạn nào). Thực trạng cho vay của Chi nhánh Thủ Đô thể hiện rõ qua bảng dư nợ dưới đây: Bảng 2: Báo cáo dư nợ trong năm 2009 của Chi nhánh Thủ Đô: ( Đơn vị: Triệu đồng) Chỉ tiêu KH Năm TH 31/12/ 2008 TH 30/06/2009 TH 31/12/2009 Dư nợ theo thời gian 834,955 538,747 759,310 818,445 + Ngắn hạn 575,982 388,769 598,333 645,864 + Trung hạn 258,973 149,978 160,977 172,582 + Dài hạn - 0 0 + Quá hạn 25,049 167,395 154,183 ( Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp ) Qua bảng hoạt động tín dụng của AGRIBANK Chi nhánh Thủ Đô, ta thấy có sự biến động rõ rệt về cho vay qua các thời kỳ. Dư nợ liên tục tăng mạnh kể từ cuối năm 2008. Nguyên nhân là do trong năm 2008, lãi suất huy động tăng cao kéo theo lãi suất cho vay tăng, điều này làm cho các doanh nghiệp ít tiếp cận hơn đến nguồn vốn vay do chi phí tăng cao. Đây cũng là khó khăn chung của các ngân hàng trong năm 2008. Trong năm 2009, lãi suất trên thi trường tiền tệ đã ổn định mặt khác AGRIBANK Chi nhánh Thủ Đô đã thực hiện chính sách khách hàng trên cơ sở chấm điểm tín dụng, đánh giá, phân loại khách hàng, xây dựng và thực hiện cho vay theo hợp đồng khung, hợp đồng hạn mức tín dụng thường xuyên cả bằng VNĐ và ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vốn cho các khách hàng có quan hệ tín dụng tốt, đồng thời tiếp cận và xây dựng quan hệ với các khách hàng tiềm năng. Hơn nữa, trong năm vừa qua chính sách tiền tệ đã bắt đầu có sự chuyển hướng, từ thắt chặt sang dần nới lỏng. Cùng với chủ trương kích cầu và ngăn chặn suy giảm kinh tế, sự chuyển hướng trên là một yếu tố tạo điều kiện để tín dụng tăng trưởng mạnh trở lại trong năm 2009. Tuy tổng dư nợ tín dụng của AGRIBANK Chi nhánh Thủ Đô tăng so với năm 2008 nhưng nếu xem xét tổng dư nợ trên tổng nguồn huy động thì tỷ lệ này còn thấp, do đó công tác sử dụng vốn của Ngân hàng chưa thực sự có hiệu quả đặc biệt là trong các hoạt động cho vay trung và dài hạn. Có thể nói việc tạo dựng niềm tin cho khách hàng là một điều đặc biệt quan trọng. Điều này có ảnh hưởng rõ rệt tới hoạt động cho vay dài hạn của chi nhánh. Hoạt động này thường là các hoạt động có quy mô lớn, nhu cầu vay vốn lớn, đòi hỏi Ngân hàng phải thiết lập một hệ thống quản lý cũng như thẩm định chặt chẽ để có thể mang lại lợi ích cũng như hiệu quả tối ưu. Trong năm vừa qua, Chi nhánh Thủ Đô vẫn còn tồn đọng những khoản nợ quá hạn, là những khoản nợ của các doanh nghiệp tồn đọng từ các năm trước. Ngân hàng nên quản lý và có những biện pháp thích hợp để xứ lý khoản nợ này. 2.2.4. Đối tượng tín dụng tại NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô Khách hàng vay vốn tại NHNN&PTNT Chi nhánh Thủ Đô gồm có: Các pháp nhân là doanh nghiệp nhà nước Công ty TNHH, Công ty cổ phần Hợp tác xã Các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân. Trong đó phân tích theo thành phần kinh tế n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25582.doc
Tài liệu liên quan