Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng NHCSXH Việt Nam

Mục lục Danh mục Các từ viết tắt, sơ đồ và bảng biểu 2 Lời mở đầu 3 Chương 1: mở rộng Cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng chính sách 5 1.1. Tổng quan về Ngân hàng Chính sách 5 Khái niệm Ngân hàng Chính sách 5 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Chính sách 6 1.2. Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách 10 1.2.1. Đặc điểm của hộ nghèo 10 1.2.2. Các quan điểm về cho vay đối với người nghèo 12 1.2.3. Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của NHCS 17 1.3. Mở rộng cho

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng NHCSXH Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vay đối với hộ nghèo của NHCS 24 1.3.1. Các chỉ tiêu đo lường mức độ mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCS 24 1.3. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCS 27 Chương 2: Thực trạng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt Nam 35 2.1. Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam 35 2.1.1. Quá trình hình thành NHCSXH Việt Nam 35 2.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHCSXH Việt Nam 39 2.2. Thực trạng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam 46 2.2.1.Các đặc điểm của hộ nghèo ở Việt Nam 46 2.2.2. Nhu cầu về vốn của các hộ nghèo ở Việt Nam 48 2.2.3.Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH Việt nam 51 2.3. Đánh giá quá trình mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam 56 2.3.1. Kết quả đạt được trong mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam 56 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân trong mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam 59 Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam 68 3.1. Chiến lược xoá đói giảm nghèo của NHCSXH Việt nam trong thời gian tới 68 3.2. Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam 71 3.3. Kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH Việt nam 81 Kết luận 88 danh mục tàI liệu tham khảo 89 Danh mục CáC Từ VIếT TắT NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại NHCSXH Ngân hàng Chính sách xã hội NHCS Ngân hàng Chính sách NHNo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam NHNg Ngân hàng Phục vụ Người nghèo QTDND Quỹ Tín dụng Nhân dân Bộ LĐ, TB&XH Bộ Lao động, thương binh và xã hội UBND ủy ban nhân dân DNNN Doanh nghiệp Nhà nước ODA Vốn hỗ trợ phát triển chính thức WB Ngân hàng Thế giới ADB Ngân hàng Phát triển Châu á HĐQT Hội đồng quản trị NGO Tổ chức phi Chính phủ Danh mục sơ đồ, bảng biểu Sơ đồ 1: Vòng luẩn quẩn của đói nghèo. 12 Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam 39 Bảng 1: Cơ cấu vốn của NHNg và NHCSXH 42 Bảng 2: Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách của NHNg và NHCSXH 45 Bảng 3: Các chỉ tiêu đo lường mức độ mở rộng cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH 56 Bảng 4: Dự tính tình trạng nghèo đói của Việt nam tới năm 2010 67 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài: Nghèo đói là tình trạng chung của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt nam. Theo tính toán, trong thời gian tới, tỷ lệ nghèo đói của Việt nam theo chuẩn nghèo quốc tế vẫn đạt ở mức khoảng 30%, đây được đánh giá là bộ phận rất khó thoát nghèo, chủ yếu là các hộ nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị và các nhóm dân tộc thiểu số. Nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo được xác định là nhiệm vụ mang tính chất xã hội hóa ở Việt nam, song hiện nay đã được giao cho một tổ chức trực tiếp chịu trách nhiệm, đó là Ngân hàng Chính sách xã hội Việt nam. Sự ra đời của NHCSXH có ý nghĩa to lớn, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã thiết lập được một kênh tín dụng chính thức hỗ trợ cho hộ nghèo có vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, từng bước giúp hộ nghèo làm quen với nền sản xuất hàng hóa, để hộ nghèo có một “địa chỉ” tin cậy khi cần vốn. Là ngân hàng mới ra đời trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ Người nghèo và tách ra khỏi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam, NHCSXH có rất nhiều việc phải làm trong thời gian tới. Trong điều kiện số hộ nghèo vẫn ngày càng gia tăng, khả năng hộ nghèo cần vốn được vay vốn ngân hàng còn hạn chế, nhiệm vụ trước mắt của NHCSXH là cung ứng vốn đến tay càng nhiều hộ nghèo càng tốt. Vốn xóa đói giảm nghèo đã được tập trung vào một kênh duy nhất để phân phối đến các đối tượng chính sách, trong đó chủ yếu là hộ nghèo, theo nguyên tắc tín dụng kết hợp với một số ưu đãi nhằm đưa vốn đến đúng đối tượng là hộ nghèo cần vốn, bảo toàn và quay vòng vốn, đảm bảo sự bền vững của ngân hàng…là một trách nhiệm không đơn giản đối với NHCSXH Việt nam. Với mục đích phân tích thực trạng cho vay hộ nghèo của NHCSXH từ khi là Ngân hàng Phục vụ người nghèo, đánh giá những thành tựu và hạn chế của quá trình cho vay này, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng trong thời gian tới, tác giả chọn đề tài: “ Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt nam”. 2. Mục đích nghiên cứu: - Đề tài làm rõ các vần đề lý thuyết về hộ nghèo, hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của NHCS và các chỉ tiêu đánh giá mức độ mở rộng cho vay hộ nghèo của NHCS. - Đánh giá thực trạng mở rộng cho vay hộ nghèo của NHCSXH Việt nam thông qua các chỉ tiêu lý thuyết và phân tích các hạn chế và nguyên nhân trong mở rộng cho vay hộ nghèo của ngân hàng. - Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động cho vay hộ nghèo của NHCS. - Phạm vi nghiên cứu: Họat động cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH Việt nam. Đánh giá hoạt động cho vay hộ nghèo đến thời điểm 31/12/2003. 4. Kết cấu của đề tài: Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận được kết cấu bao gồm ba chương chính: Chương 1: Cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng chính sách Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt Nam. Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH Việt nam. Chương 1 Mở rộng cho vay Đối với hộ nghèo của ngân hàng chính sách 1.1. Tổng quan về Ngân hàng Chính sách Khái niệm Ngân hàng Chính sách: Quá trình phát triển của các trung gian tài chính gắn liền với quá trình phát triển kinh tế. Các ngân hàng như ngân hàng thương mại (NHTM), ngân hàng đầu tư (NHĐT), các tố chức tài chính phi ngân hàng (Quỹ đầu tư, Công ty tài chính…) đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thu hút tiết kiệm từ dân cư và tài trợ cho phát triển, hạn chế rủi ro và tăng khả năng sinh lời cho các hoạt động kinh tế. Mục tiêu chung của các tổ chức này là an toàn và sinh lời. Nhưng bên cạnh đó cũng có một số tổ chức hoạt động với mục tiêu và đối tượng phục vụ đặc biệt, sinh lời không phải là mục tiêu hàng đầu cần đạt tới, ngân hàng Chính sách (NHCS) là một tổ chức trong số này. Ngân hàng Chính sách là một tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là cho vay theo chính sách và kế hoạch của Nhà nước (cho vay chính sách). Là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, NHCS là công cụ để các cơ quan quản lý trực tiếp thực hiện các chính sách của mình. Các kế hoạch và chính sách của Nhà nước nhằm mục tiêu đạt được sự tăng trưởng bền vững cho đất nước như phát triển cao và ổn định, nhiều công ăn việc làm, phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ môi trường sinh thái…hoàn toàn không phù hợp với mục tiêu chung của các NHTM. Các NHTM được định tính bằng: (i) hoạt động nhằm mục tiêu tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu, đây là cơ sở để ngân hàng đạt được sự an toàn trong suốt quá trình hoạt động, (ii) phần lớn hoạt động cho vay là cho vay thương mại tức là tài trợ ngắn hạn cho doanh nghiệp (phân biệt với cho vay phi thương mại là tài trợ cho bất động sản và cho vay tiêu dùng). Trong khi đó, các món cho vay chính sách thường với số tiền lớn, thời gian dài (chủ yếu trong cho vay đầu tư phát triển), lãi suất ưu đãi, cho các đối tượng và lĩnh vực nhiều rủi ro (hộ nghèo, nông dân…), không có tài sản thế chấp, chi phí quản lý vốn vay cao, thường không hoặc đem lại rất ít giá trị gia tăng cho ngân hàng so với vốn cho vay ban đầu nhưng lại có tác dụng quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm, phân phối lại thu nhập của quốc gia. Mặt khác, vốn của ngân hàng thường có nguồn gốc từ NSNN, tỷ trọng vốn huy động trên thị trường nhỏ. NHCS là tổ chức tài chính thực hiện tài trợ ưu tiên có hạn chế của Nhà nước nhằm thực hiện các công cuộc đầu tư đặc biệt, các hoạt động nhằm mục tiêu phi lợi nhuận càng nhiều thì tính hỗ trợ càng lớn. Để đảm bảo sự tồn tại bền vững của mình, NHCS được sự hỗ trợ lớn từ phía Nhà nước (cung cấp vốn ưu đãi, cấp bù lãi suất, bảo lãnh cho các khoản đi vay và cho vay của ngân hàng, không phải trích dự trữ bặt buộc, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp…) và được đặt dưới sự kiểm soát của các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Các hỗ trợ này rất quan trọng, cho phép ngân hàng đạt được các mục tiêu sinh lời cùng với các mục tiêu kinh tế, xã hội khác, hỗ trợ càng lớn thì phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của ngân hàng càng rộng và ngược lại. Hoạt động của ngân hàng có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, trong nhiều trường hợp các cơ quan quản lý đã can thiệp trực tiếp vào mọi quyết định cho vay của ngân hàng, gây tâm lý ỷ lại, không chịu trách nhiệm của cán bộ ngân hàng. Các khoản trợ giúp của Nhà nước nếu không có cơ chế sử dụng và kiểm soát tốt thường là đối tượng của các hoạt động tham nhũng và lãng phí. Các NHCS thành công đều dựa trên xây dựng mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và ngân hàng sao cho đảm bảo Nhà nước có hỗ trợ cho ngân hàng, đồng thời các quyết định cho vay của ngân hàng phải dựa trên tính hiệu quả của các món vay. Là công cụ để Nhà nước thực hiện các chính sách và kế hoạch của mình, NHCS cũng thực hiện các hoạt động cơ bản như các NHTM. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Chính sách: NHCS là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ thực hiện các hoạt động cơ bản là huy động vốn, cho vay và các hoạt động khác. 1.1.2.1. Huy động vốn: Hoạt động huy động vốn của NHCS xuất phát từ tính chất của các món cho vay mà ngân hàng cung ứng. Đó là các món vay có tỷ lệ sinh lời thấp (cho vay xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm…), thời gian dài (cho vay đối với đầu tư phát triển), rủi ro cao nên yêu cầu đối với ngân hàng là phải huy động vốn có lãi suất tương đối thấp, thời gian sử dụng dài và chịu đựng rủi ro. Vốn cho hoạt động của ngân hàng bao gồm: Vốn có nguồn gốc từ Nhà nước: Nhà nước hỗ trợ vốn cho NHCS thể hiện vai trò chủ sở hữu của Nhà nước đối với ngân hàng, cung ứng vốn khi ngân hàng mới đi vào hoạt động (vốn ban đầu) và bổ sung trong quá trình hoạt động khi cần thiết (vốn chủ sở hữu). Nguồn này một phần được ngân hàng sử dụng để hình thành nên các tài sản cố định của ngân hàng (trụ sở, phương tiện làm việc và đi lại, thiết bị…), một phần hòa cùng các nguồn khác để cho vay. Một phần từ chi NSNN hàng năm cho đầu tư phát triển, từ phát hành trái phiếu Chính phủ trong và ngoài nước …được chuyển sang thành vốn của ngân hàng. Tuy vậy, đây là nguồn eo hẹp, phải phân chia cho nhiều mục tiêu của đất nước nên NHCS chi nên dựa vào nguồn này khi mới đi vào hoạt động hoặc khi gặp khó khăn trong thanh toán. Vốn từ nguồn này kết hợp với vốn huy động trên thị trường tạo ra vốn hỗn hợp có lãi suất phù hợp với các món cho vay chính sách của ngân hàng. Trong một số trường hợp, vốn hỗ trợ của Nhà nước có thể thực hiện bởi NHTW thông qua các nghiệp vụ mua lại các khoản nợ, bảo lãnh của ngân hàng, cấp vốn… Việc gia tăng nhuồn vốn này tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: chính sách đối với các đối tượng chính sách, năng lực tài chính của bản thân NHCS, nhu cầu về vốn của khách hàng… Nguồn vốn từ các tổ chức chính trị, xã hội: Đây là một nguồn quan trọng của ngân hàng. Mục tiêu kinh tế xã hội mà NHCS theo đuổi có thể phù hợp với mục tiêu hoạt động của nhiều tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ trong và ngoài nước: phát triển ngành, phát triển vùng và khu vực, xoá đói giảm nghèo…thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp…Vốn từ nguồn này có khối lượng lớn, lãi suất tương đối thấp, thời hạn sử dụng thường là dài hạn, có thời gian ân hạn, kèm theo chuyển giao công nghệ, chuyên gia, cung cấp thông tin và đào tạo. Tuy vậy, nguồn vốn này thường kèm theo các điều kiện kinh tế, chính trị mà ngân hàng không dễ thực hiện và nhiều khi những điều kiện này làm cho vốn đắt lên và hiệu quả sử dụng thấp đi. Huy động trên thị trường trong và ngoài nước: Vốn NHCS huy động trên thị trường bao gồm huy động tiền gửi, tiết kiệm của dân cư và đi vay. Ngân hàng khuyến khích mở tài khoản tiền gửi và tiết kiệm đối với các tổ chức và cá nhân có vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng. Đặc biệt, các NHCS thường tập trung vận động các tổ chức lớn như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tiền gửi, các dự án, NHTM, công ty tài chính gửi tiền vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi thanh toán, tiền gửi không hưởng lãi hoặc hưởng lãi suất thấp. Ngân hàng phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng có bảo lãnh của Chính phủ để huy động vốn trong và ngoài nước. Một số NHCS hiện nay phụ thuộc rất lớn vào vốn vay từ NHTW, từ các tổ chức tín dụng…Đây là nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với ngân hàng, đánh giá vị thế của ngân hàng trên thị trường tài chính. Để huy động được nguồn này, chính sách huy động của ngân hàng phải tính đến khả năng cạnh tranh với các NHTM khác liên quan đến các vấn đề về lãi suất huy động, hình thức huy động, uy tín của ngân hàng…Một số NHCS được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán đối với các nguồn mà ngân hàng huy động vì ngân hàng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên nếu không được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán thì việc huy động vốn của những ngân hàng này sẽ rất khó khăn. 1.1.2.2. Hoạt động cho vay: Cho vay theo các chương trình, chính sách (cho vay chính sách) của Nhà nước là hoạt động chủ yếu của NHCS, bao gồm các khoản cho vay bắt buộc để hỗ trợ chính sách kinh tế của Chính phủ và cho vay các hoạt động không đáp ứng các tiêu chí thương mại nhưng lại có tác dụng chính trị, xã hội quan trọng. Đối với loại thứ nhất thường bao gồm các khoản cho vay như: (1) Cho vay các ngành công nghiệp có tầm chiến lược quốc gia quan trọng; (2) Cho vay các công trình tuy khả thi về tài chính nhưng vì quá lớn hoặc thời gian hoàn vốn quá dài (các công trình đường cao tốc, đường dây tải điện…); (3) Cho vay các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ nhưng chưa thể ra quyết định giải thể vì chưa trả hết nợ… Loại thứ hai gồm các khoản cho vay (1) Cho vay các hộ gia đình nghèo để duy trì sản xuất và ổn định đời sống; (2) Cho vay các hộ nông dân là nạn nhân của thiên tai, bão lụt nhằm khôi phục sản xuất; (3) Cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn để đảm bảo điều kiện học tập và tốt nghiệp… Những khoản cho vay trên tuy khác nhau về đối tượng, thể loại nhưng đều có đặc điểm chung nhất là không đáp ứng tiêu chí thương mại trong hoạt động của ngân hàng. Cụ thể, khi thực hiện các khoản cho vay này, ngân hàng có thể không có lợi nhuận tức là doanh thu từ cho vay không đủ bù đắp các chi phí bỏ ra. Như vậy, cho vay chính sách là hoạt động của ngân hàng không đáp ứng các tiêu chí kinh doanh thương mại, mang lại ít hoặc không mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nhưng các ngân hàng được chỉ định bắt buộc phải thực hiện nhằm hỗ trợ các chính sách kinh tế, chính trị và xã hội của bộ máy quản lý Nhà nước. Theo tính chất của đối tượng vay, cho vay chính sách có thể chia làm ba loại: - Cho vay xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là các hộ nông dân nghèo, đây là một chương trình kinh tế, xã hội rộng lớn ở nhiều nước đang phát triển, nhất là các nước ở Châu á, Châu phi. - Cho vay hỗ trợ các chính sách xã hội, giáo dục, y tế, tạo công ăn việc làm. Chính phủ hỗ trợ các đối tượng thuộc chính sách xã hội thông qua cho vay với các điều kiện ưu đãi giúp họ có cơ hội học tập, chữa bệnh, học nghề hoặc xuất khẩu lao động, loại cho vay này khác với cho vay tiêu dùng ở điều kiện và lãi suất cho vay ưu đãi. - Cho vay DNNN thua lỗ hoặc không đủ điều kiện vay thông thường hoặc với các điều kiện ưu đãi. Đây là những khoản cho vay không có tính thương mại, thực hiện theo chiến lược phát triển của quốc gia nhằm trợ giúp các doanh nghiệp Nhà nước khó khăn hoặc những khu vực kinh tế Nhà nước bắt buộc phải duy trì vì lợi ích quốc gia. Ngay cả các nước phát triển như Nhật, Mỹ vẫn tồn tại loại hình cho vay này. Mặc dù không mang lại lợi nhuận, nhưng ngân hàng chính sách và cho vay chính sách vẫn tồn tại không chỉ ở nền kinh tế tập trung bao cấp mà cả trong kinh tế thị trường, không chỉ ở các nước đang phát triển mà ở cả các nước tư bản phát triển. Đó là do: Thứ nhất, do yêu cầu của chính sách kinh tế, xã hội. Với vai trò quản lý xã hội về mọi mặt, bộ máy các cơ quan quản lý Nhà nước phải hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội hợp lý nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối, đảm bảo sự tồn tại cho một số ngành, lĩnh vực cần thiết cho xã hội nhưng bản thân nó lai không mang lại lợi nhuận; bảo đảm cho xã hội ổn định, không có chênh lệch giàu nghèo quá đáng tức là phải đầu tư phát triển những ngành kinh tế then chốt đồng thời có chiến lược xoá đói giảm nghèo hợp lý. Trong phạm vi chức năng, nghiệp vụ của mình, các tổ chức kinh tế xã hội của Nhà nước, trong đó có NHTM quốc doanh phải có trách nhiệm thực hiện chính sách, yêu cầu của Chính phủ. Thứ hai, do tính chất nguồn vốn và yêu cầu quay vòng vốn. Trong nhiều trường hợp, Nhà nước không thể dùng quỹ NSNN để cấp phát trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình. Với các nguồn vốn được cấp và tự huy động, các NHTM có thể cho vay cho các đối tượng theo các nguyên tắc tín dụng và qua đó sẽ bù đắp một phần chi phí của ngân hàng. Qua đó, vốn sẽ được quay vòng, tạo điều kiện mở rộng đối tượng được hưởng lợi, góp phần cho các chính sách của đất nước được thực hiện trong giai đoạn dài. Bên cạnh hai hoạt động cơ bản trên, giống như các NHTM khác, cùng với hoạt động huy động và sử dụng vốn, NHCS cũng thực hiện một số hoạt động khác như: bảo lãnh, trung gian thanh toán, tư vấn… 1.2. Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của NHCS 1.2.1. Đặc điểm của hộ nghèo: Theo định nghĩa của WB, nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện: thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo ra thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn tới những người có khả năng giải quyết, cảm giác bị xỉ nhục, không được người khác tôn trọng Thứ nhất, hộ nghèo chủ yếu là các hộ nông dân. Hộ nông dân nghèo với trình độ học vấn thấp và khả năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên môn bị hạn chế, có ít đất canh tác hoặc không có đất nhưng có rất ít cơ hội có thể tạo ra thu nhập ổn định từ các hoạt động phi nông nghiệp. Những người sống dưới ngưỡng nghèo thường là thành viên của những hộ có chủ hộ là nông dân tự do. Thứ hai, hộ nghèo là những hộ không có khả năng có được một dạng thu nhập ổn định nào đó từ công ăn việc làm hay từ các khoản chuyển nhượng của phúc lợi xã hội. Tại nhiều quốc gia, nhiều vùng, chỉ tiêu “có một công việc tốt” hay “có lương hưu” là những tiêu chuẩn để xếp các hộ vào các nhóm sung túc hơn mặc dù thu nhập từ những nguồn này thường không cao song ý nghĩa chủ yếu của chúng là sự ổn định và đảm bảo. Thứ ba, hộ nghèo là những hộ có trình độ học vấn thấp. Do vậy, bản thân các hộ nghèo đều hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khoá quan trọng để thoát nghèo. ở thành thị, các thành viên trong hộ cần phải có trình độ cao hơn mức phổ thông cơ sở thì mới có cơ hội kiếm được một công việc ổn định; ở nông thôn, các hộ thường gắn tầm quan trọng của học hành với khả năng nhận biết những cơ hội mới và nắm bắt được các kỹ thuật mới, khả năng biết đọc, biết viết, khả năng về tính toán, ngôn ngữ, kỹ thuật là chỉ tiêu được đánh giá cao. Việc tiếp xúc với cán bộ khuyến nông, quan hệ với những người ở ngoài cộng đồng, tiếp cận với thông tin và các phương tiện thông tin đại chúng đã trở thành những lĩnh vực ưu tiên quan trọng đối với các hộ nghèo. Thứ tư, các hộ có nhiều trẻ em và phụ nữ sống độc thân thường được các hộ khác coi là nghèo. Các hộ này không chỉ có ít lao động hơn so với số miệng ăn trong gia đình mà còn phải trả các chi phí giáo dục lớn hơn cũng như hay phải chịu thêm các chi phí khám chữa bệnh gây mất ổn định cho kinh tế gia đình. Do vậy, khi chi phí cho y tế và giáo dục tăng lên thì các hộ này thường cho con thôi học là điều hiển nhiên. Những hộ bị mất đi lao động trưởng thành do bị chết, bỏ gia đình đi hoặc tách ra khỏi hộ thường được cộng đồng xếp vào nhóm hộ nghèo nhất, đây thường là hộ do phụ nữ làm chủ hộ. Theo thống kê, phụ nữ sống độc thân phần lớn là nghèo hơn so với nam giới sống độc thân. Thứ năm, các hộ nghèo thường là nạn nhân của tình trạng nợ nần. Rất nhiều hộ nghèo rơi vào tình trạng nợ nần do phải đi vay để trang trải các khoản chi tiêu khẩn cấp như chi phí cho y tế, hoặc đi vay để đầu tư vào một vụ kinh doanh bị thất bại. Nợ nần gây ra áp lực kinh tế và tâm lý nặng nề cho các thành viên trong hộ. Cuối cùng, hộ nghèo là hộ rất dễ bị tổn thương. Nguy cơ dễ bị tổn thương bởi những khó khăn theo thời vụ, bởi những đột biến xảy ra với hộ gia đình và những cuộc khủng hoảng xảy ra với cộng đồng là một khía cạnh quan trọng của nghèo đói. Những hộ nghèo ít vốn hoặc ít đất đai (hoặc cả hai) và những hộ chỉ có khả năng trang trải được các chi tiêu lương thực và phi lương thực thiết yếu khác đều rất dễ bị tổn thương trước mọi biến cố khiến họ hoặc phải bỏ thêm chi phí hoặc phải giảm thu nhập. Tuy vậy, tình trạng không an toàn không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế. Do thiếu thông tin về các quy hoạch phát triển đô thị và giải phóng mặt bằng nên nhiều hộ không thể biết được thời gian họ còn được phép sống ở khu vực cư trú hiện tại, các tệ nạn xã hội như nghiện hút, trộm cắp làm cho các thành viên trong hộ cảm thấy không an toàn… Cơ hội là một trong những kênh quan trọng nhất để giảm nghèo. Cơ hội có thể được xem là sự kết hợp giữa hai yếu tố: sở hữu tài sản (hoặc ít nhất được tiếp cận với tài sản) và tạo ra lợi nhuận từ tài sản đó. Nhiều khi tài sản chính của người nghèo chỉ là sức lao động, nhưng nếu không có những hoạt động sử dụng sức lao động đó để tạo ra thu nhập tốt thì một mình tài sản này không đủ để đảm bảo cho sự tồn tại của hộ. Đó là các hoạt động sản xuất kinh doanh dù ở bất kỳ quy mô nào, nhưng để tiến hành các hoạt động này phải có vốn. Thiếu vốn kết hợp với thiếu cách làm ăn hiệu quả sẽ dẫn đến nghèo đói. Sơ đồ 1: Vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Năng suất lao động thấp Thiếu vốn Thiếu khả năng đầu tư Thu nhập thấp Tiết kiệm thấp Tăng vốn là một cách hữu hiệu để tăng khả năng đầu tư, từ đó năng suất lao động được tăng lên, khi đó thu nhập tăng lên là điều kiện tiên quyết để vòng đói nghèo được xoá bỏ và cũng là mục tiêu chính của xoá đói giảm nghèo. 1.2.2. Các quan điểm về cho vay đối với người nghèo: Vốn có mối liên hệ mật thiết với phát triển kinh tế, tuy nhiên, mức độ tác động của phương thức cung ứng vốn đến quá trình phát triển và giảm nghèo đói lại chủ yếu dựa vào các chính sách mà Chính phủ ở các nước áp dụng. Các chính sách khác nhau xuất phát từ các quan điểm khác nhau về hoạt động cho vay đối với người nghèo. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, mỗi quan điểm có quá trình lịch sử ra đời và phát triển khác nhau và thích ứng với một hoàn cảnh riêng biệt và do vậy lựa chọn theo quan điểm nào là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. 1.2.2.1. Quan điểm cổ điển: Vốn được coi là một đầu vào quan trọng bậc nhất đối với quá trình sản xuất. Tăng vốn sẽ cho phép mở rộng sản xuất, đặc biệt trong khu vực nông nghiệp, áp dụng kỹ thuật mới, điều này có nghĩa là sản lượng sẽ tăng mạnh. Như vậy, thiếu vốn đã trở thành trở ngại chính trong áp dụng kỹ thuật tiên tiến và mua các khoản đầu vào cho sản xuất. Do đó, một chính sách cho vay lãi suất thấp và chương trình cho vay trợ giá đã được đề xuất. Nguồn vốn chủ yếu từ các nhà tài trợ nước ngoài và các tổ chức tài chính chính thức do Chính phủ tài trợ, trong khi đó tiết kiệm tự nguyện của người nghèo lại đóng vai trò rất thấp. Chính sách cho vay trợ giá đã được sử dụng một cách triệt để. Quan điểm này cho rằng người nghèo và người sản xuất nhỏ chỉ được lợi từ các chính sách và chương trình bao cấp. Chính phủ các nước đang phát triển sử dụng phương pháp này như là công cụ hữu hiệu phục vụ phát triển kinh tế và giảm nghèo đói. Tuy vậy, kinh nghiệm thực tế cũng như lý thuyết đều chứng minh rằng đề xuất chính sách theo quan điểm này rất ít có khả năng thành công. Từ giữa thập kỷ 70, một khối lượng lớn ấn phẩm bình luận về chính sách cho vay ở các nước đang phát triển đã xuất hiện. Thứ nhất, nhận định rằng người nghèo không có khả năng tiết kiệm, và không hưởng ứng những khuyến khích hoặc cơ hội để tiết kiệm là không đúng. Trên thực tế, người nghèo vẫn có thể tiết kiệm và đầu tư mặc dù hình thức tiết kiệm và đầu tư của họ không cần thiết dưới dạng có tính lỏng cao (bằng tiền mặt), mà bằng hình thức tài sản có thể tạo được thu nhập khá hơn và chống được rủi ro lạm phát. Nhiều cuộc nghiên cứu thực tế đã tiến hành ở Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, ấn Độ chứng minh rằng người nghèo có khả năng tiết kiệm lớn với mức lãi suất thực tế dương. Thứ hai, kết quả không mong đợi của lãi suất thấp. Tỷ lệ lãi suất thấp tạo ra những hậu quả tiêu cực và đôi khi nó còn làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn trước. Tỷ lệ lãi suất cho vay thấp không thể tạo được mức lãi suất hấp dẫn đối với người tiết kiệm, ít nhất, tỷ lệ lãi suất cho vay phải tương đương với lãi suất tiết kiệm cộng với các chi phí giao dịch. Chi phí giao dịch ở các nước đang phát triển rất cao. Tỷ lệ lãi suất thấp cũng gây ra cầu về vốn vay tăng vượt quá cung, kéo theo các hoạt động tiêu cực để được vay vốn, có xu hướng khuyến khích hỗ trợ những người giàu và sản xuất lớn hơn là người nghèo, do mối quan hệ cá nhân, khả năng hối lộ quan chức, ưu tiên cấp vốn và hoàn trả... Thứ ba, tỷ lệ hoàn trả thấp. Tín dụng trợ giá thường có tỷ lệ hoàn trả rất thấp, nghiên cứu thực tế cho thấy trừ một vài trường hợp cá biệt, tỷ lệ không trả được của các chương trình cho vay trợ giá ở các nước đang phát triển dao động từ 40% đến 95%. Nguyên nhân của tình trạng này là (i) không có khả năng trả được nợ (ví dụ như mất mùa); (ii) không muốn trả (do nhận thức rằng tiền vay là một khoản trợ cấp hoặc được hưởng chính sách). Trong đó nguyên nhân thứ hai phổ biến ở các nước đang phát triển hơn là nguyên nhân đầu. Quan điểm này khá phổ biến và được áp dụng rộng rãi tại các nước đang phát triển trong những năm 60 – 70 và vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngày nay trong các chính sách cho vay đối với người nghèo ở một số nước. 1.2.2.2. Các quan điểm tiếp cận mới: Nội dung chủ yếu của các quan điểm này: Thứ nhất, tài chính như một quá trình trung gian. Nếu quan điểm cổ điển coi vốn là một đầu vào quan trọng của sản xuất thì quan điểm mới lại nhấn mạnh vốn là yếu tố trung gian của quá trình sản xuất. Vai trò của thị trường tài chính là trung gian chuyển các nguồn lực từ người và khu vực “dư thừa” sang người và khu vực có nhu cầu về các nguồn lực đó. Quan điểm này ủng hộ chính sách lãi suất cao, cho rằng lãi suất có chức năng quan trọng trong việc bù đắp cho những người tiết kiệm cũng như trong việc phân bổ vốn. Lãi suất là giá cả của vốn, cũng giống như giá cả của các hàng hoá khác trên thị trường, lãi suất cần giữ ở mức phản ánh được các chi phí thực chứ không phải là công cụ cho mục tiêu chính trị và các tiêu chuẩn phi kinh tế khác. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh huy động tiết kiệm của các trung gian tài chính. Từ thất bại trong hoạt động tiết kiệm của những chính sách tài chính trước kia ở các nước đang phát triển, các trung gian tài chính cần phải “xem xét lại phương pháp hoạt động, sự cân bằng và tính bền vững của mình”. Giải pháp cho tính bền vững là mô hình tự lực về tài chính. Từ những chỉ tiêu đánh giá tổ chức tài chính hoạt động tốt ở phần trên cho thấy tính cân bằng tài chính là một yếu tố quan trọng. Hoạt động tạo vốn là hoạt động then chốt nhất của các trung gian tài chính tự lập. Thứ hai, tính thay thế của tín dụng. Quan điểm này cho rằng tính thay thế của tín dụng đã làm triệt tiêu những cố gắng của các chương trình cho vay theo mục tiêu của Chính phủ. Một đồng tiền mà một người đi vay được giống như bất cứ một đồng tiền khác mà người đó đang giữ hoặc sử dụng. Đồng tiền này có thể được sử dụng với những cách khác nhau, bất kể những thoả thuận trước đây giữa người đi vay và cho vay trong Hợp đồng tín dụng. Đây là tính thay thế của tín dụng. Về phía người nghèo được vay vốn, họ có thể sử dụng món vay trái ngược so với cách mà họ dự định sử dụng hoặc họ được quyền sử dụng, chẳng hạn, thay vì mua gia súc họ đem gửi tiết kiệm hoặc tiêu dùng. Điều này gây ra khó khăn cho việc đạt được các mục tiêu cụ thể của Chính phủ. Khắc phục tình trạng này bằng cung cấp hiện vật thay cho tiền cũng không giải quyết được vấn đề một cách triệt để vì hàng hoá có thể được đổi lấy tiền và sau đó tiền được sử dụng cho các mục tiêu khác. Thứ ba, đảm bảo lãi suất thực dương. Tỷ lệ lãi suất cho vay cao sẽ đảm bảo cho các tổ chức tài chính có khả năng chi trả được mọi khoản chi phí phát sinh. Hệ thống tài chính tự lập yêu cầu tỷ lệ lãi suất cho vay phải đủ để trang trải 3 yếu tố sau: (i) lãi suất trả cho người gửi tiết kiệm (ii) chi phí giao dịch bình quân (iii) và chi phí rủi ro dự phòng trang trải cho khả năng không trả được nợ. Vì vậy, giảm chi phí giao dịch là vấn đề nan giải bậc nhất. Một yếu tố quan trọng khác trong chi phí giao dịch đó là chi phí hành chính. Về phía cho vay, lãi suất thấp làm méo mó tương quan về giá giữa các cơ hội đầu tư thông qua dánh giá thấp chi phí thực của vốn trong các khu vực khác nhau. Điều này dẫn đến xu hướng thiên về kỹ thuật sử dụng ít lao động, do đó ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng dư thừa lao động ở các nước đang phát triển, đồng thời dẫn đến việc quyết định đầu tư vào các dự án có mức sinh lời thấp mà đáng lẽ ra đã bị bác bỏ. Cuối cùng, lãi suất dưới mức cân bằng tạo ra dư cầu vốn vay kéo theo cần thiết có sự cung cấp hạn chế vốn cho vay, điều này đến lượt nó lại mở lối cho những cân nhắc phi kinh tế hoặc mang tính chính trị trong việc phân bổ số vốn khan hiếm. Kết cục là những người nghèo, những người vốn là mục tiêu của các chương trình tài trợ lãi suất thấp lại bị thay thế bằng nhữngngươì giàu có quan hệ chính trị tốt hơn. Thứ tư, người nghèo vẫn có thể gửi tiền tiết kiệm. Hiện nay người ta đã công nhận rằng ngay cả những người nghèo nhất cũng có cái gì đó để tiết kiệm. Mặc dù thu nhập của họ không đều đặn hoặc khả năng của họ chỉ giới hạn ở tiết kiệm những khoản nho nhỏ mỗi lần, thực tế cho thấy rằng họ có thể và họ thực sự tiết kiệm. Hầu hết các hộ nghèo đều có một v._.ài nhu cầu dành giụm tiền, ví dụ như để dự phòng cho thu nhập tiền mặt theo mùa, gây dựng một quỹ dự phòng tài chính, tiết kiệm cho các khoản cho tiêu tiền mặt định kỳ (học phí cho con cái) hay thậm chí là tiết kiệm để mua tài sản có giá trị cao và đầu tư. Việc tiết kiệm đối với người nghèo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc gây dựng một quỹ dự phòng tài chính và vì vậy trong việc giảm nguy cơ dễ bị tổn thương. Kinh nghiệm cho thấy lãi suất chỉ là một trong hàng loạt các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu về các dịch vụ tiết kiệm, các yếu tố khác bao gồm: An toàn: gửi tiết kiệm có an toàn không? Thuận tiện: gửi và rút tiền tiết kiệm có dễ dàng hay không? Khả năng chuyển đổi: tiền gửi tiết kiệm có được rút bằng tiền mặt một cách nhanh chóng hay không? Bí mật: số dư tiền gửi của cá nhân có bị tiết lộ hay không? Thứ năm, về tài sản thế chấp. Người nghèo, đặc biệt là nông dân nghèo luôn vấp phải những khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp khi đi vay. Quan điểm này cho rằng, vấn đề trên có thể được giải quyết bằng “tín chấp” thông qua sự đảm bảo của hợp tác xã và các nhóm nông dân được thành lập chính thức nhằm giúp người nghèo vượt qua tình trạng thiếu vốn. ở các nước đang phát triển, lòng tin chủ yếu dựa vào mối quan hệ cá nhân và nó trở thành một yếu tố quan trọng trong vấn đề giảm chi phí. Người nghèo có thể tiếp cận được vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Một trong số đó là từ chương trình xoá đói giảm nghèo của các Chính phủ, chủ yếu mang tính chất trợ giúp, từ các NHCS, NHTM, các mô hình tiết kiệm và vay vốn với sự hỗ trợ của các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước…Trong đó, cho vay đối với hộ nghèo của NHCS được coi là kênh cung ứng vốn chính thức và có ưu thế nhất định so với các kênh khác. 1.2.3. Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của NHCS: 1.2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản trong cho vay đối với hộ nghèo: Mục tiêu bền vững (bù đắp các chi phí và phát triển) là điều vô cùng quan trọng trong hoạt động của các trung gian tài chính nói chung và NHCS nói riêng. Các món vay đến với người nghèo thường có quy mô nhỏ, chi phí quản lý cao nên các NHCS phải đảm bảo duy trì những nguyên tắc nhất định thì mới có thể phát triển bền vững. Nguyên tắc 1: Vốn vay được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận thông qua việc ngân hàng cho vay nghiên cứu kỹ nhu cầu của hộ nghèo. Thông thường, những khoản cho vay đầu tiên là những món tiền nhỏ được sử dụng trong thời gian ngắn để mua tài sản lưu động, sau đó mới đến những món vay lớn hơn để hình thành tài sản cố định với thời gian hoàn trả dài hơn. Nếu hộ nghèo ở vùng thành thị thì chu kỳ thu nhập ngắn nên thời hạn vay ngắn hơn (thường từ ba tới sáu tháng) để phù hợp nhu cầu về vốn hình thành tài sản lưu động của những người bán rong trên đường và những cơ sở sản xuất tại nhà. Nếu hộ nghèo sinh sống ở nông thôn và làm nông nghiệp thì thời hạn vay có thể dài hơn (khoảng sáu tháng đến một năm). Có quan điểm cho rằng không bao giờ cho vay hộ nghèo với thời hạn vay kéo dài hơn một năm, như vậy là quá mạo hiểm vì nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo (bệnh tật, tai nạn nghề nghiệp, mất mùa, biến động bất lợi của giá nông sản…) Việc thanh toán đầy đủ một khoản vay sẽ tạo cơ hội cho lần vay tiếp theo và được vay với số tiền lớn hơn. Đây được coi là biện pháp khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn vì đối với ngân hàng, việc thu hồi vốn cho vay và quay vòng vốn là một trong những nguyên tắc cơ bản. Các bộ tín dụng thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, tất cả các thủ tục của ngân hàng thể hiện sự “thân thiện” với khách hàng, thiết kế mẫu đơn xin vay đơn giản và giới hạn thời gian từ khi đề đơn đến khi giải ngân chỉ trong vòng vài ngày. Tạo bầu không khí thoải mái và thân mật, khi khách hàng cảm thấy thoải mái thì cán bộ tín dụng dễ được cung cấp nhưng thông tin cần thiết. Đồng thời, thân thiện với khách hàng sẽ giúp ngân hàng biết được kế hoạch sản xuất của hộ và hộ cần giúp đỡ gì từ phía ngân hàng. Nguyên tắc 2: Các món vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi. Thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi hay ít nhất là gốc vay là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của bất kỳ loại hình ngân hàng nào, thông qua một số phương pháp: - Trách nhiệm liên đới: trách nhiệm này được thể hiện thông qua hình thức cho vay theo nhóm thông qua sử dụng sức ép của những người trong cùng một nhóm như là sự thay thế cho tài sản thế chấp. Sự chậm trả của một thành viên thường có nghĩa là việc cho vay tiếp đối với các thành viên khác trong nhóm sẽ bị đình chỉ đến khi nào món vay được hoàn trả. Đây là mô hình được áp dụng rộng rãi trong cho vay đối với người nghèo, những người không thể đáp ứng các đòi hỏi về thế chấp truyền thống của hầu hết các NHTM. - Khuyến khích khách hàng: hứa cho vay, số tiền vay tăng dần và mức giá ưu đãi cho những khách hàng trả tiền vay đúng hạn. Kinh nghiệm của những ngân hàng thành công trong thu hồi vốn cho thấy: các ngân hàng quản lý khách hàng hoàn trả các khoản vay thông qua thế chấp tài sản hoặc qua nhóm liên đới thống nhất, có những chính sách khuyến khích bằng tiền hoặc có những hình phạt đối với cả nhân viên và khách hàng nhằm khuyến khích trả đúng hạn, có hệ thống quản lý thông tin hoàn hảo, điều này cho phép theo dõi hoạt động của các món vay cũng như thi hành và quản lý có hiệu quả hệ thống khuyến khích. Một điều quan trọng là mức thu nhập và việc tái tạo thu nhập của các hộ vay vốn là yếu tố chính quyết định tính hiệu quả hay phương thức hoạt động của bất cứ tổ chức tài chính nào. 1.2.3.2. Chính sách cho vay đối với hộ nghèo của NHCS: Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của mọi ngân hàng. Đối với NHCS, việc mở rộng cho vay đối với hộ nghèo để ngày càng có nhiều người nghèo được tiếp cận tới vốn của ngân hàng càng có ý nghĩa quan trọng. Mặc dù mục tiêu hoạt động của ngân hàng không phải vì tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu nhưng việc duy trì hoạt động của ngân hàng một cách bền vững để cung ứng vốn lâu dài cho hộ nghèo là một mục tiêu cần đạt được của ngân hàng. Mục tiêu này có đạt được hay không phụ thuộc chủ yếu và chính sách cho vay của ngân hàng. Đây là cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ ngân hàng. Về phương thức cho vay. Để vốn vay đến tay các hộ nghèo, ngân hàng thường sử dụng hai phương thức chủ yếu là cho vay theo nhóm và cho vay cá nhân. Cho vay theo nhóm: Đặc điểm của hộ nghèo, không có các tài sản có giá trị để thế chấp khi đi vay nên họ không thể tiếp cận được với những nguồn vốn của các NHTM khác với những yêu cầu nghiêm ngặt về tài sản thế chấp. Để khắc phục điều này, NHCS chấp nhận cho vay theo nhóm thông qua sử dụng nhóm là công cụ bảo lãnh cho vốn vay của các thành viên trong nhóm đó. Hình thức này được ngân hàng áp dụng rộng rãi ở các khu vực đô thị. Bắt đầu và phổ biến ở Châu Mỹ La tinh và hiện đang được mở rộng ra ở Châu phi và Châu á. Với phương pháp này, 3 đến 4 người là bạn bè hoặc đồng nghiệp đại diện hộ có thể thành lập một nhóm để vay vốn. Mỗi thành viên được nhận một phần của khoản vay để sử dụng theo mục đích riêng của mình và các thành viên trong nhóm bảo lãnh lẫn cho nhau. Điều này có nghĩa họ cùng chịu trách nhiệm về khoản vay của nhóm. Trong trường hợp nếu trong tháng có một thành viên gặp khó khăn và không có khả năng hoàn trả vốn vay thì các thành viên khác phải chịu trách nhiệm hoàn trả phần vốn vay, nếu không thì khoản vay của cả nhóm sẽ bị coi là quá hạn. Sau đó, thành viên gặp khó khăn sẽ hoàn trả lại số vốn các thành viên đã trợ giúp. Theo phương thức này, NHCS sẽ không phải theo dõi thu hồi nợ quá hạn hàng kỳ mà nhóm vay vốn sẽ chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ này. ở một số nước như Bangladesh (Ngân hàng Grameen), nhóm này được gọi là trung tâm. Hàng tuần, cán bộ tín dụng của ngân hàng sẽ xuống làm việc, trao đổi với nhóm và thực hiện giải ngân vốn cho vay. Như đã phân tích, cho vay theo nhóm có ưu điểm quan trọng là sử dụng sức ép của những thành viên trong nhóm thay thế cho tài sản thế chấp vì các thành viên không muốn bỏ rơi các thành viên khác trong nhóm hoặc không muốn phả chịu bất kỳ hình phạt nào vì sự chậm trả. Nếu thấy nguyên nhân chậm trả của thành viên là hợp pháp (gia đình có người bị ốm, bị mất trộm…) thì các thành viên khác sẽ sẵn sàng giúp đỡ cho đến khi khó khăn được giải quyết. Một lợi thế khác của cho vay theo nhóm là giảm chi phí giao dịch của ngân hàng thông qua chuyển việc xem xét và giám sát cho nhóm. Nhược điểm của cho vay theo nhóm là tác động dây chuyền dẫn đến mất khả năng hoàn trả của nhóm bởi các nguyên nhân khách quan như mất mùa, hạn hán… Cho vay cá nhân, từng hộ: Đối tượng cho vay vẫn là hộ nghèo, nhưng không thực hiện cho vay theo nhóm như trên. Do khách hàng không có tài sản thế chấp nên ngân hàng chấp nhận tài sản thế chấp không mang tính truyền thống như các NHTM (ví dụ: cày, bừa, máy khâu…) hoặc bảo lãnh của bên thứ ba (họ hàng, bạn bè, tổ chức xã hội…). Vì giá trị của những tài sản này không cao và không dễ bán để thu nợ nên ngân hàng không thu nợ từ việc bán hay thu hồi tài sản thế chấp mà chỉ sử dụng tài sản thế chấp để tránh việc lạm dụng vốn vay. Để xác định quy mô vốn cho vay, cán bộ tín dụng thường tiến hành lập một bản luân chuyển vốn đơn giản của hộ. Một công cụ quan trọng mà ngân hàng sử dụng để đảm bảo an toàn cho vay là kiểm tra uy tín của khách hàng qua hàng xóm của họ, qua chính quyền địa phương hoặc những ngân hàng đã cho họ vay vốn. Cho vay cá thể đòi hỏi sự liên hệ thường xuyên và gần gũi của cán bộ tín dụng với khách hàng để biết tình hình sử dụng vốn và đánh giá khả năng hoàn trả của khách hàng. Về thời hạn cho vay và chu kỳ hoàn trả: Xác định thời hạn cho vay là xác định khoảng thời gian người vay được sử dụng và hoàn trả toàn bộ món vay (trả gốc và lãi vay). Nếu ngân hàng xác định thời hạn cho vay càng gần với nhu cầu đầu tư và kinh doanh của khách hàng thì khách hàng càng có khả năng sử dụng món vay dễ dàng và có cơ hội hoàn trả món vay đầy đủ và đúng hạn bấy nhiêu. Mặt khác, cho vay hộ nghèo với thời hạn ngắn sẽ giúp đơn giản hoá trong việc lập phương án xin vay của khách hàng. Về chu kỳ hoàn trả, việc hoàn trả tiền vay có thể thực hiện làm nhiều lần (hàng tuần, hai tuần một lần hay hàng tháng) hoặc trả tổng cộng một khoản vào cuối kỳ hạn vay. Tuy vậy, hình thức hoàn trả được đánh giá cao là trả nhiều lần theo định kỳ thường xuyên (tuần, tháng), mỗi lần bao gồm cả gốc và lãi theo phương châm “cháo nóng húp vòng quanh, công nợ trả dần”. Tần số trả tiền vay phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng vay, khả năng quản lý của ngân hàng. Ưu điểm của hình thức này là: - Giúp khách hàng dễ kiếm những món nhỏ để trả nợ; - Khi kết thúc thời hạn vay còn tài sản mua sắm được từ vốn vay; - Kích thích khách hàng năng động trong việc sử dụng vốn, biết tính toán làm ăn và chi tiêu; - Hạn chế rủi ro mất vốn cho ngân hàng; - Vốn quay vòng nhanh nên nhiều người sẽ được vay hơn; - Đảm bảo mối quan hệ thường xuyên giữa ngân hàng và khách hàng… Về lãi suất vốn vay: Hiện có hai quan điểm trái ngược nhau về lãi suất cho vay đối với người nghèo. Quan điểm thứ nhất cho rằng cho người nghèo đói vay vốn phải được hiểu như một nội dung của chính sách xã hội, do vậy nên lãi suất cho vay phải là lãi suất ưu đãi, là mức lãi suất thấp hơn lãi suất thương mại trên thị trường. Quan điểm thứ hai thì hoàn toàn ngược lại. Các món cho vay đối với người nghèo đã được cung ứng bởi nhiều hình thức khác nhau và người ta dễ dàng thấy người nghèo vay vốn hoàn trả sòng phẳng và lại vay món mới của những người cho vay nặng lãi với mức lãi suất cao hơn rất nhiều so với mức lãi suất mà các trung gian tài chính đưa ra. Hộ nghèo vay vốn với những món vay nhỏ thường có xu hướng giữ nguyên mức vốn vay ngay cả khi lãi suất tăng. Điều này cho thấy rằng trong một phạm vi nào đó, họ không phải là đối tượng khách hàng có tính nhạy cảm cao với lãi suất. Trên thực tế, người ta sẵn sàng trả mức lãi suất cao để có thể được hưởng các dịch vụ tốt hơn, bao gồm: tính sẵn có của dịch vụ, thủ tục đơn giản, vay tiền được nhanh…là điều khách hàng là hộ nghèo cần nhất. Các chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi thường: - Không đủ trang trải các chi phí liên quan đến món vay; - Tạo ra tâm lý ỷ lại, tính toán làm ăn không cẩn then và kém năng động cho người người sử dụng vốn vay; - Tạo ấn tượng cho rằng chương trình nghiêng về phúc lợi hơn là cho vay, thậm chí người vay thấy không cần thiết phải trả nợ; - Lãi suất ban đầu thấp nếu sau đó muốn nâng lên sẽ rất khó; - Lựa chọn sai khách hàng (hộ nghèo), tranh giành vốn vay, tăng nhu cầu vốn giả tạo, tiêu cực trong cho vay; - Không tạo sự bình đẳng giữa người nghèo và mọi khách hàng vay vốn khác, thậm chí ngầm coi người nghèo là người hèm kém luôn phải bao cấp, ”cứu giúp”… Đối với các NHCS, bền vững tài chính là mục tiêu đạt được không dễ dàng. Yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự bền vững về tài chính là khả năng tự trang trải các chi phí trong quá trình hoạt động (lãi suất cho vay = lãi suất huy động + chi phí của ngân hàng + lợi nhuận hợp lý). Chính sách về lãi suất cho vay liên quan đến vẫn đề này. Hoạt động của NHCS không phải là hoạt động từ thiện mà bản chất đó vẫn là một ngân hàng. Kinh doanh để đạt được sự bền vững và có bền vững mới có thể tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách có cơ hội tiếp cận lâu dài với các dịch vụ ngân hàng. Mục đích của ngân hàng là giúp người nghèo thực sự cần vay để thoát khỏi đói nghèo, chứ không phải họ cần vay với lãi suất thấp nhưng chỉ thực hiện một vài lần vay. Các hình thức đảm bảo tiền cho vay: Về nguyên tắc, ngân hàng tài trợ dựa trên uy tín của khách hàng. Đối với khách hàng truyền thống, có uy tín, ngân hàng cho vay không cần ký hợp đồng đảm bảo; trong trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn, ngân hàng đòi hợp đồng đảm bảo. Các đảm bảo của khách hàng nhằm hạn chế bớt các thiệt hại cho ngân hàng khi khách hàng có khó khăn không trả được nợ. Đối tượng cho vay của NHCS là các đối tượng chính sách, chủ yếu là người nghèo, những người thường có rất ít tài sản. Do vậy, yêu cầu về những tài sản thế chấp thông thường như đất đai, nhà cửa, máy móc và các tài sản khác là không thích hợp. Cho vay của NHCS trong trường hợp này dựa trên uy tín của chính người đi vay, cho vay không cần tài sản đảm bảo. Một số hình thức được sử dụng để thay thế cho tài sản thế chấp như: Nhóm liên đới: Theo hình thức cho vay theo nhóm và các thành viên trong nhóm tham gia vào việc đảm bảo món vay của những người khác trong nhóm. Sự đảm bảo này có thể là đảm bảo ngầm, có nghĩa là những thành viên khác trong nhóm sẽ không tiếp cận được tới món vay nếu tất cả các thành viên trong nhóm không hoàn trả đúng hạn; hoặc là đảm bảo thực sự, trong đó các thành viên trong nhóm sẽ phải chịu trách nhiệm nếu những thành viên khác trong nhóm chậm trả. ở một số nước, ngân hàng yêu cầu các thành viên trong nhóm đóng góp vào quỹ đảm bảo của nhóm, và quỹ này sẽ được sử dụng trong trường hợp một hoặc nhiều thành viên không trả được nợ. Sử dụng quỹ của nhóm đôi khi là theo ý muốn của chính bản thân nhóm đó và đôi lúc do chính ngân hàng quyết định. Nếu theo ý muốn của nhóm thì nhóm đó thường cho các thành viên của mình, những người không thể hoàn trả món vay, vay tiền từ quỹ này. Thành viên nào vay tiền từ quỹ phải có trách nhiệm hoàn trả cho quỹ. Nếu quỹ sử dụng theo yêu cầu của ngân hàng thì quỹ này sẽ bị tịch thu tuỳ theo quy mô của món nợ không thanh toán được, có nghĩa là các thành viên trong nhóm sẽ bồi thường cho những thâm hụt tạm thời. Nếu việc này không thành công thì toàn bộ nhóm sẽ không được vay vốn nữa. Cho vay dựa trên uy tín và tính cách: Ngân hàng cho vay dựa trên danh tiếng tốt của khách hàng trong cộng đồng. Để đánh giá được điều này thì cán bộ tín dụng phải tới thăm nơi khách hàng sống, hỏi mọi người xung quanh về đặc điểm cũng như hành vi đối xử của khách hàng. Đồng thời, trong quá trình khách hàng sử dụng vốn nay thì cán bộ tín dụng tiến hành viếng thăm thường xuyên để đảm bảo rằng khách hàng vẫn đang duy trì hoạt động kinh doanh và sẽ hoàn trả món vay. Viếng thăm giúp ngân hàng hiểu rõ hơn về hoạt động kinh doanh của khách hàng và tính phù hợp của món vay (về số tiền, thời hạn cho vay, kỳ hạn nợ…). Những cuộc thăm viếng như vậy cũng làm tăng sự tôn trọng đôi bên giữa khách hàng và nhân viên tín dụng. Nhìn chung, cho vay món nhỏ là các món vay “tư cách”, ngân hàng đánh giá tính cách của người vay và đưa ra quyết định ai sẽ dược vay. Bên cạnh những hình thức ngân hàng sử dụng để thay thế cho tài sản thế chấp thì ở một số nước vẫn có những hình thức thế chấp cho món vay như: Tiết kiệm bắt buộc: Theo đó, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có số dư trên tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng. Gọi là tiết kiệm bắt buộc vì tiền trên tài khoản tiết kiệm sẽ không được rút nếu như món vay vẫn còn dư nợ. Do vậy tiết kiệm bắt buộc được coi như một hình thức thế chấp một phần cho món vay. Do yêu cầu phải tiết kiệm, người vay không được phép sử dụng số tiền đó để đầu tư vào hoạt động kinh doanh hay một hoạt động tạo ra thu nhập nào khác. Tiết kiệm bắt buộc có thể sẽ có tác động tích cực đến khách hàng thông qua việc dàn xếp cách thức tiêu dùng của họ và cấp vốn trong những trường hợp khẩn cấp nếu người vay có thể được rút khoản tiết kiệm. Hầu hết các khoản tiết kiệm bắt buộc đều có thể rút vào cuối thời hạn vay nếu như món vay đã được hoàn trả đầy đủ. Khi đó, khách hàng sẽ có thêm một khoản tiền để đầu tư hay tiêu dùng vào cuối thời hạn vay. Tiết kiệm bắt buộc cũng cung cấp một phương thức tích luỹ của cải cho khách hàng. Đối với ngân hàng, tiết kiệm bắt buộc tạo nguồn cho vay và quỹ đầu tư cho ngân hàng, là một nguồn khá ổn định. Bảo lãnh của bên thứ ba: thông qua bảo lãnh của bạn bè, họ hàng, theo đó món vay sẽ được những người bảo lãnh thanh toán nếu khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng. 1.3. Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCS 1.3.1. Các chỉ tiêu đo lường mức độ mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCS: Tăng số lượng hộ nghèo được vay vốn ngân hàng: Đối với một ngân hàng hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa giá trị vốn chủ sở hữu, việc tăng số lượng khách hàng vay vốn là một trong những tiêu chí quan trọng làm tăng doanh thu của ngân hàng, giúp ngân hàng đạt được mục tiêu sinh lời. Đối với NHCS phục vụ các đối tượng chính sách mà ở đây là hộ nghèo, trong điều kiện còn vô số hộ nghèo chưa được tiếp cận với vốn chính thức của ngân hàng, nhu cầu vốn xóa đói giảm nghèo ngày càng gia tăng thì tiêu chí tăng số lượng hộ nghèo được vay vốn là chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá nỗ lực của NHCS trong mở rộng cho vay. NHCS cần khai thác triệt để các kênh dẫn vốn để các hộ nghèo có đủ điều kiện được vay vốn ngân hàng cũng như được hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả. Như đã phân tích, vốn được chuyển tới hộ nghèo theo hai phương thức là trực tiếp và thông qua ủy thác. Đối với hộ nghèo, vốn sẽ được chuyển đến đúng đối tượng là hộ nghèo thông qua các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể tại địa phương nơi hộ nghèo sinh sống. Số hộ nghèo được vay vốn ngân hàng tăng lên hàng năm đồng nghĩa với khối lượng công việc ngân hàng phải giải quyết cũng sẽ tăng thêm, rủi ro tín dụng đối với vốn cho vay càng cao. Việc tăng số lượng khách hàng trên mỗi nhân viên tín dụng phải cân bằng với khả năng của họ trong việc cung cấp một mức độ phù hợp vốn vay cho khách hàng và đảm bảo thu hồi được gốc và lãi vay. Mức tăng dư nợ cho vay đối với hộ nghèo: Chỉ tiêu thứ hai đánh giá nỗ lực của ngân hàng trong mở rộng cho vay hộ nghèo là tăng dư nợ cho vay đối với hộ nghèo. Dư nợ cho vay của ngân hàng đối với hộ nghèo là chỉ tiêu phản ánh số tiền ngân hàng hiện đang cho vay hộ nghèo tính đến thời điểm cụ thể. Chỉ tiêu này được xem xét trên hai giác độ là dư nợ cho vay hộ nghèo của ngân hàng và dư nợ cho vay bình quân một hộ nghèo. Khi ngân hàng gia tăng được số lượng hộ vay vốn thì mức dư nợ của ngân hàng sẽ tăng. Mức tăng dư nợ cho vay hộ nghèo phụ thuộc vào nỗ lực của ngân hàng trong việc tăng số hộ được vay, tăng quy mô món vay, và tăng số lần được vay vốn của mỗi hộ. Chỉ tiêu dư nợ cho vay có quan hệ với chỉ tiêu doanh số cho vay. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Thông thường, đối với hộ nghèo, những món vay đầu tiên bao giờ cũng là món vay nhỏ. Khách hàng của ngân hàng là những hộ nghèo, thiếu kinh nghiệm sử dụng vốn vay và quản lý tiền vay nên khi nhận được một khoản tiền lớn đầu tiên họ sẽ bỡ ngỡ trong việc sử dụng và hiệu quả sử dụng không cao, lãng phí vốn. Với những món vay nhỏ, không những hộ nghèo có thể thấy được liệu món vay có thể giúp được công việc của họ tiến triển hay không mà còn giúp ngân hàng kiểm tra chất lượng hoàn trả của khách hàng. Một số quan điểm còn cho rằng món vay nhỏ ban đầu có tác dụng lựa chọn đúng đối tượng là hộ nghèo. Sau những món vay nhỏ đầu tiên, phần thưởng cho những hộ sử dụng và hoàn trả món vay tốt là được vay những món vay lớn hơn. Trước khi cho vay tiếp, ngân hàng xem xét mức cho vay lần trước là bao nhiêu, thu nhập bình quân của khách hàng đạt được vì nó liên quan đến việc hoàn trả món vay lớn hơn sau này. Tăng số lần được vay vốn đối với hộ nghèo. Trong điều kiện có nhiều hộ nghèo lần đầu tiên được tiếp cận với vốn của ngân hàng, mục tiêu của ngân hàng không chỉ là giúp hộ có vốn sản xuất mà phải sử dụng vốn đó hiệu quả và thoát nghèo. Đây là một quá trình không đơn giản. Để có thể thoát khỏi nghèo đói, hộ nghèo cần được tiếp cận tới các dịch vụ của ngân hàng trong suốt cuộc đời mình chứ không chỉ một lần hoặc trong chu kỳ của một dự án. Các số liệu thống kê cho thấy phải cần đến 5-6 khoản vay cho mục đích sản xuất thì hộ mới thực sự cải thiện rõ rệt về tình hình kinh tế của mình. Một mặt khi ngân hàng tăng được dư nợ cho vay tức là đã tăng loại tài sản mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến cung về vốn của ngân hàng tăng lên nên ngân hàng phải thường xuyên dự đoán nhu cầu thanh khoản (thanh toán lãi và gốc vốn huy động đến hạn, giải ngân các hợp đồng tín dụng đã ký kết…) để có kế họach đảm bảo ngân quỹ hợp lý. Hơn nữa, cho vay hộ nghèo với lĩnh vực chủ yếu là cho vay tiêu dùng, sản xuất nhỏ và sản xuất nông nghiệp nên rủi ro mất vốn cao hơn so với các lĩnh vực cho vay khác, do vậy sẽ tác động đến thu nhập của ngân hàng. Ngân hàng phải thường xuyên đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến món vay, trích quỹ dự phòng tổn thất với tỷ lệ tương đối cao… Đa dạng hóa các lĩnh vực cho vay của ngân hàng: Để mở rộng cho vay thì ngân hàng phải không ngừng đa dạng hóa các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng. Mục tiêu của NHCS chuyển vốn đến hộ nghèo là hướng người vay sử dụng vốn vào mục đích phát triển sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, phổ biến là chăn nuôi, trồng trọt, buôn bán, cung ứng dịch vụ, làm nghề thủ công truyền thống…Thậm chí ngân hàng còn cho hộ nghèo vay để trả nợ và tiêu dùng trong gia đình. Tùy điều kiện và thế mạnh của từng địa phương, gia đình mà cán bộ ngân hàng cần có những tư vấn cho hộ nên sử dụng vốn vào mục đích nào có hiệu quả, đầu tư vào những lĩnh vực không bị phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện tự nhiên. Qua đó, vốn vay sử dụng hiệu quả, đảm bảo khả năng quay vòng vốn để tiếp tục cho vay của ngân hàng. Giảm nợ quá hạn trong cho vay hộ nghèo của ngân hàng: Chỉ tiêu nợ quá hạn thể hiện thông qua tổng nợ quá hạn trong và tỷ lệ nợ quá hạn trong từng thời kỳ. Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng của ngân hàng. Khi khoản vay của khách hàng đến hạn trả theo Hợp đồng tín dụng mà chưa được trả thì sẽ bị chuyển thành nợ quá hạn. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả nợ đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản. Một bộ phận của nợ quá hạn mà ngân hàng phải quan tâm đặc biệt là nợ khó đòi, đó là một lời cảnh báo cho ngân hàng rằng hy vọng thu lại tiền cho vay trở nên mong manh, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Nợ quá hạn tăng sẽ làm giảm khả năng tài chính của ngân hàng trong mở rộng cho vay vì khi đó vốn bị thất thoát, kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng không đảm bảo ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Cho vay hộ nghèo với đối tượng khách hàng rộng lớn, vốn vay để tiêu dùng và đưa vào sản xuất nhỏ, sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng thấp kém nên không thể tránh khỏi nợ quá hạn. Đối với các món cho vay hộ nghèo, việc ngân hàng áp dụng các biện pháp “phạt tài chính” như chuyển nợ quá hạn, áp dụng lãi phạt, ngừng không giải ngân tiếp vốn cho vay… thường không mạng lại hiệu quả mong muốn bằng việc đánh giá từng bước tình hình sử dụng vốn của hộ, phân tích nguyên nhân nảy sinh rủi ro, cùng hộ tìm biện pháp giải quyết. Đối với phần lớn hộ nghèo không thể trả được nợ do thất bại trong làm ăn do các nguyên nhân khách quan hoặc do chưa có kinh nghiệm sản xuất kinh doanh thì ngân hàng cần có biện pháp hỗ trợ. Trong khi đó, những hộ sử dụng vốn vay sai mục đích, cố ý chây lỳ không trả nợ thì ngân hàng cần áp dụng các biện pháp phát như trên. Bên cạnh những nguyên nhân từ phía hộ nghèo cũng có nguyên nhân từ phía ngân hàng như xác định kỳ hạn trả nợ không đúng với nhu cầu sử dụng vốn nên khi đến hạn dĩ nhiên hộ sẽ không trả được nợ, gây ra nợ quá hạn. 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCS: 1.3.2.1. Nhận thức đúng về người nghèo và cho vay đúng đối tượng là hộ nghèo: Đói nghèo không phải là sản phẩm của người nghèo mà là sản phẩm tất yếu của tồn tại xã hội, chính cái “tồn tại xã hội” ấy là tác nhân kìm hãm xã hội phát huy khả năng làm ăn của một bộ phận cộng đồng mà đói nghèo đã ngự trị họ. Hiện nay có hai quan điểm trái ngược nhau về người nghèo: Một là, người nghèo là người hèn kém, không biết làm ăn nên qua bao đời luôn thất bại trong cuộc sống nên cần phải cứu giúp họ. Quan điểm này đứng từ trên nhìn xuống, coi thường người nghèo, muốn đưa tay cứu vớt họ nhưng không tin tưởng ở họ dẫn đến hạn chế khai thác tiềm năng của người nghèo. Hai là, người nghèo cũng là con người, cũng được sinh ra như những người khác, họ nghèo chẳng qua là vì họ thiếu cơ hội để làm những điều mà người khá giả làm được. Đói nghèo đã cướp đi quyền con người của họ. Cái họ thiếu là cơ hội, nếu cho họ tiếp cận được những thứ này thì họ có thể làm được những điều mà người giàu làm được và thoát nghèo. Cơ hội đối với người nghèo có thể được xem là sự kết hợp giữa hai yếu tố: sở hữu tài sản (hoặc ít nhất được tiếp cận với tài sản) và thu nhập có được từ những tài sản đó. Nhiều khi tài sản chính của người nghèo chỉ là sức lao động, nếu không có được những công việc được trả lương tốt thì một mình tài sản này không đủ để đảm bảo thu nhập cho cả hộ. Quan điểm này tôn trọng người nghèo, đặt niềm tin vào họ nên đã giúp họ phát huy khả năng của mình và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng. Thực tế cho thấy quan điểm thứ hai về người nghèo là đúng đắn. Người nghèo nhìn chung đều có khả năng và biết làm ăn, có tính tự trọng và muốn vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Như vậy, để giúp cho người nghèo thoát nghèo và giảm bớt gánh nặng cho xã hội thì phải tạo cho họ khả năng tiếp cận tới các nguồn lực, trong đó vốn cho người nghèo sản xuất kinh doanh được coi là “điểm nút” để phá rào cản của đói nghèo. Tuy vậy, để vốn này được chuyển tới đúng đối tượng là hộ nghèo không phải dễ dàng. Cho vay bao cấp của Chính phủ đã dẫn đến tình trạng lựa chọn người vay bị sai lệch, những người khá giả có nhiều mối quan hệ hơn, được tin tưởng hơn thường cố gắng tìm mọi cách để tiếp cận đến nguồn vốn rẻ và vì vậy mà người nghèo thường khó chen vào các chương trình này. Không những thế, cho vay theo hình thức này chính là nguyên nhân làm cho người vay chuyển vốn vay cho các mục tiêu khác dẫn đến kết cục là vốn được cung ứng cho các hoạt động kinh tế thứ yếu và nhiều khi không cần thiết. Hậu quả là xói mòn vốn của ngân hàng, không đủ để cung cấp vốn cho các hộ nghèo khác nữa. Kinh nghiệm của các chương trình cho vay đối với hộ nghèo đạt được thành công cho thấy cho vay món nhỏ, thời gian ngắn sẽ giúp ngân hàng lựa chọn đúng đối tượng cần phục vụ của mình. Nếu NHCS nhận thức đúng đắn về hộ nghèo, quan trọng là nhận thức của các cán bộ ngân hàng - người chuyển vốn trực tiếp đến khách hàng - một cách tích cực về khả năng sử dụng vốn và trách nhiệm của hộ trong việc hoàn trả thì họ sẽ tâm huyết và vượt qua mọi vất vả trong cho vay, vốn được chuyển đến hộ nghèo nhiều hơn, không những vậy họ còn giúp đỡ tận tình hộ nghèo sử dụng vốn hiệu quả. Ngược lại cán bộ nhận thức theo hướng tiêu cực về khả năng và trách nhiệm của hộ nghèo thì họ sẽ không nhiệt tình trong việc chuyển vốn đến khách hàng, nhất là những hộ ở vùng sâu, xa, chưa nói gì đến hiệu quả của vốn đó được sử dụng như thế nào. Nhận thức của ngân hàng cùng tâm huyết và trách nhiệm của cán bộ ngân hàng góp phần quan trọng vào việc lựa chọn đúng đối tượng cần vay vốn. 1.3.2.2. Chính sách lãi suất của ngân hàng: Một vấn đề mà bất kỳ ngân hàng nào khi cho vay đối với hộ nghèo phải cân nhắc là đối với người nghèo, khả năng tiếp cận vốn quan trọng hơn lãi suất vốn vay rất nhiều. Phải có vốn thì hộ nghèo mới có thể thoát nghèo bằng chính sức lao động của họ. Điều này đã được kiểm chứng về lý thuyết và trên thực tiễn. Cho đến nay chưa có hộ nghèo nào cần vốn mà từ chối vốn ngân hàng cho vay với lãi suất thị trường. Lãi suất là giá cả của tín dụng, nó phải bao hàm mọi chi phí liên quan đến việc quản lý và sử dụng vốn vay. Đặc biệt khi đối tượng vay vốn là các hộ nghèo vốn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro thì về nguyên tắc, lãi suất cho vay hộ nghèo phải cao hơn lãi suất cho vay đối với các đối tượng khách hàng khác. Các NHCS thường nhận được nhiều ưu đãi về vốn của các Chính phủ (được cấp vốn từ NSNN, tiếp nhận vốn từ các Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo…), điều này cũng giúp ngân hàng giảm được chi phí cho vay hộ nghèo, cụ thể là tiết kiệm được chi phí huy động vốn. Đứng trên giác độ NHCS, chừng nào ngân hàng có thể trang trải đủ các chi phí trong cho vay hộ nghèo thì khả năng mở rộng cho vay đến hộ nghèo của ngân hàng mới lâu dài và chắc chắn. Rất nhiều trung gian tài chính đã chứng tỏ họ có thể trang trải các chi phí bằng doanh thu từ lãi cho vay và phí. Thậm chí một số trung gian tài chính còn hoạt động có lãi thự._.ớc trên thế giới chỉ ra rằng: Lãi suất cho vay đối với người nghèo cần được quyết định dựa trên hai nguyên tắc có liên quan mật thiết tới nhau: (i) chúng phải được thiết lập trên cơ sở lãi suất thị trường như là cơ sở quan trọng nhất cho sự tồn tại của tổ chức, và (ii) chúng phải được phân loại dựa theo chi phí và các dịch vụ được cung cấp. Tất cả các tổ chức tài chính phải tự chủ được trong việc quyết định lãi suất, lãi suất không được bao cấp, nếu có hỗ trợ từ bên ngoài, tiền trợ cấp có thể được dùng vào việc đào tạo và xây dựng tổ chức, chứ không nên dùng cho bao cấp về lãi suất cho vay. Lãi suất thị trường cần phải bao gồm 4 thành phần: chi phí vốn, chi phí giao dịch hay quản lý, thành phần rủi ro (dự trữ cho nợ khó đòi) và lợi nhuận dự kiến thu được. Việc xóa bỏ trợ cấp và nới lỏng các quy định về lãi suất là điều kiện tiên quyết để NHCSXH hoạt động bền vững. Tuy nhiên, việc này không thể thực hiện được ngay một lúc, cần có lộ trình thích hợp. Bước đầu tiên là NHCSXH phải tách bạch được các bộ phận trong lãi suất cho vay của ngân hàng, cụ thể lãi suất huy động, chi phí bù đắp rủi ro và các chi phí quản lý khác. Lãi suất trong thời gian tới phải bù đắp lãi suất huy động vốn và chi phí bù đắp rủi ro, còn Nhà nước sẽ cấp bù các chi phí quản lý khác của ngân hàng. Sau một thời gian, mức độ bao cấp về chi phí sẽ giảm dần, mức giảm này sẽ được tính vào thành phần của lãi suất cho vay. Thứ ba, các biện pháp đảm bảo cho việc hoàn trả vốn vay đầy đủ và đúng hạn Mục tiêu của ngân hàng là đưa vốn đến được với càng nhiều hộ nghèo càng tốt. Cho dù ngân hàng có sử dụng bao nhiêu biện pháp để huy động vốn đi chăng nữa thì cũng không đủ nếu vốn cho vay của ngân hàng không được bảo toàn và phát triển. Việc cho vay của NHCSXH nói chung và các trung gian tài chính nói riêng sở dĩ được coi là ưu việt hơn bất kỳ hình thức trợ cấp hay cấp phát vốn nào chính là ở tính chất quay vòng của khoản vốn, vốn cho vay được trả lại ngân hàng và vốn đó lại dùng cho những người khác vay. Hộ nghèo được hưởng rất nhiều ưu đãi so với các đối tượng khác khi vay vốn ở NHCSXH. Chẳng hạn ưu đãi về lãi suất, về mức vốn vay, về thủ tục vay… nên việc đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn vốn vay là điều tất nhiên hộ nghèo phải tuân thủ. Đồng thời, xây dựng cho hộ nghèo ý thức hoàn trả vốn vay đúng hạn và đầy đủ sẽ có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của hộ khi sử dụng vốn, lựa chọn cách sử dụng vốn có hiệu quả để có tiền trả nợ ngân hàng. NHCSXH có thể tham khảo một số biện pháp sau: Cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH là cho vay không cần tài sản thế chấp nhưng phải trên cơ sở thiết lập tổ Tiết kiệm và vay vốn. Tổ này bao gồm những hộ nghèo có cùng hoàn cảnh, sống gần nhau tại các thôn, xóm, có từ 3 đến 50 thành viên tư nguyện tham gia. Tổ có quy ước cộng đồng trách nhiệm về vay vốn và trả nợ ngân hàng, được UBND xã công nhận và cho phép hoạt động. Hình thức này được áp dụng từ NHNg đến khi là NHCSXH sau này. Về nguyên tắc, cho vay thông qua Tổ tiết kiệm và vay vốn là sử dụng sức ép của những thành viên trong tổ thay thế cho tài sản thế chấp vì các thành viên không muốn bỏ rơi các thành viên khác hoặc không muốn phả chịu bất kỳ hình phạt nào vì sự chậm trả. Trong trường hợp nếu có một thành viên gặp khó khăn và không có khả năng hoàn trả vốn vay thì các thành viên khác phải chịu trách nhiệm hoàn trả phần vốn vay, nếu không thì khoản vay của cả tổ sẽ bị coi là quá hạn. Tuy nhiên, tại NHCSXH hiện nay, vai trò bảo lãnh của Tổ tiết kiệm và vay vốn vẫn chưa được phát huy trong việc nâng cao khả năng hoàn trả của các thành viên trong tổ. Dù một phần lãi suất cho vay hộ nghèo được NHCSXH chia cho Tổ để thúc đẩy hoạt động hỗ trợ của tổ đối với ngân hàng, song khi xảy ra tình trạng không trả được nợ đến hạn thì ngân hàng vẫn là bên chịu tất cả rủi ro. Do vậy, một đề xuất ở đây là NHCSXH nên đề nghị Chính phủ cần xem xét, cân nhắc về tư cách pháp nhân của các tổ, nhóm. Điều này sẽ cho phép ngân hàng cho vay các nghèo qua tổ nhóm với tư cách pháp lý đầy đủ, xác định rõ quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức này. Trên thực tế, trước đây NHNo đã thành công trong việc sử dụng nhóm để lợi dụng một số đặc điểm của cộng đồng dân cư tại các làng và xã, qua đó gây sức ép trả nợ đối với khách hàng vay vốn hơn là vì mục đích giảm chi phí hoạt động hay giảm khối lượng công việc cho các cán bộ tín dụng. Trong một số trường hợp, NHNo đã đình chỉ cho vay cả nhóm khi một số thành viên khác trong nhóm không trả được nợ. Điều này buộc một số thành viên của nhóm phải trả thay cho những người chây ì không trả nợ. Hiện nay NHCSXH đang áp dụng phương thức thu hồi gốc một lần vào cuối thời hạn tín dụng. Hình thức này có vẻ phù hợp với những hoạt động theo mùa của hộ vay, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, sẽ gây ra rủi ro mất vốn đối với ngân hàng nếu vụ mùa bị thất bát dẫn đến mất mùa. Trên thực tế các chương trình tín dụng có khả năng thu hồi vốn cao cho thấy hoàn trả định kỳ là phương pháp thích hợp hơn so với hoàn trả một lần. Số tiền mà hộ nghèo phải hoàn trả mỗi kỳ bao gồm cả gốc và lãi và là một khoản tiền cố định. Tất nhiên, ngân hàng cũng phải tính toán cẩn thận thời điểm hình thành thu nhập để khách hàng có nguồn trả nợ, tránh tính trạng nợ chồng chất. Nhờ đó, hộ có kế hoạch trả nợ cụ thể và dễ dàng trả nợ ngân hàng hơn là trả một khoản tiền lớn một lúc. Đồng thời, đến cuối thời hạn tín dụng, số tiền hộ tiết kiệm được sẽ lớn hơn vì nợ đã được trả gần hết trong kỳ, làm vốn cho kỳ sản xuất tiếp theo. Về phía ngân hàng có thể thu hồi vốn nhanh hơn, đồng thời sẽ tận dụng và nâng cao được trách nhiệm của các Tổ tiết kiệm và vay vốn trong thu hồi nợ cho ngân hàng. Các tổ chức tài chính nên khuyến khích người vay hoàn trả định kỳ hơn là thực hiện hoàn trả một lần vào cuối kỳ vay, đặc biệt là vì các nông hộ nghèo luôn gặp phải khó khăn khi nắm giữ các khoản tiền tiết kiệm nhỏ. Thêm vào đó, ngân hàng cũng nên có cơ chế khuyến khích hoàn trả đối với những hộ hoàn trả đúng hạn như cho vay với lượng vốn lớn hơn ở kỳ hạn sau. Kinh nghiệm cho vay hộ nghèo tại các nước trong khu vực và các chương trình thí điểm của các NGO cho thấy tỷ lệ hoàn trả khi áp dụng phương pháp hoàn trả định kỳ thường rất cao (trên 95%). Ngoài các biện pháp về nghiệp vụ, để thu hồi vốn vay và nâng cao trách nhiệm của hộ vay vốn, NHCSXH có thể áp dụng một vài biện pháp tác động vào uy tín của hộ trong cộng đồng. Nhìn chung, khách hàng sẽ hoàn trả món vay nếu họ cảm thấy uy tín của mình bị suy giảm trước gia đình, bạn bè và hành xóm. Ngân hàng có thể lợi dụng điều này thông qua việc nêu tên trên báo chí, đài phát thành hay tại các cuộc họp của địa phương những hộ chưa trả tiền vay. Cuối cùng, NHCSXH cần xem xét xoá bỏ việc khoanh nợ và xoá nợ cho các hộ không có điều kiện trả đối với các món cho vay của ngân hàng. Có thể thay thế bằng hình thức đảo nợ hoặc giãn nợ cho các đối tượng này. Đảm bảo triệt để nguyên tắc ‘có vay có trả’, tránh tình trạng các hộ nghèo cố tình hoặc hiểu nhầm là vốn vay của ngân hàng không cần hoàn trả. Đối với các hộ đến hạn nhưng không trả được nợ thì cán bộ ngân hàng phối hợp với Tổ tiết kiệm và vay vốn cần tìm hiểu rõ nguyên nhân hộ không trả được nợ và có biện pháp cụ thể đối với những hộ này. Có thể cho hộ vay thêm để khắc phục khó khăn nhưng nợ cũ vẫn phải trả, kết hợp với tư vấn cho hộ cách làm ăn có hiểu quả hơn. Cuối cùng, đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và tâm huyết với sự nghiệp xóa đói giảm nghèo. Trong lĩnh vực ngân hàng nói chung và NHCSXH nói riêng, vấn đề con người là vấn đề quan trọng nhất, quyết định sự thành công của mọi nhiệm vụ. Cán bộ của NHCSXH trong thời gian tới sẽ tăng lên rất nhiều để đáp ứng nhu cầu cho vay tới càng nhiều hộ nghèo càng tốt. Tuy nhiên, ngân hàng cần quan tâm đến sự không đồng đều về trình độ của cán bộ để có những hướng đào tạo thích hợp. Cán bộ tín dụng cũng như cán bộ quản lý cần được đào tạo sơ lược về ngân hàng, tài chính và đặc biệt phải nhận thức được rằng ngươì nghèo cũng có thể tiết kiệm, vay vốn và hoàn trả đầy đủ. Các kết quả khảo sát và kinh nghiệm thực tế cần được trao đổi, phổ biến nhằm thay đổi thực trạng thiếu lòng tin khi tiến hành giao dịch đối với người nghèo. Để có thể thay đổi được nhận thức về người nghèo thì không chỉ trang bị cho cán bộ những kiến thức cơ bản mà bản thân họ phải có sự tâm huyết đối với công việc của mình. Trong công tác cho vay, cán bộ tín dụng phải tuân thủ đầy đủ các bước cần thiết theo quy chế cho vay trong quá trình thẩm định, xét duyệt và theo dõi khoản vay. Việc cán bộ tín dụng thường xuyên đến thăm khách hàng sẽ giúp đảm bảo rằng khách hàng vẫn đang duy trì hoạt động kinh doanh hay không và mức độ hoàn trả món vay như thế nào. Qua đó, có quyền không cho vay đối với những hộ nghèo không đủ điều kiện hoặc có nghi ngờ về việc lập danh sách của địa phương gửi lên. Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện hơn nữa. Cần soạn thảo các bảng tham khảo nhanh về doanh thu và chi phí dưới hình thức của một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất khác nhau như: chăn nuôi, trồng trọt và các hoạt động kinh tế thông thường khác. Kết quả công viêc của cán bộ tín dụng được đánh giá bởi những tiêu thức: dư nợ; nợ quá hạn, khả năng thu hồi món vay, uy tín, và số ngày làm việc; trong khi đó số khách hàng mà một cán bộ tín dụng quản lý lại không được coi là một tiêu thức đã dẫn đến tình trạng cán bộ tín dụng thích các món vay lớn hơn là việc gia tăng số lượng món vay nhỏ trong tổng dư nợ của họ, điều này sẽ cản trở cho vay đồi với hộ nghèo vốn chỉ vay các món nhỏ. Đối với công tác huy động tiết kiệm, việc tuyển thêm nhân viên nên tập trung tìm những người ở địa phương, quen thuộc với phong tục, văn hoá địa phương và dễ dàng gặp khách hàng khi cần thiết. Theo kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy, định hướng khách hàng tốt và hoà đồng về văn hoá là nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công trong hoạt động huy động tiết kiệm. Việc mở rộng màng lưới cần phải gắn với việc tiêu chuẩn hoá tổ chức cũng như sắp xếp biên chế của ngân hàng. Ví dụ, cần xác định các tiêu chí giới hạn về số lượng khoản cho vay, khối lượng giao dịch hàng ngày, số lượng sổ sách chứng từ mà một mỗi cán bộ tín dụng, kế toán, và thủ quỹ phải xử lý, thực hiện nhằm tránh tình trạng tình trạng quá tải như hiện nay. Để đưa vốn đến tận tay hộ nghèo, ngoài các cán bộ của ngân hàng còn có mạng lưới các Tổ tiết kiệm và vay vốn và sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội, góp phần quan trọng giúp đỡ ngân hàng lựa chọn đối tượng được vay vốn. NHCSXH cần có một chiến lược cụ thể về việc xây dựng, nâng cao năng lực cho đối tác địa phương trong việc thực hiện, quản lý vốn cho vay và huy động tiết kiệm. Đây là công tác vô cùng quan trọng, góp phần quyết định đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. NHCSXH một mặt tận dụng khả năng vận động quần chúng của các tổ chức này, mặt khác cần có chương trình đào tạo, tập huấn tại các xã, huyện, tỉnh về các nghiệp vụ ghi chép sổ sách, tuyên truyền lợi ích của tiết kiệm, của việc thu hồi vốn vay đầy đủ và đúng hạn…Tác động cũng như hiệu quả của hệ thống tín dụng sẽ được cải thiện rõ rệt nếu như cán bộ của các tổ chức xã hội được đào tạo đầy đủ về các hoạt động kinh tế mà là đối tượng tài trợ chủ yếu của các khoản vay, ví dụ: trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm, và cả những hoạt động phi nông nghiệp có tạo thu nhập. Điều này có thể được thực hiện trên cơ sở phối hợp với cơ quan khuyến nông. NHCSXH cần có các biện pháp để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đối tượng này trong quá trình hỗ trợ ngân hàng đánh giá và lựa chọn hộ được vay vốn được chính xác và trong công tác thu hồi vốn cho vay tại địa phương. Trên thực tế, các đối tượng này vẫn được hưởng một phần lãi suất cho vay nên cũng phải có trách nhiệm san sẻ rủi ro mất vốn với ngân hàng. Đồng thời, có chế độ thưởng hoặc phụ cấp cho các đối tượng này nếu họ hoàn thành tốt việc thu hồi vốn tại địa phương, chấp hành nghiêm chỉnh sổ sách kế toán…để khuyến khích họ làm việc tốt hơn. Chừng nào mà NHCSXH còn cho vay không có tài sản thế chấp và chưa mở rộng được mạng lưới hoạt động của mình thì vai trò của các Tổ tiết kiệm và vay vốn và các tổ chức chính trị xã hội vẫn không thể thiếu được đối với ngân hàng. Hình thức ủy thác thông qua NHNo cần được NHCSXH xem xét và đánh giá lại hiệu quả giải ngân vốn. NHCSXH nên tập trung vào việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cộng tác viên là các tổ chức chính trị, xã hội vì về lâu dài, đây mới là nguồn lực hỗ trợ chủ yếu cho hoạt động của ngân hàng. 3.3. Kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH Việt nam Thứ nhất, tập trung sức nâng cao năng lực tài chính cho NHCSXH để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Bộ Tài chính chủ trì cùng Bộ Kế hoạch, đầu tư, NHNN trình Thủ tướng Chính phủ biện pháp tăng vốn Điều lệ cho ngân hàng, hiện nay vốn điều lệ của NHCSXH chỉ mới đạt khoảng 30% mức vốn dự kiến. Theo tính toán nhu cầu vốn của ngân hàng, trong vòng 3 năm tới, ít nhất mỗi năm NSNN cần cấp thêm 1.000 tỷ đồng bổ sung vào vốn Điều lệ cho NHCSXH, nhất là trong điều kiện hiện nay ngân hàng không có Quỹ bổ sung vốn điều lệ. Trong thời gian tới, vốn cho vay của NHCSXH sẽ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn từ NHNN nên NHNN cần nghiên cứu và sớm có cơ chế cho vay vốn đối với NHCSXH với lượng vốn lớn, theo lãi suất và các điều kiện ưu đãi để giúp ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Song, cũng cần học tập kinh nghiệm đối với NHCS tại các nước đang phát triển cho thấy, tài trợ của Chính phủ và NHNN cho những chi phí chuẩn bị cho ngân hàng tăng trưởng, mở rộng cũng như việc thành lập tổ chức và nâng cao khả năng lên một số mức độ nhất định trong hoạt động của ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng. Sau khi đã ổn định hoạt động, NHCSXH cần xác lập lại mối quan hệ giữa Chính phủ với ngân hàng trong hỗ trợ các đối tượng chính sách. Cả ngân hàng lẫn Chính phủ đều theo đuổi những mục tiêu nhất định, trong đó có những mục tiêu giống và không giống nhau. Để đảm bảo nguồn tài trợ từ Chính phủ được kết hợp hiệu quả với nguồn ngân hàng tự huy động, cần thông qua ký kết các hợp đồng giữa ngân hàng và Chính phủ. Hợp đồng bao gồm cam kết cho vay của ngân hàng cho các đối tượng theo yêu cầu của Chính phủ. Chính phủ có thể cấp vốn, tham gia cho vay một phần, còn lại là ngân hàng cho vay. Hợp đồng cần xem xét rủi ro và xác định cơ chế bù đắp. Lãi suất cho vay cụ thể được tính toán dựa trên kết cấu các loại vốn tham gia và chi phí của chúng. Nếu phần vốn của Chính phủ lớn, lãi suất cho vay có thể thấp và ngược lại. Như vậy, trong giai đoạn đầu khi ngân hàng mới đi vào hoạt động, tỷ trọng phần vốn của Chính phủ lớn thì lãi suất cho vay sẽ thấp. Khi ngân hàng đã ổn định hoạt động thì tỷ trọng vốn của Chính phủ sẽ giảm dần và thay thế bằng nguồn ngân hàng tự huy động trên thị trường. Khi đó, mục tiêu của Chính phủ đạt được mà ngân hàng vẫn có được sự độc lập trong hoạt động cho vay của mình. Chính phủ cho phép NHCSXH từng bước thực hiện cho vay theo lãi suất thị trường đối với các đối tượng chính sách. Các món cho vay của ngân hàng nhỏ, chi phí quản lý lớn, rủi ro món vay cao nên không thể duy trì lâu dài lãi suất cho vay ưu đãi. Hơn nữa, vấn đề đáng quan tâm nhất đối với hộ nghèo là điều kiện vay vốn và thời điểm được nhận vốn, mức vay, thời hạn và số lần được vay vốn chứ không phải là lãi suất món vay. Chính phủ đang theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính, song, các biểu hiện như: thực hiện cho vay người nghèo với lãi suất ưu đãi; tạo ra kênh dẫn vốn riêng cho người nghèo không trên cơ sở thương mại; thực hiện các chương trình tín dụng theo chỉ định; đối xử khác nhau với những tổ chức tài chính nông thôn khác nhau...vẫn là biểu hiện của chính sách kiềm chế tài chính. Do vậy, mặc dù sự tiếp cận của người nghèo tới tín dụng đã được cải thiện nhiều, nhưng cho tới nay vẫn chưa có trung gian tài chính nào cung cấp tín dụng cho người nghèo một cách hiệu quả và bền vững. Chính phủ phải có các biện pháp để NHCSXH về lâu dài sẽ trang trải được các chi phí của mình. UBND các tỉnh, huyện trình HĐND dành một phần vốn ngân sách địa phương từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch hàng năm để tăng vốn cho NHCSXH trên địa bàn. Đối với các địa phương có khả năng, cần bổ sung thêm vốn uỷ thác cho ngân hàng quản lý, cho vay theo các điều kiện chỉ định của địa phương nhưng vẫn đảm bảo quy trình nghiệp vụ của ngân hàng, đảm bảo quay vòng vốn. Bộ Kế hoạch, đầu tư và Bộ Tài chính cần tạo điều kiện cho ngân hàng tiếp cận và tìm kiếm các nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, các NGO…Trong hoàn cảnh uy tín của NHCSXH vẫn chưa được các tổ chức quốc tế công nhận thì các cơ quan quản lý Nhà nước (Chính phủ) đứng ra bảo lãnh cho ngân hàng vay hoặc tiếp nhận vốn của các tổ chức này. Nhìn chung, NHCSXH và các NGO đều hoạt động vì sự nghiệp xóa đói giảm nghèo và đều coi rằng tín dụng cho người nghèo có ý nghĩa quan trọng để cải thiện điều kiện sống của họ. Phụ nữ nghèo, hộ nghèo là dân tộc thiểu số, hộ nghèo tại các vùng xa xôi hẻo lánh là những đối tượng mục tiêu của các chương trình tín dụng và tiết kiệm của họ. Các tổ chức này đã thực hiện thành công nhiều chương trình tín dụng và tiết kiệm tại một số địa phương (điển hình là chương trình xóa đói giảm nghèo tại Hà Tĩnh của tổ chức Cứu trợ trẻ em Anh – SC/UK), một lượng vốn lớn đã được chuyển đến tay các hộ nghèo. Hiện nay mô hình được các NGO đánh giá cao là sự kết hợp ba bên giữa ngân hàng, NGO và các tổ chức chính trị, xã hội tại địa phương vì họ cho rằng về lâu dài thì ngân hàng chính là nguồn cung ứng vốn cho các hộ nghèo. Sở dĩ NHCSXH chưa nhận được vốn của các NGO là vì ngân hàng vẫn cho vay theo lãi suất ưu đãi trong khi các tổ chức này đều cho vay tới hộ nghèo theo lãi suất thị trường. Thứ hai, Nhà nước quan tâm đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Hai nhân tố giúp Việt Nam thành công trong công cuộc giảm nghèo đói giai đoạn 1993 - 1998 là: tăng trưởng kinh tế mạnh và tác động lớn của sự tăng trưởng đó đối với nghèo đói. Theo đó, 1% tăng trưởng trong GDP đầu người tương đương với 1,3% giảm nghèo. Mặc dù tình trạng bất bình đẳng tăng lên nhưng thực tế cũng cho thấy Việt Nam đã có được một cú huých mạnh cho tăng trưởng xét về mặt giảm nghèo đói. Nhưng cả hai nhân tố đó hiện đang có nguy cơ bất ổn. Trong những năm khủng hoảng 1998 và 1999, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đã giảm đi một nửa (còn khoảng 4%), và trong tương lai, mối quan hệ vốn có trước đây giữa tốc độ tăng trưởng và tác động tới nghèo đói chưa chắc đã tiếp tục tồn tại bởi Việt Nam khó có thể tái diễn lại câu chuyện về thành công nhờ đa dạng hoá và giải quyết vấn đề đất đai trong nông nghiệp đã thực hiện trong năm năm qua một khi đã đi đến điểm tới hạn. Bởi vậy nguồn lực cho phát triển dường như sẽ phải khác đi trong những năm tới so với năm năm trước. Cần phải dựa vào hai lĩnh vực khác để tạo tăng trưởng trong tương lai là tạo ra việc làm phi nông nghiệp nông thôn và việc làm ở thành thị. Song cần phải có những cải cách hết sức khẩn trương và cấp bách đối với một loạt vấn đề thuộc về cơ cấu để thúc đẩy hai lĩnh vực nói trên. Nếu xem xét kỹ hơn khoảng cách giữa hai nhóm người giàu nhất và nghèo nhất trong dân số có thể thấy sự gia tăng liên tục về tình trạng bất bình đẳng. Hội nhập vào kinh tế thế giới cũng đi kèm với khoảng cách lớn hơn giữa thu nhập của lao động có thay nghề và không có tay nghề. Đồng thời, có nhiều dấu hiệu cho thấy khoảng cách giữa các vùng cũng ngày càng lớn. Tác động giảm nghèo của tăng trưởng kinh tế sẽ ít hơn khi bất bình đẳng gia tăng, và Việt nam sẽ thu được những kết quả chậm hơn về giảm nghèo trong những năm tới nếu không có biện pháp cụ thể và rõ ràng. Các dân tộc thiểu số nằm trong các nhóm có nguy cơ tụt hậu. Theo tính toán, đến năm 2010, có thể sẽ có hơn 2/3 số dân bị đói là người dân tộc. Đối với các dân tộc thiểu sô, tăng trưởng thôi chưa đủ. Sẽ cần có những chính sách cụ thể ưu tiên cho họ. Những chính sách này bao gồm từ cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, phân phối lại đất đai hiện nay do các nông trường Nhà nước nắm giữ, thừa nhận hợp pháp các biện pháp canh tác nông nghiệp ở địa phương cho đến cung cấp các dịch vụ xã hội sử dụng ngôn ngữ địa phương… Những người di cư từ nông thôn ra thành thị cũng là một nhóm có tiềm năng rủi ro. Nếu không tính đến những yếu tố khác thì chi tiêu của người sống ở thành phố cao hơn chi tiêu của người sống ở nông thôn đến 78%, khoảng cách này đã tạo ra kích thích lớn cho việc di dân, vầ hầu hết những người di cư từ nông thôn ra thành thị đều làm ăn tốt hơn. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng ở đô thị phát triển không đầy đủ và cơ chế quản lý hành chính hiện nay nhằm hạn chế sự chuyển dịch này có thể làm cho người di cư sống trong tình trạng nghèo. Môi trường ô nhiễm, tiếp cận với các dịch vụ xã hội bị hạn chế như trường hợp những người nhập cư không có hộ khẩu, sự thiếu vắng mối quan hệ làng xã vốn là một đặc trưng của nông thôn Việt nam là những hạn chế khó bù đắp nổi. Vấn đề đặt ra đối với Chính phủ là hạn chế dòng di cư này thông qua các biện pháp tăng trưởng và đa dạng hóa ở nông thôn. Thu nhập phải được tăng lên từ chính việc tăng năng suất nông nghiệp khi mà lao động nông nghiệp chuyển sang khu vực phi nông nghiệp ngày một nhiều hơn. Nhà nước cần tăng cường đầu tư vào hạ tầng cơ sở nông thôn, cung cấp nước sạch và vệ sinh, trung tâm y tế, trường học, hệ thống thuỷ lợi và tưới tiêu, hệ thống đường giao thông để tiết kiệm chi phí và thời gian tiêu thụ nông sản…Điều kiện khó khăn của hệ thống đường giao thông nông thôn đã gây cản trở dân tại các làng xã trong việc tiếp cận nguồn tín dụng tại các trung tâm hành chính nông thôn. Có nhiều làng xã mà người ta thậm chí không thể sử dụng xe đạp hoặc xe máy để vào làng vào mùa mưa được. Tạo điều kiện để các xã nhận được hỗ trợ của hệ thống nghiên cứu và khuyến nông cung cấp các dịch vụ có tính trọng tâm và theo nhu cầu của nông dân. Các hoạt động mùa màng, chăn nuôi gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản sẽ phát triển tốt hơn nếu tiếp cận được với công nghệ mới, dự đoán được thị trường…Đồng thời, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trang trại – một nhân tố quan trọng đang góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Theo số liệu nghiên cứu, một đồng đầu tư vào giao thông đem lại 4,48 đồng lợi ích, đối với giáo dục là 2,66 đồng, trong khi đó phải gần hai đồng đầu tư vào thủy lợi mới tạo ra một đồng lợi ích… Các vấn đề về thông tin không cân xứng và khả năng cung ứng dẫn đến việc Nhà nước phải cung ứng các dịch vụ cho xã hội nói chung và người nghèo, xã nghèo nói riêng. Thực tế cho thấy việc cải thiện hệ thống đường xá và hệ thống điện ở nông thôn, hoặc trợ cấp một khoản phù hợp để đầu tư định hướng ở nông thôn nhằm tăng thu nhập cho các hộ nghèo thường tốn kém hơn là cung cấp các dịch vụ tài chính khác, đặc biệt tại những nơi có cơ sở hạ tầng kém phát triển. Do vậy, ngân hàng không thể tự mình cung ứng các dịch vụ xã hội này mà cần có sự tham gia của các cơ quan Nhà nước. Vấn đề thị trường và tiêu thụ sản phẩm của hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo ở nông thôn cũng là vấn đề cần quan tâm. Không tiếp cận được với thị trường, không dự đoán được nhu cầu của thị trường, giá cả nông sản bấp bênh…là những yếu tố làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ nghèo không ổn định. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm có liên quan trực tiếp đến bảo toàn vốn ngân hàng và tạo động lực mở rộng tín dụng. Thứ ba, Nhà nước chú trọng nâng cao trình độ dân trí, trình độ sản xuất kinh doanh của hộ nghèo. Đến khi nào tất cả các hộ nghèo đều nhận thức được tầm quan trọng của thoát nghèo đối với gia đình họ. đối với các thế hệ mai sau và đối với xã hội thì khi đó công cuộc xóa đói giảm nghèo mới thực sự có ý nghĩa và đạt được những kết quả to lớn. Hiện nay, còn rất nhiều hộ không muốn thoát nghèo, từ đó dẫn đến vốn được vay được sử dụng để tiêu dùng chứ không nhằm mục đích tăng thu nhập. Như đã phân tích, các hộ có trình độ học vấn cao có ý thức thoát nghèo và nỗ lực thoát nghèo hơn nhiều các hộ có trình độ học vấn thấp. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, trình độ sản xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng quyết định hiệu quả của quá trình sản xuất. Hộ nghèo có được vốn là quan trọng, nhưng xét trên giác độ hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo vốn được bảo toàn thì việc trang bị cho hộ nghèo kiến thức trong sử dụng vốn có tính chất quyết định. Việc đào tạo, nâng cao trình độ dân trí cho hộ nghèo phải được thực hiện có quy mô quốc gia. Chính phủ cần xây dựng và có sự chỉ đạo đồng bộ các chương trình, mục tiêu về giáo dục đào tạo đã đề ra. Học vấn thấp là phổ biến trong cộng đồng hộ nghèo, song, nhiều nhất vẫn tập trung vào trẻ em của các hộ nghèo này, do vậy các chương trình của Chính phủ phải đặc biệt quan tâm đến bộ phận trẻ em nghèo. Để khuyến khích trẻ em đi học phải đẻ các hộ nghèo nhận thức được đây chính là cách duy nhất để con em họ thoát nghèo trong tương lai. Chính phủ có hỗ trợ nhất định để hộ nghèo có thể chấp nhận được các chi phí giáo dục. Muốn vậy, chi hàng năm của NSNN cho giáo dục phải có kế hoạch cụ thể và thường xuyên kiểm tra, tránh tình trạng chi quá lớn cho giáo dục bậc cao, vốn bị thất thoát, lãng phí… Đồng thời, tạo cơ hội tiếp thu kiến thức mới về kỹ thuật, công nghệ, dự báo thị trường cho hộ nghèo thông qua các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, cơ quan cung ứng giống, vật tư, máy móc, qua các tổ chức đoàn thể tại địa phương…Có chính sách hỗ trợ cho NHCSXH về kinh phí để đào tạo và tư vấn cho hộ nghèo trong quá trình sử dụng vốn. Vốn đối với hộ nghèo rất cần thiết. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là sự kết hợp của chính sách tín dụng từ phía NHCSXH với các chính sách trợ giúp khác từ phía Nhà nước như khuyến nông, khuyến ngư, chính sách sản phẩm đầu vào, chính sách thị trường đầu ra, chính sách cơ sở hạ tầng… Kết luận Từ trước đến nay ở Việt nam chưa có một trung gian tài chính nào thành công trong việc cung cấp vốn cho hộ nghèo thoát khỏi đói nghèo một cách lâu dài và bền vững. Mong muốn xây dựng NHCSXH Việt nam trở thành một trung gian tài chính như vậy là một công việc vô cùng khó khăn. Khả năng huy động vốn có hạn, phụ thuộc vào các chính sách kinh tế và tài chính của Chính phủ, các điều kiện cho vay còn nhiều ưu đãi…nếu không được điều chỉnh kịp thời sẽ cản trở hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới. Mục tiêu trước mắt của ngân hàng là mở rộng khả năng tiếp cận vốn của ngân hàng đến với càng nhiều hộ nghèo càng tốt nhưng vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng, có ưu đãi nhưng các ưu đãi phải giảm dần. NHCSXH Việt nam có rất nhiều việc phải làm: mở rộng huy động tiết kiệm trong dân cư, đào tạo cán bộ các Tổ tiết kiệm và vay vốn về xác định đối tượng vay vốn và giám sát việc sử dụng vốn vay, giảm dần các điều kiện ưu đãi về lãi suất trong cho vay hộ nghèo, tuyển dụng và đào tạo cán bộ tín dụng… Luận văn đã khái quát được các vấn đề lý thuyết về cho vay đối với hộ nghèo, đối chiếu vào hoạt động cụ thể của NHCSXH Việt nam, đánh giá quá trình mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng, qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng hơn nữa cho vay hộ nghèo của ngân hàng. Cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH là vấn đề không đơn giản về cả lý thuyết và thực tiễn, vừa mang tính thời sự lại vừa mang tính lâu dài. Tác giả mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, những người quan tâm đến vấn đề này để đề tài được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt nam (2004), Nghèo, Trung tâm Thông tin Phát triển Việt nam. 2. Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001- 2010 (2001), NXB Chính trị quốc gia, Hà nội. 3. Chu Văn Vũ (1995), Kinh tế hộ nông thôn Việt nam, NXB Khoa học và xã hội, Hà nội. 4. Đỗ Tất Ngọc (2002), Mô hình Ngân hàng Chính sách và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách, Đề tài Nghiên cứu khoa học, Ngân hàng Nhà nước Việt nam. 5. Joshep E. Stiglitz (2001), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật và Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 6. Hà Thị Hạnh (2004), Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng Chính sách Xã hội, Luận án tiến sỹ. 7. Malcom Gillis, Dwight H. Perkins, Michael Roemer, Donald R. Swodgrass (1987), Kinh tế học của sự phát triển, Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương và Trung tâm Thông tin tư liệu. 8. Mai Hương (2003), “Tăng cường tiếp cận tài chính chính thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ nghèo”, Tạp chí Ngân hàng, (4). 9. Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế – Trung tâm Tư vấn và bồi dưỡng về Tài chính vi mô (2001), Cẩm nang hoạt động Tài chính vi mô, NXB Thống kê. 10. Ngân hàng Phục vụ Người nghèo (2002), Báo cáo tổng kết 7 năm hoạt động của Ngân hàng phục vụ Người nghèo. 11. Ngân hàng Phục vụ Người nghèo (2001), Báo cáo kết quả nghiên cứu khảo sát hệ thống ngân hàng và chính sách cho vay hộ nghèo tại ấn Độ, Hà nội. 12. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam (2004), Cẩm nang chính sách và nghiệp vụ tín dụng đối với hộ nghèo, NXB Nông nghiệp. 13. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam (2003), Điều lệ Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam. 14. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam (2004), Tài liệu hội nghị triển khai hoạt động năm 2004. 15. Nguyễn Thành, Bill Tod, Lê Văn Sở (2003), Tài chính vi mô - Cơ hội cho người nghèo, NXB Văn hóa Thông tin. 16. Niên giám thống kê (2003), NXB Thống kê, Hà nội. 17. TS Đào Văn Hùng (2004), “Hướng tới phát triển hoạt động tài chính vi mô bền vững ở Việt nam thông qua việc xóa bỏ trợ cấp qua lãi suất”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (89). 18. TS Phan Thị Thu Hà (2004), Ngân hàng thương mại, quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê. 19. TS Phan Thị Thu Hà (2003), “Tách bạch cho vay chính sách và cho vay thương mại trong quá trình đổi mới hệ thống tài chính Việt nam”, Tạp chí Ngân hàng, (15). 20. UNDP, UNICEF, FAO (1996), Xóa đói giảm nghèo. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32751.doc
Tài liệu liên quan