LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đề ra, nền kinh tế Việt Nam đang có những bước tiến vượt bậc, tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm luôn đạt trên 7%, là nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Nhân tố chủ chốt trong sự phát triển kinh tế này chính là các doanh nghiệp, những người trực tiếp mang về nguồn thu cho nền kinh tế quốc dân.
Chính vì vậy, việc tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, giúp các doanh
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần á Châu chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp bắt kịp với trình độ sản xuất, công nghệ trên thế giới, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào trong nước… là những mục tiêu hàng đầu mà Nhà nước ta đã đề ra ngay từ những ngày đầu hội nhập. Để thực hiện được điều đó thì yếu tố vốn đầu tư là một trong những yếu tố then chốt, quyết định.
Có nhiều nguồn vốn doanh nghiệp có thể khai thác như huy động trong nhân dân thông qua phát hành trái phiếu, thu hút đầu tư nước ngoài, góp vốn liên doanh, cổ phần hóa… Tuy nhiên nguồn vốn thông dụng nhất vẫn là vay ngân hàng. Mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp là một mối quan hệ bền chặt, chi phối lẫn nhau và thường là lâu dài, mang lại lợi ích cho cả đôi bên.
Vì lẽ đó, các ngân hàng cũng thường xuyên đổi mới chính sách tín dụng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước đang diễn ra từng ngày từng giờ. Tuy nhiên, do nền kinh tế của nước ta vẫn còn đang trong quá trình phát triển, nên thị trường tiền tệ nói chung và thị trường vốn tín dụng nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, chưa mang lại những hiệu quả như mong đợi.
Vì vậy, trong quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu Hà Nội, được tìm hiểu về hoạt động cho vay doanh nghiệp của chi nhánh, với mong muốn đóng góp những suy nghĩ của mình, em đã chọn đề tài: “Mở rộng cho vay doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu chi nhánh Hà Nội”.
Chuyên đề gồm ba chương với những nội dung chính như sau:
Chương 1: Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp tại chi nhánh ACB Hà Nội
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay doanh nghiệp tại chi nhánh ACB Hà Nội
Do còn hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn, nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn bè để chuyên đề của em hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM) thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh,…). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Vì vậy, ta có thể định nghĩa ngân hàng theo những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.
Ngân hàng là các tổ chức trung gian tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Còn nếu dựa trên các hoạt động chủ yếu thì có thể hiểu : Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Các loại hình NHTM rất phong phú, căn cứ theo nhiều tiêu thức người ta có thể phân ra thành ngân hàng sở hữu tư nhân, ngân hàng sở hữu cổ đông, ngân hàng sở hữu Nhà nước, ngân hàng liên doanh; hay ngân hàng đơn năng, ngân hàng đa năng; ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ…
1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.2.1. Huy động vốn
Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm hai loại chính nếu phân chia theo hình thức sở hữu: vốn của chủ ngân hàng và vốn nợ.
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, gọi là vốn chủ sở hữu. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng và là cơ sở để huy động vốn từ công chúng, tạo “đòn bẩy” cho hoạt động. Trên thực tế, các ngân hàng là những doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính (tài trợ bằng nợ) lớn nhất. Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) chiếm không quá 10% giá trị tổng tài sản.
Vốn nợ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn vốn của NHTM, được hình thành chủ yếu từ hai nguồn tiền gửi và các khoản vay.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, thể hiện các yêu cầu tài chính đối với ngân hàng từ phía doanh nghiệp, hộ gia đình và Chính phủ. Có 5 loại hình tiền gửi chính:
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch). Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm), họ có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn.
- Tài khoản NOW. Đây là những tài khoản chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Đây là tài khoản hưởng lãi và cho phép người gửi tiền phát séc để thực hiện thanh toán cho bên thứ ba.
- Tiền gửi có kỳ hạn. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Hình thức này có lãi suất cao hơn tiền gửi thanh toán, tùy theo độ dài của kỳ hạn, nhưng không được áp dụng các hình thức thanh toán như tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác. Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại NHTM khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn.
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần, NHTM thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước Ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Vì vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Các khoản vay chủ yếu của ngân hàng là:
- Vay Ngân hàng Trung ương (NHNN). Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), NHTM thường vay Ngân hàng Trung ương. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Trung ương là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn).
- Vay các tổ chức tín dụng khác. Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
- Vay trên thị trường vốn. Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Đây là các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.
1.2.2. Hoạt động tín dụng
Hoạt động sinh lợi chủ yếu của các ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng (cho vay). Cho đến hiện nay, khoản mục tài sản lớn nhất trong ngân hàng vẫn là những khoản cho vay. Khoản mục này thường chiếm từ 1/2 đến 3/4 giá trị tổng tài sản của ngân hàng.
Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của nhà quản lý ngân hàng là kiếm được lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Mức độ thanh khoản của các hợp đồng tín dụng, mặc dù là rất quan trọng, nhưng ở vào vị trí thứ yếu. Những phát triển gần đây về “sự bảo đảm an toàn” đã góp phần tạo ra thanh khoản cho các khoản cho vay khác nhau. Sự bảo đảm an toàn nảy sinh khi các thưong phiếu hoặc tín phiếu được phát hành và dựa trên các khoản tín dụng có liên quan, như tín dụng thương mại hoặc tín dụng tiêu dùng. Điều này cho phép chủ nợ đầu tiên thu hồi vốn một cách gián tiếp, khi vốn vẫn đang hoạt động.
Nhà quản lý ngân hàng cũng phải quyết định phân chia vốn trong phạm vi các khoản mục cho vay, nghĩa là vốn phải được phân thành các khoản cho vay tiêu dùng, cho vay thương mại, cho vay bất động sản và các loại cho vay khác. Sự phân chia này được thực hiện trên cơ sở khả năng sinh lợi và nhu cầu tín dụng, phù hợp với các giới hạn và những quy định phải tuân theo.
1.2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
2.1. Khái niệm
Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Theo lẽ đó, cho vay là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn gọi là tín dụng ngân hàng). Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất, là hoạt động chủ yếu trong quan hệ tín dụng của NHTM, song đem lại rủi ro cao nhất cho NHTM.
Trong quan hệ cho vay thể hiện các nội dung sau:
+ Trái chủ, hay còn gọi là người cho vay, chuyển giao cho người thụ trái, hay còn gọi là người đi vay, một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hóa, máy móc, thiết bị, bất động sản.
+ Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Trong quan hệ tín dụng người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả vào một ngày nào đó trong tương lai mà hai bên đã thỏa thuận.
+ Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Marx viết: “Đem tiền cho vay với tư cách là một việc có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó, mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm trong quá trình vận động”.
Như vậy quan hệ cho vay có thể được hiểu theo nghĩa rộng là sự vận dộng của luồng vốn từ nơi đang tạm thời thừa sang nơi thiếu vốn, hoặc đang cần vốn. Quan hệ cho vay có thể diễn ra giữa nhiều chủ thể khác nhau như doanh nghiệp, cá nhân, ngân hàng, chính phủ...
2.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại
2.2.1. Căn cứ vào mục đích
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngân hàng còn cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay
Cho vay ngắn hạn. Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, được sử dụng nhằm mục đích tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất và cá nhân. Đối với NHTM tín dụng ngắn hạn chiếm tỉ trọng cao nhất.
Cho vay trung hạn. Theo quy định hiện nay của Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, còn đối với các nước trên thế giới loại cho vay này có thời hạn đến 7 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều, hồ tiêu…
Cho vay dài hạn. Đây là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm (Việt Nam), hoặc trên 7 năm (đối với các nước trên thế giới).
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, các dự án lớn của quốc gia, xây dựng các xí nghiệp mới…
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
2.2.4. Căn cứ vào hình thái tài sản
Cho vay bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp…
Cho vay bằng hiện vật (thuê-mua). Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay để khách hàng mua tài sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không đủ (hoặc chưa đủ) điều kiện vay. Để mở rộng tín dụng, NHTM đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được. Điều này góp phần giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng.
Hoạt động cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn, người đi thuê không có dự định “mua” tài sản đó để sử dụng lâu dài. Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu cho thuê trong thời gian dài và người đi thuê có quyền mua tài sản khi hết hợp đồng thuê. Hoạt động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho thuê tài chính.
2.2.5. Căn cứ vào hình thức cho vay
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Cho vay từng lần
Quy mô vay
Thời gian vay
: Quy mô và thời gian cho vay
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
Cho vay theo hạn mức. Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Cho vay theo hạn mức
Thời gian
Dư nợ
Dư nợ trong kỳ
Hạn mức được duyệt trong kỳ
Thời gian
Dư nợ
Hạn mức được duyệt cuối kỳ
Dư nợ
Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp, ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ, sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển
Thời gian
Cho vay
Dự trữ hàng hóa (Tăng khi mua và giảm khi bán)
Vay ( ), trả( )
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hóa tồn đọng…) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng). Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức tín dụng.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp. Khả năng tài trợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (thấu chi):
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi
Trục y: Số dư tiền gửi thanh toán (đồng)
Trục x: Thời gian
Hạn mức thấu chi
Vay ngân hàng (thực hiện thấu chi)
Số dư tiền gửi
x
y
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
2.2.6. Căn cứ vào mối quan hệ với người vay
Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Ngân hàng
Khách hàng
Cấp vốn (1)
Thanh toán nợ (2)
Cho vay gián tiếp, bao gồm các loại sau:
+ Chiết khấu thương mại (discount)
Người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. Khi các chứng từ này đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. Cần lưu ý trong nghiệp vụ chiết khấu thương mại người được cấp tín dụng và người chịu trách nhiệm thanh toán chính cho ngân hàng là hai người khác nhau.
+ Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp
Do sự tác động của phương thức tiêu thụ hàng hóa gần phương pháp tiếp thị mới đã thúc đẩy các ngân hàng thương mại đưa vào áp dụng loại cho vay gián tiếp. Trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp thương mại đang tìm mọi biện pháp đã cạnh tranh trong việc tiêu thụ hàng hóa, trong đó bán chịu hàng hóa được coi là biện pháp để mở rộng tiêu thụ hàng hóa có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nguồn vốn của các doanh nghiệp có hạn, vì vậy cần phải có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp.
Cho vay gián tiếp thông qua mua các phiếu bán hàng được thực hiện theo quy trình như sau:
Ngân hàng
Doanh nghiệp thương mại
Người mua
(2)
(3)
(1)
Doanh nghiệp thương mại bán chịu hàng hóa cho người mua – người tiêu dùng hoặc người nông dân
Doanh nghiệp thương mại chuyển nhượng phiếu bán hàng trả góp cho ngân hàng để được tài trợ vốn.
Người mua thanh toán cho ngân hàng theo định kỳ.
+ Mua các khoản nợ của doanh nghiệp (nghiệp vụ factoring)
Nghiệp vụ factoring hay còn gọi là mua các tích trái là một hình thức tài trợ vốn ngắn hạn. Nghiệp vụ này thường do các công ty mua nợ (factor) thực hiện
Nghiệp vụ factoring được thực hiện như sau:
Khách hàng
(client)
Con nợ
(debtor)
Người mua nợ (factor)
(2)
(1)
(1) Khách hàng bán các tích trái (khoản phải thu theo hóa đơn) cho người mua nợ (factor- thường là công ty con của ngân hàng )
(2) Người mua nợ thanh toán một khoản tiền bằng số tiền trên tài khoản nợ trừ đi lãi và hoa hồng mà người mua nợ được hưởng, đồng thời người mua nợ còn giữ lại một phần để phòng ngừa hàng trả lại.
(3) Khi đến hạn con nợ phải thanh toán cho người mua nợ.
Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp hàng tiền, nhưng khi người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lí do trên đây mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ kí.
2.2.7. Tín dụng bằng uy tín của ngân hàng (nghiệp vụ bảo lãnh)
Tín dụng chấp nhận: Tín dụng chấp nhận là việc khách hàng phát hành một hối phiếu mà trong đó ngân hàng đóng vai trò là người thụ lệnh. Khách hàng dùng hối phiếu này để chiết khấu ở một ngân hàng khác để nhận tiền. Trước khi hối phiếu đến hạn thanh toán khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng thụ lệnh để ngân hàng này chi trả cho ngân hàng chiết khấu.
Trong quan hệ này ngân hàng không phải là người thiếu nợ, mà ngân hàng cho mượn uy tín của mình để khách hàng được vay vốn.
Tín dụng chứng từ: Ngân hàng mở tín dụng chứng từ cho khách hàng là nhà nhập khẩu và người hưởng thụ là nhà xuất khẩu ở nước ngoài. Điều này có nghĩa là ngân hàng đã cam kết trả tiền khi nhà xuất khẩu đã gửi hàng và xuất trình các chứng từ theo đúng các điều kiện của tín dụng thư.
Bảo lãnh của ngân hàng: Trong hình thức tín dụng bằng chữ kí, bảo lãnh là loại tín dụng được áp dụng phổ biến. Để đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ của khách hàng, ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng bằng việc phát hành các chứng thư bảo lãnh.
Chứng thư bảo lãnh là giấy cam kết của ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghĩa vụ.
Bảo lãnh ngân hàng có các loại thông dụng sau:
+ Bảo lãnh thuế quan: Ngân hàng phát hành chứng thư bảo lãnh cho nhà nhập khẩu để người này được lấy hàng ra khỏi cảng mà chưa phải đóng thuế cho Nhà nước. Người hưởng thụ của cam kết bảo lãnh này là tổ chức thuế quan của Nhà nước.
+ Bảo lãnh khoản tiền giữ lại: Đối với các công trình xây dựng, bên chủ đầu tư không thanh toán toàn bộ số tiền theo hợp đồng mà thường giữ lại một khoản khoảng 10%. Khoản tiền 10% có thể giữ lại cho đến khi hoàn thành công trình và được chủ đầu tư (bên A) nghiệm thu hoặc cũng có thể giữ lại trong một khoảng thời gian sau khi đã hoàn thành công trình. Nếu chủ thầu xây dựng muốn nhận toàn bộ số tiền theo hợp đồng thì phải được ngân hàng đứng ra bảo lãnh.
+ Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước: Nhiều người cung cấp yêu cầu khách (người mua hàng hóa dịch vụ) phải đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng đồng thời lại không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của ngân hàng về việc sẽ trả tiền ứng trước. Vậy bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua (người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp (người được bảo lãnh) không trả.
+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hóa, xây dựng, thiết kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn, không đúng chất lượng cam kết… đều có thể gây tổn thất cho bên thứ ba. Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
+ Bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu: Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham dự thầu như trúng thầu nhưng không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư… chủ đầu tư thường xuyên yêu cầu bên dự thầu phải ký quỹ (đặt cọc) dự thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ bị mất tiền ký quỹ. Do ký quỹ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham gia dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền ký quỹ bằng bảo lãnh của ngân hàng.
+ Bảo lãnh hoàn trả vốn vay (bảo lãnh vay vốn): Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay đòi hỏi phải có đảm bảo hoặc bằng hàng hóa, chứng khoán, bất động sản, hoặc bảo lãnh cả người thứ ba… Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu song nếu uy tín của người vay trên thị trường đó chưa cao, việc phát hành sẽ rất khó khăn. Điều đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh vay vốn. Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân,…) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả được.
+ Bảo lãnh bảo đảm thanh toán: Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của NHTM
3.1. Các nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế
Doanh ngiệp hoạt động trong môi trường kinh tế, vì thế bất cứ sự biến động nào của môi trường kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới doanh ngh._.iệp, qua đó ảnh hưởng gián tiếp tới ngân hàng. Nếu nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện lợi cho hoạt động tín dụng phát triển lành mạnh. Khi đó, các quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế sẽ phát triển lành mạnh, các doanh nghiệp làm ăn có lãi, khoản cho vay của ngân hàng được sử dụng có hiệu quả và có khả năng thu hồi cao. Một khi môi trường kinh tế không ổn định, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây khó khăn cho hoạt động của người vay làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng, dẫn đến ngân hàng cũng kinh doanh thua lỗ do không thu được nợ
Môi trường xã hội
Các yếu tố như trật tự xã hội, an toàn an ninh xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của khách hàng. Thật vậy, nếu như một địa bàn có an ninh trật tự không tốt sẽ gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư, họ sẽ không bỏ vốn vào đó, hạn chế nhu cầu vay vốn, ngân hàng sẽ không thể cho vay đươc. Hoặc ngân hàng lại đóng trên một địa bàn có tình hình an ninh kém cũng sẽ không thu hút được các nhà đầu tư đến liên hệ vay vốn, ngân hàng đó cũng không thể mở rộng cho vay.
Môi trường pháp lý
Hoạt động của ngân hàng nằm trong hành lang pháp lý hẹp, chịu sự điều chỉnh của Ngân hàng Trung ương để phù hợp với chính sách kinh tế của đất nước, và phải tuân theo một hệ thống các văn bản pháp luật, văn bản dưới luật kết cấu với nhau một cách chặt chẽ, thống nhất.
Nếu Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, kìm hãm lạm phát thì ngân hàng thương mại không thể mở rộng cho vay. Ngược lại, nếu Ngân hâng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, khuyến khích đầu tư, thì ngân hàng thương mại có thể mở rộng cho vay.
Bên cạnh đó, các hoạt động của ngân hàng phải tuân thủ theo pháp luật. Nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, đồng bộ, kịp thời sẽ gây khó khăn trong hoạt động tín dụng, đồng thời cũng tạo tâm lý bất an cho doanh nghiệp, họ không thể đẩy mạnh kinh doanh được. Ngược lại, một hệ thống pháp luật rõ ràng, tạo môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh. Vì vậy nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Việc tuân thủ nghiêm túc các quy định của Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật dân sự… không chỉ giúp ngân hàng và doanh nghiệp yên tâm kinh doanh mà cũng tạo ra sự canh tranh bình đẳng, chống độc quyền, thao túng thị trường tín dụng.
Môi trường chính trị
Môi trường chính trị phản ánh sự bình ổn của một quốc gia. Một đất nước luôn có khủng bố, đảo chính, chiến tranh… thì không những nền kinh tế bị phá hủy, phát triển chậm chạp mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư, không thu hút được đầu tư. Do đó ngân hàng cũng không thể mở rộng cho vay, hoạt động của ngân hàng cũng vì thế mà ỳ trệ, không phát triển được.
3.2. Các nhân tố chủ quan
Về phía người vay
Doanh nghiệp đi vay có ảnh hưởng quan trọng đến quy mô và chất lượng khoản vay. Nếu doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, có khả năng dự đoán các vấn đề kinh doanh tốt, làm ăn với ngân hàng lâu năm, uy tín cao thì chắc chắn nhu cầu tín dụng của họ sẽ được ngân hàng đáp ứng đầy đủ. Ngược lại nếu trình độ yếu kém, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì, làm ăn thua lỗ… thì khả năng ngân hàng cho vay là không có thể xảy ra, ngân hàng không mở rộng cho vay.
Về phía NHTM
+ Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho cán bộ tín dụng ngân hàng thực hiện một khoản cho vay tốt. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều doanh nghiệp đến xin vay vốn, đảm bảo khả năng sinh lời của khoản vay. Căn cứ vào chính sách tín dụng, cán bộ tín dụng sẽ biêt cách phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách như: quy mô, lãi suất, kỳ hạn, tài sản đảm bảo, các khoản tín dụng có vấn đề… Điều này có nghĩa là việc mở rộng cho vay doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào chính sách tín dụng của ngân hàng đó.
+ Quy trình tín dụng. Để chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Nếu việc ứng dụng quy trình tín dụng linh hoạt, có sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý giữa các bước sẽ vừa làm hài lòng khách hàng tạo uy tín để khách hàng xin vay những nguồn vốn lớn, vừa đảm bảo an toàn cho khoản vay, tạo điều kiện mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp.
+ Trình độ cán bộ. Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc mở rộng cho vay. Với một đội ngũ cán bộ giỏi am hiểu nghiệp vụ của mình thì việc lựa chọn đánh giá khách hàng chuẩn xác, mức độ an toàn cao là cơ sở để ngân hàng có thể tin tưởng mở rộng quy mô cho vay của mình. Nếu chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai… là những nguyên nhân dẫn tới mất tín nhiệm với doanh nghiệp, hoạt động cho vay bị hạn chế.
+ Công nghệ ngân hàng. Trong thời đại công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật như hiện nay, bất cứ ngành nghề nào cũng có sự đóng góp của công nghệ hiện đại. Ứng dụng công nghệ vào trong ngân hàng giúp tăng tốc độ xử lý công việc, tăng sự chính xác, khai thác được nhiều thông tin về doanh nghiệp để đưa ra quyết định cho vay chính xác. Thủ tục giản tiện hơn cũng khuyến khích doanh nghiệp tìm đến ngân hàng vay vốn
+ Hoạt động huy động vốn. Một trong những hoạt động chính của NHTM là tìm kiếm các khoản vốn (huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Ngân hàng càng thu hút được nhiều nguồn vốn thì càng có nhiều khả năng mở rộng cho vay.
+ Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh của khách hàng, tình hình kinh doanh của khách hàng… thông tin càng chính xác, nhanh nhạy thì khả năng phòng ngừa rủi ro của ngân hàng càng lớn, càng có cơ sở để mở rộng thêm nhiều loại hình cho vay phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Mặt khác, một ngân hàng với lượng thông tin phong phú có thể đưa ra những tư vấn hữu ích cho khách hàng và đây cũng là yếu tố mở rộng quy mô cho vay.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHO VAY DOANH NGHIỆP
TẠI CHI NHÁNH ACB HÀ NỘI
1. Khái quát về chi nhánh ACB Hà Nội
1.1. Sự ra đời và nhiệm vụ chính của chi nhánh ACB Hà Nội
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (gọi tắt là ngân hàng ACB) là một ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đăng ký hoạt động tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép hoạt động số 0032/NH-GP ngày 24-04-1993. Vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ VND cho thời hạn hoạt động 50 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04-06-1993. Năm 1994, ngân hàng tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ VND, năm 1996 vốn điều lệ là 341 tỷ VND, năm 2003 ACB lại tăng vốn điều lệ lên 424 tỷ VND và tính đến ngày 23-08-2005 vốn điều lệ của ACB là 948,32 tỷ VND.
Sau hơn 10 năm hoạt động, đến nay ACB đã có 61 chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc.
Tại TP Hồ Chí Minh: 23 chi nhánh và 13 phòng giao dịch
Tại khu vực phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh): 6 chi nhánh và 6 phòng giao dịch
Tại khu vực miền Trung (Đà Nẵng, Daklak, Khánh Hoà, Hội An, Huế): 5 chi nhánh và 1 phòng giao dịch
Tại khu vực miền Tây (Cần Thơ, An Giang, và Cà Mau): 3 chi nhánh
Tại khu vực miền Đông (Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu): 3 chi nhánh và 1 phòng giao dịch.
5.584 đại lý chấp nhận thanh toán thẻ của Trung tâm thẻ ACB (31/12/2005)
360 đại lý chi trả của Trung tâm chuyển tiền nhanh ACB-Western Union (tháng 03/2005)
E-banking.
Trong hệ thống ngân hàng ACB thì Chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu tại Hà Nội (viết tắt là ACB Hà Nội) là chi nhánh cấp một đầu tiên trên cả nước, đã được khai trương và đi vào hoạt động từ ngày 14/12/1993, tại địa chỉ 184 - 186 Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hiện nay ACB Hà Nội có một chi nhánh cấp hai là chi nhánh Cửa Nam tại 6 Nguyễn Thái Học và năm phòng giao dịch (PGD) là:
PGD Kim Liên tại số 1 Chùa Bộc, quận Đống Đa
PGD Bát Đàn tại 46B Phố Bát Đàn, quận Hoàn Kiếm
PGD Chùa Hà tại 18 Trần Đăng Ninh, quận Cầu Giấy
PGD Ngọc Lâm tại 225 Phố Ngọc Lâm, quận Long Biên
PGD Nội Bài tại Khu C, tầng 1, Sân Bay Quốc tế Nội Bài
Nhiệm vụ chính của ACB Hà Nội là cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ tốt nhất, đáp ứng tốt nhất nhu cầu cho mọi đối tượng khách hàng. Đồng thời đóng góp vào sự phát triển chung của ngân hàng ACB cũng như cả hệ thống ngân hàng Việt Nam. Những sản phẩm dịch vụ chính mà ACB Hà Nội cung cấp bao gồm:
Huy động vốn (nhận tiền gửi của khách hàng) bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ và vàng
Sử dụng vốn (cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn vốn liên doanh) bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ và vàng
Các dịch vụ trung gian (thực hiện thanh toán trong và ngoài nước, thực hiện dịch vụ ngân quỹ, chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền nhanh, bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng.
Kinh doanh ngoại tệ và vàng.
Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ.
Bên cạnh đó ACB còn là nơi đặt chi nhánh của Công ty cổ phần địa ốc ACB (công ty liên kết với ngân hàng ACB) hoạt động trong lĩnh vực bất động sản.
1.2. Cơ cấu tổ chức của ACB Hà Nội
Cơ cấu tổ chức của ACB Hà Nội gồm 01 giám đốc, 02 phó giám đốc và các khối, phòng ban: Phòng tổ chức hành chính, Phòng kế toán, Bộ phận pháp lý chứng từ, Bộ phận thẻ, Bộ phận thẩm định tài sản, Tổ xử lý nợ, Phòng khách hàng doanh nghiệp và Phòng khách hàng cá nhân.
Giám đốc phụ trách các công việc chung của ngân hàng. 01 phó giám đốc phụ trách và chịu trách nhiệm về hoạt động tín dụng. 01 phó giám đốc phụ trách về hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ.
1.2.1. Phòng tổ chức hành chính
Phòng tổ chức hành chính thực hiện các công tác hành chính, tổ chức của chi nhánh. Nhiệm vụ chung của phòng tổ chức hành chính:
Tham mưu cho giám đốc và hướng dẫn cán bộ thực hiện các chế độ, chính sách của pháp luật về trách nhiệm, quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động; tham mưu việc tổ chức, sắp xếp bố trí nhân sự.
Lập kế hoạch và tổ chức tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu hoạt động của chi nhánh. Thực hiện chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm của cán bộ nhân viên, quản lý lao động, ngày công lao động, việc thực hiện nội quy của cơ quan.
Làm công tác cơ yếu, văn thư, hành chính, lưu trữ, in ấn, điện thoại, telex/fax, liên lạc, tống đạt văn thư phục vụ cho hoạt động của ngân hàng.
Trang bị, sửa chữa và bảo quản tài sản, kho tàng, nhà cửa, vật tư kỹ thuật, thiết bị máy móc và phương tiện làm việc cho ngân hàng.
Lập dự toán và thực hiện dự toán chi tiêu hành chính của chi nhánh.
Làm công tác lễ tân.
Làm công tác lao vụ.
Làm công tác y tế, bảo hiểm.
Bảo quản và sử dụng xe công tác.
Làm công tác tổ chức cán bộ.
Làm công tác thanh tra.
Làm công tác bảo vệ.
1.2.2. Phòng kế toán
Đây là bộ phận tham mưu và quản lý tài sản của chi nhánh, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Nhiệm vụ chung của phòng kế toán:
Tổ chức tốt việc hạch toán kế toán, thống kê toàn bộ tài sản, vốn liếng của ACB Hà Nội nhằm bảo vệ an toàn mọi nguồn vốn và giúp giám đốc giám sát việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất.
Thực hiện tốt mọi quan hệ tài khoản với khách hàng, đảm bảo nhanh, chính xác nhằm tăng cường sự tín nhiệm của khách hàng đối với chi nhánh. Tổ chức thực hiện tốt các nghiệp vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng (các đơn vị kinh tế và cá nhân trong nước và nước ngoài) có quan hệ tài khoản với ngân hàng ACB.
Hằng năm phải hoàn thành công tác quyết toán thường niên đúng thời hạn, rõ ràng, chính xác để trình hội đồng quản trị phê duyệt. Trích lập các quỹ và giám sát việc chấp hành chế độ tài chính nghiêm túc trong chi nhánh.
Tổ chức việc bảo quản và lưu trữ các tài liệu về kế toán, thống kê hạch toán theo chế độ.
Hằng năm căn cứ vào việc thực hiện các kế hoạch, cho vay, thu nợ, tính lỗ lãi để tiến hành phân tích tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh nhằm tham mưu cho ban lãnh đạo định ra công tác chỉ đạo các mặt nghiệp vụ cho năm tiếp sau.
1.2.3. Phòng khách hàng cá nhân
Phòng khách hàng cá nhân bao gồm các bộ phận nhỏ như:
Bộ phận tín dụng.
Bộ phận giao dịch và ngân quỹ.
Bộ phận dịch vụ khách hàng.
Kiều hối Western Union.
Phòng khách hàng cá nhân được chuyên môn hóa để thực hiện các nghiệp vụ cho các khách hàng lẻ, các hộ gia đình. Cũng như ngân hàng ACB, chi nhánh ACB Hà Nội cung cấp một danh sách các dịch vụ đa dạng để đáp ứng nhu cầu của đông đảo người dân. Các nghiệp vụ chính được thực hiện là:
Tiền gửi thanh toán bằng VND và ngoại tệ.
Sản phẩm thẻ, bao gồm: Thẻ tín dụng nội địa và quốc tế, Thẻ thanh toán và rút tiền nội địa và toàn cầu.
Quyền chọn mua bán vàng, quyền chọn mua bán ngoại tệ.
Tiền gửi tiết kiệm bằng VND, ngoại tệ và vàng.
Dịch vụ chuyển tiền, nhận tiền từ nước ngoài và gửi đi nước ngoài. Trong đó dịch vụ chuyển nhanh Western Union có thể coi là thế mạnh của ACB nói chung và ACB Hà Nội nói riêng, với hơn 422 đại lý trên toàn thế giới.
Sản phẩm cho vay. Đây là một trong những dịch vụ rất phong phú mà ACB Hà Nội cung cấp cho khách hàng, các loại hình cho vay tiêu biểu có thể kể đến là: Cho vay trả góp mua nhà hoặc sửa chữa xây dựng nhà, Cho vay hoán đổi nhà, Cho Việt kiều vay mua nhà ở Việt Nam, Cho vay trả góp sinh hoạt tiêu dùng, Cho vay trả góp sản xuất kinh doanh, Cho vay du học, Cho vay thẻ tín dụng, Cho vay cầm cố cổ phiếu, …
Các dịch vụ khác như: Giữ hộ vàng, Thu đổi ngoại tệ, Trung gian mua bán bất động sản, Dịch vụ du học, Bankdraft đa ngoại tệ.
1.2.4. Phòng khách hàng doanh nghiệp
Khách hàng doanh nghiệp là mảng mang lại nguồn thu nhập cao cho ACB Hà Nội. Chính vì vậy, Phòng khách hàng doanh nghiệp được phân ra làm nhiều tổ chuyên trách, bao gồm: Quầy giao dịch, Tổ dịch vụ khách hàng, Tổ thanh toán quốc tế và Tổ tín dụng khách hàng doanh nghiệp.
Quầy giao dịch là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động cấp vốn cho doanh nghiệp vay và nhận, thanh toán ngoại tệ thay cho khách hàng, căn cứ trên những hồ sơ pháp lý đã được thẩm định.
Tổ dịch vụ khách hàng (gồm hai bộ phận là CSR và Loan CSR) là nơi khách hàng có thể nhận được sự tư vấn tận tình, hiểu rõ được các nghiệp vụ ngân hàng, lựa chọn được cho mình một loại hình dịch vụ phù hợp.
Tổ thanh toán quốc tế có những nhiệm vụ cụ thể sau:
Nghiên cứu, tham gia với các đơn vị xuất nhập khẩu để áp dụng phương thức thanh toán có lợi nhất đối với hàng xuất nhập khẩu, đảm bảo an toàn tiền và hàng.
Thực hiện các nghiệp vụ cụ thể về thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu và các khoản liên quan đến hàng hóa đó với nước ngoài.
Hướng dẫn và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị xuất nhập khẩu lập các chứng từ thanh toán chính xác, nhanh chóng kịp thời để tránh những sai sót, sơ hở trong khâu lập chứng từ thanh toán dẫn đến không thu được hoặc thu chậm tiền hàng xuất khẩu.
Tổ chức các đại diện thanh toán ở những nơi cần thiết tại bến cảng để phối hợp với các đơn vị giao hàng xuất khẩu lập, kiểm tra, kiểm soát chứng từ để bảo đảm khâu luân chuyển chứng từ, thanh toán thu tiền hàng xuất khẩu kịp thời.
Lập hồ sơ các ngân hàng và thương nhân nước ngoài liên quan đến các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu để nhận xét, đánh giá, xếp loại, góp phần với các đơn vị xuất nhập khẩu trong quan hệ giao dịch đối ngoại được tốt.
Lập và báo cáo thống kê định kỳ tình hình thanh toán xuất nhập hàng tháng, quý, năm.
Theo dõi tình hình tài chính, tiền tệ quốc tế và nghiên cứu pháp chế quốc tế về các chính sách tài chính, tín dụng, thanh toán đối ngoại của từng nước và của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế. Đồng thời nghiên cứu pháp chế đối ngoại của nhà nước, của bộ ngoại giao và Ngân hàng Nhà nước để xây dựng các mối quan hệ tiền tệ, tín dụng và thanh toán với các ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài. Đề xuất chủ trương, chính sách và các biện pháp để sử dụng các hình thức tín dụng và thanh toán cá lợi cho việc phát triển quan hệ hợp tác quốc tế giữa ACB với nước ngoài.
Nghiên cứu và tiến hành các thủ tục xây dựng mạng lưới ngân hàng đại lý ở nước ngoài của ngân hàng ACB và theo dõi mối quan hệ với các ngân hàng đại lý và ngân hàng giao dịch của ngân hàng ACB, đồng thời tiến hành giao dịch, trao đổi tài liệu, tin tức, thăm hỏi… với các tổ chức và cá nhân nước ngoài có quan hệ với ngân hàng.
Nghiên cứu, xây dựng, trao đổi các quy ước mật mã, khóa điện và bảo quản sử dụng trong quan hệ giao dịch điện giữa ngân hàng ACB với ngân hàng đại lý và khách hàng nước ngoài có quan hệ khóa điện với ngân hàng ACB.
Dịch thuật các tài liệu phục vụ cho yêu cầu nghiên cứu và thông dịch các buổi tiếp khách, đàm phán của lãnh đạo ngân hàng ACB với khách nước ngoài.
Tổ tín dụng doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng trong nghiệp vụ sử dụng vốn mang lại hiệu quả, mang lại nguồn thu chính cho chi nhánh ACB Hà Nội. Các nghiệp vụ chuyên trách của tổ bao gồm:
Nghiên cứu, lập các kế hoạch tín dụng bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ để tìm nguồn vốn cân đối, thông qua giám đốc phê duyệt, tổ chức thực hiện.
Nghiên cứu các hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp để trình giám đốc phê duyệt, tổ chức thực hiện.
Nghiên cứu các yêu cầu bảo lãnh vay nợ nước ngoài, vay nợ trong nước để trình giám đốc phê duyệt và thực hiện.
Nghiên cứu các hồ sơ kinh tế của các đơn vị, tổ chức kinh tế có quan hệ tín dụng với chi nhánh ACB Hà Nội để theo dõi tình hình hoạt động, năng lực tài chính, khả năng thực hiện kế hoạch… để đảm bảo vốn cho vay được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, đảm bảo trả được nợ vay.
Báo cáo thống kê và phân tích hiệu quả kinh tế của nghiệp vụ tín dụng tại chi nhánh ACB Hà Nội.
1.2.5. Bộ phận thẻ - Bộ phận pháp lý chứng từ - Bộ phận thẩm định tài sản - Tổ xử lý nợ.
Đây là các bộ phận chuyên trách một mảng công việc cụ thể để có thể phục vụ nhu cầu của khách hàng tốt hơn và cũng để đảm bảo tính an toàn cao cho các hợp đồng tín dụng.
Bộ phận thẻ sẽ có nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp các dịch vụ thẻ khác nhau như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán… tùy theo nhu cầu của mỗi khách hàng, sao cho có thể đáp ứng nhanh nhất, thuận tiện nhất, đảm bảo tính an toàn bảo mật của thẻ.
Các bộ phận pháp lý chứng từ, bộ phận thẩm định tài sản, tổ xử lý nợ sẽ có nhiệm vụ đảm bảo các thủ tục giấy tờ vay nợ, bao thanh toán, bảo lãnh đúng pháp luật, tránh các trường hợp tranh chấp về tài sản khi có rủi ro xảy ra, thu hồi được nợ đúng hạn.
1.3. Tình hình kinh doanh của chi nhánh ACB Hà Nội
Năm 2005 đánh dấu một năm tiếp tục thành công của ACB nói chung và chi nhánh ACB Hà Nội nói riêng. Tính đến ngày 31/12/2005 tổng lợi nhuận trước thuế của ACB Hà Nội đạt 38,5 tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2004. Tổng tài sản của ngân hàng tăng 58% so với năm 2004, đạt 2442 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng lên 2233 tỷ đồng, cao hơn năm trước là 63%, trong đó nguồn vốn huy động tiết kiệm từ dân cư tăng 55%, đạt 1636 tỷ đồng.
Hoạt động tín dụng của chi nhánh ACB Hà Nội cũng đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Tính đến ngày 31/12/2005 tổng dư nợ cho vay của chi nhánh ACB Hà Nội là 956,5 tỷ đồng, tăng 42% so với năm trước. Suất sinh lợi sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt mức 38,79%. Bảng dưới đây sẽ thể hiện rõ hơn sự tăng trưởng của chi nhánh ACB Hà Nội qua các năm 2003, 2004 và 2005.
Bảng 1: Tình hình tăng trưởng của ACB Hà Nội giai đoạn 2003 - 2005
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Tổng dư nợ cho vay
540
674
956,5
Tổng lợi nhuận trước thuế
18,8
27,7
38,5
Tổng nguồn vốn huy động
(Trong đó huy động từ dân cư)
979,6
(755,6)
1389
(1055)
2233
(1636)
Tổng tài sản
1086
1544
2442
(Nguồn: Phòng Khách hàng doanh nghiệp ACB Hà Nội)
Cũng trong năm 2005, việc ACB đạt Giải thưởng Ngân hàng tốt nhất Việt Nam của tạp chí The Banker (Anh Quốc) vào tháng 9, hai giải thưởng Thanh Toán Quốc Tế Xuất Sắc do HSBC và CitiGroup trao tặng ACB vào tháng 10, bằng khen “Doanh nghiệp đạt thành tích trong quản lý chất lượng” của Ủy ban Nhân dân Tp.HCM… là minh chứng cho chất lượng các dịch vụ, sản phẩm tài chính ngân hàng của ACB được các tổ chức trong và ngoài nước đánh giá cao, và cũng do một phần đóng góp không nhỏ của chi nhánh ACB Hà Nội.
Trong năm 2006, chi nhánh ACB Hà Nội sẽ phấn đấu nâng tổng vốn huy động lên 3076,9 tỷ đồng, trong đó huy động tiết kiệm tăng 45%, đạt 2372,2 tỷ đồng vào cuối năm 2006. Suất sinh lợi sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm 2006 dự kiến là 35,6%. Ngân hàng cũng sẽ chú trọng phát triển hoạt động tín dụng trên cơ sở cẩn trọng, đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng.
2. Thực trạng cho vay doanh nghiệp của chi nhánh ACB Hà Nội
2.1. Tình hình cho vay của chi nhánh
Hiện nay, chi nhánh ACB Hà Nội cung cấp một danh mục các loại hình cho vay khá phong phú như: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, cho vay thấu chi, cho vay cầm cố hạt nhựa… bằng VND và USD. Đối tượng khách hàng của chi nhánh cũng đa dạng bao gồm:
Doanh nghiệp nhà nước
Công ty cổ phần, TNHH
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
Các đối tượng khác
Tuy nhiên, dù là loại hình doanh nghiệp nào, ACB Hà Nội cũng áp dụng một quy trình phân tích tín dụng chặt chẽ nhằm chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ khó đòi, giảm bớt rủi ro từ các khoản vay nợ.
Quy trình xét duyệt cho vay của ACB Hà Nội
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ đề nghị vay vốn
Doanh nghiệp đến xin vay vốn ở ACB Hà Nội sẽ được cán bộ CSR hướng dẫn cụ thể các bước lập hồ sơ vay vốn theo quy định của Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu. Nếu doanh nghiệp tiếp tục vay vốn theo hợp đồng tín dụng trước đó, hoặc gia hạn thêm thời gian vay sẽ làm việc trực tiếp với cán bộ phụ trách cho vay.
Hồ sơ xin vay vốn của doanh nghiệp bao gồm:
Hồ sơ về tư cách pháp nhân
+ Điều lệ công ty (tổng công ty)
+ Giấy phép thành lập/ đăng ký kinh doanh
+ Giấy phép đầu tư, tu chỉnh (nếu có)
+ Quyết định bổ nhiệm tổng giám đốc, giám đốc, giám đốc tài chính, kế toán trưởng.
Hồ sơ về sử dụng vốn vay
+ Giấy đề nghị vay vốn
+ Kế hoạch kinh doanh, phương án vay vốn
+ Hợp đồng kinh tế
Hồ sơ về tình hình tài chính
+ Bảng cân đối kế toán
+ Báo cáo kết quả kinh doanh
+ Thuyết minh báo cáo tài chính
Hồ sơ về tài sản đảm bảo
Hồ sơ khác theo yêu cầu của ngân hàng
Sau khi doanh nghiệp đã hoàn thành hồ sơ, cán bộ bộ phận Loan CSR tiếp nhận sẽ tiếp nhận hồ sơ, và chuyển cho bộ phận tín dụng để tiến hành thẩm định.
Bước 2: Thẩm định hồ sơ vay vốn
Cán bộ tín dụng sau khi tiếp nhận hồ sơ sẽ phải phân tích hồ sơ. Bằng những biện pháp nghiệp vụ của mình, cán bộ tín dụng sẽ thu thập thông tin về doanh nghiệp, trên cơ sở những dữ liệu thu được sẽ tiến hành phân tích, quy trình phân tích bao gồm các bước:
Đánh giá tài sản của khách hàng. Căn cứ vào bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ đánh giá về ngân quỹ, chứng khoán có giá, hàng hóa trong kho, tài sản cố định
Đánh giá các khoản nợ. Ngân hàng sẽ quan tâm đến thời gian của các khoản nợ (tỷ lệ nợ ngắn hạn, trung và dài hạn, có nợ quá hạn không…), các chủ nợ của doanh nghiệp, các tài sản đã được sử dụng làm tài sản đảm bảo.
Phân tích luồng tiền. Cán bộ tín dụng sẽ phải đánh giá một tỷ lệ quan trọng là dòng tiền/tổng các khoản nợ để dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Các luồng tiền trong tương lai cần được dự kiến chính xác, và phải ghi lại sự vận động hàng tháng của các lhoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản thanh toán hàng tháng.
Sử dụng các tỷ lệ thanh khoản, tỷ lệ sinh lời, tỷ lệ rủi ro để đánh giá sức mạnh tài chính của doanh nghiệp và đo khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Xem xét các điều kiện kinh tế hiện tại có gây tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không.
Sau khi thẩm định, cán bộ tín dụng lập báo cáo đánh giá về doanh nghiệp, nêu quan điểm của mình có cho vay hay không và trình tổ trưởng bộ phận tín dụng.
Bước 3: Đánh giá của tổ trưởng bộ phận tín dụng
Căn cứ vào hồ sơ vay vốn, báo cáo thẩm định, tổ trưởng nêu rõ quan điểm về khách hàng, dự án, khoản vay và quyết định có cho vay hay không. Sau đó tổ trưởng bộ phận tín dụng sẽ chuyển hồ sơ kèm báo cáo thẩm định, và báo cáo cho trưởng phòng khối khách hàng doanh nghiệp.
Bước 4: Phê duyệt của trưởng phòng phòng khách hàng doanh nghiệp
Trong phạm vi quyền hạn của mình, trưởng phòng căn cứ vào hồ sơ xin vay và các báo cáo sẽ ra quyết định có cho vay hay không. Sau đó hồ sơ được chuyển cho cán bộ tín dụng trực tiếp tiếp nhận hồ sơ và thẩm định.
Bước 5: Giải ngân
Trong trường hợp hồ sơ vay vốn của khách hàng được chấp nhận, cán bộ tín dụng sẽ thông báo cho bộ phận kế toán và doanh nghiệp để hẹn ngày cấp vốn, hoặc trực tiếp giải ngân cho doanh nghiệp.
Bước 6: Kiểm tra sử dụng vốn vay và thu nợ
Cán bộ tín dụng thực hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay của khách hàng và hàng tháng đánh giá khả năng tài chính của khách hàng. Định kỳ 6 tháng một lần, cán bộ tín dụng lại kiểm tra bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính. Đến kỳ hạn, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thu hồi nợ.
Nếu khách hàng xin gia hạn nợ, hoặc điều chỉnh kỳ hạn nợ, cán bộ tín dụng cần thẩm định tình thình thực tế và báo cáo với tổ trưởng bộ phận tín dụng. Trong trương hợp các khoản nợ quá hạn, khách hàng chây ỳ không trả, cán bộ tín dụng sẽ phải tiến hành các thủ tục xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. Nếu khách hàng thanh toán nợ đúng hạn, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành các thủ tục để hoàn trả hồ sơ vay vốn và tài sản đảm bảo cho khách hàng.
Các hình thức cho vay của ACB Hà Nội
Cho vay ngắn hạn
Tài trợ thương mại trong nước
Đây là hình thức hỗ trợ cho các doanh nghiệp cần bổ sung nguồn vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh., cung ứng dịch vụ, thanh toán tiền mua nguyên vật liệu hay thanh toán tiền mua hàng hóa của các nhà cung cấp trong nước. Hình thức này còn được xem xét cấp một hạn mức tín dụng trong vòng 12 tháng để doanh nghiệp có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào.
Tài trợ xuất khẩu trước khi giao hàng
Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thường xuyên có nhu cầu bổ sung vốn lưu động để thu mua , sản xuất, gia công hàng xuất khẩu và cần hỗ trợ các vấn đề về thương mại quốc tế có thể tìm đến hình thức này. ACB Hà Nội có thể tài trợ các khoản tín dụng ngắn hạn dưới hình thức ứng trước 70-80% giá trị lô hàng xuất khẩu, được tư vấn về các tập quán thương mại quốc tế.
Tài trợ xuất khẩu sau khi giao hàng
Hình thức này được áp dụng cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ có nhu cầu chiết khấu bộ chứng từ, mức chiết khấu lên tới 98% bộ chứng từ, được tư vấn về các tập quán thương mại quốc tế.
Tài trợ nhập khẩu
Sử dụng hình thức này doanh nghiệp có thể được tham gia vào các chương trình đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, bổ sung thêm nguồn vốn để nhập khẩu nguyên vật liệu, vật tư, hàng hóa…
Cho vay thấu chi
ACB Hà Nội cho vay thấu chi nhằm cung cấp vốn thiếu hụt tạm thời trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm các mục đích như: trả tiền mua nguyên vật liệu sản xuất, thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, nộp thuế, thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, trả lương và các mục đích khác được ACB Hà Nội chấp nhận.
Đây là hình thức cho vay thông qua việc doanh nghiệp chi vượt số dư có trên tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại ACB theo hạn mức thấu chi được cấp.
Cho vay cầm cố hạt nhựa
Đây là hình thức dành riêng cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh hạt nhựa, hoặc sử dụng hạt nhựa phục vụ sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn để bổ sung lượng vốn thiếu hụt trong quá trình sản xuất, hoặc thanh toán tiền nhập khẩu hạt nhựa. Giá trị cho vay có thể đạt tới 80% giá trị lô hàng, ACB Hà Nội nhận cầm cố nhiều loại hạt nhựa như PP, HDPE, LDPE, LLDPE,…
Cho vay với các mục đích khác
Hình thức này chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu mua sắm xe ô tô, nâng cấp hệ thống máy vi tính, mua trái phiếu… và phải đáp ứng có nguồn thu nhập ngắn hạn để trả nợ. Đây cũng là hình thức có nhiều hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cho vay trung và dài hạn
Cho vay đầu tư tài sản cố định
ACB Hà Nội sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp có nhu cầu bổ sung vốn để đầu tư mới, hoặc sửa chữa, nâng cấp máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, văn phòng làm việc, nhà xưởng, nhà kho… Điều đặc biệt là doanh nghiệp có thể rút vốn linh hoạt một lần hay nhiều lần tùy theo tiến độ dự án, và được tham gia vào chương trình hỗ trợ đặc biệt dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cho vay dự án
Những doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mới thành lập, có nhu cầu bổ sung vốn để thực hiện một dự án đầu tư mới… có thể tìm đến hình thức này. Doanh nghiệp sẽ được nhiều ưu đãi về thời gian ân hạn và tham gia chương trình tài trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
SMEFP
Chương tình tài trợ trung hạn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang có nhu cầu bổ sung vốn để mua sắm, nâng cấp máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng nhà xưởng… với những ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn. Thời hạn vay có thể lên đến 10 năm, thời gian ân hạn tối đa 2 năm. Đây là chương trình phối hợp giữa ACB và tổ chức quốc tế Nhật Bản, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
SMELG
Chương trình tài trợ ngắn trung hạn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu bổ sung vốn nhưng không đủ tài sản đảm bảo cho khoản vay. Đây là chương trình phối hợp giữa ACB với tổ chức quốc tế Hoa Kỳ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn tài trợ.
SMEDF
Chương trình là sự phối hợp giữa ACB với tổ chức quốc tế châu Âu, tài trợ trung dài hạn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhiều ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn.
Với các hình thức cho vay phong phú doanh số cho vay hàng năm của ACB Hà Nội đều tăng trưởng mạnh, tổng doanh số cho vay năm 2003 đạt 533.049 triệu VND, đến năm 2004 đã đạt 669.844 triệu VND tăng 25,66%. Còn đến năm 2005 con số này là 1.223.878 triệu VND tăng gần 82%. Nếu xét riêng doanh số cho vay doanh nghiệp thì những con số cụ thể được thể hiện qua các bảng sau:
Bảng 2: Doanh số cho vay của ACB Hà Nội bằng VND
phân theo đối tượng cho vay giai đoạn 2003 – 2005
(Đơn vị: triệu đồng)
Thành phần kinh tế
Năm
2003
2004
2005
Số tiền
Tỷ lệ
Số tiền
Tỷ lệ
Số tiền._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9711.doc