Mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Gia Lâm

mục lục Trang Danh mục viết tắt DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước DNTN : Doanh nghiệp tư nhân TNHH : Trách nhiệm hữu hạn NHTM : Ngân hàng thương mại NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TSCĐ : Tài sản cố định Danh mục bảng biểu Biểu1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Biểu 2: Sự thay đổi tỷ trọng cho vay DNNQD theo thời gian trong 2 năm 2003 và năm 2005 Bảng 1: Tổng nguồn vốn huy động Bảng 2: Dư nợ theo kỳ hạn Bảng 3: Dư nợ theo thành p

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Gia Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hần Bảng 4: Dư nợ cho vay DNNQD theo thời gian Bảng 5: Dư nợ cho vay theo đồng tiền Bảng 6: Doanh số cho vay và tổng dư nợ Bảng 7: Nợ quá hạn Bảng 8: Lãi suất cho vay Lời nói đầu Các doanh nghiệp muốn đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh cần có các yếu tố đầu vào cơ bản như: nguyên vật liêu, nhân công, trang thiết bị… Để có được điều đó cần phải có nguồn vốn. Nguồn vốn này được hình thành từ 2 nguồn: vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Vốn đi vay được chia làm 2 loại là phát hành giấy nhận nợ và tín dụng ngân hàng, trong đó nguồn tín dụng ngân hàng vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn. Các tổ chức tín dụng hay ngân hàng thương mại có rất hình thức tín dụng khác nhau như: chiết khấu thương phiếu, cho vay, bảo lãnh… Và các doanh nghiệp đến vay ngân hàng cũng thuộc rất nhiều thành phần khác nhau như: doanh nghiệp Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần. Ngoài các doanh nghiệp Nhà nước thì các doanh nghiệp khác được gọi chung là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp không thuộc sở hữu Nhà nước lấy sở hữu cá nhân làm cơ sở. Các doanh nghiệp này thường có quy mô nhỏ vì vậy nguồn vốn ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh của họ. Cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đang phát triển rất nhanh. Việc cho vay này không chỉ thực hiện chủ trương của Nhà nước mà còn làm lợi cho ngân hàng. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kinh doanh có hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy để có thêm kiến thức em chọn đề tài “Mở rộng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm” để làm luận văn tốt nghiệp. Thông qua đề tài này em đi sâu vào thực tế ở Chi nhánh, các tồn tại, nguyên nhân và đưa ra một số giải pháp. Nội dung của đề tài được chia làm 3 chương: Chương I: Hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của các ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm. Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm. Mặc dù đã có những cố gắng tìm hiểu nhưng vì điều kiện thời gian và tài liệu nên đề tài còn nhiều thiếu xót mong thầy cô thông cảm và giúp đỡ để em hoàn thành đề tài thực tập lần này. Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Đăng Khâm và tập thể cán bộ Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin cảm ơn! Chương 1 Hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của ngân hàng thương mại 1.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Ngân hàng có nhiều loại hình khác nhau tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính. Các ngân hàng này có thể là ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại, ngân hàng liên doanh… nhưng chiếm tỷ trọng lớn nhất là ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu là vì lợi nhuận. Các ngân hàng này cũng có thể được phân chia theo các lĩnh vực mà nó hoạt động kinh doanh chủ yếu. Ví dụ Ngân hàng Ngoại thương là ngân hàng chuyên cho vay trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chuyên cho vay trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng... Các ngân hàng là một tổ chức thu hút nguồn vốn tiết kiệm lớn nhất. Hàng nghìn doang nghiệp, tổ chức kinh tế khác, các cá nhân, hộ gia đình gửi tiền vào đây với nhiều lý do khác nhau: lợi ích kinh tế, tâm lý… 1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại Quá trình hình thành của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất. Do nhu cầu gửi tiền của các thương nhân khi đi buôn không thể mang theo nhiều tiền (chủ yếu được làm từ kim loại như vàng bạc) nên các ngân hàng thợ vàng được hình thành. Đầu tiên các ngân hàng này thực hiện việc đổi các đồng tiền cho các nhà buôn. Việc trao đổi này làm đa dạng các loại tiền, tăng quy mô tài sản của các nhà buôn đồng thời làm xuất hiện các loại thanh toán khác thay cho tiền kim loại. Do tiền gửi vào và tiền rút ra không cùng lúc nên trong két của họ thường có số dư, các ông chủ ngân hàng tạm thời sử dụng số tiền này để cho vay. Lúc này ngân hàng thực hiện 2 chức năng là đúc tiền và đổi tiền cho khách hàng. Sau này do yêu cầu về quản lý việc đúc tiền do các Chính phủ thực hiện còn các ngân hàng chỉ thực hiện việc đổi tiền và thanh toán. Có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò của nó đối với nền kinh tế. Định nghĩa thông qua các dịch vụ mà nó cung cấp như: “ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với các tổ chức tài chính khác”. Đây là đĩnh nghĩa được rút ra từ giáo trình Ngân hàng thương mại đang được giảng dạy trong trường do T.S Phan Thị Thu Hà chủ biên. Ngân hàng cũng có thể được định nghĩa thông qua hoạt động chủ yếu mà nó tiến hành. Ví dụ theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Một trong các hoạt động đầu tiên của ngân hàng là đổi ngoại tệ. Thông qua hoạt động này ngân hàng thu một khoản phí dịch vụ. Đây cũng là nghiệp vụ đầu tiên hình thành từ lúc các ngân hàng còn sơ khai. Mỗi loại hình doanh nghiệp khi muốn kinh doanh thì yếu tố đầu tiên cần phải có là vốn. Nguồn vốn được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, thuê công nhân và cán bộ quản lý. Tuy vậy nguồn vốn này được hình thành như thế nào lại tuỳ thuộc từng loại doanh nghiệp. Như công ty bảo hiểm, vốn được tạo chủ yếu là từ bán các hợp đồng bảo hiểm. Cũng như các công ty bảo hiểm nguồn vốn của ngân hàng hình thành không phải từ nguồn vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn của ngân hàng được hình thành chủ yếu từ nguồn tiền gửi của khách hàng và một phần là vốn của ngân hàng, do lợi nhuận thu được qua việc kinh doanh. Trong đó nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn thường là nguồn tiền thanh toán và nguồn gửi tiết kiệm. ở nước ta hiện nay nguồn tiền thanh toán chủ yếu là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức phi kinh tế lớn. Hiện nay người dân vẫn ưa thích cầm tiền và chưa có thói quen chi trả thông qua hệ thống ngân hàng nên lượng tiền gửi của các cá nhân và hộ gia đình chỉ chiếm một khối lượng nhỏ. Hoạt động cho vay là hoạt động chính tạo nên lợi nhuận của ngân hàng. Trong hoạt động này ngân hàng thường chia làm nhiều loại khác nhau tuỳ theo tiêu chí. Ví dụ phân chia theo mục đích sử dụng thì ta có cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án. Đây cũng là một đặc trưng của ngân hàng mà khi nhắc đến ngân hàng chúng ta không thể không nhắc tới. Vì vậy mà hiện nay ngoài Luật Doanh nghiệp là văn bản điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thì còn có Luật các tổ chức tín dụng. Hoạt động này đóng một vai trò quan trọng của ngân hàng nói chung và nền kinh tế nói riêng. Đối với sự phát triển của các thành phần kinh tế, ngân hàng góp phần cung cấp kịp thời vốn cho sản xuất và kinh doanh cho các thành phần này. Ngoài các hoạt động nhận tiền gửi ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ khác như bảo quản hộ tài sản. Đây là hình thức ngân hàng lưu giữ các tài sản như vàng, giấy tờ tài chính, giấy tờ cầm cố cho khách hàng. Trong quá trình phát triển ngân hàng lúc đầu nhận đổi tiền cho các thương nhân và đồng thời cất trữ tài sản cho họ. Vì vậy đến nay nghiệp vụ này vẫn còn, nhưng lại chuyển thành một hình thức mới đó là ngân hàng sẽ hạch toán theo giá của các tài sản đặc biệt là các giấy tờ có giá. Đây là các tài sản tài chính, người sở hữu có thể nhận được thu nhập và ngân hàng sẽ thu hộ. Ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không chỉ có các các nhân mà còn có các tổ chức kinh tế. Các doanh nghiệp khi đi vào hoạt động đều phải bắt buộc mở tài khoản ở ngân hàng. Vì vậy mà để thuận lợi cho việc kinh doanh các doanh nghiệp thường thông qua các ngân hàng để thanh toán các khoản chi, các giao dịch được thanh toán qua hệ thống tài khoản của ngân hàng rất thuận lợi và tiết kiệm được chi phí. Nếu khách hàng là các doanh nghiệp không thuộc cùng một địa điểm thuận lợi cho việc di chuyển để thực hiện thanh toán thì thanh toán qua hệ thống ngân hàng là thuận lợi nhất. Các dịch vụ khác cũng được cung cấp như quản lý ngân quỹ, bảo lãnh, cho thuê trang thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn… Hoạt động của các ngân hàng rất phong phú từ huy động vốn đến sử dụng vốn. Các hoạt động này thúc đẩy sự lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế một cách có hiệu quả góp phần quan trọng trong thúc đẩy nền kinh tế. Với các hoạt động đó ngân hàng đóng một vai trò quan trọng đối với mỗi lĩnh vực mà nó tham gia. 1.1.3. Vai trò của hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với ngân hàng thương mại Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất của các ngân hàng thương mại. Đây là nguồn tạo lợi nhuận chính cho ngân hàng. Tín dụng có rất nhiều hình thức khác nhau như: cho vay, cầm cố, bảo lãnh. Trong đó hoạt động cho vay và bảo lãnh là các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp còn hoạt động cầm cố chủ yếu dùng trong cho vay tiêu dùng. Cho vay doanh nghiệp là một hình thức kinh doanh có hiệu quả. Các doanh nghiệp được cho vay có thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong đó có doanh nghiệp Nhà nước hay còn gọi là doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp còn lại trong nền kinh tế được gọi chung là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước ngoài vốn ban đầu thì hàng năm còn được nhận nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp. Chính điều kiện được cấp vốn hàng năm đã làm nảy sinh tình trạng phụ thuộc. Còn doanh nghiệp ngoài quốc doanh thông thường là công ty thuộc sở hữu tư nhân do vậy họ rất chủ động trong công việc, mang lại lợi ích cho công ty là mang lại lợi ích cho chính mình. Hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này cho phép ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ khác như: thanh toán trong và ngoài nước, chuyển tiền... Các sản phẩm này làm cho việc thanh toán trở nên dễ dàng hơn. Ví dụ như khi cần thanh toán cho khách hàng doanh nghiệp chỉ cần viết giấy uỷ nhiệm chi và nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Việc cho vay doanh nghiệp đối với ngân hàng không chỉ thu được lãi mà còn mở rộng thêm quan hệ với các tổ chức khác. Các tổ chức này có thể có các hoạt động giao dịch khác, ví dụ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhập khẩu một lô hàng hoá từ nước ngoài nhưng doanh nghiệp xuất khẩu đòi hỏi phải được bảo lãnh bằng L/C. Thông thường việc bảo lãnh phải do một bên thứ ba có uy tín đảm nhiệm, vì vậy ngân hàng là đối tượng được lựa chọn. Sau khi hoạt động bảo lãnh này kết thúc doanh nghiệp xuất khẩu ở nước ngoài khi muốn đầu tư vào Việt Nam có thể dựa vào mối quan hệ trước đó để trực tiếp kí kết với ngân hàng mà không phải thông qua một bên trung gian thứ ba tìm hộ đối tác. 1.2 Hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của ngân hàng thương mại 1.2.1 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh - đối tượng cho vay quan trọng của ngân hàng thương mại Sự ra đời của doanh nghiệp ngoài quốc doanh kéo theo nhiều sự thay đổi trong nền kinh tế. Trước hết là thói quen đầu tư của công chúng, nếu trước kia những người thừa vốn chỉ cho vay đối với các thương gia hoặc mở các cửa hàng buôn bán nhưng trình độ quản lý chưa cao, đặc biệt là chưa có văn bản để quản lý điều chỉnh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời đã đáp ứng nhu cầu đầu tư. Đặc biệt các doanh nghiệp này có rất nhiều loại hình khác nhau cho họ chọn lựa. Nếu họ chỉ muốn có thu nhập mà không muốn tham gia quản lý thì có thể đầu tư với tư cách cổ đông góp vốn vào công ty cổ phần. Bên cạnh những người muốn có thu nhập mà không phải quản lý thì những người khác lại muốn tham gia quản lý. Họ có trình độ, có khả năng kinh doanh nhưng do không có đủ vốn nên đã kêu gọi những người quanh mình để có đủ vốn để thành lập công ty. Một mặt huy động vốn những người thân, bạn bè thì họ cũng có thể đi vay ngân hàng. Đây là nguồn vốn quan trọng đối với doanh nghiệp. Đối với mỗi ngân hàng thì cho vay các DNNQD cũng là một yếu tố tạo nên nhiều lợi ích. 1.2.1.1 Khái niệm – đặc điểm doanh nghiệp ngoài quốc doanh Để có thể định nghĩa DNNQD trước hết hãy xét xem doanh nghiệp Nhà nước là các doanh nghiệp như thế nào. Doanh nghiệp Nhà nước là các tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao. Như vậy có thể tóm tắt là DNNN do Nhà nước là chủ sở hữu hoặc là thành viên có quyền chi phối. Ví dụ như các doanh nghiệp xây dựng cầu đường, doanh nghiệp bưu chính viễn thông… Nhà nước đầu tư vào rất nhiều doanh nghiệp nhưng không phải đầu tư 100% mà kêu gọi đầu tư từ nước ngoài hoặc cổ phần hoá các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp này. Những doanh nghiệp mà vốn của Nhà nước chiếm một tỷ lệ chi phối thì các doanh nghiệp này mới được coi là DNNN, ví dụ khi tỷ lệ là 51% Nhà nước có quyền quyết định đối với các chính sách của doanh nghiệp. Nếu như DNNN thuộc quyền sở hữu Nhà nước hoặc giữ tỷ lệ chi phối thì DNNQD không thuộc quyền sở hữu Nhà nước và Nhà nước không giữ tỷ lệ chi phối mà thuộc sở hữu tư nhân hoặc tập thể và các đối tượng giữ quyền chi phối doanh nghiệp. Dựa vào định nghĩa DNNN ở trên ta có thể định nghĩa DNNQD như sau: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các tổ chức kinh tế do các cá nhân làm chủ sở hữu đầu tư vốn, thành lập và hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Hiện nay tồn tại 1 loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp này có thể do nước ngoài đầu tư 100% hoặc là liên doanh giữa một bên là nước ngoài và một bên là tổ chức kinh tế của Việt Nam hoặc giữa Nhà nước và nước ngoài. Đối với loại hình này vì có sự tham gia của các đối tác là nước ngoài nên các văn bản điều chỉnh là văn bản riêng. Trong trường hợp có sự tham gia góp vốn của Nhà nước và tỷ lệ góp vốn là 51% thì văn bản điều chỉnh là Luật Doanh nghiệp Nhà nước còn các trường hợp còn lại văn bản là Luật Đầu tư nước ngoài. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này các DNNQD được nhắc tới là doanh nghiệp mà các chủ sở hữu là người có quốc tịch Việt Nam. Điểm khác biệt nhất giữa 2 loại hình doanh nghiệp này là về chủ sở hữu. Nếu như DNNN do Nhà nước làm chủ thì DNNQD lấy sở hữu cá nhân làm nền tảng. DNNN cũng khác với DNNQD về mục tiêu hoạt động. Nếu như DNNN mục tiêu chính là thực hiện mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao (mặc dù không phải tất cả các doanh nghiệp đều như vậy) ngoài ra cũng có mục tiêu là lợi nhuận nhưng mục tiêu này không đóng vai trò quan trọng nhất mà luôn chiếm vị trí thứ hai, DNNQD mục tiêu hoạt động là làm lợi cho chủ sở hữu. * Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Đặc điểm của các DNNQD có thể được chia làm 2 loại: đó là thuận lợi và khó khăn. Về thuận lợi do quy mô của các doanh nghiệp này đa phần là nhỏ nên dễ thu hồi vốn. Đây cũng là đặc điểm thuận lợi không phải DNNN nào muốn có là có được. Điều này là do nghề mà họ hoạt động kinh doanh, các nghề đòi hỏi về vốn không lớn nên tốc độ quay vòng vốn nhanh. Các ngành nghề mà họ lựa chọn như: dịch vụ, thương mại, tư vấn… Các ngành nghề này rất phát triển trong các năm vừa qua. Do cải cách của Nhà nước trong các DNNN (tiến hành cổ phần hoá một loạt các doanh nghiệp không hiệu quả và tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán đang thiếu hàng hoá, đã có hàng trăm doanh nghiệp được đưa vào danh sách doanh nghiệp sẽ được cổ phần trong thời gian sắp tới nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực điện lực), các DNNQD phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhũng ngành nghề trước kia là độc quyền của Nhà nước thì nay không còn, ví dụ như điện, xăng dầu, … Đặc điểm thuận lợi thứ hai là linh hoạt cao, dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Do quy mô vốn nhỏ nên không thể đầu tư vào các lĩnh vực khó khăn trong việc chuyển đổi ngành nghề. Do vậy các doanh nghiệp này có thể chuyển từ kinh doanh mặt hàng này sang mặt hàng khác khi thấy có sự khó khăn. Nếu như các DNNN muốn chuyển đổi ngành nghề rất khó khăn do phải được sự đồng ý của các cơ quan quản lý và được sự đồng ý của các cấp cao hơn. Trong khi đó các DNNQD muốn thay đổi ngành nghề thì chỉ cần đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Điều này làm doanh nghiệp dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Những thay đổi bất lợi của thị trường có thể không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp kịp thời đề phòng. Do quy mô vốn của DNNQD không lớn nên số lượng lao động mà họ thuê rất hạn chế, thường là không đến 200 lao động vì vậy mà rất quan tâm đến những người này. Họ có thể biết rõ về người lao cũng như các lao động đều biết về các lãnh đạo mà họ làm việc dưới quyền. Mặc dù nhắc đến những DNNQD thường là nhắc đến những doanh nghiệp có quy mô không lớn nhưng cũng có những doanh nghiệp mà vốn kinh doanh của họ không phải là nhỏ. Đây là các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề đòi hỏi nguồn vốn phải lớn. Mặc dù vậy nguồn vốn không lớn là đặc điểm nổi bật của các doanh nghiệp thuộc loại hình này. Do quy mô sản xuất không lớn nên diện tích sản xuất nhỏ. Đặc biệt là các công ty tư vấn, có thể chỉ cần nơi đặt văn phòng còn các công ty thương mại có thể chỉ cần văn phòng và kho hàng là đủ. Họ không cần nơi để sản xuất sản phẩm quá lớn. Vì vậy so với các DNNN cần một diện tích lớn thì họ có thể tiết kiệm được khoản tiền thuế đất hàng năm. Về đặc điểm khó khăn cũng không phải là nhỏ. Bên cạnh các thuận lợi như trên thì cũng chính các thuận lợi trên cũng có những mặt không thuận lợi. Quy mô vốn không lớn có thể là thuận lợi trong khi huy động ban đầu nhưng cũng vì vậy mà nó làm hạn chế tiềm lực vốn và lao động. Họ không thể thuê nhiều lao động bởi chi phí đầu vào tăng làm giảm lợi nhuận, đồng thời cũng không đủ điều kiện để thuê nhiều. Mặt khác, trình độ tay nghề, học vấn của các lao động cũng không cao. Đây là thực trạng chung của các lao động ở ta hiện nay. Nó không chỉ đúng với các DNNQD mà còn là tình trạng của DNNN. Nhưng các DNNN còn có chế độ cử lao động đi học tập để nâng cao trình độ mà DNNQD không có. Lao động lại được đào tạo thiên về lý thuyết mà không có điều kiện để thực hành. Do vậy khi làm việc không có nhiều kinh nghiệm. Tình trạng công nghệ, kỹ thuật lạc hậu. Do không có vốn để đầu tư (quy mô vốn nhỏ) nên các công nghệ không được hiện đại hoá kịp thời, không theo kịp sự phát triển của thế giới. Mặt khác, nếu có công nghệ hiện đại thì cũng không có đủ lao động có trình độ để sử dụng, các lao động này muốn sử dụng được thì phải qua tập huấn ở nước ngoài hoặc mời chuyên gia về hướng dẫn. Lao động của các DNNQD cũng không có hiểu biết đầy đủ về mặt pháp luật. Các môn luật không được chú trọng giảng dạy trong các trường, ngay cả trường đại học công lập. Họ chỉ có các kiến thức về các luật thông thường. Còn các luật liên quan đến ngành nghề và bản thân các lao động muốn tìm hiểu thì phải tự tìm hiểu, điều này không phải ai cũng làm được. Vì vậy mà có những công nhân bị vi phạm về quyền lao động mà họ không biết phải làm gì. Điều kiện kỹ thuật, công nghệ thấp, cộng với trình độ lao động không cao làm khả năng nhạy bén trong tiếp cận và xử lý thông tin không cao. Người Việt Nam nói chung và các lao động của Việt Nam nói riêng đều không năng động trong công việc. Họ thường bị động trong công việc và thường làm việc theo sự chỉ đạo của các lãnh đạo mà không có sự chủ động khi đề ra các kế hoạch, thực hiện kế hoạch. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc lấy sở hữu cá nhân làm nền tảng vì vậy ngành nghề kinh doanh doanh rất đa dạng. Họ có những điểm thuận lợi để hoạt động nhưng cũng không ít khó khăn. 1.2.1.2 Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh Tuỳ thuộc mục đích mà người ta có cách phân loại khác nhau. Có thể dựa vào các tiêu chí như: trách nhiệm đối với các công nợ của doanh nghiệp, sở hữu, chế độ quản lý… * Trách nhiệm đối với các công nợ của doanh nghiệp Theo hình thức phân loại này thì gồm: doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn và doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn là các doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp phải chịu đầy đủ trách nhiệm với các công nợ, trong trường hợp vốn đóng góp không đủ trả nợ thì tài sản cá nhân sẽ được dùng để trả nợ. Thuộc loại hình này gồm có Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh (đây là loại hình mà thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn còn thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn). Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp mà chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm trên phần vốn góp. Thuộc loại hình này gồm có Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần. * Chế độ quản lý Công ty cổ phần: Theo Luật công ty (bao gồm công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn) là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp của mình. Công ty cổ phần là công ty hình thành từ nhiều phần vốn góp bằng nhau gọi là cổ phần do các cổ đông đóng góp (số cổ đông tối thiểu là 5 đến 7 thành viên tuỳ thuộc quy định của từng quốc gia). Cổ phần được thể hiện trên giấy tờ được gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy xác nhận phần vốn góp của cổ đông vào công ty cổ phần. Một cổ đông có thể sở hữu một hay nhiều cổ phiếu. Công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên: Khác với Công ty cổ phần, Công ty TNHH nhiều thành viên là công ty được thành lập do các thành viên góp vốn và chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp của mình vào công ty, số lượng thành viên không được vượt quá 5 người. Các phần vốn góp của các thành viên có thể không bằng nhau và được ghi vào điều lệ công ty. Mỗi thành viên sở hữu một phần vốn góp vào công ty. Hiện nay số lượng công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có số lượng nhiều nhất. Bên cạnh đó còn tồn tại một loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, đây là công ty được một tổ chức có tư cách pháp nhân thành lập. Tuy nhiên hiện nay ở nước ta đa phần các doanh nghiệp này do DNNN và đầu tư nước ngoài thành lập. Còn thành phần ngoài quốc doanh đa phần không đủ vốn để có thể thành lập công ty con trực thuộc, số doanh nghiệp thành lập công ty con trực thuộc rất nhỏ. Doanh nghiệp tư nhân: Theo Luật doanh nghiệp tư nhân, DNTN là doanh nghiệp có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm vô hạn về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chủ sở hữu DNTN phải có đầy đủ tư cách thể nhân và năng lực hành vi pháp lý và không phải là đối tượng bị pháp luật cấm. Chủ DNTN có trách nhiệm trả nợ đến cùng các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh hay tự gánh chịu hậu quả khi kinh doanh thua lỗ bằng toàn bộ tài sản của mình. Như vậy tài sản của doanh nghiệp và của cá nhân là chủ doanh nghiệp không được tách biệt. Công ty hợp danh: theo Luật doanh nghiệp thì công ty hợp danh là công ty có ít nhất 2 thành viên hợp danh ngoài ra có thể có thành viên hợp vốn. Các thành viên hợp phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản về các nghĩa vụ của công ty. 1.2.1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh Tín dụng ngân hàng là một kênh huy động vốn của DNNQD. Các doanh nghiệp này đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô không lớn thêm vào đó tiền bán hàng không phải lúc nào cũng được trả đầy đủ, nên nguồn tín dụng này đóng vai trò quan trọng để doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp không thể ngồi chờ khách hàng trả tiền rồi tiếp tục sản xuất thay vì đi vay ngân hàng. Hiện tượng doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau trong nền kinh tế ngày nay rất phổ biến. Tín dụng ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong quá trình tín dụng của ngân hàng có một quá trình cũng bao gồm cả việc kiểm tra trước và sau khi giải ngân vốn vay. Đây là công việc đảm bảo khách hàng vay vốn sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Nếu trong quá trình này phát hiện các sai xót thì việc giải ngân vốn cho doanh nghiệp sẽ tạm dừng và doanh nghiệp có thể bị phạt. Tín dụng ngân hàng tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bất cứ một doanh nghiệp nào khi vay vốn ngân hàng đều mong muốn trả được nợ khi đến hạn. Vì doanh nghiệp không muốn bị đánh giá thấp để từ đó ảnh hưởng tới vay vốn sau này. Muốn vậy doanh nghiệp phải nâng cao năng lực để hiệu quả hoạt động tăng lên. 1.2.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.2.2.1 Khái niệm. Cho vay là một trong các hoạt động của NHTM. Hoạt động này có thể định nghĩa qua hình thức thực hiện. Theo Giáo trình Ngân hàng thương mại do T.S Phan Thị Thu Hà chủ biên, hoạt động cho vay DNNQD có thể được định nghĩa như sau: “Cho vay DNNQD là việc ngân hàng đưa tiền cho DNNQD với cam kết doanh nghiệp phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định”. Định nghĩa này được dựa trên định nghĩa về cho vay của NHTM. Như vậy qua định nghĩa ta thấy rằng việc cho vay khác với hoạt động tín dụng thông thường. Nếu như hoạt động tín dụng bao gồm cả hoạt động cho vay, thì việc cho vay chỉ là một phần của hoạt động này mà thôi. 1.2.2.2 Phân loại hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh Cho vay DNNQD được chia làm nhiều loại khác nhau tuỳ theo mục đích. Giống như phân loại cho vay thông thường, cho vay DNNQD cũng được phân loại theo các tiêu thức hình thức cấp vốn, thời gian cho vay, hình thức bảo đảm. * Phân theo hình thức cấp vốn Hình thức thấu chi. Đây là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép doanh nghiệp được phép chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Điều này có nghĩa khách hàng được phép chi trả vượt quá số tiền có trong tài khoản, đồng thời khi nhập tiền bán hàng về ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Để được vay thấu chi doanh nghiệp phải làm làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi * Thời gian thấu chi * Số tiền thấu chi Các khoản thấu chi quá hạn phải chịu lãi suất và doanh nghiệp bị có thể đình chỉ sử dụng hình thức này. Hình thức này thường được áp dụng với khách hàng mà việc thu chi không phù hợp về thời gian và quy mô. Hình thức này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn không có bảo đảm và có thể cấp cho doanh nghiệp trong vài ngày, trong tháng, vài tháng, trong năm. Hình thức này chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay mà mỗi lần vay doanh nghiệp phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Hình thức cho vay này được áp dụng cho khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Các doanh nghiệp này sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, khi cần có nhu cầu thời vụ, hoặc mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng. Mỗi lần vay doanh nghiệp phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích doanh nghiệp và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ… Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Việc tách biệt này nhằm đảm bảo tra cứu thông tin khi cần thiết. Số lượng cho vay = Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh - Vốn chủ sở hữu tham gia - Các nguồn vốn khác tham gia Nếu cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo: Số lượng cho vay = Giá trị tài sản đảm bảo * Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình doanh nghiệp sử dụng vốn vay, ngân hàng có quyền kiểm tra mục đích và hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Nếu thấy dấu hiệu vi phạm những điều kiện đã ghi trong hợp đồng, ngân hàng có quyền thu nợ trước hạn, chuyển thành nợ quá hạn. Cho vay theo hạn mức là hình thức cho vay mà ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức có thể được tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hạn mức tín dụng ngắn hạn = Nhu cầu vốn trong kỳ - Nguồn vốn kinh doanh ngắn hạn - Vốn coi như tự có - Vốn khác Đối với cho vay trung và dài hạn được tính theo cách khác. Tín dụng ngân hàng = Nhu cầu đầu tư - Các nguồn khác tham gia Theo hình thức cho vay theo hạn mức thì khách hàng có thể thực hiện vay trả làm nhiều lần nhưng không được vượt quá hạn mức tín dụng. Dư nợ trong kỳ có thể vượt quá hạn mức tín dụng nhưng đến thời gian xét hạn mức thì số dư không được vượt quá, thời gan xem xét hạn mức có thể là giữa kỳ hoặc cuối kỳ tuỳ theo thoả thuận của ngân hàng và doanh nghiệp. Tương tự như cho vay trực tiếp từng lần thì mỗi lần vay khách hàng cũng cần trình với ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Hình thức này thuận tiện cho các doanh nghiệp vay thường xuyên, vốn vay thường xuyên tham gia vào quá trình sản xuất. Đối với hình thức này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ và khoản vay sẽ được thanh toán khi khách hàng có thu nhập về tài khoản. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ. Tuy nhiên do các lần cho vay không tách biệt nên ngân hàng khó kiểm soát được hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện các vấn đề nếu các báo cáo tài chính được cung cấp kịp thời hoặc dư nợ không được giảm xuống. Thông thường các báo cáo tài chính rất ít khi được nộp đúng thời gian và ngân hàng phải nhắc nhở doanh ng._.hiệp rất nhiều lần. Cho vay luân chuyển là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Doanh nghiệp mua hàng thiếu vốn sẽ vay ngân hàng để nhập hàng. Khi doanh nghiệp bán được hàng và có thu nhập thì ngân hàng sẽ thu nợ. Cứ đầu mỗi năm, mỗi quý doanh nghiệp phải làm đơn xin vay luân chuyển. Theo đó ngân hàng phải thoả thuận với khách hàng về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong thời gian dài có thể đến vài năm. Đây không phải là thời gian hoàn trả mà là thời gian để ngân hàng xem xét có nên cho doanh nghiệp vay tiếp hay không. Người vay phải cam kết là mọi khoản thu nhập từ việc bán hàng đều được dùng để trả nợ trước khi đưa vào tài khoản thanh toán của doanh nghiệp. Khi phải thanh toán doanh nghiệp chỉ cần gửi đến cho ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng sẽ cho vay và thanh toán cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập từ bán hàng là nguồn chi trả. Ngân hàng cho vay tuỳ theo khối lượng hàng hoá và chất lượng quan hệ nợ nần của doanh nghiệp. Như vậy, các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho đều trở thành tài sản đảm bảo cho khoản vay. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện vì khách hàng chỉ cần làm thủ tục một lần. Doanh nghiệp có thể được đáp ứng kịp thời vốn vì vậy mà thanh toán cho người bán rất nhang chóng. Loại hình này thường được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Cho vay trả góp là hình thức ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng. Hình thức này thường áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn. Số tiền mỗi lần trả được tính toán phù hợp với khả năng trả nợ của doanh nghiệp (thông thường là từ khấu hao tài sản cố định, thu nhập sau thuế). * Thời gian cho vay Theo thời gian thì cho vay gồm ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Cho vay ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Ngân hàng có thể áp dụng cho doanh nghiệp vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không có bảo đảm, dưới hình thức thấu chi hoặc luân chuyển. Doanh nghiệp là khách hàng chủ yếu của các NHTM. Phần lớn các khoản cho vay này có thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm vay để dự trữ, tăng chi phí sản xuất còn các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu vay để xuất, nhập khẩu hoặc để thanh toán. Các công ty xây dựng vay để xây dựng công trình trước khi chủ đầu tư thanh toán. Thông thường các công trình chỉ được thanh toán khi công trình được nghiệm thu và đạt chất lượng mà chủ đầu tư yêu cầu. Nguồn trả nợ chính là thanh toán của chủ đầu tư. Để được vay doanh nghiệp cần làm đơn và trình bày kế hoạch sử dụng tiền vay. Cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp để đầu tư mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ… Ngân hàng có rất nhiều cách thức để thực hiện nghiệp vụ này như thông qua mua trái phiếu, cho vay theo dự án. Trong trường hợp cho vay theo dự án ngân hàng sẽ tiến hành phân tích để đưa ra quyết định có cho vay hay không. Các chỉ tiêu để đánh giá thường dùng là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, tỷ suất thu nhập bình quân… Một doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh là cơ sở để ngân hàng ra quyết định cho vay. Nhu cầu đầu tư theo dự án = Nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định + Nhu cầu đầu tư vào tài sản lưu động Nhu cầu đầu tư này được tính trên tổng chi phí về xây dựng, giải phóng mặt bằng, mua và lắp đặt các thiết bị … và các tài sản lưu động dự trữ cần thiết để bắt đầu quá trình hoạt động sản xuất. Doanh nghiệp cũng có thể lập kế hoạch vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động. Khi có kết quả phân tích nhu cầu đầu tư, ngân hàng sẽ xem xét các nguồn đầu tư bao gồm nguồn tự có, chiếm dụng của người cung cấp, vay các tổ chức tín dụng khác. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của ngân hàng thương mại Các nhân tố ảnh hưởng tới bất cứ hiện tượng hay sự vật nào đều được chia làm hai nhóm: chủ quan và khách quan. Nhóm nhân tố chủ quan thuộc về bản thân sự vật, hiện tượng. Nhân tố khách quan thuộc về các nhân tố bên ngoài. Hoạt động cho vay DNNQD cũng vậy. Các nhân tố chủ quan thuộc về ngân hàng và các nhân tố khách quan thuộc về môi trường mà ngân hàng đang hoạt động. 1.3.1 Các nhân tố chủ quan Nguồn vốn là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng hoạt động cho vay của ngân hàng nói chung và cho vay DNNQD nói riêng. Nếu nguồn vốn lớn ngân hàng có thể cho vay với số lượng lớn hơn và mở rộng đối tượng cho vay của Chi nhánh và Ngân hàng mình. Nguồn vốn nhỏ hạn chế hoạt động của ngân hàng rất nhiều. Nó không chỉ hạn chế hoạt động mà còn hạn chế ngân hàng trong việc mở rộng quy mô. Sự phát triển của các hoạt động khác như dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước, thanh toán trong nước và các diạch vụ khác. Những dịch vụ này nếu phát triển mạnh mẽ sẽ thu hút các doanh nghiệp đến vay và đồng thời chọn ngân hàng làm ngân hàng thanh toán cho mình. Việc lựa chọn các ngân hàng có dịch có vụ phát triển tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và đồng thời tiết kiệm được chi phí. Quan hệ của ngân hàng mẹ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu ngân hàng mẹ không có các quan hệ rộng rãi và có uy tín trên thị trường thì sẽ không có gì bảo đảm rằng ngân hàng đó rất phát triển trong hoạt động cho vay. Với một ngân hàng có uy tín và quan hệ rộng thì việc ngân hàng này giới thiệu ngân hàng con cho các đối tác sẽ khiến cho các ngân hàng con này có cơ hội tăng trưởng hoạt động cho vay cũng như các hoạt động khác đi kèm như thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố tạo nên sự thành công trong kinh doanh của các ngân hàng, đặc biệt khi các nhân viên này thường xuyên tiếp xúc với các khách hàng này. Các doanh nghiệp đến vay vốn thường xuyên tiếp xúc với hầu hết các nhân viên từ nhân viên tín dụng, nhân viên thanh toán vì vậy họ sẽ đánh giá trình độ cũng như khả năng giao tiếp của các nhân viên này. Lao động có trình độ và khả năng giao tiếp sẽ được đánh giá cao trong công việc bởi không chỉ các doanh nghiệp có suy nghĩ rằng nguồn nhân lực có chất sẽ tạo ra hiệu quả trong công việc. Doanh nghiệp không thể đánh giá cao một ngân hàng mà nhân viên trình độ thấp và khả năng giao tiếp với khách hàng không cao. Họ sẽ không tin tưởng ngân hàng để quyết định tạo mối quan hệ lâu dài và không tiến hành giao dịch. Quy trình tín dụng và phương thức cho vay cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay. Trong quy trình tín dụng bao gồm việc lập hồ sơ xin vay, thẩm định cho vay, giám sát việc sử dụng vốn vay… vì vậy nếu quy trình này quá rườm ra đòi hỏi nhiều thủ tục sẽ tạo tâm lý không thoải mái cho khách hàng khi đến xin vay. Ngược lại nếu quy trình quá đơn giản, bỏ qua các thủ tục cần thì bản thân ngân hàng cũng gặp rủi ro và doanh nghiệp cũng không tin tưởng vào ngân hàng. Họ sẽ nghĩ rằng ngân hàng không tôn trọng mà bỏ qua các quy định trong quy trình tín dụng thì cũng sẽ bỏ qua các việc khác. Phương thức cho vay của ngân hàng nếu không linh hoạt mà chỉ bó hẹp trong một vài phương thức sẽ hạn chế số lượng và đối tượng cho vay, như vậy là thu hẹp thị trường cho vay của chính ngân hàng. Công nghệ ngân hàng cũng là một yếu tố quan trọng. Công nghệ ngân hàng là việc xử lý công việc bằng các chương trình quản lý gì? Các yêu cầu khi giải quyết các công việc đó… Các yêu cầu này càng cao thì những khoản cho vay càng hiệu quả đồng thời làm cho hiệu quả công việc cũng được nâng cao. Nhưng nếu yêu cầu quá cao sẽ làm cho hoạt động cho vay của ngân hàng không tăng trưởng. Công nghệ của ngân hàng có thể bao gồm cả việc đưa ra các sản phẩm phù hợp với khách hàng. Các sản phẩm này nếu phù hợp và đáp ứng yêu cầu của thị trường thì dư nợ cho vay và các hoạt động khác cũng tăng lên. Như đã biết các doanh nghiệp thường mở tài khoản giao dịch ngay tại ngân hàng mà doanh nghiệp vay vốn, vì vậy khi dư nợ tăng cũng đồng nghĩa với việc các giao dịch của doanh nghiệp tăng theo. Đi kèm với sự gia tăng giao dịch là phí mà ngân hàng thu được cũng tăng. Sự tin cậy của ngân hàng với khách hàng. Những khách hàng khi được cho vay nhưng không sử dụng đúng mục đích, hoặc sử dụng không có hiệu quả ảnh hưởng đến lòng tin của ngân hàng với khách hàng. Một doanh nghiệp tạo được lòng tin với ngân hàng thì họ sẽ thuận lợi trong vay vốn điều này không chỉ bao gồm việc cho vay mà còn cả các hoạt động tín dụng khác như chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh… Vậy để có được lòng tin đó thì ngân hàng cần phải được biết vốn mà họ cho vay có sử dụng đúng mục đích hay không? Có hiệu quả hay không?… Đây là điều quan trọng trong kinh doanh, khi lòng tin còn thì quan hệ hợp tác giữa hai bên vẫn còn được duy trì, cả hai bên đều có lợi hoặc ngược lại. 1.3.2 Nhân tố khách quan Các DNNQD đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn ít, quy mô nhỏ nên rất dễ bị tác động bởi các biến động của môi trường kinh tế. Điều này rất dễ hiểu bởi nếu quy mô nhỏ thì không thể có những ảnh hưởng tới thị trường mà sẽ bị thị trường tác động tới và có thể chỉ một ảnh hưởng nhỏ cũng có thể khiến doanh nghiệp khó khăn lớn. Các tác động của thị trường thường theo 2 xu hướng tích cực và tiêu cực. Khi tác động tích cực nó có thể đẩy mạnh doanh nghiệp phát triển còn nếu ngược lại sẽ làm doanh nghiệp không thể tồn tại. Mỗi sản phẩm đều có chu kỳ kinh doanh riêng, chu kỳ này có thể không đồng đều với chu kỳ của nền kinh tế, có thể chậm hơn hoặc nhanh hơn. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp chiếm ưu thế sẽ tạo nên cơ hội phát triển còn nếu sản phẩm được tung ra khi thị trường đã bão hoà thì doanh nghiệp có nguy cơ bị thua lỗ và phá sản. Các quy định pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay của ngân hàng. Các quy định pháp lý này không chỉ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mà còn có các quy định của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác như Bộ Tài chính. Thông thường trong các quy định này quy định về đối tượng cho vay của ngân hàng, số lượng mà ngân hàng được phép cho một doanh nghiệp vay, các quy định về việc bảo đảm tiền vay…Vì vậy các quy định sẽ quyết định rất lớn tới hoạt động của của ngân hàng. Ví dụ như quy định hạn chế cho vay đối với một doanh nghiệp mà ngân hàng đang cho vay hay gia hạn nợ đối với một doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Bất cứ một doanh nghiệp nào khi hoạt động kinh doanh đều phải quan tâm đến các điều luật điều chỉnh. Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt nên mức độ chú ý càng được chú trọng hơn. Các chính sách đưa ra đều nhằm phục vụ phát triển kinh tế vì vậy các ngân hàng cần quan tâm đến vấn đề này. Bởi thực hiện đúng pháp luật là trách nhiệm của mọi công dân trong xã hội. Sự cạnh tranh trong thị trường cho vay các DNNQD cũng ảnh hưởng tới hoạt động cho vay của ngân hàng. Các đối thủ cạnh tranh với ngân hàng trong thị trường nếu quá mạnh sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng. Nếu các đối thủ này quá mạnh có thể ngân hàng sẽ không cạnh tranh nổi và buộc phải tìm các đối tượng cho vay khác. Vì vậy ngân hàng phải chú ý tới hoạt động của các ngân hàng này, với một số ngân hàngthông thường khi thấy đối thủ cạnh tranh kinh doanh hiệu quả tại một khu vực nào đó thì các đối thủ khác cũng tiến hành mở đại lý ở đấy, đây là quy luật cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Hệ thống thông tin tín dụng cũng có ảnh hưởng tới hoạt động cho vay của ngân hàng như các thông tin về nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp hay tình trạng tín dụng của ngân hàng. Các thông tin này không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động cho vay cả về số luợng và chất lượng. ảnh hưởng về số lượng cụ thể là doanh số, số lượng khách hàng mà ngân hàng cho vay, ảnh hưởng về chất lượng nhiều hơn như thái độ của khách hàng với ngân hàng, uy tín của ngân hàng. Nhóm nhân tố vi mô bao gồm như: tính khả thi của dự án được cho vay, tính minh bạch trong kế toán của doanh nghiệp, tài sản đảm bảo cho vay, sự tác động của thị trường lên hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Kinh doanh luôn đòi hỏi phải đem lại lợi nhuận và ngân hàng cũng không phải ngoại lệ. Nếu họ bỏ ra một đồng để đầu tư thì phải thu về cũng phải ít nhất là một đồng nếu như không phải lớn hơn. Vậy để có được hơn một đồng đó thì nguồn thu sẽ là đâu? Ngân hàng không trực tiếp tham gia vào dự án nhưng sự thành công của dự án ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng. Để đảm bảo thành công thì dự án khi còn đang trên giấy tờ cũng phải là một dự án khả thi và những giấy tờ liên quan đến nó phải minh bạch. Một dự án khả thi là dự án mà nguồn lợi đem lại không chỉ đủ bù đắp chi phí mà còn có lợi nhuận cho chủ sở hữu. Tuỳ từng doanh số cho vay mà ngân hàng yêu cầu tài sản đảm bảo. Không chỉ trong hoạt động kinh doanh mới có yêu cầu phải đảm bảo cho khoản vay mà ngay cả trong đời sống bình thường cũng vậy. Tài sản này đảm bảo người vay sẽ trả nợ và người cho vay cũng có thể thu hồi nợ. Tài sản đảm bảo này lại càng quan trọng hơn trong hoạt động cho vay của ngân hàng bởi nguồn vốn cho vay của ngân hàng đa phần là từ nguồn tiền gửi của khách hàng. Vì vậy cần phải đảm bảo có nguồn trả nợ khi khách hàng vay không trả được nợ. Tuỳ từng số lượng vốn vay và từng khách hàng mà yêu cầu về tài sản đảm bảo khác nhau. Với khối lượng cho vay lớn thì càng cần có tài sản đảm bảo và giá trị tài sản đảm bảo cũng phải tương ứng với khoản vay. Đây là tài sản dùng để đảm bảo trong trường hợp khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng sẽ bán tài sản này để thu hồi nợ và hoàn trả phần còn lại cho củ sở hữu. Điều này đặc biệt cần thiết khi khách hàng vay vốn là khách hàng mới, còn đối với khách hàng đã có quan hệ lâu dài và uy tín ngân hàng có thể không yêu cầu về tài sản đảm bảo. Ngân hàng là một tổ chức tín dụng với rất nhiều các hoạt động khác nhau như cho vay, bảo lãnh, thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế. Trong đó hoạt động cho vay giữ tỷ lệ lớn nhất, nó thường là hoạt động tạo nên lợi nhuận chính cho ngân hàng từ các khoản tiền lãi cho vay. Cho vay doanh nghiệp ngày càng phát triển đặc biệt là cho vay DNNQD. Các doanh nghiệp này được tạo điều kiện để phát triển cả về vốn và ngành nghề kinh doanh. Các DNNQD được vay vốn theo nhiều nhiều hình thức khác nhau như theo món, theo hạn mức tín dụng… Các nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay của ngân hàng như nguồn vốn của ngân hàng, mối quan hệ của ngân hàng mẹ, chất lượng nguồn nhân lực, môi trường kinh tế, yếu tố pháp lý… Chương 2 Thực trạng hoạt động cho vay Doanh nghiệp ngoài Quốc Doanh của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn gia Lâm 2.1 Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm 2.1.1 Sơ lược quá trình phát triển Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Gia Lâm được thành lập ngày15/08/1988, trên cơ sở tách ra thành một chi nhánh nhưng vẫn trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội, và được lấy tên là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Gia Lâm. Đến ngày 10/01/1995, Ngân hàng trở thành chi nhánh chính thức trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam với tên gọi Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Gia Lâm. Với vai trò và chức năng là một ngân hàng thương mại, từ ngày thành lập Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm đã xác định rõ mục đích hoạt động của mình, đó là huy động và quản lý các nguồn vốn dùng để đầu tư và phát triển nông thôn, thực hiện thanh toán và cho vay đối với cá nhân và tổ chức, hạch toán quản lý tiền mặt, kiểm soát chi tiêu quỹ tiền lương trong các đơn vị phục vụ nông nghiệp, thực hiện theo đúng chế độ, chính sách, thể lệ và kế hoạch của Nhà nước về thực hiện các nghiệp vụ trên địa bàn huyện Gia Lâm có trụ sở làm việc chính tại Trâu Quỳ – Gia Lâm - Hà Nội và các chi nhánh nhỏ trên địa bàn. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức Việc phát triển mở rộng hoạt động được Ngân hàng chú trọng thực hiện. Nếu tính đến năm 2003, Ngân hàng có 6 Ngân hàng cấp II và 2 Phòng giao dịch thì đến đầu năm 2006 đã có thêm 3 Phòng giao dịch được thành lập. Các phòng giao dịch được mở thêm trong năm 2005. Với việc mở rộng này đã làm cho quy mô hoạt động của Ngân hàng được nâng cao. Cơ cấu của Ngân hàng được tổ chức theo sơ đồ sau: Biểu1: Sơ đồ cơ cấu tổ chúc Phó giám đốc Chi nhánh cấp II P.tin học P.thanh toán quốc tế P.kinh doanh P.thẩm định P.tổ chức hành chính Phòng giao dịch Giám đốc P.kiểm tra kiểm toán nội bộ P.kế hoạch Về mạng lưới giao dịch gồm 6 Ngân hàng cấp II và 5 Phòng giao dịch được phân vùng quản lý cho vay, thanh toán với các cá nhân. Còn đối với cho vay và thanh toán của tổ chức, doanh nghiệp thì do chi nhánh Ngân hàng cấp I trực tiếp đảm nhận. Hiện nay Ngân hàng có các Ngân hàng cấp II và Phòng giao dịch sau: Ngân hàng cấp II thị trấn Sài Đồng. Ngân hàng cấp II Nguyễn Văn Cừ. Ngân hàng cấp II thị trấn Đức Giang. Ngân hàng cấp II thị trấn Yên Viên. Ngân hàng cấp II khu công nghiệp Phú Thị. Ngân hàng cấp II Đa Tốn. Phòng giao dịch Đại học Nông nghiệp I. Phòng giao dịch Thanh Am. Phòng giao dịch số 16 khu công nghiệp Thăng Long. Phòng giao dịch số 2 Đức Giang. Phòng giao dịch khu công nghệp Ninh Hiệp. Ngân hàng có 91 nhân viên, trong đó hợp đồng dài hạn là 71 (khoảng 78%) còn lại là hợp đồng ngắn hạn từ 1 đến 3 năm. Cán bộ của Ngân hàng đa phần là cán bộ trẻ tuổi từ 25 đến 35, cán bộ có trình độ đại học và tương đương đại học là 51/91 người chiếm khoảng 56%. Trình độ Tiếng Anh cũng rất được chú ý, hơn 71% cán bộ có trình độ bằng B trở lên. Điều này cho thấy lãnh đạo của Ngân hàng rất quan tâm đến chất lượng đầu vào, đồng thời hàng năm còn tạo điều kiện cho cán bộ đi học tập để nâng cao nghiệp vụ. Hiện tại có 16 nhân viên trẻ đang theo học các lớp đại học về ngân hàng để nâng cao trình độ. * Nhiệm vụ của các phòng ban, chi nhánh Ngân hàng cấp II và Phòng giao dịch: Ban giám đốc: gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc có nhiệm vụ quản lý hoạt động của Ngân hàng và đưa ra các quyết định liên quan đến việc huy động và cho vay vốn theo sự ủy quyền của Ngân hàng cấp trên. Giám đốc là người chịu trách nhiệm với Ngân hàng cấp trên về hoạt động của Chi nhánh mình quản lý. Quyền và nghĩa vụ của giám đốc được quy định trong Quyết định 169/QĐ/HĐQT của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Phó giám đốc là người giúp đỡ giám đốc, tham gia ý kiến về nghệp vụ và thay mặt giám đốc giải quyết công việc khi được ủy quyền. Phòng kế hoạch: Nghiên cứu đề xuất các chiến lược khách hàng, huy động vốn, xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn, trung và dài hạn theo quy định trong khu vực huyện. Tổng hợp theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh, giao và quyết toán kế hoạch, cân đối nguồn vốn, sử dụng vốn và điều hoà vốn kinh doanh của các chi nhánh trực thuộc. Tổng hợp, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh quý, năm. Dự thảo các báo cáo sơ kết, tổng kết của Chi nhánh trực thuộc. Đầu mối thực hiện thông tin phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. Phòng kinh doanh: Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín từ sản xuất đến tiêu dùng. Phân tích kinh tế theo ngành, nghề kinh tế kỹ thuật, danh mục khách hàng, lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao. Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng, hoàn thiện hồ sơ trình ngân hàng cấp trên theo phân cấp uỷ quyền. Tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn thuộc Chính phủ, Bộ, ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. Thường xuyên phân loại dự nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc phục. Tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín dụng của các chi nhánh trực thuộc. Tổng hợp, báo cáo và kiểm tra chuyên đề theo quy định. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. Phòng thẩm định: Thu thập, quản lý, cung cấp những thông tin phục vụ cho việc thẩm định và phòng ngừa rủi ro trong công tác tín dụng. Thẩm định các khoản vay do giám đốc chi nhánh cấp I quy định, chỉ định theo uỷ quyền của Tổng Giám đốc và thẩm định những món vay vượt quyền phán quyết của Giám đốc chi nhánh cấp II trực thuộc. Thẩm định khoản vay do Tổng Giám đốc quy định hoặc do Giám đốc Chi nhánh quy định trong mức phán quyết cho vay của Giám đốc chi nhánh. Làm đầu mối tổ chức kiểm tra công tác thẩm định của chi nhánh. Tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo theo quy định. Thực hiện các công việc khác do Giám đốc giao. Phòng tổ chức - hành chính: Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quý của chi nhánh và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được Giám đốc Chi nhánh duyệt. Xây dựng và triển khai chương trình giao ban nội bộ chi nhánh với các đơn vị trực thuộc. Trực tiếp làm thư ký tổng hợp báo cáo giao ban cho Giám đốc NHNo&PTNT Gia Lâm. Lưu trữ các văn bản pháp luật có liên quan đến ngân hàng và văn bản định chế của NHNo&PTNT Việt Nam. Trực tiếp quản lý con dấu của chi nhánh; thực hiện công tác hành chính, văn thư, lễ tân, phương tiện giao thông, bảo vệ, y tế của chi nhánh. Thực hiện công tác xây dựng cơ bản, sửa chữa TSCĐ, mua sắm công cụ lao động. Đầu mối trong việc chăm lo đời sống vật chất, văn hoá - tinh thần của cán bộ, nhân viên của chi nhánh. Xây dựng quy định lề lối làm việc trong đơn vị và các mối quan hệ khác của nhánh. Đề xuất mở rộng mạng lưới kinh doanh, định mức lao động, giao khoán quỹ lương đến các chi nhánh trực thuộc theo quy chế của NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, đề xuất cử cán bộ, nhân viên đi công tác, học tập trong và ngoài nước. Tổng hợp, theo dõi thường xuyên cán bộ, nhân viên được quy hoạch, đào tạo, đồng thời trực tiếp quản lý các hồ sơ của cán bộ, chế độ đối với các cán bộ nghỉ hưu thuộc chi nhánh theo quy định của pháp luật. Đề xuất, hoàn thiện và lưu trữ hồ sơ theo đúng quy định trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, nhân viên trong phạm vi phân cấp uỷ quyền của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Chấp hành công tác báo cáo thống kê, kiểm tra chuyên đề. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: Xây dựng chương trình công tác năm, quý phù hợp với chương trình công tác Kiểm tra, kiểm toán của NHNo&PTNT Việt Nam và đặc điểm cụ thể của đơn vị mình. Tuân thủ tuyệt đối sự chỉ đạo nghiệp vụ kiểm tra, kiểm toán. Tổ chức thực hiện kiểm tra, kiểm toán theo đề cương, chương trình công tác kiểm tra, kiểm toán của NHNo&PTNT Việt Nam và kế hoạch của đơn vị, kiểm toán nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngay tại hội sở và chi nhánh trực thuộc. Thực hiện sơ kết, tổng kết chuyên đề theo định kỳ hàng quý, 6 tháng, năm. Tổ chức giao ban hàng tháng đối với các kiểm tra viên chi nhánh ngân hàng cấp II. Tổng hợp và báo cáo kịp thời các kết quả kiểm tra, kiểm toán, việc chỉnh sửa các tồn tại thiếu sót của chi nhánh, đơn vị theo định kỳ gửi Tổ Kiểm tra, kiểm toán và Ban Kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Hàng tháng có báo cáo nhanh về công tác chỉ đạo điều hành hoạt động kiểm tra, kiểm toán của mình gửi về Ban Kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Tổ chức kiểm tra, xác minh, tham mưu cho Giám đốc giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền, làm nhiệm vụ thường trực ban chống tham nhũng, tham mưu cho lãnh đạo trong hoạt động chống tham nhũng, tham ô, lãng phí và thực hành tiết kiệm tại đơn vị mình. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc, Trưởng Ban Kiểm tra Kiểm toán nội bộ hoặc Giám đốc giao. Phòng thanh toán quốc tế: Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ (mua - bán, chuyển đổi) thanh toán quốc tế trực tiếp theo quy định. Thực hiện các công tác thanh toán quốc tế thông qua mạng SWIFT NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh ngoại tệ có liên quan đến công tác thanh toán quốc tế, các dịch vụ kiều hối và chuyển tiền, mở tài khoản với khách hàng là người nước ngoài. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. Phòng tin học: Tổng hợp, thống kê và lưu trữ số liệu, thông tin liên quan đến hoạt động của chi nhánh. Xử lý các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hạch toán kế toán, kế toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ và tín dụng. Chấp hành chế độ báo cáo, thống kê và cung cấp số liệu, thông tin theo quy định. Quản lý, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc, thiết bị tin học. Thực hiện các nhiệm vụ được Giám đốc giao. Ngân hàng cấp II: 1. Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhận và tổ chức tín dụng khác dưới hình các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác trong nước và nước ngoài bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Việc huy động vốn có thể bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng và các công cụ khác theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. 2. Cho vay: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền. Cho vay trung hạn, dài hạn thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân và hộ sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế phân cấp uỷ quyền. Cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ gồm: Cung ứng các phương tiện thanh toán; Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước, thu hộ và chi hộ, thu phát tiền mặt; Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước và của NHNo&PTNT Việt Nam. Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng khác theo Luật các tổ chức tín dụng như thu, phát tiền mặt; mua bán vàng bạc; máy rút tiền tự động dịch vụ thẻ; két sắt, nhận bảo quản, cất giữ, chiết khấu thương phiếu và các loại giấy tờ có giá khác... và các dịch vụ ngân hàng khác được Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam cho phép. Kinh doanh các nghiệp vụ ngoại hối khi được Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam cho phép. Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn theo quy định. Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy định và theo yêu cầu đột xuất của Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm. Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị phục vụ nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh và việc quảng bá thương hiệu của NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện các nhiệm vụ khác được Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm giao. Phòng giao dịch: Huy động vốn trong nước cả nội tệ và ngoại tệ (khi được cấp trên cho phép) của mọi tổ chức dân cư, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo quy định về huy động vốn trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Nghiên cứu, tìm hiểu, giới thiệu khách hàng, phân loại khách hàng. Hướng dẫn khách hàng xây dựng phương án, dự án. Tiếp nhận và thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng cho chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm trực tiếp quản lý, xét duyệt cho vay. Tổ chức giải ngân thu nợ, thu lãi theo hợp đồng tín dụng đã được Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm trực tiếp phê duyệt. Theo dõi chặt chẽ các khoản dư nợ, phân tích nợ quá hạn để chủ động thu và đề xuất phương án xử lí nợ quá hạn. Mở tài khoản tiền gửi và làm dịch vụ chuyển tiền. Đảm bảo an toàn quỹ tiền mặt, các loại chứng từ có giá, thẻ phiếu trắng các hồ sơ lưu về khách hàng và quản lí tốt tài sản trang thiết bị làm việc. Tuyên truyền, giải thích các quy định về huy động vốn và thủ tục cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam. Thu thập ý kiến đóng góp của khách hàng về hoạt động ngân hàng phản ánh kịp thời cho Giám đốc NHNo&PTNT Gia Lâm. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm giao. 2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh chung Bảng 1: Tổng nguồn vốn huy động Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tổng nguồn huy động (triệu đồng) 629.278 788.500 1.003.000 Tăng (giảm) so với năm trước (triệu đồng) 201.500 119.800 214.500 Tỷ lệ % tăng (giảm) 18 25,3 21,4 Nguồn: Phòng kinh doanh Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong những năm gần đây tăng trưởng khá đều cả về số lượng và chất lượng. Nguồn vốn tăng trưởng đều hàng năm với tốc độ trung bình khoảng 20%/năm, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ ngoại tệ như USD tỷ lệ nguổn vốn này trong tổng nguồn tăng từ 10% lên đến 13%. Hoạt động sử dụng vốn cũng tăng trưởng khá mạnh. Doanh số cho vay tăng với tốc độ tương đương với tốc độ của nguồn vốn. Các hoạt động khác cũng phát triển như bảo lãnh hay dịch vụ thẻ. Các hoạt động này trong nhũng năm gần đây đặc biệt phát triển do nhu cầu tăng lên. Các doanh nghiệp tăng cường buôn bán với nước ngoài nên nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp này tăng lên. Việc các doanh nghiệp tăng nhu cầu bảo lãnh làm cho hoạt động thanh toán nước ngoài cũng phát triển. Hiện nay nhu cầu mở thẻ của người dân tăng cao do họ muốn người thân gửi tiền qua ngân hàng, muốn rút tiền khi đi du lịch, gửi tiền cho con cái đi học xa… 2.2 Thực trạng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm 2.2.1 Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam Trước năm 1986, Việt Nam chỉ tồn tại DNNN và hợp tác xã. Đây là 2 loại hình tổ chức kinh tế mà lấy sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể làm nền tảng. Trong giai đoạn này sản xuất mang tính kế hoạch, sản xuất chỉ đủ dùng trong nước thậm chí còn không đủ nếu xét về mặt thực tế. Và nền kinh tế nước ta chỉ mới bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế sau năm 1986. Mặc dù chuyển đổi nền kinh tế từ năm 1986 nhưng kinh tế chỉ thực sự chuyển đổi sau năm 1991. Đó là thời điểm đánh dấu sự sụp đổ của Cộng hoà liên bang Xô viết và các nước Đông Âu. Trước sự kiện đó Đảng ta đã chuyển hướng phát triển kinh tế. Với sự chuyển đổi kinh tế đó đã làm cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Một số người bắt đầu có suy nghĩ sẽ tự mình kinh doanh. Và nhiều loại hình doanh nghiệp đã ra đời như: Công ty TNHH, Công ty Hợp danh, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân, nhiều doanh nghiệp trong đó._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36448.doc