Mở rộng cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

LỜI MỞ ĐẦU Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự mở của và hội nhập, đất nước chúng ta đang ngày một đổi mới cùng với sự phát triển nói chung của thế giới. Trong quá trình mở cửa chúng ta mở rộng mối quan hệ với rất nhiều nước trên thế giới, đây cũng là một cơ hội vô cùng thuận lợi cho các ngân hàng thương mại có điều kiện phát triển chính mình. Trong những năm qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và hoạt động cho vay nói riêng đã có những đóng góp ngày càng tích cực vào c

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông cuộc phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư và tổ chức kinh tế xã hội vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây, Nhà nước ta đang cải cách và mở cửa thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia, DNV&N một lần nữa khẳng định là một thành phần kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động của các DNV&N đã tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút nguồn lực trong và ngoài nước. Các DNV&N ở nước ta hầu hết mới đi vào hoạt động, quy mô vốn nhỏ nên nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng sản xuất, cải tiến kĩ thuật công nghệ và đầu tư rất lớn. Vì vậy, cho vay các DNV&N đang trở thành đầu ra tín dụng lớn đối với các ngân hàng thương mại nói chung. Thấy được điều đó, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã ngày càng quan tâm và chú trọng hơn đến các doanh nghiệp này. Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, em nhận thấy rằng: Đối với NHCT Hoàn Kiếm hiện nay thì cho vay đối với các DNV&N đang là mục tiêu chiến lược lâu dài, là một vấn đề có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của chi nhánh nên em quyết định chọn chuyên đề “Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm". Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với các DNV&N tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ cùng các cô chú, các anh chị cán bộ nhân viên tại chi nhánh đã giúp đỡ và chỉ dạy cho em để em có thể hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại Chúng ta đều biết rằng một trong những nhân tố tiên quyết để thị trường tài chính phát triển mạnh mẽ là phải có một hệ thống các trung gian tài chính đủ mạnh, đủ sức hoạt động với tư cách là những tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ. Ở hầu hết các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển thì ngân hàng thương mại là loại hình trung gian tài chính cơ bản với quá trình phát triển lâu đời nhất và có uy tín nhất. Ngân hàng thương mại thông qua các hoạt động của mình đã trở thành một công cụ giúp Chính phủ điều tiết nền kinh tế. Vậy ngân hàng thương mại là gì? Xét trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính làm nhiệm vụ cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Quá trình phát triển của ngân hàng không chỉ làm gia tăng về số lượng mà còn làm tăng quy mô của mỗi ngân hàng. Nhưng dù tồn tại dưới hình thức nào, NHTM vẫn luôn khẳng định vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Nguồn vốn mà ngân hàng tạo được thông qua hoạt động huy động vốn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của ngân hàng. Trước đây, các NHTM chủ yếu là nhận tiền gửi của những người gửi tiền tiết kiệm. Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của sự cạnh tranh giữa các NHTM và sự tiến bộ của khoa hoạc kỹ thuật, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, các NHTM đã đưa ra rất nhiều hình thức huy động vốn. Một lượng vốn lớn được NHTM huy động thông qua tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, kỳ phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi…Bên cạnh đó khi cần vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay đầu tư, NHTM có thể vay các ngân hàng khác, chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước hoặc tại các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. NHTM còn tạo lập nguồn vốn thông qua phát hành và bán các cổ phiếu, tạo lập các quỹ dự trữ từ lãi ròng. Để có được lượng vốn thông qua hoạt động huy động vốn, các NHTM phải bỏ ra những chi phí nhất định bao gổm: lãi tiền gửi, lãi tiền vay, chi phí giao dịch… 1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn Hoạt động chính của NHTM là huy động vốn để sử dụng vào các mục đích kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai hoạt động lớn và quan trọng nhất. * Ngân quỹ: Là khoản mục tài sản không sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp gửi tại NHNN và các ngân hàng khác có được hưởng lãi), song là tài sản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên, đảm bảo hoạt động ngân hàng diễn ra suôn sẻ. * Cho vay: Là hoạt động chủ chốt tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho khách hàng của mình, sau một thời gian nhất định đã được thỏa thuận, ngân hàng được quyền thu lại cả vốn và lãi. * Cho thuê: Là việc mà ngân hàng sẽ bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định giữa khách hàng và ngân hàng (Leasing). * Đầu tư: cũng là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác nhưng dưới hình thức góp vốn cùng các chủ dự án đầu tư. Thu nhập của ngân hàng qua hoạt động đầu tư căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận và tỷ trọng đầu tư vốn của ngân hàng. * Các hoạt động sử dụng vốn khác: Các hoạt động tài trợ phát triển, các chương trình phát triển phi lợi nhuận, các chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, đào tạo... 1.1.2.3. Các hoạt động trung gian Là những hoạt động mà ngân hàng đứng ở vị trí trung gian cung cấp các dịch vụ tài chính cho khách hàng: Chuyển tiền, thanh toán không dùng tiền mặt (thanh toán bù trừ, séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thanh toán bằng L/C, thanh toán bằng hối phiếu), cung cấp các dịch vụ tài chính (môi giới, tư vấn, ủy thác, bảo lãnh,...), các dịch vụ ngân hàng tiện ích như Homebanking, Internetbanking, E-banking... 1.1.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.1.3.1. Khái niệm và các quy tắc cho vay của ngân hàng thương mại Cho vay là hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận chủ yếu khi các NHTM mới thành lập. Chỉ có lãi suất thu được từ hoạt động cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí rủi ro đầu tư và nhiều loại chi phí khác của các NHTM. Cho vay của NHTM, nói rộng ra là hoạt động tín dụng của NHTM, là một lĩnh vực phức tạp và liên quan đến những biến chuyển của môi trường kinh tế. Tuy nhiên, cho vay mà chúng ta đề cập ở đây là một nghiệp vụ tín dụng, một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng. Nhìn chung, trên thế giới người ta định nghĩa cho vay là hoạt động trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người này cam kết sẽ hoàn trả sau một thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay một phần được gọi là lãi cho vay. Phần tiền lãi này tỷ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Thực chất, cho vay của ngân hàng thương mại là hoạt động chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng - người đi vay với điều kiện sau một thời gian, họ phải hoàn trả cho ngân hàng khoản vay ban đầu cộng với tiền lãi theo một tỷ lệ nhất định gọi là lãi suất của khoản vay theo như thoả thuận với ngân hàng trước khi vay. Thông thường, lãi suất ghi trên hợp đồng cho vay mà người đi vay phải trả là lãi suất danh nghĩa nên nó không phản ánh giá trị thực tế của số tiền cho vay. Thời hạn cho vay là khoảng thời gian từ khi khách hàng nhận được vốn vay cho đến khi họ phải trả hết vốn gốc và các điều kiện khác theo đúng cam kết với ngân hàng. Có thể nói cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho các NHTM nhưng cũng đem lại nhiều rủi ro gây tổn thất cho ngân hàng. Chính vì vậy, để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời từ cho vay thì tất cả các NHTM đều phải đảm bảo được hai nguyên tắc cho vay cơ bản sau đây: Thứ nhất, tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì phần lớn vốn của ngân hàng là nguồn vốn huy động (gồm tiền gửi của khách hàng và các khoản vay mượn khác) từ khách hàng. Nếu các khoản cho vay không hoàn trả đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Do đó, ngân hàng luôn yêu cầu người đi vay thực hiện đúng cam kết này. Thứ hai, khách hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật. Đây không chỉ là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động cho vay, bởi vì nó hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ trong từng giai đoạn phát triển, thông qua việc đẩy nhanh nhịp độ phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm - dịch vụ đồng thời tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này (rủi ro đạo đức), ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn và nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn để đảm bảo an toàn cho ngân hàng. 1.1.3.2. Vai trò của hoạt động cho vay Cho vay là hoạt động cơ bản, mang lại thu nhập chủ yếu cho mỗi NHTM. Do vậy, hoạt động cho vay quyết định sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường với sự canh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Hoạt động cho vay thường chiếm trên 70% tổng tài sản có của ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu nhập của ngân hàng. Ở các nước phát triển thì tỷ lệ này 60%, còn ở các nước đang phát triển như Việt Nam thì tỷ lệ này là 90%. Như vậy có thể thấy tầm quan trọng đặc biệt của tín dụng ngân hàng không chỉ đối với ngân hàng, khách hàng có quan hệ tín dụng mà đối với cả nền kinh tế nói chung. Thứ nhất, ngân hàng tiến hành huy động nguồn tiền nhàn rỗi tạm thời trong nền kinh tế và thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp và các cá nhân khác, góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng cường vốn đầu tư vào nền kinh tế. Vốn là một yếu tố quan trọng trong quá trình hoạt động của các tổ chức kinh tế. Khi có đủ vốn, họ có thể dễ dàng hơn trong việc thực hiện các kế hoạch đầu tư hay xây dựng cơ bản của mình. Ngược lại, khi thiếu vốn, họ sẽ gặp khó khăn trong việc ra các quyết định kinh tế. Ngay cả khi có nguồn vốn nhàn rỗi thì doanh nghiệp cũng mất đi chi phí cơ hội của vốn. Vì vậy, các doanh nghiệp cần vốn phải tìm kiếm vốn đề bù đáp sự thiếu hụt và các doanh nghiệp thừa vốn tạm thời thì lại có nhu cầu cho vay. Việc tìm kiếm một tổ chức nào đó đang thừa vốn hoặc thiếu vốn để vay hoặc cho vay là một vấn đề rất khó khăn trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Do đó, tín dụng ngân hàng trở thành một công cụ rất quan trọng, kết nối nhu cầu của người thiếu vốn và người có vốn nhàn rỗi tạm thời. Theo đó, vốn tiền tệ được luân chuyển một cách liên tục, làm tăng thêm phần tích lũy tư bản cho ngân hàng và góp phần tăng trưởng kinh tế thông qua nguồn thu từ việc cung cấp tín dụng. Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường thường tồn tại các ngành có trạng thái phát triển đối lập nhau. Một số ngành có điều kiện thuận lợi, lịch sử hình thành lâu đời nên có thế mạnh để phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn. Nhưng ngược lại, có những ngành kinh tế vì những nguyên nhân khác nhau mà kém phát triển hơn. Nhiều nước trong chiến lược phát triển của mình đã phân loại những ngành kinh tế mũi nhọn và những ngành kinh tế kém phát triển để có chiến lược cơ cấu lại nhằm cân đối nền kinh tế. Để thực hiện được điều đó thì cần có vốn và tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng điều đó. Thứ ba, tín dụng ngân hàng tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ, doanh nghiệp cần vốn để đầu tư máy móc thiết bị, mua nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ… Ngân hàng sẽ đáp ứng được yêu cầu đó khi doanh nghiệp bảo đảm hoàn trả cả gốc lẫn lãi và thực hiện đúng hợp đồng tín dụng. Nếu vi phạm thì khách hàng sẽ phải chịu phạt thông qua mức lãi suất phạt đối với nợ quá hạn, mất quyền sở hữu đối với các tài sản đảm bảo… Điều này buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả hơn, tạo ra lợi nhuận đủ để trả nợ cho ngân hàng và tăng thêm giá trị cho chủ sở hữu. Thứ tư, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế. Ngày nay, xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa nền kinh tế toàn cầu ngày càng đa dạng và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Giao lưu kinh tế quốc tế là một nhân tố bên ngoài đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế các nước nhất là các nước đang phát triển. Xuất nhập khẩu vốn và hàng hóa, dịch vụ là những lĩnh vực hợp tác quốc tế quan trọng và thông dụng. Tín dụng ngân hàng là công cụ đắc lực cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu thâm nhập vào thị trường quốc tế. 1.1.3.3. Các hình thức cho vay của NHTM Tuỳ thuộc vào các tiêu thức phân loại khác nhau mà hoạt động cho vay của NHTM bao gồm các loại sau: a) Căn cứ vào thời hạn cho vay Việc phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng vì: thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của khoản cho vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo tiêu thức này thì cho vay của NHTM bao gồm: Cho vay ngắn hạn Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Bao gồm các loại: cho vay nhằm bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ, hoặc cho vay đáp ứng vốn sản xuất, kinh doanh dịch vụ và đời sống của hộ sản xuất hoặc cá thể. Thông thường tỷ trọng các khoản cho vay ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn hơn các khoản cho vay trung và dài hạn. Do nhiều nguyên nhân như: tín dụng ngắn hạn ít rủi ro hơn, mặt khác nguồn vốn trung và dài hạn khan hiếm và đắt đỏ hơn… Cho vay trung và dài hạn Cho vay trung và dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn có thời hạn trên 12 tháng. Thông thường các khoản cho có thời hạn từ 12 đến 36 tháng, (hoặc 12 đến 60 tháng) thì được xếp vào cho vay trung hạn. Các khoản cho vay có thời hạn lớn hơn 36 tháng (hoặc 60 tháng) thì được xếp vào các khoản cho vay dài hạn. Vốn trung và dài hạn được xem là rất cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh, tuy nhiên đối với ngân hàng thì cho vay trung và dài hạn hàm chứa nhiều rủi ro, do đó lãi suất thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. b) Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay Cho vay sản xuất, kinh doanh Cho vay kinh doanh là việc ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn vay được đầu tư mua sắm trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu… dùng cho sản xuất. Kết quản sản xuất kinh doanh là nguồn trả nợ chính cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng Nhằm phục vụ các nhu cầu trong tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Các NHTM cho hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu vay vốn mua những loại tài sản lớn dùng trong cuộc sống như xe hơi, nhà ở, du học, du lịch… Ngân hàng có thể cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại lý bán lẻ, các nhà phân phối... c) Căn cứ vào phương thức cho vay Cho vay từng lần Cho vay từng lần là hình thức cho vay áp dụng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Theo đó, mỗi lần vay khách hàng phải làm bộ hồ sơ vay vốn mới trình ngân hàng. Cho vay theo hạn mức tín dụng Là phương thức mà theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Cho vay theo hạn mức tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Cho vay theo hạn mức làm giảm chi phí cho mỗi khoản vay cho khách hàng cũng như cho ngân hàng. d) Căn cứ vào hình thức bảo đảm trong cho vay Lựa chọn đối nghịch khiến người cho vay phải chịu tổn thất khi người đi vay không thể thanh toán các món tiền vay và chịu vỡ nợ. Vật thế chấp là vật thuộc sở hữu của người đi vay được cam kết sẽ trả cho người cho vay nếu người đi vay không hoàn trả khoản tiền vay đúng hạn trong hợp đồng. Thông thường, các ngân hàng khi cho vay thường yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm. Vì trong kinh doanh luôn có những biến cố ngoài dự tính của ngân hàng và khách hàng, chính điều này sẽ đem lại rủi ro và có thể gây ra tổn thất lớn cho ngân hàng. Do đó, trừ những khách hàng có uy tín cao còn hầu hết các khách hàng khi vay đều phải có tài sản bảo đảm. Đây là nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là từ thu nhập trong hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ. Như vậy theo tiêu thức này thì ngân hàng cho vay theo hai loại khác nhau là: cho vay có tài sản bảo đảm và cho vay không có tài sản bảo đảm. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc ngân hàng yêu cầu khách hàng vay phải làm hợp đồng thế chấp hoặc cầm cố tài sản cho khoản tiền vay. Tài sản đem bảo đảm cho khoản vay phải đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng nhận thế chấp. Tài sản bảo đảm xét theo một vài khía cạnh cũng gây trở ngại cho cả khách hàng và ngân hàng. Để đảm bảo tính an toàn trong cho vay đồng thời khách hàng dễ dàng tiếp cận với vốn vay của ngân hàng thì trong chính sách tài sản bảo đảm của các ngân hàng cũng linh động hơn. Khách hàng có thể bảo đảm cho khoản vay bằng hàng hoá trong kho như nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm, hoặc bảo đảm bằng các hợp đồng chi trả của người thứ ba, bảo đảm bằng chứng khoán, tuy chứng khoán có thể bán với ít nhiều rủi ro, song quản lý chứng khoán là tương đối thuận tiện đối với ngân hàng vì phần lớn các ngân hàng đều có nghiệp vụ quản lý và kinh doanh chứng khoán. Ngân hàng cũng chấp nhận sử bảo đảm của bên thứ ba cho người đi vay, là bên cam kết sẽ trả nợ thay cho khách hàng nếu khách hàng không trả nợ được. Tuy nhiên đối với những người bảo lãnh phải có uy tín, hoặc có tài sản của người bảo lãnh… Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản Tài sản bảo đảm là trở ngại cho khách hàng muốn tiếp cận với vốn vay của ngân hàng đặc biệt là đối với khách hàng là người nghèo, hộ sản xuất nhỏ… Trong những trường hợp này, thì việc đáp ứng yêu cầu về tài sản bảo đảm của người vay là khó khăn hoặc không thể. Các ngân hàng cũng có thể cho khách hàng vay mà không cần có tài sản bảo đảm cho khoản tiền vay đó. Có hai lý do chính để các ngân hàng cho vay mà không cần có tài sản bảo đảm. Thứ nhất: các khoản cho vay có giá trị nhỏ, trong khi xét thấy phương án đầu tư sinh lợi đảm bảo nguồn trả nợ ngân hàng. Thứ ha: do chính sách của Chính phủ, hoặc của bản thân các ngân hàng, nhằm tạo điều kiện cho người sản xuất tiếp cận dễ dàng với vốn ngân hàng hoặc để chiếm lĩnh thị trường. Các khoản vay với điều kiện có TSBĐ có thể bị hạn chế, hoặc bãi bỏ. e) Căn cứ vào đối tượng sử dụng vốn vay Cho vay trực tiếp Là loại cho vay mà khách hàng nhận tiền vay và trả nợ trực tiếp cho ngân hàng. Trong quan hệ vay vốn chỉ có hai chủ thể vay vốn và trả nợ trực tiếp với nhau, đó là khách hàng và ngân hàng. Thông thường áp dụng đối với các khách hàng lớn quan hệ tín dụng không thường xuyên với ngân hàng. Cho vay trực tiếp sẽ khiến ngân hàng có cơ hội tìm hiểu kỹ về khách hàng, tránh rủi ro, tuy nhiên sẽ làm tăng các chi phí cho quá trình tìm kiếm thông tin về khách hàng. Cho vay gián tiếp Là việc ngân hàng cho khách hàng vay thông qua các hội, các tổ hay các đại lý bán lẻ. Các tổ chức này có thể thực hiện thay ngân hàng một số khâu trong quá trình cho vay như: phát tiền vay, thu nợ, thu lãi… Cho vay gián tiếp thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, ở xa ngân hàng. Việc cho vay thông qua trung gian có nhiều ưu điểm như giảm bớt thời gian, chi phí cho mỗi khoản vay. Tuy nhiên, cho vay gián tiếp cũng tồn tại nhiều khiếm khuyết như: các trung gian không trung thực cho khách hàng vay với lãi suất cao, ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng của mình dẫn đến việc thẩm định thiếu chặt chẽ điều này đem lại rủi ro lớn cho ngân hàng. f) Căn cứ vào phương thức hoàn trả vốn vay Cho vay hoàn trả một lần Là loại hình cho vay mà quy định nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được thực hiện tại một thời điểm nhất định, toàn bộ số tiền gốc, tiền lãi được hoàn trả làm một món. Cho vay hoàn trả nhiều lần Là loại cho vay mà khách hàng sẽ hoàn trả cho ngân hàng tiền gốc và lãi theo định kỳ. Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận trước số tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc chia ra để trả theo các kỳ hạn trong thời gian vay. Hình thức cho vay này thường áp dụng cho những khách hàng có nguồn thu nhập ổn định, thời hạn cho vay trung hoặc dài hạn, khối lượng tiền vay lớn. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua một hạn mức nhất định. Đây là hình thức có độ rủi ro cao vì khách hàng vay thường thế chấp bằng chính hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Ngoài ra, việc phân loại cho vay còn căn cứ vào một số tiêu thức khác như căn cứ vào đồng tiền cho vay, tính cấp vốn của việc cấp vốn… ta có các loại như: cho vay bằng đồng nội tệ, cho vay ngoại tê, cho vay luân chuyển, cho vay thấu chi… 1.2. DNV&N trong nền kinh tế thị trường 1.2.1. Khái niệm và vai trò của DNV&N 1.2.1.1. Khái niệm Hiện nay, trên thế giới có nhiều loại hình doanh nghiệp đa dạng và phong phú trong nền kinh tế. Nếu chúng ta căn cứ vào quy mô hoạt động của các doanh nghiệp thì chia ra làm 2 loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N). Các tiêu chuẩn để xác định quy mô doanh nghiệp nhìn chung ở các quốc gia đó là: (1) số lượng lao động, (2) tổng nguồn vốn (tổng tài sản) và (3) doanh thu trung bình hàng năm. Hai tiêu chuẩn đầu tiên được sử dụng phổ biến hơn cả. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng khó có thể đưa ra một khái niệm chuẩn về các DNV&N bởi vì quy mô doanh nghiệp lớn hay nhỏ ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế của quốc gia đó cũng như mục đích phân loại trong từng thời điểm nhất định. Hơn nữa, cách xác định các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong trong từng ngành nghề kinh doanh là khác nhau. Ví dụ như doanh nghiệp công nghiệp có thể coi là nhỏ trong khi một doanh nghiệp thương mại cùng cỡ lại là doanh nghiệp vừa hoặc lớn bởi vì doanh nghiệp công nghiệp cần nhiều lao động hơn. Hiện nay, theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (World Bank) các doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân chia theo quy mô như sau: BẢNG 1.1: TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH DNV&N CỦA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI Loại hình DN Số lao động (người) Doanh thu hàng năm (USD) Tổng tài sản (USD) DN siêu nhỏ 1 - 9 < 0,1 triệu < 0,1 triệu DN nhỏ 10 - 49 < 3 triệu < 3 triệu DN vừa 50 - 300 < 15 triệu < 15 triệu Nguồn: http:// www. worldbank.org Đây là cách phân loại chung được Ngân hàng Thế giới đưa ra sau khi đã thu thập số liệu về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở hầu hết quốc gia trên thế giới. Do đó, chúng ta có thể coi đây là một cách phân loại đáng tin cậy và khá chính xác. Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước phát triển với các nước kém phát triển nên cách phân loại này chỉ còn phù hợp về tiêu chí số lượng lao động. Chúng ta thấy rõ điều này qua ví dụ về phân loại doanh nghiệp trong liên minh các nước Châu Âu (EU). BẢNG 1.2: TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CÁC DNV&N CỦA HỘI ĐỒNG CHÂU ÂU Loại hình doanh nghiệp (DN) Số lao động (người) Doanh thu hàng năm (euros) Tổng tài sản (euros) DN siêu nhỏ 1 - 9 < 2 triệu < 2 triệu DN nhỏ 10 - 49 < 10 triệu < 10 triệu DN vừa 50 - 249 < 50 triệu < 43 triệu DN lớn > 250 > 50 triệu > 43 triệu Nguồn: http:// europa.eu.int Còn ở các nước đang phát triển, chẳng hạn ở Việt Nam các DNV&N bao gồm các doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, liên minh hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước hoặc hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh theo Nghị định 02/2002/NĐ-CP) có số vốn nhỏ hơn 10 tỷ đồng và số lao động thường xuyên hàng năm không quá 300 người. 1.2.1.2. Vai trò của DNV&N Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giớí nói chung, DNV&N luôn được đánh giá là nhân tố thúc đây sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cụ thể DNV&N đã thể hiện vị trí của mình trên các mặt chủ yếu sau: * Tạo việc làm cho người lao động Có thể nói rằng tác động kinh tế lớn nhất của các DNV&N là tạo việc làm cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp. Ở Việt Nam, các DN thuộc thành phần kinh tế hiện tiếp nhận khoảng 13 triệu người, tức khoảng 25_27 % lực lượng lao động, giải quyết tình trạng thất nghịêp. Ý nghĩa to lớn của các DNV&N là tạo việc làm không chỉ thể hiện ở triển vọng thu hút thêm lao động trong tương lai. Để đầu tư cho một người vào làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì luôn thấp hơn so với việc một doanh nghiệp muốn tiếp nhận một lao động, chi phí hoạt động cũng ít hơn các doanh nghiệp lớn vì các doanh nghiệp lớn cần có sự quản lý chặt chẽ, chi phí cũng tốn kém còn các doanh nghiệp nhỏ thì gọn nhẹ dễ chuyển biến để chuyển đổi hình thức cũng như các mặt hàng kinh doanh. * Thu hút nguồn vốn trong dân cư Người dân Việt Nam chưa có ý thức đầu tư do chúng ta mới vượt qua những thử thánh to lớn về sự chuyển đổi nền kinh tế. Luôn lo ngại về tình trạng mất ổn định nên tâm lý mọi người thích giữ tiền hơn là đầu tư để sinh lợi. Tiềm lực tài chính trong dân cư còn khá lớn, tuy nhiên lại không tập trung mà chỉ rải rác, với tính chất nhỏ bé DNV&N đã giúp nên kinh tế sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính trong dân cư, hạn chế tiền nhàn rỗi không sinh lời trong nền kinh tế. Tuy các doanh nghiệp vốn ít nhưng nếu tận dụng được nguồn vốn này cho sản suất thì lại mang lại một hiệu quả vô cùng to lớn, bởi tổng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn nên tổng nguồn vốn trong tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì vô cùng lớn. Đấy chính là thế mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế DNV&N có khả năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ…cho phù hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh.Và như vậy các DNV&N làm cho nền kinh tế năng động hơn. Bên cạnh đó, sự phát triển DNV&N đã và đang tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của nền kinh tế: Từ nền kinh tế sản xuất nhỏ dựa trên nông nghiệp là chủ yếu chuyển sang một nền kinh tế thị trường. nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. 1.2.2. Đặc điểm của DNV&N Năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh Do quy mô vừa và nhỏ và mô hình tổ chức giản đơn nên các doanh nghiệp dễ dàng chuyển hướng sản xuất kinh doanh khác khi thấy lĩnh vực ngành nghề sản xuất đó có lợi hơn. Việc điều chuyển này cũng không khó khăn và tốn kém như sự thay đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Với lợi thế này của mình các DNV&N có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực và địa phương, khai thác hết năng lực của mình, sáng tạo trong hoạt động để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Có thể nhanh chóng thích ứng công nghệ hiện đại thế giới Do các trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh của các DNV&N đa phần có giá trị không quá lớn như trong các doanh nghiệp lớn, nên các DNV&N dễ dàng đổi mới, áp dụng được công nghệ hiện đại phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh cho năng suất cao. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam công nghệ đã được cải thiện nhưng vẫn còn lạc hậu so với các nước phát triển trên thế giới. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang diễn ra gay gắt trong lĩnh vực khoa học công nghệ thì trình độ khoa học kỹ thuật của phần lớn DNV&N Việt Nam trong 5 năm qua đã có những cải thiện đáng kể trong việc ứng dụng các thiết bị khoa học công nghệ. Từ việc sử dụng các thiết bị lạc hậu từ 20 - 50 năm so với các thiết bị nước bạn tính từ trước năm 2000, đến nay các doanh nghiệp nước ta đã nhanh chóng ứng dụng các phần mềm mới cùng với các trang thiết bị hiện đại vào khâu sản xuất kinh doanh. Tổ chức sản xuất quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí Với số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức sản xuất cũng như bộ máy quản lý trong các DNV&N tương đối nhỏ gọn, không có nhiều các khâu trung gian làm tăng hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Các quyết định chế độ, chỉ tiêu… đến với người lao động cũng nhanh chóng vì thế mà công tác kiểm tra giám sát tiến hành thuận lợi, không phải qua nhiều khâu trung gian, tiết kiệm được chi phí, thời gian quản lý doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu nhỏ Theo thống kê kinh tế số lượng DNV&N chiếm khoảng 97% số doanh nghiệp trong cả nước hiện có, nhưng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 50% tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong cả nước. Trong đó có tới 40% các DNV&N có số vốn dưới 5 tỷ đồng là doanh nghiệp ở quy mô nhỏ. Điều này cho thấy các DNV&N có vốn kinh doanh rất nhỏ. Trình độ người quản lý và người lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam còn hạn chế Trong số hơn 25% lao động có chuyên môn thì chỉ 7% lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có trình độ đại học cũng chỉ khoảng 4%. Về cơ bản, đội ngũ này mới được hình thành những năm 90, còn thiếu kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Quy mô nhỏ, lại khó khăn về vốn nên hầu hết các DNV&N không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động. Thị thường tiêu thụ sản phẩm nhỏ bé Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các DNV&N gặp không ít khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ yếu là quyền sở hữu công nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc, sản phẩm luôn bị tấn công do việc x._.uất hiện các mặt hàng làm giả, hàng nhái, hàng nhập lậu. Cùng với sự độc quyền của một số doanh nghiệp lớn khiến sức cạnh tranh của DNV&N lại càng nhỏ trên thị trường nội địa. Ngoài ra còn do hạn chế về công nghệ dẫn đến mặt hàng sản xuất chưa đa dạng, chất lượng và tính cạnh tranh chưa cao, khả năng tiếp cận thị trường kém. Do đó thị trường tiêu thụ của các DNV&N còn khả nhỏ bé. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với DNV&N của NHTM 1.3.1. Các nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Các nhân tố về phía ngân hàng * Mục tiêu của ngân hàng Trong một thời kỳ nhất định tất cả các hoạt động của ngân hàng đều nhằm đạt được một mục tiêu, chiến lược kinh doanh nào đó đã được đặt ra. Do đó quyết định mở rộng cho vay đối với bất kỳ đối tượng nào cũng đều phải căn cứ vào mục tiêu hoạt động chung của ngân hàng. * Lãi suất cho vay Lãi suất cho vay là nhân tố có tác động trực tiếp đến thu nhập từ cho vay của ngân hàng. Thu lãi từ cho vay = Dư nợ cho vay (đến thời điểm tính lãi) x Lãi suất cho vay Như vậy lãi suất cao có thể mang lại thu nhập lớn hơn cho ngân hàng. Nhưng để mở rộng cho vay thì việc nâng lãi suất cho vay là không hợp lý. Vì lãi suất cho vay có tác động ảnh hưởng đến dư nợ cho vay thông qua tăng, giảm giá trị món vay. Trên thị trường còn rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng khác đều có hoạt động cho vay. Nhìn từ góc độ của khách hàng, lãi suất cho vay là yếu tố quyết định đến lợi ích kinh tế của họ, họ cần lựa chọn cho vay ở những nơi có lãi suất thấp hoặc có lãi suất phù hợp với nhu cầu của họ nhất. Lãi suất là công cụ điều chỉnh nguy hiểm, như “con dao hai lưỡi”: Nếu vì muốn tăng dư nợ cho vay, ngân hàng hạ thấp lãi suất thì kết quả là khách hàng đến vay nhiều hơn, tăng được dư nợ cho vay nhưng thu nhập của ngân hàng từ cho vay lại giảm không đảm bảo được mở rộng cho vay nhưng vẫn duy trì mục tiêu lợi nhuận. Nếu vì mục tiêu lợi nhuận mà ngân hàng tăng lãi suất thì khách hàng vay giảm, dư nợ cho vay giảm, không thực hiện được mở rộng cho vay. Vì vậy bài toán đặt ra cho ngân hàng khi muốn mở rộng cho vay là phải tính toán được một mức lãi suất cho vay phù hợp, vừa đảm bảo được khách hàng đến vay vốn ngày càng nhiều vừa đảm bảo được lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng có các mức lãi suất cho vay khác nhau tùy thuộc vào kỳ hạn của khoản vay, tùy theo loại tiền vay và tùy thuộc vào từng đối tượng khách hàng. Ngân hàng khi thỏa thuận lãi suất cho vay với khách hàng phải tính đến rủi ro, lãi suất hòa vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường, mức lợi nhuận mong muốn tối thiểu của ngân hàng, chi phí vốn, chi phí quản lý khác của ngân hàng, thuế, tỷ lệ lạm phát... * Qui trình, thủ tục, phương thức cho vay của ngân hàng Mỗi đối tượng khách hàng khác nhau đều có đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau, trình độ quản lý khác nhau dẫn đến nhu cầu vay vốn cũng như khả năng đáp ứng những yêu cầu mà ngân hàng đặt ra cũng khác nhau (như các yêu cầu về tài sản đảm bảo, lập dự án, qui định sổ sách hạch toán kế toán, yêu cầu về công tác kiểm toán...). Vì vậy qui trình, thủ tục cho vay cần xây dựng phù hợp, trung hòa được hai mục tiêu là an toàn tín dụng cho ngân hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, áp dụng linh hoạt đối với mỗi khách hàng trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Mặt khác, hoàn thành tốt qui trình cho vay trong tất cả các bước từ điều tra, thẩm định, quyết định cho vay, phát tiền vay và xử lý thu hồi nợ là nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đảm bảo an toàn vốn vay, cũng là thực hiện mở rộng cho vay nhưng vẫn đảm bảo an toàn và hiệu quả. Phương thức cho vay có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vay vốn của khách hàng vì khi có nhu cầu vay vốn khách hàng sẽ lựa chọn một phương thức cho vay phù hợp nhất với nhu cầu của họ. Hiện nay các ngân hàng đều có rất nhiều phương thức cho vay để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng khi đến vay vốn: cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay theo hạn mức dự phòng, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức thấu chi...Ngân hàng nào càng áp dụng nhiều phương thức cho vay đa dạng với những điều kiện hấp dẫn cho khách hàng càng có điều kiện phục vụ nhiều khách hàng hơn, khách hàng đến vay nhiều hơn, có khả năng tăng dư nợ tốt hơn. * Mạng lưới chi nhánh ngân hàng và đội ngũ cán bộ ngân hàng Mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch của ngân hàng là nơi mà thu hút khách hàng đến với ngân hàng, là nơi đầu tiên mà khách hàng tiếp xúc với ngân hàng nên là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến mở rộng cho vay. Mặt khác hoạt động của ngân hàng nếu kết hợp với các cấp chính quyền địa phương, bộ máy công an, kiểm soát còn tạo điều kiện để ngân hàng nắm rõ tình hình hoạt động của khách hàng thuận lợi trong tiếp xúc, cũng như giám sát việc thực hiện khoản vay của khách hàng. Ngoài ra việc mở rộng mạng lưới ngân hàng không chỉ ở việc mở thêm nhiều chi nhánh mới mà còn được thể hiện ở việc cán bộ ngân hàng trực tiếp đến từng địa bàn, tiếp xúc với khách hàng, phổ biến về hoạt động ngân hàng, hướng dẫn thủ tục cho người có nhu cầu vay vốn. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng cũng có ảnh hưởng đến mở rộng cho vay. Thái độ phục vụ, trình độ hiểu biết của các cán bộ, nhân viên là bộ mặt của một ngân hàng, vì đây là những người trực tiếp gây ấn tượng đầu tiên với khách hàng. Một khách hàng có ấn tượng tốt đẹp về ngân hàng thì họ sẽ quảng bá cho nhiều người khách hàng khác đến với ngân hàng khi có nhu cầu vay vốn, và ngược lại. Ngoài ra công tác marketing, tư vấn, gặp gỡ, trò chuyện hướng dẫn khách hàng các thủ tục vay vốn, giới thiệu các dịch vụ tiện ích cũng đem lại những thay đổi trong hoạt động cho vay. * Tình hình huy động vốn Ngân hàng chỉ có thể tiến hành mở rộng cho vay khi có một số lượng vốn đủ lớn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, tăng qui mô cho vay. Thực tế nguồn vốn tự có của ngân hàng là rất nhỏ bé nên các ngân hàng phải tìm mọi cách huy động vốn trong nền kinh tế. Hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả là điều kiện để ngân hàng tiến hành mở rộng cho vay. Mặt khác cơ cấu vốn huy động được cũng có ảnh hưởng: Nếu nguồn huy động được chủ yếu là ngắn hạn thì ngân hàng bị hạn chế nếu muốn mở rộng cho vay trung và dài hạn và ngược lại. Ngân hàng Nhà nước còn qui định tỷ lệ chuyển hoán tối đa nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn, đây cũng là điểm hạn chế ngân hàng mở rộng cho vay. 1.3.1.2. Các nhân tố thuộc về DNV&N Trước hết là khoản vay phụ thuộc vào nhu cầu vay của khách hang. Khách hang là doanh nghiệp khi có nhu cầu vay với tình hình tìa chính tốt, hoạt động kinh doanh có lãi, thì sẽ tạo điều kiện cho ngân hang trong thẩm định đánh giá các khoản vay, từ đó khoản vay có thể dễ dàng được thực hiện.Tuỳ thuộc vào nhu cầu của mỗi khách hang mà ngân hang có thể phát triển nhiều phương thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay đối với sinh viên…Có lúc khách hang xin vay vượt mức giới hạn mức cho phép của ngân hang sẽ phải lựa chọn đồng ý hoặc từ chối. Những quyết định cho vay của ngân hang phải hết sức linh hoạt để đáp ứng yêu cầu của khách hang. Tiếp đó là tình hình tài chính của doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để ngân hang có quyết định cho vay hay không. Ngân hàng nào cũng muốn mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, song càng lẫn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp thì ngân hang càng gánh chịu nhiều rủi ro, do đó ngân hang phải hạn chế cho vay trong khả năng thanh toán của mình. Vốn tự có và tài sản đảm bảo của doanh nghiệp là tài sản bù đắp rủi ro khi phát sinh bất lợi và là yêu cầu cho sự an toàn, tính khả thi của khoản vay. Đặc biệt ngân hang quan tâm đến khả năng sinh lời và khả năng trả nợ của doanh nghiệp trước khi đưa ra một quyết định choa vay, bởi khả naăg sinh lời là nguồn trả nợ chính cho các khoản vay của doanh nghiệp. Trình độ, khả năng dự báo các vấn đề kinh doanh, đạo đức tư cách của khác hang là ngyên nhân ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động cho vay. Nhiều khách hang sẵn sang mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, họ cũng sẵn sang dung thủ đoạn lừa ngân hang làm cho ngân hang không xác định được chính xác về mục đích và chất lượng của khoản vay dẫn đến rủi ro xảy ra. Trong trường hợp người vay kinh doanh có lãi nhưng lại chây ỳ không trả nợ, ngân hang sẽ không thu hồi được vốn đúng hạn. Khách hang cũng có thể xin gia hạn nợ, nếu ngân hang gia hạn nợ quá nhiều cho khách hang sẽ làm giảm độ an toàn và chất lượng cũng như khả năng trả nợ của khoản vay. 1.3.2. Các nhân tố khách quan 1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về NHTW và Chính phủ Khả năng cho vay của các ngân hàng chịu ảnh hưởng bởi các công cụ của chính sách tiền tệ, bao gồm: dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, chính sách tái chiết khấu. - Nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động của NHTW mua bán các chứng khoán có giá (tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nước…) trên thị trường tiền tệ. Khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ và ảnh hưởng đến khả năng cung ứng cho vay của NHTM. - Dự trữ bắt buộc nhằm điều chỉnh khả năng cho vay của các NHTM. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cho vay của hệ thống NHTM. Dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi. Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng đòi hỏi các NHTM phải tăng lãi suất cho vay làm khả năng cho vay của các NHTM giảm xuống. - Chính sách tái chiết khấu: Là công cụ của NHTW trong việc thi hành chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các NHTM kinh doanh. Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu tức là giá cả các khoản vay tăng, làm khả năng cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế giảm và ngược lại. - Chính sách lãi suất: Tháng 8/2000 NHNN thực hiện lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VNĐ và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Sau mấy năm thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận cho thấy biên độ lãi suất này chỉ phù hợp với các NHNN và các khoản tín dụng cho vay thành thị. Còn đối với các NHTM cổ phần (trừ quỹ tín dụng nhân dân) và các khoản cho vay khu vực nông thôn là chưa thoả đáng. Lãi suất trần cơ bản cộng thêm biên độ thực chất đã tạo nên trần lãi suất tối đa mà các NHTM được phép cho vay, nhưng việc khống chế lãi suất trần cho vay sẽ không còn là vấn đề quan trọng khi nền kinh tế đã đặt các NHTM vào cuộc cạnh tranh tìm kiếm khách hàng và thị phần tín dụng, tín dụng cho vay trong nền kinh tế. Đến tháng 6/2002, NHNN thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, theo quyết định này thì các NHTM được quyền định lãi suất cho vay của ngân hàng mình. Sự chủ động về lãi suất sẽ tạo ra sự chủ động cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, vừa tạo cơ hội tiếp cận nhiều hơn với các khoản vay trên thị trường chính thức của các doanh nghiệp, qua đó tăng hoạt động cho vay của NHTM. 1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về môi trường pháp lý Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước, pháp luật có vai trò quan trọng, là một hàng rào pháp lý tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, nhà nước, cá nhân công dân, bắt buộc các chủ thể tuân theo. Nhân tố pháp lý ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là sự đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp luật, ý thức tôn trọng chấp hành nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật và cơ chế đảm bảo cho sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh, triệt để. Quan hệ tín dụng phải được pháp luật thừa nhận, pháp luật quy định cơ chế hoạt động tín dụng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng lành mạnh, phát huy vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời duy trì hoạt động tín dụng được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia tín dụng. Những quy định pháp luật về tín dụng phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở đó kích thích hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn. Hiện nay, hệ thông văn bản pháp luật chưa đồng bộ, gây khó khăn cho ngân hàng khi kí kết thực hiện hợp đồng tín dụng. luật ngân hàng còn nhiều sơ hở, chưa đồng bộ với các văn bản luật khác. Điều này ảnh hưởng đến việc quản lý chất lượng tín dụng ngân hàng. Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu, do thay đổi đột ngột, gây xáo động trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm. hay chưa có phương án sản xuất kinh doanh mới dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi, chất lượng tín dụng giảm sút. 1.3.2.3. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng pháp triển. Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp không có khủng hoảng, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành tốt, có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao, doanh nghiệp hoàn trả được vốn vay ngân hàng cả gốc và lãi thì hoạt động tín dụng của ngân hàng phát triển, chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngược lại trong thời kỳ suy thoái kinh tế, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút, lạm phát cao, nhu cầu tín dụng giảm, vốn tín dụng đã thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng giảm sút về quy mô và chất lượng. Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, lợi tức của ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng, nên với mức lãi suất cao các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không có khả năng trả nợ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và tới toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụng ngân hàng lúc này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và chất lượng tín dụng cũng giảm sút. Ngoài ra những sự biến động về lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường cũng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất của ngân hàng. Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á cho thấy sự mất giá của đồng nội tệ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng ngân hàng. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNV&N TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM 2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm là chi nhánh cấp 1 của Ngân hàng Công Thương Việt Nam.Trước tháng 3/1998, NHCT Hoàn Kiếm thuộc về NHCT thành phố Hà Nội, thực hiện nhiệm vụ chính được giao là vừa kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thành toán, đồng thời vừa đảm bảo nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và các tập thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm.Từ khi có chỉ thị số 218/CT ban hành ngày 13/07/1987 của HĐCT, thực hiện điều lệ của NHCT Việt Nam, ngày 26/3/1988, NHCT Hoàn Kiếm chính thức tách ra khỏi NHCT thành phố Hà Nội để trở thành NHCT Hoàn Kiếm như ngày nay. Cùng với sự thay đổi đó, NHCT Hoàn Kiếm từ một quỹ tiết kiệm chuyển từ số 10 Lê Lai về 37 Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm bây giờ. Kể từ ngày 1/4/1993, NHCT Hoàn Kiếm chính thức đựơc quyền hoạch toán độc lập và trở thành chi nhánh cấp một của NHCT Việt Nam với chức năng kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, cho vay, đầu tư, cung cấp các dịch vụ ngân hàng như: thanh toán thẻ, chi trả lương, chuyển tiền, chi trả kiều hối… Hơn 10 năm hình thành, hoạt động và trưởng thành, NHCT Hoàn Kiếm đã gặp nhiều khó khăn, thậm chí va vấp trong buổi đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Nhưng đến nay NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được những thành tựu đáng kể, đã hoà nhập vào hoạt động chung của hệ thống ngân àng, khẳng định được vị trí vững vàng của mình trong nền kinh tế thị trường, đang ngày càng phát triển và mở rộng hơn với hiệu quả và lợi nhuận cao. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm Thực hiện quyết định số 154/QĐ- HĐQT-NHCT ngày 20/10/2003 của hội đồng quản trị NHCT Việt Nam về “Mô hình tổ chức của chi nhánh NHCT theo dự án hiện đại hoá ngân hàng”, từ 1/1/2004, mô hình tổ chức của chi nhánh thay đổi về căn bản. Các phòng ban được chia tách, sát nhập, từ 7 phòng nghiệp vụ và 1 phòng giao dịch lên 11 phòng nghiệp vụ và 1 phòng giao dịch. Ngoài ra, còn có 14 quỹ tiết kiệm và 1 điểm giao dịch thuộc phòng khách hàng cá nhân. Chức năng nhiệm vụ các phòng đó cũng được thay đổi, chi nhánh đã từng bước củng cố bộ máy tổ chức từ Ban giám đốc đến các phòng ban, thực hiện thuyên chuyển cán bộ, bố trí sắp xếp cán bộ phù hợp với năng lực và yêu cầu của công việc. - Căn cứ quyết định 359/QĐ-HĐQT- NHCT 1 ngày 23/11/2005 của Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam về việc ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của sở giao dịch, chi nhánh NHCT Việt nam - Căn cứ quyết định số 066/QĐ- NĐQT- NHCT 1 ngày 30/03/2004 của Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam về việc ban hành chức năng nhiệm vụ của các phòng, ban tại các chi nhánh tham gia dự án HĐH. - Căn cứ quyết định số 704/QĐ- NHCT 1 ngày 15/08/2006 của Tổng Giám đốc NHCT VN về việc ban hành chức năng nhiệm vụ của các phòng, ban tại chi nhánh NHCT. - Căn cứ quyết định số 1500/QĐ- NHCT 1 ngày 06/04/2006 của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam về việc sửa đổi bổ sung chức năng nhiệm vụ của các phòng, ban tại chi nhánh NHCT. Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm có 12 phòng ban như sau: 01/ Phòng khách hàng 1 (Doanh nghiệp lớn) 02/ Phòng khách hàng 2(Doanh nghiệp vừa và nhỏ) 03/ Phòng khách hàng cá nhân 04/ Phòng quản lý rủi ro 05/ Tổ quản lý nợ có vấn đề 06/ Phòng kế toán tài chính 07/ Phòng kế toán giao dịch 08/ Phòng thanh toán xuất nhập khẩu 09/ Phòng tiền tệ kho quỹ 10/ Phòng tổ chức hành chính 11/ Phòng thông tin điện toán 12/ Phòng tổng hợp Về đội ngũ nhân sự, hiện nay NHCT Hoàn Kiếm có 1 giám đốc, 4 phó giám đốc và 270 cán bộ công nhân viên trong tổng số 12.000cán bộ trong toàn hệ thống Ngân hàng Công Thương. Trong đó 80% có trình độ đại học và trên đại học, còn lại đều đã được đào tạo qua hệ cao đẳng, trung học chuyên ngành ngân hàng, riêng phòng khách hàng cá nhân có số lượng cán bộ lớn nhất (có trên 60 cán bộ). 2.1.3. Kết qủa hoạt động kinh doanh của NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian qua Nhìn chung, trong những năm qua NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được những thành tựu đáng kể, có thể nói là một chi nhánh hoạt động hiệu quả nhất của hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Sau đây là một số kết quả mà chi nhánh đã đạt được trong mấy năm gần đây. 2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn luôn là hoạt động quan trọng của tất cả các ngân hàng thương mại. Nó cung cấp nguồn cho hoạt động tín dụng và là một hoạt động không thể thiếu để ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tài chính của mình. Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã thực hiện tốt hoạt động huy động vốn, giúp ngân hàng tăng tính chủ động trong kinh doanh cũng như tạo nên sự độc lập tương đối với NHCT Việt Nam. Đây là một thế mạnh của NHCT Hoàn Kiếm. Những hình thức huy động vốn được thực hiện ở chi nhánh gồm có: tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hành kỳ phiếu ngân hàng, tiền vay các tổ chức kinh tế khác, tiếp nhận vốn tài trợ, vốn uỷ thác đầu tư từ NHNN và các tổ chức quốc tế, chính phủ của các nước và các cá nhân. Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn huy động Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 Tiền gửi doanh nghiệp 1.690 1.922,6 1.826 2.259 Tiền gửi dân cư 795 810,9 935 953,7 Huy động khác 2.495 2.733,5 2.761 3.113,5 Tổng nguồn vốn huy động 4.970 5467 5522 6.326.2 Mức độ tăng liên hoàn - 497 55 804.2 Tốc độ tăng liên hoàn - 10 1.01 14.56 (Nguồn: tổng hợp các báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh) Số liệu trên cho thấy từ năm 2003 đến năm 2005 tổng nguồn vốn đạt hiệu quả cao, đến năm 2005 tốc độ tăng liên hoàn vốn có chậm lại. Nguyên nhân là do công tác huy động vốn gặp nhiều khó khăn với sự cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại trên địa bàn cả về địa điểm giao dịch lẫn lãi suất huy động vốn và các hình thức khuyếch trương, khuyến mại…, sự biến động bất ổn của lãi suất và những khó khăn trên đã đặt công tác huy động vốn của chi nhánh đứng trước nhiều thách thức. Có thể thấy rằng trong những năm gần đây tiền gửi của các doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Trong năm 2006 tiền gửi từ doanh nghiệp đạt 2.259 tỷ đồng, tăng 433 tỷ đồng so với năm 2005. Khi thu hút được nhiều tiền gửi loại này, một mặt giúp ngân hàng tăng nguồn vốn cho hoạt động của mình, và mặt khác tăng lợi nhuận cho ngân hàng qua thu phí dịch vụ tiện ích. Nguồn huy động từ tiền gửi dân cư ngày cũng càng tăng: năm 2006 đạt 953.7 tỷ đồng, tăng18.7 tỷ đồng so với năm 2005, tức 2%; năm 2005 đạt 935 tỷ đồng tăng 124.1 tỷ đồng so với 2004, tức 15.3%. Qua số liệu cho thấy, mặc dù sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra rất phức tạp, các ngân hàng đều cố gắng tăng lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay để có thể thu hút khách hàng, nhưng với chính sách lãi suất hợp lý, nhưng NHCT Hoàn Kiếm vẫn liên tục giữ vững và vượt kế hoạch huy động vốn được giao, xứng đáng là đơn vị dẫn đầu toàn ngành. 2.1.3.2. Hoạt động tín dụng Thực hiện phương châm “phát triển, an toàn và hiệu quả”, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã kết hợp tăng trưởng tín dụng đi đôi với kiểm soát chặt chẽ vốn vay. Trên cơ sở đó ngân hàng đã rà soát, chọn lọc khách hàng, lựa chọn đầu tư với những khách hàng làm ăn hiệu quả, có tín nhiệm với ngân hàng, giảm dần số dư nợ đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém, các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu thấp hơn vốn huy động, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, coi trọng hiệu quả kinh tế, nâng cao tài sản bảo đảm thế chấp, thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng hiện hành. Với các giải pháp đồng bộ đó, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được một số thành tựu sau đây: Bảng 2.2: Kết quả hoạt động tín dụng tại NHCT Hoàn Kiếm Đơn vị: tỷ đồng 2003 2004 2005 2006 Tổng dư nợ 900 930 1100 1070 Tốc độ tăng liên hoàn (%) 4.9 3.3 18.3 -2.7 Phân theo thời gian -Ngắn hạn 360 232.5 200 220 -Trung và dài hạn 540 697.5 900 850 Phân theo TPKT -DN quốc doanh 630 725.4 880 778 -DN ngoài quốc doanh 270 204.6 220 292 (Nguồn: tổng hợp báo cáo kết qủa kinh doanh) Theo số liệu trong bảng 2, ta cũng có thể thấy rằng dư nợ tín dụng ngày càng tăng trong các năm 2003 đến 2005, năm 2006 có giảm chút ít. Trong đó cơ cấu dư nợ chuyển dịch theo chiều hướng cho vay trung và dài hạn.Cho vay trung và dài hạn tuy có giảm qua các năm song đây vẫn là hoạt động chính, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của chi nhánh. Điều này cũng khá phù hợp với cơ cấu nguồn huy động là nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Xét về cơ cấu dư nợ cho vay đối với loại hình doanh nghiệp thì cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng đáng kể. 2.1.3.3. Các hoạt động và dịch vụ khác Mở cửa và hội nhập đang tạo ra cơ hội và thách thức mới cho các tổ chức kinh tế, mức độ cạnh tranh ngày càng cao, nền kinh tế càng phát triển thì các hoạt động dịch vụ cũng càng chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của các ngân hàng. Trong thời gian qua chi nhánh đã luôn chú trọng mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ nhằm mang lại tiện ích lớn nhất cho khách hàng, nhờ vậy thu nhập từ dịch vụ ngày càng tăng. Năm 2003 đạt 3.2 tỷ đồng, năm 2005 đạt 3 tỷ đồng, năm 2006 đạt 3.043 tỷ đồng, chiếm 22% thu nhập hoạch toán nội bộ. - Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ Năm 2006 doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 70 triệu USD. Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt 195 triệu USD. Doanh số các dịch vụ ngoại hối đạt trên 5 triệu USD, giảm 16.7% so với năm 2005. - Thanh toán trong nước và chuyển tiền: Doanh số thanh toán trong nước đạt 31.500 tỷ đồng năm 2006. Doanh số phát hành thẻ đạt 5140 thẻ các loại, bằng 12 lần năm trước. Dịch vụ hiện đại được đưa vào ứng dụng như dịch vụ chuyển tiền nhanh, chi trả lương qua thẻ ATM, đảm bảo an toàn mang lại nhiều tiện ích cho ngân hàng. - Thu dịch vụ: Tổng thu dịch vụ đạt 3.043 tỷ đồng, tăng 1.4% so với năm trước, chiếm 3% tổng thu nhập từ hoạt động của chi nhánh. Chất lượng dịch vụ không ngừng được nâng cao. Tháng 11/2006 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, vì vậy trong các năm tới hứa hẹn hoạt động dịch vụ của các ngân hàng sẽ ngày càng sôi động hơn nữa, thu từ hoạt động dịch vụ , kinh doanh ngoại tệ…sẽ không ngừng được nâng cao. 2.1.3.4.Hiệu quả kinh doanh Hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng được đo bằng lợi nhuận hàng năm của ngân hàng đó. Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm với những kết quả đạt được có thể được coi là một chi nhánh ngân hàng kinh doanh có lãi nhất. Theo báo cáo tài chính năm 2004 của ngân hàng, lợi nhuận hoạch toán đạt 50 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2003. Năm 2005, lợi nhuận hạch toán sau khi trích dự phòng rủi ro đạt 68 tỷ đồng, tăng 36 % so với năm trước. Đến cuối năm 2006, lợi nhuận hoạch toán nội bộ chỉ đạt 61 tỷ đồng do phải dự phòng rủi ro nhiều. Chỉ từ những con số được thống kê trong những năm gần đây ta có thể thấy được đà phát triển và sự nỗ lực của chi nhánh để xứng đáng là một chi nhánh xuất sắc trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2.2. TH¦ỰC TRẠNG CHO VAY DNV&N CỦA NHCT HOÀN KIẾM 2.2.1. Tình hình cho vay DNV&N tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tương đối đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế được ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện. Theo đà phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng tăng về số lượng. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, các ngân hàng nói chung và chi nhánh ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng đã không ngừng mở rộng cho vay DNV&N. Để hiểu rõ hơn tình hình cho vay DNV&N chúng ta sẽ đi tìm hiểu, xem xét các chỉ tiêu. Doanh số cho vay của NHCT Hoàn Kiếm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện qua các số liệu sau: Bảng 2.3: Doanh số cho vay DNV&N tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Doanh số cho vay của chi nhánh 980 1.000 985 Doanh số cho vay DNV&N 190 200 180 Tỷ trọng (%) 19.4 20 18.3 (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) Có thể thấy rằng, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong doanh số cho vay của toàn chi nhánh. Cùng với doanh số cho vay của cả ngân hàng thì doanh số cho vay của DNV&N cũng biến đổi liên tục qua các năm. Năm 2005, doanh số cho vay của DNV&N chiếm tỷ trọng 20% so với doanh số cho vay của toàn chi nhánh. Đến năm 2006, do tình hình biến động không ổn định, do sự cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng trong nền kinh tế nên chi nhánh đã giảm doanh số cho vay. Vì vậy doanh số cho vay của DNV&N cũng giảm xuống 1.7% so với năm 2005. Tuy nhiên đến năm 2007, khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì chắc chắn rằng doanh số cho vay sẽ ngày càng tăng lên, đặc biệt là cho vay DNV&N. 2.2.2. Tình hình dư nợ cho vay Dư nợ phản ánh lượng tiền vay của khách hàng tại một thời điểm nhất định. Mức dư nợ và tỷ lệ dư nợ là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh việc mở rộng cho vay, bởi vì khi ngân hàng thực hiện chính sách mở rộng tín dụng thì thường tại bất cứ thời điểm nào, dư nợ tín dụng cũng đạt mức cao. Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng dư nợ cho vay 930 1.100 1.070 Dư nợ cho vay DNV&N 110 100 95 Tỷ trọng (%) 11.8 9.1 8.9 (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) Số liệu cho thấy, dư nợ của DNV&N giảm dần qua các năm. Năm 2005, dư nợ của DNV&N là 100 tỷ đồng, chiếm 9.1% nhưng đến năm 2006 đã giảm xuống còn 95 tỷ đồng, giảm 5% so với năm 2005. Nguyên nhân chính là do khách hàng đã có kế hoạch trả nợ tốt hơn, ngân hàng đã có nhiều biện pháp để đảm bảo khoản tín dụng được thu hồi tốt nhất. Như vậy với tình hình trả nợ của DNV&N tốt như hiện nay thì chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm mở rộng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này là tốt nhất, đảm bảo an toàn và mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. * Dư nợ cho vay phân theo thành phần kinh tế Bảng 2.5: Dư nợ cho vay phân theo thành phần kinh tế Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) DNNN 725.4 78 880 80 778 72.7 DNNQD 204.6 22 220 20 292 27.3 DNN&V 110 11.2 100 9.1 95 8.88 (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) Nhận xét: Dư nợ cho vay đối với DNNQD tăng hàng năm về số lượng. Năm 2004 là 204.6 tỷ đồng, đến năm 2006 là 292 tỷ đồng, tăng42.7 % Trong khi đó ở năm 2006 dư nợ cho vay đối với DNNN và DNV&N đểu giảm so với năm 2005: dư nợ cho vay DNNN giảm 11.5 %, dư nợ cho vay DNV&N giảm 13.6 % Điều này chứng tỏ ngân hàng đã có cái nhìn thông thoáng hơn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, quan hệ tín dụng mở rộng đối với thành phần kinh tế, không còn thu hẹp trong khối doanh nghiệp nhà nước. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, xây dựng được chỗ đứng vững chắc của mình trong nền kinh tế. Bởi vậy, trong năm qua, ngân hàng mở rộng cho vay DNNQD là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng, tuy có tăng trong những năm qua nhưng tỷ trọng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn rất nhỏ. Chúng ta biết rằng 90% DNV&N đều thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy việc mở rộng cho vay DNNQD ảnh hưởng rất lớn đến thành phần kinh tế chủ chốt doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa phân theo kỳ hạn Bảng 2.6: Dư nợ cho vay DNV&N phân theo kỳ hạn Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) số tiền Tỷ trọng (%) Ngắn hạn 80 72.7 62 62 80 84.2 Trung dài hạn 30 27.3 38 28 15 15.8 Tổng Dư nợ cho vay DNN&V 110 100 100 95 100 (Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh) Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm tài trợ vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu vẫn là hình thức tín dụng ngắn hạn.Tín dụng ngắn hạn chiếm một tỷ trọng rất cao trong cho vay DNV&N, năm 2006 chiếm 84.2 %. Còn cho vay trung dài hạn vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cho vay DNV&N, năm 2006 chiếm 15.8 %. Nhìn chung hiện nay, các DNV&N nói riêng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32117.doc
Tài liệu liên quan