Danh mục các chữ viết tắt
DNNQD : Doanh Nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
CTCP: Công ty cổ phần
CTTNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
CNH – HĐH: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
TLSX: Tư liệu sản xuất
Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua luôn tăng trưởng với tốc độ cao. Với tiềm lực to lớn, sự đa dạng về nhiều mặt ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, công nghệ… các DNNQD đã
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đóng góp không nhỏ cho sự phát triển cho nền kinh tế, góp phần vào những thành tựu sau hai mươi mốt năm đổi mới và phát triển của đất nước. Tăng trưởng kinh tế cao thúc đẩy hoạt động ngân hàng, sức nóng cuả nền kinh tế thị trường đang lan toả, nhu cầu vốn trong tình trạng “nóng” và diễn ra khẩn trương.
Các DNNQD ở nước ta hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất và đầu tư ngày càng lớn. Vì vậy, việc thúc đẩy cho vay DNNQD là một giải pháp tăng tín dụng có hiệu quả, là đầu ra tín dụng lớn, là đối tượng khách hàng tiềm năng của các NHTM trong thời gian tới. Hơn nữa, nguồn tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn huy động quan trọng để các DNNQD có thể giữ vững sân nhà, và vươn ra thị trường quốc tế trong xu thế hội nhập như hiện nay.
Tuy nhiên, các DNNQD ở nước ta vẫn đang khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng và các NHTM cũng gặp một số khó khăn khi cho vay các DNNQD. Vậy làm thế nào để “Mở rộng cho vay đối với DNNQD”là vấn đề được các NHTM nói chung và Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội nói riêng quan tâm.
Vì thời gian thực tập không dài, kiến thức có hạn nên trong bài viết này, em chỉ đề cập tới thực trạng hoạt động cho vay DNNQD qua các năm 2005-2007 tại Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội, đồng thời đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để mở rộng hoạt động cho vay DNNQD tại Chi nhánh.
Qua chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo; em xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị trong phòng tín dụng và toàn thể Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Chương I:Tổng quan về cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát về Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp là tế bào quan trọng của nền kinh tế. Là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện một, một số hoặc tất cả các khâu của quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường, nhằm mục đích kiếm lời.
Ở nước ta hiện nay tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp, theo hình thức chủ sở hữu có ba loại hình doanh nghiệp chính:
- DNNN: là loại hình doanh nghiệp do Nhà nước là chủ sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần vốn góp chi phối được tổ chức ( > 50% vốn điều lệ ) dưới hình thức: công ty Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
- DNNQD: là loại hình doanh nghiệp có nguồn vốn trong nước thuộc sở hữu của một tập thể, tư nhân, một người hoặc một nhóm người, hoặc có vốn góp của Nhà nước không vượt quá 50% vốn điều lệ.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không phân biệt tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài gồm có: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh giữa đối tác nước ngoài với đối tác trong nước.
Các DNNN có xu hướng ngày càng giảm, chỉ nắm giữ những ngành kinh tế then chốt của đất nước hoặc những lĩmh vực mà các loại hình doanh nghiệp khác không muốn đầu tư. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang phát triển khá nhanh, tuy nhiên sự phát triển của loại hình này bị giới hạn bởi sự hấp dẫn, thu hút các đối tác nước ngoài, môi trường pháp lí của mỗi nước. Còn loại hình DNNQD được Nhà nước khuyến khích phát triển, đóng góp to lớn đến sự phát triển nhanh và ổn định nền kinh tế.
1.1.2. Phân loại Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Để thuận tiện cho công việc giám sát, quản lí người ta phân chia DNNQD thành các loại khác nhau theo từng loại tiêu chí.
1.1.2.1. Phân loại theo loại hình doanh nghiệp ( phân định trách nhiệm và quản lí hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp ) gồm có:
- Doanh nghiệp tư nhân ( DNTN ): là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp ( Theo Luật doanh nghiệp 2005 )
- Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung; ngoài ra còn có thể có các thành viên góp vốn ( Theo Luật doanh nghiệp 2005 )
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: là doanh nghiệp mà chủ sở hữu có thể là tổ chức, cá nhân tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi vốn góp của mình.
- Công ty cổ phần: là doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần, người nắm giữ cổ phần được gọi là cổ đông. Số lượng cổ đông tối thiểu là ba người, không hạn chế số lượng tối đa.
1.1.2.2. Phân loại theo quy mô ( lao động và vốn đầu tư ) gồm:
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa: số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 300 người và vốn đầu tư không quá 10 tỷ đồng.
- Doanh nghiệp lớn: số lượng lao động trung bình hàng năm trên 300 người và vốn đầu tư trên 10 tỷ đồng.
Ở Việt Nam, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.2.3. Phân loại theo thành phần kinh tế
Theo Nghị quyết của của Đại hội Đảng khoá X thì DNNQD được hình thành từ hai thành phần kinh tế là:
- Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước thì DNNQD gồm: công ty TNHH, công ty cổ phần có sự tham gia góp vốn của Nhà nước với tỷ lệ nhỏ hơn hoặc bằng 50%.
- Thành phần kinh tế tư nhân thì DNNQD gồm: công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân không có sự góp vốn của Nhà nước.
1.1.2.4. Phân loại theo ngành nghề kinh doanh.
Các doanh nghiệp kinh doanh theo các ngành nghề khác nhau, được chia thành ba nhóm chính là:
- Doanh nghiệp nông nghiệp: là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh các nông phẩm, cây trồng, vật nuôi…
- Doanh nghiệp công nghiệp: là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp. Ở nước ta chủ yếu là sản xuất các mặt hàng công nghiệp nhẹ.
- Doanh nghiệp thương mại dịch vụ: là các doanh nghiệp mua bán hàng hoá và cung ứng các dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng tài chính, du lịch, khách sạn…
1.1.3. Vai trò của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNQD với tiềm lực to lớn, sự đa dạng về nhiều mặt đã và đang khẳng định được vai trò ngày càng quan trọng của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế. Vai trò của các DNNQD thể hiện ở một số khía cạnh sau:
1.1.3.1. Thu hút và phát triển tốt các nguồn lực trong nền kinh tế
Thứ nhất là vốn đầu tư, các DNNQD sử dụng đa dạng các phương thức huy động vốn để khai thác hiệu quả mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Đặc biệt là thu hút được lượng vốn nhàn rỗi lớn trong xã hội. Với điều kiện kinh tế thị trường đang phát triển như Việt Nam hiện nay thì việc huy động được nguồn vốn nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh là tác động tích cực, cần thiết tạo nên động lực cho tăng trưởng. Tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp thu hút năm 2007 là 2439 nghìn tỷ đồng, trong đó khu vực ngoài quốc doanh thu hút được 487 nghìn tỷ đồng, chiếm 20% trong tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp, tăng 43% so với năm 2006. Vốn đầu tư của các DNNQD đang trở thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế của nhiều vùng, địa phương.
Thứ hai, thu hút và giải quyết việc làm cho người lao động.Thất nghiệp là một trong những vấn đề nan giải, bức xúc ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng tăng. Hệ thống các DNNN đang từng bước cổ phần hoá, tinh giảm biên chế, không tạo thêm nhiều việc làm mới. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, học vấn cao. Chỉ sự phát triển mạnh mẽ của DNNQD đã tạo thêm nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. DNNQD sử dụng đa dạng các loại lao động bao gồm cả lao động phổ thông, lao động trí óc, lao động bậc thấp và lao động bậc cao…với số lượng lớn. Tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp đến nay trên 5,3 triệu người. Trong đó, số lao động làm việc tại các DNNQD khoảng 2,2 triệu người; chiếm trên 41% tổng số lao động trong các doanh nghiệp; tăng 20% so với năm 2006. Lao động trong khu vực DNNQD tăng mạnh với tốc độ nhanh đã giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn dân cư trong nước.
Thứ ba, sử dụng đa dạng các yếu tố đầu vào, đổi mới kỹ thuật công nghệ tạo động lực cho tăng trưởng. Với số lượng lớn, đa dạng về quy mô và ngành nghề sản xuất kinh doanh, các DNNQD sử dụng ngày càng hiệu quả các yếu tố sản xuất đầu vào: nguyên nhiên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ của nền kinh tế. Các loại sản phẩm mà DNNQD tiêu thụ là các sản phẩm thuộc nhiều lĩnh vực như nông lâm nghiệp, sản phẩm công nghiệp, sản phẩm dịch vụ ngân hàng, vận tải, bảo hiểm… Các DNNQD tận dụng được nguồn nguyên liệu dôi thừa, tạo điều kiện để các ngành khác phát triển. Hơn nữa, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và thị trường, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt buộc các DNNQD phải không ngừng nâng cao, đổi mới công nghệ- kỹ thuật, mua sắm TSCĐ, trang thiết bị máy móc, tạo động lực cho quá trình phát triển.
Như vậy, nếu được tổ chức tốt, quan tâm tạo điều kiện phát triển thì các DNNQD sẽ phát huy tốt vai trò của mình, trở thành khu vực kinh tế có tiềm lực lớn.
1.1.3.2. Cung cấp hàng hoá – dịch vụ đáp ứng nhu cầu phong phú của người dân trong nước và xuất khẩu.
DNNQD không chỉ là nơi tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ lớn cho nền kinh tế mà còn đóng góp vai trò không nhỏ vào quá trình sản xuất, tái sản xuất xã hội, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho nền kinh tế. Sử dụng các yếu tố đầu vào DNNQD tiếp tục quá trình tái sản xuất xã hội để tạo ra nhiều hàng hoá phong phú về chủng loại, đa dạng về kiểu cách, có chất lượng nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu của dân cư và xuất khẩu ra nước ngoài. Do yêu cầu tồn tại, phát triển trong nền kinh tế cạnh tranh các DNNQD ra sức nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu xã hội, đổi mới công nghệ, tiến hành những phương pháp sản xuất kinh doanh mới, đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của cuộc sống. Với giá thành rẻ, chất lượng cao, hàng hoá dịch vụ phong phú đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân, phục vụ các yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
1.1.3.3. Góp phần tăng thu nhập quốc dân, tăng thu ngân sách Nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của các DNNQD đã đóng góp vào tổng thu nhập quốc dân. Khu vực DNNQD luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khối doanh nghiệp đóng góp vào GDP. Các DNNN đóng góp trung bình 39% GDP hàng năm; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp trung bình 4.5% GDP hàng năm; DNNQD trung bình hàng năm đóng góp khoảng 46% GDP, năm 2007 tỷ trọng đóng góp vào GDP là 50%.
Các DNNQD sản xuất kinh doanh khá hiệu quả, doanh thu trung bình hàng năm tăng 33%, năm 2007 đạt 857 nghìn tỷ đồng. Doanh thu cao dẫn tới khoản thuế thu nhập doanh nghiệp nộp vào ngân sách Nhà nước càng tăng. Năm 2007, số thuế nộp NSNN của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 8.615 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2006. Đây là khoản thuế lớn, có ý nghĩa kinh tế quan trọng phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế về quy mô và hiệu quả.
1.1.3.4. Thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
DNNQD đóng góp vào quá trình CNH – HĐH đất nước về nhiều mặt, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế gồm: chuyển dịch cơ cầu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu ngành. Đặc trưng kinh tế đa dạng của DNNQD tạo ra khả năng tác động lớn tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành. Trước đây, DNNQD chủ yếu sản xuất kinh doanh các mặt hàng công nghiệp, còn các ngành khác rất ít. Nhưng 22 năm đổi mới khu vực này được Nhà nước khuyến khích phát triển đã xâm nhập hầu hết các ngành sản xuất kinh doanh: nông nghiêp, lâm nghiệp, xây dựng, thươnh mại, dịch vụ… đặc biệt phát triển mạnh trong lĩnh vực công thương nghiệp và dịch vụ; thực hiện đúng định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế: “ giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ”, “ phát triển sản xuất theo hướng đẩy mạnh xuất khẩư, thay thế hàng nhập khẩu”. DNNQD tập trung ở lĩnh vực dịch vụ là 56.9%, công nghiệp là 25.2%, xây dựng là 12.5%.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu vùng: khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh với những thay đổi của thị trường. Cùng với quá trình đô thị hoá các DNNQD phát triển ở các trung tâm kinh tế lớn, thành phố, đô thị và còn vươn cánh tay của mình tới các vùng tiềm năng, cả những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, đến những nơi gần vùng nguyên liệu, có giá đất rẻ, nhân công dồi dào, giá rẻ…Các DNNQD tập trung nhiều nhất ở Đông Nam Bộ, tiếp đến là đồng bằng Sông Cửu Long, tiếp đến là Duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc, Tây Nguyên và Tây Bắc. Những doanh nghiệp tư nhân, những công ty quy mô nhỏ tận dụng được nguồn lực kinh tế, tận dụng thị trường…giúp các vùng này phát triển, tăng thu nhập, góp phần ổn định xã hội, giảm bất cân đối phát triển giữa các vùng miền.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm nền kinh tế nước ta, để tối đa hoá nguồn lực dư thừa trong xã hội phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc khuyến khích phát triển các DNNQD đảm bảo cho chính sách này đi đúng hướng và đạt được kết quả. Phát triển tốt DNNQD không những thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn hỗ trợ cho thành phần kinh tế Nhà nước có vốn đầu tư nước ngoài phát huy đầy đủ vai trò của mình. Hiện nay, chỉ còn hơn 4.000 DNNN và đang tiến hành từng bước cổ phần hoá. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên nhưng tốc độ chậm. Còn DNNQD tăng rất nhanh, nhất là các công ty cổ phần, công ty TNHH. Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ tính độc quyền của kinh tế Nhà nước, thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Qua đó ta thấy vai trò to lớn của DNNQD trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Các DNNQD luôn đi đầu trong việc thay đổi công nghệ sản xuất lạc hậu, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ và sản xuất kinh doanh chính là thực hiện CNH – HĐH cho mình. Những sản phẩm mà DNNQD sản xuất ra tiếp tục phục vụ cho quá trình CNH - HĐH ở hầu hết các lĩnh vực. DNNQD phát triển mạnh mẽ trong các ngành, các vùng miền, thích ứng với xu hướng đô thị hoá tạo ra nhiều cơ hôi phân công lại lao động, thu nhập giữa các ngành, vùng miền, góp phần thực hiện CNH - HĐH đất nước. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của nước ta sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia của DNNQD.
1.1.4. Đặc điểm của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những đặc điểm riêng, để phát triển có hiệu quả vai trò của mỗi loại hình cần phải chú ý tới đặc điểm của chúng. Các DNNQD có một số đặc điểm cơ bản sau:
Các DNNQD được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa trên tính chất tư hữu về TLSX. TLSX không phải thuộc về Nhà nước, của toàn dân mà thuộc sở hữu của một người hoặc một nhóm người, tập thể, tư nhân. Các hình thức sở hữu có thể là: sở hữu cá nhân, sở hữu gia đình, sở hữu hỗn hợp hình thành nên các hình thức đơn vụ sản xuất kinh doanh như: công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần…Ngoài ra, dựa vào tính tư hữu về TLSX - cụ thể ở đây là vốn có thể phân định trách nhiệm và quản lý hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp. Chẳng hạn, doanh nghiệp tư nhân do cá nhân thành lập bằng vốn của mình, tự chịu mọi trách nhiệm mọi hoạt động của doanh nghiệp. Công ty cổ phần được thành lập thông qua phát hành (bán) các cổ phiếu; việc nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt động của công ty, tham gia chia cổ tức từ lợi nhuận, đồng thời phải gánh chịu các tổn thất xảy ra trên phần cổ phiếu nắm giữ. Công ty TNHH được thành lập trên cơ sở góp vốn của một hoặc một số cá nhân, tổ chức; thành viên chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trong phạm vi vốn góp…
Mục tiêu hoạt động của DNNQD là lợi nhuận. Khác với DNNN, DNNQD không hoạt động vì mục tiêu xã hội theo mục tiêu cụ thể của Nhà nước, chủ sử hữu được toàn quyền quyết định về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhằm tăng giá trị chủ sở hữu. Các DNNQD không có sự bảo hộ của Nhà nước, phải tự tìm kiếm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Tính đa dạng của các DNNQD về quy mô, ngành nghề kinh doanh, mô hình quản lý, công nghệ…Thứ nhất, về quy mô: các DNNQD mới được chính thức công nhận hoạt động từ năm 1986 đến nay, mang tính chất tư hữu về TLSX nên quy mô vốn và lao động của DNNQD rất đa dạng, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số các DNNQD chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân (chiếm 43%). Trong những năm gần đây, số doanh nghiệp có vốn sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 94%; bình quân vốn thực tế một doanh nghiệp sử dụng là 3.7 tỷ đồng, quá ít so với nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Biểu đồ: Tỷ trọng các DNNQD phân theo quy mô vốn
Quy mô lao động cũng đa dạng về số lượng lao động sử dụng, về trình độ lao động được sử dụng và tập trung chủ yếu ở quy mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người chiếm 98%; số lượng doanh nghiệp có quy mô lao động lớn rất ít, chủ yếu ở các công ty cổ phần hoặc công ty TNHH.
Biểu đồ: Tỷ trọng các DNNQD phân theo số lượng lao động
Thứ hai, đa dạng về ngành nghề sản xuất kinh doanh. Các DNNQD đã nhanh chóng xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực ngành nghề sản xuất kinh doanh: nông nghiệp, thuỷ hải sản, xây dựng, công nghiêp, thương mại, dịch vụ…Sự đa dạng trong ngành nghề sản xuất kinh doanh của các DNNQD đã tận dụng được những phần thị trường bị bỏ rơi, nguyên nhiên liệu dư thừa, nguồn lực lao động…thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng đều, đảm bảo đúng xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành.
Thứ ba, sự đa dạng về mô hình quản lý. Do sự đa dạng trong hình thức sở hữu dẫn tới sự đa dạng trong mô hình quản lý: quản lý tập trung ở các doanh nghiệp tư nhân; quản lý phân quyền ở các công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh. Mô hình quản lý tập trung thích hợp với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ để tận dụng thị trường; mô hình quản lý phân quyền phù hợp với những doanh nghiệp có quy mô lớn.
Từ sự đa dạng về ngành nghề sản xuất kinh doanh, quy mô, hình thức quản lý kéo theo sự đa dạng về công nghệ sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Với mỗi thị trường, mỗi ngành nghề, mỗi loại hình doanh nghiệp, phụ thuộc vào vốn và lao động mà áp dụng dây truyền công nghệ phù hợp để khai thác hiệu quả các nguồn lực, nắm bắt thị trường, mở rộng sản xuất…
Sự đa dạng về nhiều mặt của DNNQD là một đặc trưng quan trọng, nền kinh tế có được sự phát triển năng động chính là nhờ một phần từ sự đa dạng của các DNNQD.
Các DNNQD tăng nhanh về số lượng. Điều này phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước và thế giới. Số lượng các DNNQD đã tăng lên đáng kể trong những năm qua, ngày càng chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 93% tổng số doanh nghiệp). Tốc độ tăng bình quân gấp 1.3 lần qua các năm; bình quân mỗi năm có trên 7.000 DNNQD được thành lập. DNNQD phát triển mạnh đặc biệt ở các đô thị trung tâm thành phố lớn. Trên địa bàn Hà Nội, nếu năm 2001 chỉ có 2.818 doanh nghiệp thì đến 2005 đã có 2.5479 doanh nghiệp, đến nay có khoảng 36.500 DNNQD. Sự phát triển này càng chứng tỏ vai trò kinh tế quan trọng của khu vực DNNQD.
Biểu đồ: Số lượng DNNQD qua các năm 2005 – 2007
Khả năng tích luỹ và huy động vốn của các DNNQD còn hạn chế, trong khi nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị…là rất lớn. DNNQD ở nước ta ra đời muộn trong môi trường pháp luật mới tạo dựng còn nhiều vướng mắc, chủ yếu là quy mô nhỏ và trung bình, năng lực quản lý chưa cao nên khả năng tích luỹ vốn từ sản xuất kinh doanh thấp. Lượng vốn tự có của các DNNQD không lớn, chỉ đủ đáp ứng từ 20 – 30% yêu cầu hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác còn gặp nhiều khó khăn tiếp cận với nguồn vốn Ngân hàng. Trong khi đó để hoạt động sản xuất kinh doanh các DNNQD có nhu cầu về vốn rất lớn. Vì vậy, các DNNQD là đầu ra tín dụng lớn, là thị trường tiềm năng của các NHTM.
1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1. Khái quát về cho vay của Ngân hàng thương mại đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
NHTM là một trong những tổ chức tín dụng quan trọng nhất của nền kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ mà nội dung thường xuyên của nó là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Cho vay là một trong những dịch vụ chủ đạo, là nguồn thu nhập chính của NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Theo điều 3, QĐ 1627 – NHNN: cho vay là hình thức cấp tín dụng theo đó TCTD giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Do DNNQD có những đặc trưng riêng, biểu hiện rõ nét nhất là các doanh nghiệp này có hạn chế trong việc đáp ứng TSĐB, vốn tự có tham gia vào phương án kinh doanh, các báo cáo tài chính thường không được tính toán. Nên khi cho vay DNNQD cần xem xét, đánh giá kỹ lưỡng, có sự linh hoạt, cần thiết phải có những hướng dẫn cụ thể về quy trình tín dụng cho loại hình này nhằm giảm phiền hà cho DNNQD, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian giao dịch, nâng cao hiệu quả cho vay. Khi cấp tín dụng cho các DNNQD đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ hiểu biết về các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các thông số đánh giá, trình độ thẩm định cao. Loại hình DNNQD được chính thức đi vào hoạt động muộn, các Ngân hàng còn e ngại cho vay loại hình này, sự chuyên sâu cũng như kinh nghiệm cho vay DNNQD còn hạn chế. Tuy nhiên, các DNNQD chủ yếu có quy mô nhỏ và trung bình nên nhu cầu sử dụng vốn cũng ở mức không quá lớn với thời gian không quá dài rất phù hợp với nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Cho vay là quan hệ tín dụng bình đẳng xuất phát từ lợi ích của cả doanh nghiệp và Ngân hàng. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ do NHTM cung cấp. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn Ngân hàng nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Nguồn tín dụng Ngân hàng đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Thông qua việc vay vốn doanh nghiệp còn được Ngân hàng cung cấp thông tin, dịch vụ tư vấn giúp các doanh nghiệp giảm bớt chi phí do thiếu thông tin, có quyết định sản xuất kinh doanh đúng đắn. Mặt khác, các doanh nghiệp còn được sử dụng những dịch vụ đi kèm với khoản vay như dịch vụ thanh toán, Ngân hàng thu hộ tiền bán hàng, chi trả các khoản chi phí, chi trả lương thưởng… Ngân hàng đóng vai trò là thủ quỹ của doanh nghiệp. Tín dụng Ngân hàng còn góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh cho các DNNQD. Bởi vì đặc trưng của tín dụng là tính hoàn trả, các doanh nghiệp phải có phương án kinh doanh hợp lí, phải tính toán nhằm hiệu quả hoá tất cả các hoạt động của mình ( giảm thiểu chi phí,tăng nguồn thu). Như vậy tín dụng Ngân hàng thực sự có vai trò quan trọng đối với hoạt động của DNNQD. Đối với Ngân hàng, cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, mang lại phần thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.
Các NHTM trong quá trình mở rộng thị phần, nâng cao năng lực tài chính luôn chú trọng đến công tác cho vay; bằng cách mở rộng phạm vi cho vay, tìm cách tăng trưởng tín dụng nhưng vẫn đảm báo khả năng thu hồi nợ đúng hạn, hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất có thể xảy ra.
1.2.2.Nguyên tắc cho vay
Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cũng cao nhất cho NHTM. Vì vậy để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời hoạt động cho vay của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định sau:
12.2.1. Khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
Ngân hàng cho vay theo nhu cầu vốn để thực hiện dự án sản xuất kinh doanh của khách hàng. Khách hàng phải cam kết sử dụng khoản vốn vay theo đúng mục đích đã thoả thuận với Ngân hàng, không trái với quy định pháp luật, quy định của Ngân hàng cấp trên. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động không trái luật pháp, phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển của Ngân hàng cũng như chủ trương xây dựng phát triển đất nước. Việc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Sau khi giải ngân, Ngân hàng cần giám sát xem khách hàng có sử dụng đúng mục đích không để đảm bảo khoản vay có hiệu quả. Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thực hiện được mục tiêu sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng hoàn trả cho Ngân hàng. Từ đó củng cố, nâng cao uy tín của khách hàng đối với Ngân hàng, tạo mối quan hệ tín dụng tốt đẹp và lâu dài giữa Ngân hàng với khách hàng.
1.2.2.2. Khách hàng phải cam kết hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thoả thuận
Đây là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp vay vốn và cũng là điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển. Tuỳ thuộc vào phương thức cho vay mà khách hàng có thể trả vốn và lãi theo những cách thức khác nhau: trả lãi hàng tháng, trả gốc cuối kỳ, trả theo niên kim cố định, trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng…theo sự thoả thuận giữa hai bên. Xuất phát từ bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quỳên sử dụng vốn nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Nguồn vốn mà Ngân hàng sử dụng để cho vay chủ yếu là vốn huy động từ tiền gửi của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và những khoản mà Ngân hàng vay mượn là nguồn ngắn hạn. Sau một thời gian sử dụng vốn vay Ngân hàng phải hoàn trả vốn và chi phí sử dụng vốn như đã cam kết. Do vậy, Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết hoàn trả vốn và lãi đầy đủ và đúng hạn. Nguồn trả nợ chính của doanh nghiệp là lợi nhuận sau thuế và khấu hao TSCĐ.
1.2.2.3. Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án/ dự án có hiệu quả
NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, do đó Ngân hàng tài trợ cho các phương án/ dự án có tính khả thi để đảm bảo khả năng thu hồi vốn vay và hưởng lãi. Ngân hàng thẩm định phương án/ dự án trước khi cho vay; phân tích, đánh giá mục tiêu, kết quả của phương án/ dự án có thể đạt được nhằm xác định khả năng sinh lời, tính an toàn và khả năng hoàn trả. Trong trường hợp xem xét thấy phương án/ dự án kém an toàn Ngân hàng đòi hỏi khách hàng vay phải có TSĐB.
1.2.3. Phân loại cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Ngân hàng thương mại
Để phục vụ tốt cho mục đích quản lí, giám sát các loại hình cho vay của NHTM được phân thành nhiều nhóm tương ứng với sự đa dạng về nhu cầu và mục đích vay vốn, phù hợp với từng điều kiện khác nhau của khách hàng. Với mỗi tiêu thức phân loại có các hình thức cho vay khác nhau:
1.2.3.1. Phân loại theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ lúc ký hợp đồng tín dụng đến khi khách hàng trả hết nợ gốc và lãi được ghi trong hợp đồng tín dụng. Phân chia các loại cho vay theo thời gian có ý nghĩa quan trọng tới tính an toàn và sinh lời của khoản cho vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian cho vay được phân thành các loại sau:
Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống.
Cho vay trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm.
Cho vau dài hạn: là các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm.
Các NHTM chủ yếu cho vay ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động hay nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Đặc điểm này là do các nguồn vốn Ngân hàng huy động được chủ yếu là ngắn hạn. Cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ do mức độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt đỏ và khan hiếm hơn. Cho vay trung hạn để tài trợ cho TSCĐ, một số cây trồng, vật nuôi, trang thiết bị khấu hao nhanh. Ngân hàng cho vay dài hạn để các DNNQD xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu.
1.2.3.2. Phân loại theo phương thức cho vay
Đáp ứng nhu cầu ngày càng nhiều của khách hàng, để mở rộng cho vay các NHTM thực hiện đa dạng hoá các phương thức cho vay như: thấu chi, cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua phát hành thẻ, cho vay hợp vốn. Cụ thể:
Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định, trong khoảng thời gian xác định (thường là thời gian ngắn), không cần TSĐB. Thấu chi thực chất là một dạng của hạn mức tín dụng trên tài khoản thanh toán. Đây là hình thức tín dụng linh hoạt, thủ tục đơn giản (khách hàng chỉ cần làm đơn xin thấu chi nêu rõ mục đích); thường áp dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn, ổn định, kỳ thu nhập ngắn.
Cho vay từng lần: đây là phương thức cho vay khá phổ biến, đối tượng cho vay là các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên mà chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng. Mỗi lần vay doanh nghiệp phải ký lại hợp đồng tín dụng - điều này gây phiền hà cho khách hàng, tốn nhiều chi phí. Tuy nhiên, với phương thức này Ngân hàng có thể kiểm soát được từng món vay tách biệt.
Cho vay theo hạn mức: là phương thức cho vay thuận tiện đối với các doanh nghiệp có nhu cầu vay thường xuyên, có vòng quay vốn lưu động nhanh, có khả năng tài chính lành mạnh, có uy tín với Ngân hàng. Nhu cầu vay là để tài trợ cho nguồn vốn lưu động thiếu hụt. Nội dung chủ yếu của cho vay theo hạn mức tín dụng là giữa Ngân hàng và khách hàng thoả thuận xác định một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Cho vay theo hạn mức tín dụng không định kỳ hạn nợ cụ thể song kiểm soát chặt chẽ hạn mức tín dụng còn thực hiện.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa vào khối lượng hàng luân chuyển để dự đoán dòng ngân quỹ. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay để mua hàng hoá và thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Bản chất của phương thức này là cho vay theo hạn mức động dựa trên g._.iá trị hàng hoá cho vay luân chuyển. Ngân hàng thường cho các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn, có quan hệ vay trả thường xuyên với Ngân hàng. Hạn chế của phương thức này là chi phí vay khá cao. Ở Việt Nam hiện nay chưa áp dụng phương thức cho vay luân chuyển vì Ngân hàng chưa đánh giá được sự luân chuyển của hàng hoá, chưa có cán bộ chuyên biệt về vấn đề này.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: là việc Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sang cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. Mỗi lần rút tiền vay khách hàng lập giấy nợ kèm theo chứng từ cần thiết gửi Ngân hàng.
Cho vay thông qua phát hành thẻ: là việc Ngân hàng chấp nhận cho doanh nghiệp sử dụng số tiền vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng, dịch vụ, rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của Ngân hàng. Trong đó, Ngân hàng sẽ quy định và hướng dẫn cụ thể việc cấp thẻ tín dụng, quy định sử dụng thẻ, thanh toán nợ, xử lý khi thẻ hết hạn và những vi phạm về sử dụng thẻ thanh toán nợ…
Cho vay hợp vốn (đồng tài trợ): là hình thức một nhóm TCTD cùng tài trợ cho một dự án của khách hàng, trong đó có một TCTD đứng ra làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các TCTD khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện khi khoản tín dụng lớn vượt quá giới hạn cho vay; thời hạn tín dụng dài, rủi ro cao cần phải phân tán rủi ro hoặc khả năng tài chính và nguồn vốn của một Ngân hàng không đủ để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. Khi các dự án cần quy mô vốn lớn, thời gian dài nhưng có khả năng thu hồi cao và là khoản tín dụng mang lại nhiều lợi nhuận thì cho vay hợp vốn là một phương thức cho vay hiệu quả.
1.2.3.3. Phân loại theo mực đích sử dụng
Khách hàng có nhu cầu rất đa dạng, khác nhau; căn cứ vào các mục đích sử dụng vốn vay khác nhau Ngân hàng có thể phân loại cho vay DNNQD thành: cho vay kinh doanh và cho vay tài trợ dự án.
Cho vay kinh doanh: Ngân hàng cho doanh nghiệp vay nhằm tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh như: mua thêm hàng hoá, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu…Do có nhiều loại hình doanh nghiệp nên tương ứng với nó là các khoản vay khác nhau đáp ứng cho các nhu cầu khác nhau trong kinh doanh. Phần lớn các khoản vay này đều có tài sản thế chấp hoặc cầm cố.
Cho vay tài trợ dự án: là việc Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gồm có: đầu tư dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ; đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới; đầu tư cải thiện môi trường sinh thái, di chuyển cơ sở sản xuất khỏi đô thị; phát triển các dịch vụ nghiên cứu triển khai, cơ sở thử nghiệm và các phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu khoa học; mua cổ phần, góp vốn vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; đầu tư theo các hình thức BOT, BTO, BT. Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay phải xây dựng dự án thể hiện mục đích sử dụng, kế hoạch đầu tư, quy trình thực hiện dự án. Ngân hàng chỉ cho vay các dự án có khả năng sinh lời cao, đảm bảo tính hoàn trả.
1.2.3.4. Phân loại theo tính chất đảm bảo
Trong kinh doanh luôn phải đối đầu với những rủi ro, khách hàng vay có thể gặp phải những biến cố không mong đợi làm mất khả năng trả nợ dẫn tới những tổn thất lớn cho Ngân hàng. Vì thế, khi cấp tín dụng cho người vay trừ những khách hàng có uy tín cao Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có TSĐB.
Trường hợp cho vay có TSĐB dưới các hình thức thế chấp, cầm cố, đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay, đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba, đảm bảo bằng số dư bù.
+ Thế chấp: là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các TSĐB sang cho Ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Các tài sản thế chấp thường là máy móc thiết bị, nhà đất, hàng hoá…
+ Cầm cố: là hình thức theo đó người nhận tài trợ chuyển quyền kiểm soát TSĐB sang cho Ngân hàng trong thời gian cam kết. Các tài sản cầm cố như chứng khoán, các hợp đồng, ngoại tệ mạnh, kim loại quý… thường là những tài sản dễ bán, dễ chuyển nhượng. Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ TSĐB không an toàn cho Ngân hàng.
+ Đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng để mua sắm, xây dựng nên một số tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì những tài sản này có thể trở thành TSĐB cho khoản vay. Đây là biện pháp cuối cùng để Ngân hàng có thể hạn chế việc khách hàng bán TSĐB được hình thành từ vốn vay.
+ Đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba: Bên thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho người vay đối với Ngân hàng khi người vay không thực hiện được; Ngân hàng đòi hỏi phải có TSĐB của người bảo lãnh cho bảo lãnh đó.
+ Đảm bảo bằng số dư bù: Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay đảm bảo bằng tiền gửi ký quỹ. Đảm bảo bằng số dư bù thủ tục đơn giản, phần lớn có giá trị nhỏ hơn món vay ( ký quỹ từ 10 – 100% giá trị khoản vay).
Ngân hàng yêu cầu khi nhận tín dụng phải có TSĐB để đảm bảo có nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ.
Cho vay không cần TSĐB: đối với những khách hàng truyền thống, có mối quan hệ tín dụng tốt và lâu dài với Ngân hàng thì Ngân hàng có thể cho vay không cần TSĐB; mà dựa vào uy tín của khách hàng, uy tín của bên thứ ba (các TCTD, các công ty tài chính lớn, các công ty lớn, công ty mẹ…) hoặc theo chỉ định của Chính phủ. Nguồn trả nợ được lấy từ thu nhập của khách hàng và phần thu từ dự án cho vay. Đối với hình thức cho vay không có TSĐB sẽ rủi ro hơn cho Ngân hàng song giữ chân được khách hàng truyền thống, nâng cao và củng cố mối quan hệ với khách hàng.
Ngoài ra còn có nhiều tiêu thức khác để phân loại cho vay như phân loại theo hình thái tiền tệ ( VNĐ, USD, vàng…), phân loại theo ngành ( nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), phân loại theo phương thức hoàn trả ( cho vay trả góp, cho vay trả cuối kỳ…) …
Các Ngân hàng thực hiện cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau, các nghiệp vụ cho vay không ngừng được mở rộng, hoàn thiện hơn mang lại tiện ích cho người vay vốn đồng thời đảm bảo tính an toàn và lợi nhuận cho Ngân hàng. Các hình thức cho vay phổ biến tại NHTM Việt Nam hiện nay là thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay tài trợ dự ám, cho vay hợp vốn.
1.2.4. Những thuận lợi và khó khăn khi cho vay DNNQD
1.2.4.1. Những thuận lợi khi cho vay DNNQD
Do đặc điểm chung của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cho vay những doanh nghiệp này có một số thuận lợi sau:
Thời hạn tín dụng: Nhu cầu vay vốn của các DNNQD thường ở mức nhỏ và trung bình với thời hạn ngắn và trung hạn. Cho vay ngắn hạn rồi chuyển dần sang cho vay các thời hạn dài hơn là đặc trưng của tín dụng Ngân hàng. Nguồn huy động của NHTM chủ yếu là ngắn hạn; do đó thời hạn tín dụng không dài đối với DNNQD tương thích với nguồn vốn của NHTM, phù hợp với cơ cấu nguồn vốn Ngân hàng, tạo thuận lợi lớn trong cho vay.
Thuận lợi hơn trong quá trình thẩm định, giám sát khoản vay. Tính chất các khoản vay của các DNNQD quy mô không lớn, thời gian không dài nên mức độ phức tạp, mức độ rủi ro của phương án sản xuất kinh doanh không cao. Điều này giúp cho các NHTM dễ dàng hơn trong thẩm định và giám sát khoản vay, tốn kém ít chi phí, nhanh chóng, ít sai sót hơn so với những món vay có quy mô lớn, thời gian dài.
Thuận lợi về mặt thủ tục pháp lý, hành chính: Khi cho vay DNNQD dễ dàng hơn, đơn giản hơn về mặt thủ tục pháp lý hành chính so với các DNNN. Bởi lẽ phương án sản xuất kinh doanh của DNNN phải thông qua sự phê duyệt của Nhà nước, đòi hỏi nhiều thủ tục pháp lý, hành chính liên quan. Các DNNQD tự chủ về hoạt động kinh doanh, không bị ràng buộc về thời gian hoàn thành và số lượng giấy tờ pháp lý hành chính cần thiết để tiấp cận nguồn vốn NHTM.
Ngoài ra khoản cho vay DNNQD thường có quy mô phù hợp với nguồn vốn Ngân hàng thương mại nên Ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng , không cần phải kêu gọi đồng tài trợ của các TCTD khác. Ngân hàng có được sự chủ động dẫn tới thuận lợi lớn trong giải ngân, thẩm định và giám sát khoản vay.
1.2.4.2. Những khó khăn khi cho vay DNNQD
Khó khăn thường gặp nhất là vấn đề hạch toán tài chính của các DNNQD. Nhất là các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có quy mô nhỏ, chưa có sự tách bạch rõ ràng giữa bộ phận quản lí và kế toán; trình độ kế toán yếu kém, còn nhiều hạn chế, hạch toán không đúng theo chuẩn mực kế toán hiện hành, gây khó khăn cho quá trình cho vay. Một số doanh nghiệp xin vay vốn vượt quá nhu cầu cần vay để sản xuất kinh doanh; thậm chí còn có tình trạng hạch toán gian lận để được vay vốn do đó dẫn tới những rủi ro lớn cho Ngân hàng nếu không thẩm định kỹ và giám sát tốt trong quá trình thực hiện cấp tín dụng.
Thứ hai, các Ngân hàng còn e ngại cho vay các DNNQD, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập. Vì các doanh nghiệp này chưa có mấy tiếng tăm, không có sự “hậu thuẫn” của Nhà nước; cho vay những doanh nghiệp này Ngân hàng thường gặp phải rủi ro nhiều hơn. Nguy cơ về khả năng mất vốn cao hơn nên Ngân hàng khó khăn hơn để đưa ra quyết định cho vay.
Thứ ba, vấn đề về TSĐB. Khi khách hàng xin vay nói chung các Ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp có TSĐB. Một phần không nhỏ các DNNQD không có hoặc không đủ TSĐB cho món vay,kể giấy tờ pháp lý. Cho vay đối với những DNNQD mới đi vào hoạt động hoặc các dự án sản xuất kinh doanh lớn Ngân hàng sẽ gặp kho khăn trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm TSĐB.
Ngoài ra Ngân hàng còn gặp phải một số khó khăn khác như môi trường pháp lý chưa đồng bộ, chồng chéo; các điều kiện kinh tế - xã hội khác.
1.3. Mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.3.1. Khái niệm mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Mở rộng cho vay được hiểu là việc NHTM tăng doanh số cho vay, tăng dư nợ cho vay, tăng số lượng khách hàng vay, đa dạng hơn đối tượng khách hàng vay, phương thức cho vay, mở rộng phạm vi cho vay (ngành nghề sản xuất kinh doanh, địa bàn), tăng tỷ trọng cho vay đối với một nhóm khách hàng cụ thể.
Mở rộng cho vay DNNQD có nghĩa là NHTM thực hiện cho vay nhiều hơn đối với các DNNQD về mặt quy mô vốn vay và số lượng doanh nghiệp vay.
1.3.2. Một số tiêu chí mở rộng cho vay DNNQD
Việc mở rộng cho vay đối với DNNQD là rất cần thiết, nó không chỉ mang lại lợi ích cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việc mở rộng cho vay DNNQD có thể căn cứ vào một số tiêu chí sau đây:
1.3.2.1. Doanh số cho vay trong kỳ
Doanh số cho vay trong kỳ là số tiền mà Ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ. Doanh số cho vay lớn thể hiện cho vay tại Ngân hàng khá sôi nổi. Doanh số cho vay nhỏ chứng tỏ các khoản vay không nhiều hoặc quy mô của các món vay nhỏ.
1.3.2.2. Dư nợ cho vay cuối kỳ
Dư nợ cho vay cuối kỳ là số tiền mà Ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ (chính là số dư cuối kỳ trên tài khoản cho vay của doanh nghiệp tại thời điểm cuối kỳ). Dư nợ cho vay là chỉ tiêu tích luỹ qua các thời kỳ.
Mức tăng trưởng tuyệt đối Dư nợ cho vay Dư nợ cho vay
Dư nợ cho vay kỳ này kỳ này
Dư nợ cho vay Dư nợ cho vay doanh số cho vay doanh số thu nợ
kỳ này = kỳ trước + trong kỳ - trong kỳ
Dư nợ cho vay DNNQD kỳ này tăng so với kỳ trước phản ánh sự mở rộng cho vay đối với DNNQD tại NHTM.
Nếu doanh số cho vay trong kỳ lớn hơn doanh số cho vay kỳ trước và lớn hơn doanh số thu nợ trong kỳ thì Ngân hàng đã mở rộng cho vay cả về dư nợ và doanh số cho vay.
Nếu doanh số cho vay trong kỳ không tăng hoặc giảm nhưng với một lượng ít hơn doanh số thu nợ trong kỳ thì dư nợ cho vay kỳ này vẫn tăng, cũng phản ánh sự mở rộng cho vay về quy mô.
Ngoài việc đánh giá mức tăng trưởng tuyệt đối của dư nợ cho vay người ta còn xem xét cả mức tăng trưởng tương đối dư nợ cho vay:
Mức tăng trưởng tương đối Dư nợ cho vay kỳ này
=
Dư nợ cho vay Dư nợ cho vay kỳ trước
Tỷ số này tăng cũng phản ánh việc mở rộng cho vay tại NHTM.
1.3.2.3. Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNQD
Tỷ trọng dư nợ cho vay Dư nợ cho vay DNNQD
=
DNNQD ∑ Dư nợ cho vay
Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNQD tăng khi dư nợ cho vay DNNQD tăng nhiều hơn dư nợ cho vay các loại hình khác hoặc dư nợ cho vay DNNQD không tăng hoặc giảm ít hơn mức giảm dư nợ cho vay các loại hình khác. Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNQD tăng chứng tỏ Ngân hàng mở rộng cho vay DNNQD.
1.3.2.4. Tốc độ tăng dư nợ cho vay DNNQD
Tốc độ tăng dư nợ cho vay Dư nợ cho vay kỳ này – Dư nợ cho vay kỳ trước
( K ) =
Dư nợ cho vay kỳ trước
Để đánh giá chính xác việc mở rộng cho vay cần kết hợp chỉ tiêu này với một số chỉ tiêu khác:
Trường hợp K > 0 tức dư nợ kỳ này lớn hơn dư nợ kỳ trước thể hiện Ngân hàng mở rộng cho vay về mặt dư nợ. Nhưng nếu tốc độ tăng dư nợ cho vay đối với DNNQD lại nhỏ hơn tốc độ tăng dư nợ cho vay đối với các loại hình khác thì đó không phải là mở rộng cho vay DNNQD.
Trường hợp K ≤ 0 và tỷ trọng dư nợ cho vay DNNQD tăng thì mới kết luận được là Ngân hàng vẫn mở rộng cho vay DNNQD mặc dù đang thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng.
1.3.2.5. Số lượng DNNQD vay vốn tại NHTM
Số lượng DNNQD vay vốn tại Ngân hàng là chỉ tiêu đánh giá mức độ mở rộng cho vay theo bề rộng. Đây là chỉ tiêu đơn giản nhất, dễ tính, dễ hiểu để đánh giá sự mở rộng cho vay đối với DNNQD. Số lượng các DNNQD được Ngân hàng tài trợ càng tăng càng chứng tỏ sự mở rộng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
Ngoài các chỉ tiêu trên còn sử dụng một số chỉ tỉêu khác như số lượng món cho vay, lĩnh vực cho vay, phạm vi cho vay, phương thức cho vay… Để đánh giá đúng mức độ cho vay đối với DNNQD tại NHTM cần kết hợp tổng hợp các chỉ tiêu trên.
Mở rộng cho vay cũng cần quan tâm tới những yếu tố ảnh hưởng để từ đó tìm ra các biện pháp tác động nhằm thúc đẩy mở rộng cho vay DNNQD có hiệu quả. Các nhân tố tác động tới hoạt động mở rộng cho vay DNNQD gồm các nhân tố chủ quan ( thuộc về Ngân hàng ) và các nhân tố khách quan sau.
1.3.3. Các nhân tố tác động tới việc mở rộng cho vay DNNQD
1.3.3.1. Các nhân tố chủ quan
Chính sách của Ngân hàng gồm có chính sách cho vay, chính sách marketing, chính sách khách hàng.
Chính sách cho vay: là các văn bản hướng dẫn hoạt động cho vay của Ngân hàng, chỉ rõ đối tượng cho vay, thứ tự ưu tiên, thủ tục cần thiết, phương thức cho vay, phương tiện giám sát hoạt động cho vay.
Chính sách lãi suất: lãi suất hấp dẫn sẽ giảm bớt gánh nặng chi phí đầu vào cho doanh nghiệp do đó thu hút nhiều DNNQD đến vay vốn Ngân hàng. Khi cho vay với lãi suất thấp Ngân hàng còn thực hiện cạnh tranh thông qua lãi suất nhằm giữ chân khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới. Như vậy Ngân hàng sẽ thực hiện được mục tiêu mở rộng cho vay của mình. Tuy nhiên, lãi suất giảm có giới hạn, nó không phải là công cụ cạnh tranh hữu hiệu.
Phương thức cho vay: Phương thức cho vay càng đa dạng càng phù hợp với nhu cầu và khả năng hoàn trả của các doanh nghiệp. Đây cũng là một nhân tố để thu hút những khách hàng mới.
Thủ tục vay vốn: là những giấy tờ pháp lí cần thiết để doanh nghiệp có thể nhận được nguồn tài trợ từ Ngân hàng. Thủ tục càng đơn giản, ít rườm rà phức tạp thì khách hàng dễ đáp ứng được, lôi kéo nhiều khách hàng đến với Ngân hàng hơn.
Quy trình cho vay: là tổng hợp các bước thực hiện cho vay một đối tượng khách hàng. Việc xây dựng quy trình cho vay hợp lí góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, giảm thiểu rủi ro và nâng cao lợi nhuận.
Vậy cần có một chính sách cho vay đúng đắn để thu hút khách hàng vay vốn mà vẫn đảm bảo mang lại thu nhập cho Ngân hàng.
Chính sách marketing: Ngân hàng thực hiện quảng bá hình ảnh, sản phẩm của mình về những ưu thế vượt trội nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu về vốn cũng như các dịch vụ khác của Ngân hàng đối với DNNQD bằng các chính sách, biện pháp như: Marketing trực tiếp, quảng cáo, thông qua phương tiện thông tin đại chúng, khuyến mãi, PR…Trong đó quan trọng nhất là chất lượng mỗi giao dịch với khách hàng. Hiệu quả của chính sách Marketing có ảnh hưởng rất lớn tới sự an toàn, lợi nhuận, sức mạnh trong cạnh tranh của mỗi Ngân hàng.
Chính sách khách hàng: là một phần trong tổng thể Marketing Ngân hàng để tiếp cận khách hàng một cách có hiệu quả hơn. Ngân hàng thực hiện một số ưu đãi đối với khách hàng truyền thống có uy tín cao đồng thời mở rộng quan hệ khách hàng. Mở rộng quan hệ khách hàng có nghĩa là tìm cách thu hút khách hàng mới, giữ và mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng cũ, nâng cao uy tín của Ngân hàng trong lòng khách hàng. Ngân hàng cũng cần phải quan tâm tới ý kiến đóng góp, phản hồi của khách hàng. Hiệu quả của chính sách khách hàng là tăng số lượng khách hàng vay với tăng số lượng và chất lượng khoản vay.
Quy mô và khả năng huy động vốn của Ngân hàng
Quy mô vốn của NHTM ảnh hưởng lớn tới khả năng mở rộng cho vay đối với DNNQD. Ngân hàng có quy mô vốn lớn thì việc mở rộng cho vay đối với DNNQD sẽ dễ dàng. Ngược lại, quy mô vốn nhỏ thì Ngân hàng sẽ khó đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của DNNQD.
Quy mô vốn của NHTM phụ thuộc vào vốn tự có và khả năng huy động vốn của Ngân hàng. Vốn tự có của NHTM có vai trò rất quan trọng thể hiện khả năng tài chính, tiềm lực của Ngân hàng, là tấm đệm phòng chống rủi ro. Vốn tự có lớn, Ngân hàng dễ dàng thực hiện mục tiêu mở rộng cho vay. Tuy nhiên vốn tự có chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, vì vậy khả năng huy động vốn quyết định đến quy mô vốn của Ngân hàng lớn hay nhỏ. Kết quả huy động vốn của Ngân hàng cho thấy Ngân hàng có thể sẵn sàng đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp về giá trị và thời hạn khoản vay đến mức nào. Nếu khả năng huy động của Ngân hàng tốt thì quy mô vốn lưu động của Ngân hàng lớn, Ngân hàng sẽ mở rộng tín dụng cho các DNNQD vay nhiều hơn. Còn nếu khả năng huy động vốn hạn chế thì quy mô vốn huy động hạn hẹp, Ngân hàng buộc phải thắt chặt cho vay. Ngoài ra, còn phải xét đến khả năng chuyển đổi kỳ hạn của nguồn vốn và khả năng thanh khoản của Ngân hàng. Ngân hàng luôn phải tìm cách nâng cao khả năng huy động vốn để đủ nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay của DNNQD, thực hiện mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp.
Chất lượng nguồn nhân lực của NHTM
Con người là một yếu tố rất quan trọng, trình độ nghiệp vụ và thái độ ứng xử của nhân viên Ngân hàng là yếu tố tạo nên sự khác biệt, sức mạnh cạnh tranh giữa các Ngân hàng. Nhân viên Ngân hàng là đại diện cho hình ảnh của Ngân hàng dưới con mắt của khách hàng. Chất lượng dịch vụ Ngân hàng cung cấp thể hiện qua hiệu quả của mỗi giao dịch giữa nhân viên Ngân hàng với khách hàng. Thái độ phục vụ của nhân viên Ngân hàng phải tạo dựng được ấn tượng đối với khách hàng. Một đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn giỏi, phục vụ khách hàng chu đáo, nhiệt tình sẽ làm hài lòng khách hàng tạo sự thoải mái, tin cậy, lôi kéo khách hàng. Do đó, để thu hút ngày càng nhiều DNNQD đến với Ngân hàng thì vấn để chất lượng nguồn nhân lực cần phải được chú trọng và nâng cao.
Mạng lưới hoạt động của Ngân hàng
NHTM có mạng lưới hoạt động rộng khắp tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNQD vay vốn thì việc mở rộng cho vay đối tượng này đạt hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp nhỏ, vị trí không thuận lợi khó đến giao dịch với Ngân hàng. Nếu Ngân hàng có nhiều Chi nhánh, quầy giao dịch sẽ tiếp cận được nhiều đối tượng khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay DNNQD ở nhiều phạm vi khác nhau.
Công nghệ thông tin của NHTM
Công nghệ Ngân hàng phải phù hợp với trình độ của nền kinh tế, phải đồng bộ trong toàn hệ thống. Phát triển công nghệ thông tin tốc độ cao sẽ tạo ra những kênh huy động mới, tiếp cận những đối tượng khách hàng mới, thuận tiện trong việc trao đổi, giao dịch giữa Ngân hàng với khách hàng và giữa các Ngân hàng với nhau. Phân tích, xử lý các nghiệp vụ phát sinh theo quy trình công nghệ của Ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn cho khách hàng và đảm bảo quá trình hoạt động của các Ngân hàng có liên quan. Thông tin càng cập nhật, đầy đủ, chính xác thì khả năng phòng ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng được nâng cao tạo bước đệm để mở rộng cho vay các doanh nghiệp.
Các nhân tố chủ quan khác
Bên cạnh các nhân tố trên, các nhân tố chủ quan khác như: địa điểm đặt trụ sở, Chi nhánh của Ngân hàng; thị trường nơi Ngân hàng hoạt động; uy tín của Ngân hàng; chất lượng sản phẩm của Ngân hàng... đều ảnh hưởng tới khả năng thu hút khách hàng, từ đó ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay đối với các DNNQD của Ngân hàng.
1.3.3.2. Các nhân tố khách quan
Từ phía DNNQD
Ta xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng vay vốn của DNNQD tại Ngân hàng
Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp: để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh các DNNQD đều cần đến nguồn tín dụng Ngân hàng. Nhu cầu vay vốn của khách hàng sẽ tạo ra cầu về vốn vay. Cầu về vốn vay lớn sẽ đòi hỏi tăng cung về vốn vay để đáp ứng đủ cầu. khi đó Ngân hàng cần đưa ra chính sách mở rộng cho vay đối với đối tượng này.
Khả năng tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Do khả năng sinh lời và rủi ro tiềm năng của khách hàng sẽ quyết định tính an toàn và sinh lợi của hoạt động cho vay. Nên nếu doanh nghiệp có tiềm lực tài chính cao, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao Ngân hàng sẽ cảm thấy tin tưởng dễ dàng cho doanh nghiệp vay vốn. Còn nếu tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 năm liên tiếp gần nhất không thu được lợi nhuận thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ nếu Ngân hàng cho vay. Vậy khả năng tài chính và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định đến việc Ngân hàng cho vay hay không và ảnh hưởng đến quá trình mở rộng cho vay đối với DNNQD.
Uy tín của doanh nghiệp: được xác định dựa vào vị thế hay chỗ đứng mà doanh nghiệp đã tạo dựng được trên thương trường và mối quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Khi cho vay uy tín là quan trọng nhưng không thể đo lường được, nó được ngầm định là một loại “TSĐB” cho khoản vay. Doanh nghiệp nào có uy tín lớn thì dễ dàng được vay hơn, giá trị khoản vay cao hơn so với những doanh nghiệp uy tín thấp, mới thành lập, chưa có tên tuổi; những doanh nghiệp này khi vay thường phải có TSĐB.
TSĐB: những bắt buộc về TSĐB đối với khoản tiền vay là một trong những công cụ cần thiết để hạn chế rủi ro, làm giảm bớt hậu quả của lựa chọn đối nghịch do nó có thể giảm bớt tổn thất của người cho vay trong trường hợp người vay không trả được nợ. Nếu người vay không đủ khả năng hoàn trả các khoản tiền vay, NHTM có thể phát mại TSĐB để bù đắp tổn thất do món vay gây ra. TSĐB phải thoả mãn 2 điều kiện là có giá trị ổn định trên thị trường; dễ thanh khoản, dễ bán đi. Tuy nhiên, tại các Ngân hàng hiện nay các DNNQD chỉ được vay tối đa 70% giá trị TSĐB - điều này quá khắt khe, nhiều khi trở thành trở ngại lớn để DNNQD tiếp cận với nguồn vốn Ngân hàng vì đối tượng này đang rất cần vốn để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh.
Các nhân tố vĩ mô
- Môi trường kinh tế - chính trị: Ngân hàng là lĩnh vực rất nhạy cảm với những biến động của thị trường. Môi trường kinh tế - chính trị thay đổi tác động tới hoạt động của Ngân hàng. Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, chính trị ổn định giúp các DNNQD tiêu thụ nhiều hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy mở rộng sản xuất, tăng vốn, lao động làm cho hoạt động cho vay của Ngân hàng sôi động hơn. Còn khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hối đoái thay đổi theo chiều hướng bất lợi thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh tiển tệ của NHTM.
- Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Các hoạt động của NHTM đều phải phù hợp với chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách này. Khi Nhà nước có chính sách ưu tiên, khuyến khích hỗ trợ phát triển DNNQD thì tạo điều kiện để Ngân hàng mở rộng cho vay đối với DNNQD.
- Môi trường pháp lý: Ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của cả doanh nghiệp và Ngân hàng. Môi trường pháp lý lành mạnh, công bằng sẽ đảm bảo hoạt động của các doanh nghiệp và hệ thống Ngân hàng diễn ra suôn sẻ, có hiệu quả. Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ, thống nhất các văn bản pháp luật ban hành. Môi trường pháp lý có thể khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của khu vực DNNQD, từ đó làm tăng hay giảm khả năng rộng cho vay của NHTM.
- Môi trường xã hội: Các yếu tố xã hội như nguồn nhân lực, trình độ quản lý, yếu tố đạo đức, nhu cầu của khách hàng đều ảnh hưởng đến quá trình tìm hiểu, phân tích đánh giá và xủ lý thông tin khách hàng để Ngân hàng có thể đưa ra kết luận cho vay đúng đắn, đề phòng và hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
- Đối thủ cạnh tranh: Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì sự cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt. Khi quyết định mở rộng cho vay DNNQD Ngân hàng cần xem xét đến yếu tố đối thủ cạnh tranh về sản phẩm dịch vụ, chiến lược kinh doanh của họ để từ đó đưa ra chính sách kinh doanh hợp lý. Ngân hàng cần tạo sự khác biệt về sản phẩm dịch vụ của mình, nâng cao chất lượng từng giao dịch cụ thể với khách hàng.
- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các yếu tố khí hậu, năng lượng, nguyên nhiên liệu trong tự nhiên…tác động lớn tới các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp…Các điều kiện tự nhiên thay đổi sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của các thành viên, của các khách hàng vay vốn. Việc nghiên cứu môi trường tự nhiên giúp các Ngân hàng dự báo những rủi ro nhất định do điều kiện tự nhiên gây ra, đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời.
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội
2.1. Giới thiệu chung về NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Đông Hà Nội.
Chi nhánh ngân hàng Nông nghịêp và phát triển nông thôn Đông Hà Nội là chi nhánh cấp 1 của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Chi nhánh mới được thành lập đi vào hoạt động theo quyết định 170/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 02/07/2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thônViệt Nam. Là ngân hàng có con dấu riêng, trực tiếp giao dịch kinh doanh, hạch toán nội bộ, hoạt động độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh doanh tiền tệ và quản lý ngân hàng.
Chi nhánh đóng trụ sở tại 23B-Quang Trung- Hoàn Kiếm – Hà Nội. Đây là vị trí trung tâm của thành phố, rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, dễ dàng giao dịch và tiếp cận với khách hàng. Tuy nhiên, do vị trí thuận lợi nên tập trung khá nhiều chi nhánh của các ngân hàng khác như: ngân hàng ngoại thương, ngân hàng công thương,ngân hàng đầu tư phát triển, ngân hàng Nga- Việt, ngân hàng ngoài quốc doanh,…cạnh tranh giữa các ngân hàng càng quyết liệt.
Với nhiều khó khăn về nhân lực và cơ sở vật chất, sau một thời gian cùng sự hỗ trợ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các tổ chức tài chính quốc tế khác và chiến lược kinh doanh hiệu quả chi nhánh đã nhanh chóng hoạt động ổn định, khẳng định được thương hiệu, vị thế của mình. Qua hơn 4 năm hoạt động, Chi nhánh Đông Hà Nội đã mở rộng mạng lưới chi nhánh nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu khách hàng. Hiện nay, Chi nhánh bao gồm 1 Hội sở, 3 phòng giao dịch: phòng giao dịch Nguyễn Công Trứ và phòng giao dịch Kim Mã, phòng giao dịch Lê Ngọc Hân, 2 chi nhánh cấp 2 là: Chi nhánh Bà Triệu và Chi nhánh Lý thường Kiệt. Bên cạnh đó, chi nhánh đã tiếp cận, có mối quan hệ tín dụng tốt với các khách hàng lớn như: công ty xuất nhập khẩu tổng hợp, công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm, công ty Thiết bị phụ tùng Hà Nội, công ty TNHH Long Giang, công ty TNHH Liên Thành, công ty Kim khí Hà Nội, công ty IC Việt Nam…Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Quỹ hỗ trợ phát triển, Bảo hiểm Prudential, công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu điện.
Chi nhánh có cơ sở vật chất khang trang, điều kiện trang thiết bị mới, tương đối hiện đại,quy mô giao dịch lớn, uy tín tạo tâm lý tin tưởng, an tâm cho khách hàng.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững cả chiều sâu và chiều rộng Chi nhánh luôn chú trọng đến công tác đào tạo và mở rộng nguồn nhân lực.Tổng số cán bộ của Chi nhánh 113 người, đa số là các cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình với công việc. Tuy nhiên, các cán bộ này được điều chuyển từ nhiều đơn vị khác nhau và tuyển dụng mới nên trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp không đồng đều, còn nhiều bất cập.
Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh Đông Hà Nội luôn cố gắng tạo môi trường làm việc văn minh, chuyên nghiệp, thân thiện để các thành viên phát huy được khả năng của mình, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng.
Từ khi thành lập và hoạt động Chi nhánh luôn tuân thủ, thực hiện tốt các quy chế, chủ trương, chính sách của NHNN, các văn bản Nhà nước khác có liên quan. Trong công việc đảm bảo thực hiện đúng trách nhiệm,có kỷ cương, trung thực, nội bộ đoàn kết, giao tiếp có văn hoá, lịch sự, nhiệt tình- tín nhiệm- hiệu quả trong kinh doanh.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, cùng với sự nỗ lực của toàn thể chi nhánh tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong những năm qua đã đạt những kết qủa quan trọng.
2.1.2.Chức năng nhiệm v ụ của Chi nhánh Đông Hà Nội.
Để thực hiện tốt mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn và phát triển các dịch vụ ngân hàng chi nhánh Đông Hà Nội tổ chức bộ máy quả lý phù hợp. Căn cứ vào quyết định 454/QĐ/HĐQT- TCCB ngày 24/12/2004 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh có cơ cấu tổ chức theo sơ đồ sau:
Giám đốc
Các Phó Giám đốc
Phòng KTKT nội bộ
Phòng Kế toán Ngân quỹ
Phòng Hành chính Nhân sự
Phòng nguồn vốn
Phòng Thanh toán quốc tế
Phòng Tín dụng
Phòng Thẩm định
Chi nhánh cấp 2
Phòng giao dịch
Phòng giao dịch
Phòng giao dịch
Phòng Vi tính
: Mối quan hệ chỉ đạo trực tiếp.
Giữa các phòng, giữa chi nhánh cấp 2 và phòng giao dịch có mối quan hệ phối hợp, liên kết.
Chi nhánh Đông Hà Nội là một NHTM đa năng thực hiện các chức năng chủ yếu:
Huy động vốn: khai thác và nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn… bằng đồ._.háp lý hành chính gây trở ngại cho sự phát triển Ngân hàng nói chung và hoạt động mở rộng cho vay đối với DNNQD nói riêng.
Năm là, hạn chế về phía doanh nghiệp. Với những cam kết về cắt giảm thuế quan, xoá dẫn chính sách bảo hộ của Nhà nước sẽ làm tăng mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam; trong khi hàng hoá dịch vụ Việt Nam chất lượng còn thấp, giá thành cao, chưa đáp ứng được sự đa dạng về thị hiếu của người tiêu dung. Một số doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về tài chính và nguy cơ gia tăng nợ quá hạn cho Ngân hàng.
Như vậy Ngân hàng đang đứng trước những cơ hội lớn cho sự phát triển nhưng cũng phải đối đầu với những khó khăn thách thức Ngân hàng cần có một số biện pháp như: Sắp xếp cơ cấu lại hoạt động Ngân hàng, nâng cao sức cạnh tranh, xây dựng Ngân hàng hiện đại, đổi mới công nghệ, đảm bảo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Ngân hàng, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, từng bước khẳng định thương hiệu và vị trí của mình, chú trọng phát triển những dịch vụ đặc thù có tính cạnh tranh cao…
3.2. Định hướng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
3.2.1. Định hướng phát triển chung của Chi nhánh giai đoạn 2007- 2010
Theo mục tiêu tổng quát của NHNo&PTNT Việt Nam đặt ra trong giai đoạn 2007- 2010 là: tiếp tục giữ vị trí NHTM hàng đầu Việt Nam, phấn đấu đến cuối năm 2010 trở thành tập đoàn tài chính- ngân hàng tiên tiến; chuẩn bị mọi điều kiện để thực hiện cổ phần hoá vào năm 2009. Đảm bảo đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn, sinh lời, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp- nông thôn. Tập trung đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại. Nâng cao năng lực tài chính, phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hoá doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó Chi nhánh Đông Hà Nội đã đề ra những định hướng hoạt động như sau:
Tăng trưởng nguồn vốn trong 4 năm tới trung bình từ 15- 25 % / năm. Huy động vốn hướng tới đối tượng khách hàng là dân cư, các tổ chức kinh tế lớn để đáp ứng hoạt động tín dụng, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng với dư nợ tín dụng trung bình tăng từ 20- 30 % / năm.
Tiếp tục phát triển mạnh hoạt động tín dụng, coi tín dụng là sự nghiệp tồn tại của Chi nhánh. Không chú trọng phát triển mạnh tín dụng về mặt số lượng mà lấy chất lượng tín dụng làm tiêu chí hàng đầu. Tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng là tỉ lệ nợ quá hạn, mục tiêu của Chi nhánh đạt tỉ lệ nợ xấu nhỏ hơn hoặc bằng 5 % trên tổng dư nợ.
Chuyển mạnh hướng đầu tư, ưu tiên vốn cho các dự án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ sản xuất có hiệu quả. Mở rộng cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, coi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là đối tượng khách hàng tiềm năng.
Tạo môi trường làm việc văn minh, lịch sự; chú ý tới tác phong giao dịch của nhân viên ngân hàng: “ khách hàng của ngân hàng là mọi thành phần kinh tế, nhưng họ đã cứu ngân hàng và ngân hàng cũng cứu họ, cả hai cùng đi trên lộ trình phát triển”. Chất lượng của dịch vụ ngân hàng thể hiện qua từng giao dịch với khách hàng.
3.2.2. Mục tiêu hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Đông Hà Nội trong năm 2008.
Mục tiêu kinh doanh của Chi nhánh như sau:
Trong năm 2008, tiếp tục giữ vững tăng trưởng nguồn vốn huy động từ 18- 20% so với năm 2007; trong đó huy động từ dân cư đạt 25% trên tổng nguồn vốn.
Mở rộng dư nợ: tăng trưởng 16- 18% ( không tính dư nợ UTĐT ). Tỷ lệ vay trung dài hạn 45- 50%. Phấn đấu tỷ lệ nợ xấu dưới 3%.
Tiếp tục phát triển các dịch vụ khác, tỷ lệ thu nhập ngoài tín dụng trên 10%/ tổng thu nhập.
Quỹ thu nhập tăng 10% so với năm 2007.
3.2.3. Định hướng phát triển đối với hoạt động cho vay DNNQD tại Chi nhánh.
Mở rộng cho vay DNNQD đang trở thành hướng đi đúng và là chiến lược phát triển của Chi nhánh với những định hướng sau:
Tiếp tục mở rộng cho vay DNNQD, coi đây là hoạt động xương sống trong nghiệp vụ cho vay của Chi nhánh. Duy trì cho vay các DNNQD làm ăn hiệu quả, là khách hàng truyền thống, tăng quy mô đồng thời phải đảm bảo chất lượng khoản vay. Mở rộng trong đầu tư cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu.
Nâng cao chất lượng thẩm định: phân tích, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay của doanh nghiệp. Phân tích đánh giá phân loại khách hàng hàng năm.
Giải quyết, đốc rút thu hồi và xử lý các khoản nợ quá hạn, giảm tỷ lệ nợ xấu.
Mở rộng mạng lưới hoạt động ở những nơi có điều kiện phát triển kinh doanh. Tạo cơ hội tiếp xúc với khách hàng DNNQD truyền thống như mở cuộc nghị khách hàng. Chủ động tìm kiếm các khách hàng mới, lựa chọn những DNNQD có hoạt động sản xuất kinh doanh tốt để mở rộng cho vay.
3.3. Giải pháp mở rộng cho vay DNNQD của Chi nhánh
3.3.1. Mở rộng hoạt động huy động vốn để tăng khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn, giảm bất cân đối trong cơ cấu cho vay.
Để đảm bảo hoạt động của Chi nhánh phát triển bền vững đặt ra một yêu cầu là phải có nguồn vốn ổn định, an toàn, phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn. Có được nguồn vốn tốt Chi nhánh mới dễ dàng mở rộng cho vay. Chi nhánh cần đa dạng các phương thức huy động vốn, đặc biệt là vốn trung dài hạn để đáp ứng nhu cầu về thời hạn cho vay của các DNNQD. Nguồn vốn trung và dài hạn khan hiếm, chi phí huy động cao; vậy để huy động vốn có hiệu quả Chi nhánh có thể áp dụng một số biện pháp sau:
Tăng lãi suất: tăng lãi suất tiền gửi là biện pháp truyền thống, sử dụng phổ biến, khi tăng lãi suất tiền gửi Chi nhánh sẽ thu hút được các tầng lớp dân cư đến gửi tiền, tăng nguồn vốn cho Ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất tăng có giới hạn, Chi nhánh cần tính toán mức lãi suất thích hợp để cho vay có hiệu quả. Vì lãi suất huy động tăng thì lãi suất cho vay cũng tăng lên làm giảm cầu về tín dụng. Ngoài ra, khi tăng lãi suất Chi nhánh còn chịu sự quản lý của NHNN, sự cho phép của NHNo&PTNT Trung ương. Việc tăng lãi suất huy động chỉ là biện pháp tạm thời, không toàn diện, không phải là công cụ hữu hiệu, Chi nhánh cần phải tính toán tới nhiều yếu tố.
Tăng cường hoạt động Marketing: Chi nhánh có thể tăng cường quảng bá hình ảnh, sản phẩm dịch vụ của mình qua phưong tiện thông tin đại chúng, thông qua các chương trình liên kết, qua các chương trình tài trợ, qua các khách hàng…để khách hàng biết đến và sử dụng dịch vụ của Chi nhánh. Sử dụng nhiều hình thức khuyến mại như rút thăm trúng thưởng, gửi tiết kiệm trúng vàng, tặng quà khuyến mãi…để thu hút người đến gửi tiền. Đồng thời cũng cần quan tâm tới hoạt động hậu khuyến mại, lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng.
Đa dạng nguồn, chuyển dịch cơ cấu nguồn nhằm thu hút tối đa nguồn vốn trong nền kinh tế, tập trung vào những nguồn mà Chi nhánh có lợi thế, phù hợp với cơ cấu sử dụng vốn. Chi nhánh cần thu hút thêm nhiều nguồn mới như: tiền gửi thanh toán lương cho lao động, thanh toán các khoản chi phí về điện nước, điện thoại, phát hành các kỳ phiếu…Mặt khác, có thể kết hợp khéo léo các dịch vụ Ngân hàng với dịch vụ ngoài Ngân hàng, theo hướng phù hợp về thời gian, thuận tiện, các dịch vụ tiện ích đi kèm như Homebanking, Phonebanking, Internetbanking,…sẽ nâng cao hiệu quả thu hút vốn. Chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn tăng thu hút nguồn trung và dài hạn nhằm thúc đẩy cho vay DNNQD.
3.3.2. Nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên Ngân hàng.
Chi nhánh cần phải quan tâm, coi trọng công tác cán bộ công nhân viên gồm công tác tuyển dụng, đào tạo, thuyên chuyển, chế độ thưởng phạt công bằng…để nâng cao hiệu quả trong hoạt động cho vay.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, đào tạo cán bộ để đảm bảo tốt hoạt động của Chi nhánh, phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Làm tốt công tác giáo dục phẩm chất cho cán bộ tín dụng, bổ sung những kiến thức liên quan về pháp luật, kiến thức Marketing, cập nhật thông tin mới…để nâng cao ý thức làm việc, tinh thần trách nhiệm, đoàn kết trong nội bộ cán bộ Chi nhánh. Quá trình đào tạo cần được tiến hành thường xuyên qua các buổi tập huấn, hội thảo, chuyên đề, qua các đợt kiểm tra, tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ…Chi nhánh cũng cần khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ nhân viên học tập nghiên cứu nhằm nâng cao kiến thức nghiệp vụ và kinh nghiệm.
Chi nhánh cần có chế độ khen thưởng, kỷ luật công khai, công bằng để khuyến khích cán bộ nhân viên gắn bó với Chi nhánh, nâng cao tinh thần trách nhiệm; đây là động lực khích lệ lớn để nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, nâng cao chất lượng tín dụng. Chi nhánh cần sắp xếp bố trí cán bộ phù hợp với trình độ chuyên môn, thực hiện tốt công tác thuyên chuyển, đề bạt cán bộ giỏi nhằm nâng cao khả năng và sức sáng tạo của cán bộ. Bên cạnh đó cần mở rộng tuyển dụng những cán bộ mới có trình độ để giải quyết tình trạng thiếu nhân lực trong khi áp lực và khối lượng công việc lớn như hiện nay.
3.3.3. Đổi mới và nâng cao công nghệ Ngân hàng.
Mặc dù cho đến nay Chi nhánh được đầu tư công nghệ Ngân hàng khá hiện đại, nhưng so với yêu cầu hiện đại hoá Ngân hàng và với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin thì chưa đáp ứng được yêu cầu như công việc thống kê, quản lý hồ sơ khách hàng, quản lý dữ liệu tập trung, hoạt động của mạng còn chưa ổn định, có nhiều lỗi về sự cố mạng, nghẽn mạng và ảnh hưởng đến giao dịch với khách hàng. Do vậy, Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa trong việc nâng cao công nghệ Ngân hàng, cải tạo và nâng cao các phần mềm hoạt động để hỗ trợ tốt hơn cho công việc. Sử dụng máy tính rộng rãi trong toàn Chi nhánh, trong hoạt động kinh doanh, trong các nghiệp vụ hàng ngày, cập nhật thông tin. Vấn đề an ninh mạng của Chi nhánh còn yếu cần có biện pháp đảm bảo an toàn thông tin cho khách hàng và Ngân hàng.
3.3.4. Điều chỉnh chính sách tín dụng phù hợp
3.3.4.1. Đẩy mạnh hoạt động Marketing
Hoạt động Marketing đối với cho vay DNNQD khá tốt trong việc thu hút kinh doanh, đáp ứng nhu cầu khách hàng. Đẩy mạnh hoạt động Marketing tại Chi nhánh với mục đích giữ chân và thu hút khách hàng, tiến tới mở rộng từng bước vững chắc hoạt động cho vay DNNQD. Việc nghiên cứu Marketing giúp Chi nhánh có định hướng rõ ràng trong việc phát triển cho vay DNNQD, từ đó có những kế hoạch, biện pháp thực hiện hiệu quả nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng.
Thứ nhất, Chi nhánh cần nghiên cứu thị trường, phân đoạn thị trường và lập kế hoạch Marketing. Thực tế Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội chưa thực hiện nghiên cứu và phân đoạn thị trường, chỉ mới dừng lại ở phát triển chiến lược khách hàng dựa vào sự phân loại khách hàng. Nghiên cứu thị trường là một bước quan trọng để Chi nhánh có thể đánh giá được độ lớn và tiềm năng của thị trường cho vay DNNQD hiện nay, thị phần cho vay DNNQD của Chi nhánh, chất lượng tín dụng cung cấp, nhu cầu của DNNQD, xác định những vướng mắc trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp… Trên cơ sở nghiên cứu, phân đoạn thị trường sẽ tiến hành lập kế hoạch Marketing nhằm thúc đẩy cho vay DNNQD.
Thứ hai, thực hiện chính sách Marketing đối với cho vay DNNQD nhằm thu hút khách hàng mới, giữ chân và mở rộng cho vay khách hàng cũ, gồm có: chính sách sản phẩm, chính sách lãi suất, chính sách truyền thông và chính sách phân phối.
Về chính sách sản phẩm: Tín dụng là loại sản phẩm chủ yếu mang giá trị cốt lõi, đơn điệu, khó cải tiến và chuyên biệt hoá. Chi nhánh cần có chính sách sản phẩm tốt, hiệu quả, phù hợp theo những yêu cầu sau: phù hợp với đối tượng vay vốn, gia tăng sự khác biệt, phát triển sản phẩm mới. Sản phẩm của Chi nhánh phải phù hợp với từng đối tượng vay vốn về lượng vốn vay, thời hạn giải ngân, thời hạn vay vốn, kỳ hạn nợ, phương thức cho vay bằng cách cung cấp tín dụng chuyên biệt hoá theo từng món vay với từng khách hàng và từng yêu cầu vay vốn. Gia tăng sự khác biệt về sản phẩm, tăng sức mạnh cạnh tranh như cung cấp thông tin tư vấn cho các DNNQD về phương thức vay vốn, tư vấn lập và điều chỉnh dự án, tư vấn thông tin về thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường đầu ra; có thể giới thiệu đối tác cho khách hàng, sử dụng những dịch vụ đi kèm như Chi nhánh thực hiện công tác quản lý ngân quỹ hộ doanh nghiệp, cung cấp tiện ích Ngân hàng tự động, Ngân hàng trực tuyến… Hơn nữa, Chi nhánh cần có sự nhanh nhạy trong việc nắm bắt nhu cầu khách hàng, xu hướng biến động của thị trường tín dụng DNNQD, từ đó cải tiến sản phẩm đang cung cấp, thiết kế sản phẩm mới.
Về chính sách lãi suất: lãi suất là giá cả của khoản vay, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Lãi suất cho vay phải lớn hơn lãi suất huy động và thấp hơn tỷ suất lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động sử dụng vốn vay. Chi nhánh cần có chính sách lãi suất hợp lí để thúc đẩy cho vay DNNQD. Cần thiết kế những mức lãi suất khác nhau, linh hoạt cho từng đối tượng vay vốn, từng món vay, từng thời kỳ đảm bảo bù đắp được chi phí, thu được hiệu quả, hấp dẫn DNNQD, đảm bảo tính cạnh tranh cho Chi nhánh. Chi nhánh cũng cần thiết lập phương thức thu nợ và lãi linh hoạt, theo phương án thuận lợi nhất cho doanh nghiệp vay vốn giúp các doanh nghiệp có được sự chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh và nâng cao khả năng hoàn trả, tránh được tình trạng nợ xấu không mong muốn. Chẳng hạn như điều chỉnh lãi suất theo từng thời kỳ, thu nợ qua chi nhánh con, thu nợ tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp…
Về chính sách truyền thông: Truyền thông Marketing về tín dụng thường ít được Ngân hàng chú ý. Nhưng truyền thông Marketing đã và đang khẳng định được vai trò của mình trong việc thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ Ngân hàng, giúp Ngân hàng có được sự chủ động, khai thác được lợi thế của mình. Mở rộng hoạt động Marketing là Chi nhánh phải chủ động tiếp xúc với DNNQD, tìm kiếm thông tin về họ, thu hút những khách hàng làm ăn hiệu quả đến với Chi nhánh. Chi nhánh cần liên tục thực hiện truyền thông Marketing thông qua các cuộc hội thảo, hội chợ, hội nghị khách hàng, chương trình tài trợ, tờ rơi, băng rôn quảng cáo, Internet… Việc thực hiện tiếp xúc khách hàng còn được tiến hành qua mỗi lần doanh nghiệp đến giao dịch. Mỗi cán bộ nhân viên của Chi nhánh phải là những nhà Marketing hiệu quả cho Chi nhánh thông qua tư vấn, hướng dẫn khách hàng, giới thiệu về Chi nhánh, những chính sách ưu đãi của Chi nhánh …Bên cạnh đó Chi nhánh cũng cần thu thập ý kiến của khách hàng bằng thư, qua mạng Internet…
Về chính sách phân phối: hiện nay tại Chi nhánh cho vay DNNQD vẫn chủ yếu thực hiện phân phối qua kênh truyền thống. Vì vậy Chi nhánh cần tiếp tục mở rộng cả chiều rộng và chiều sâu các kênh phân phối khác như: kênh đối tác độc lập tức là phân phối qua các đơn vị tiêu thụ, đơn vị cung cấp hàng hoá, máy móc thiết bị, các đại lý. Phát triển hệ thống kênh phân phối Ngân hàng hiện đại như Chi nhánh Ngân hàng lưu động, Ngân hàng điện tử, máy rút tiền tự động, Telephone Banking, Internet banking…Kênh phân phối hiện đại không chỉ khắc phục được những khó khăn về mặt thời gian, không gian giao dịch giữa khách hàng với Ngân hàng mà còn giúp Ngân hàng tiết kiệm được chi phí giao dịch và tăng thu nhập cho Ngân hàng, tạo thuận tiện cho DNNQD.
3.3.4.2. Cơ chế cho vay linh hoạt
Cần đơn giản các thủ tục cho vay, quy trình cho vay, có biện pháp hỗ trợ DNNQD trong quá trình lập hồ sơ, dự án để tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNQD hoàn tất hồ sơ vay vốn, nhanh chóng tiếp cận được nguồn vốn của Chi nhánh. Rà soát lại các văn bản liên quan đến quy chế cho vay các DNNQD, chỉnh sửa kịp thời những quy định không phù hợp với thực tiễn, loại bỏ những nội dung không cần thiết. Các quy định cần rõ ràng hơn nhằm hạn chế những khe hở khi cho vay DNNQD. Chi nhánh cũng cần cụ thể hoá các thể lệ và chế độ mà NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam ban hành thành một quy trình cho vay riêng đối với DNNQD phù hợp với đặc điểm của Chi nhánh.
Mở rộng cơ chế đảm bảo tiền vay: không chỉ thực hiện đảm bảo khoản vay bằng đất đai mà Chi nhánh còn chấp nhận những hình thức bảo đảm khác như: bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, hàng hoá, phương tiện vận chuyển, giấy tờ có giá…Với mỗi phương thức đảm bảo tiền vay, Chi nhánh cần tiến hành phân tích định giá TSĐB hợp lý, chính xác để giúp các DNNQD vay được lượng vốn cần thiết theo nhu cầu mà vẫn đảm bảo khả năng xảy ra rủi ro cho các khoản vay là nhỏ nhất.
Đối với các báo cáo tài chính của DNNQD chưa được kiểm toán cần thẩm định kỹ lưỡng, thu thập thêm thông tin về doanh nghiệp qua các nguồn tin khác (người lao động của doanh nghiệp, từ đối thủ cạnh tranh, các chủ nợ doanh nghiệp, CIC…), thẩm định tại cơ sở…Việc này sẽ giúp Chi nhánh đánh giá toàn diện hơn, chính xác hơn về tình hình tài chính, các hoạt động của DNNQD có nhu cầu vay.
Đối với những DNNQD có vốn tự có tham gia và TSĐB không đủ thì quá trình thẩm định và phê duyệt khoản vay Chi nhánh cần linh hoạt để hỗ trợ những dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả thực sự, tránh những món vay có rủi ro cao hiệu quả thấp.
Cơ chế cho vay linh hoạt còn thể hiện qua việc đa dạng hoá phương thức cho vay. Hiện nay tại Chi nhánh chỉ thực hiện ba phương thức cho vay chính là: cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay dự án đầu tư đối với DNNQD. Chi nhánh cầm mở rộng nhiều phương thức cho vay khác như: cho vay thấu chi, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay qua phát hành thẻ, cho vay theo hạn mức dự phòng…đặc biệt là cho vay thấu chi và cho vay trả góp. Phương thức cho vay thấu chi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng; khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng nên Ngân hàng có thể kiểm soát được tình hình thu chi của doanh nghiệp để đưa ra quyết định đúng đắn; đồng thời doanh nghiệp có được sự chủ động kịp thời, linh hoạt. Còn phương thức cho vay trả góp rất phù hợp với các DNNQD: vừa đơn giản lại ít rủi ro vì món vay được thực hiện trên những đảm bảo chắc chắn nguồn trả nợ.Kết hợp các nhu cầu vay của doanh nghiệp từ đó đưa ra những phương thức cho vay mới nhằm đa dạng hoá hoạt động cho vay, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng cho vay các DNNQD.
3.2.4.3. Củng cố và mở rộng quan hệ với khách hàng
Củng cố và mở rộng quan hệ với khách hàng thực chất là một bộ phận của chính sách Marketing Ngân hàng. Do Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Hà Nội mới đi vào hoạt động nên chi phí cho hoạt động Marketing còn hạn hẹp, số lượng khách hàng DNNQD có quan hệ tín dụng với Chi nhánh tăng lên qua các năm nhưng chưa lớn vì vậy củng cố và mở rộng quan hệ với khách hàng được coi là một chính sách hữu hiệu mà lại ít tốn kém. Chi nhánh cần quan tâm tốt hơn đối với những khách hàng lâu năm và tìm biện pháp để thu hút thêm nhiều doanh nghiệp mới. Chi nhánh có thể tặng quà, gửi lời chúc mừng, tổ chức các hội nghị khách hàng…Đây là những hoạt động rất nhỏ nhưng thể hiện được sự quan tâm của Chi nhánh đối với khách hàng. Từ đó, các DNNQD sẽ tự nhận thấy mình có trách nhiệm hơn trong việc hoàn trả vốn vay cho Chi nhánh đầy đủ và đúng hạn, hơn nữa họ còn muốn tiếp tục củng cố và phát triển mối quan hệ này. Chi nhánh cần thực hiện tốt công tác phân loại khách hàng, chấm điểm khách hàng để có những định hướng đầu tư, ưu đãi đúng mức cho từng loại khách hàng cụ thể, thiết lập lòng trung thành của doanh nghiệp với Chi nhánh, thiết lập mối quan hệ bền chặt giữa Chi nhánh với các DNNQD, tạo bước đệm lớn để Chi nhánh thực hiện mục tiêu mở rộng cho vay đối tượng khách hàng này.
3.3.4. Nâng cao công tác thẩm định; xử lý các tài sản có vấn đề
Khi cho vay Chi nhánh cần thẩm định kỹ, giám sát sát sao, hỗ trợ các DNNQD giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thẩm định, đánh giá DNNQD để hạn chế tối đa rủi ro, tạo thuận lợi cho khách hàng, tăng cường hiệu quả sử dụng vốn vay, giữ chân và mở rộng khách hàng.
Chi nhánh cần có chính sách đối với các tài sản có vấn đề gồm: cách thức xác định tài sản đáng ngờ, các khoản nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận, mức độ nợ xấu, trách nhiệm giải quyết, khai tác và thanh lý TSĐB. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát công tác cho vay thu nợ, xử lý nợ. Khi phát hiện các khoản nợ có vấn đề đầu tiên nhân viên tín dụng phải xác định tính nghiêm trọng của vấn đề rồi đưa ra biện pháp xử lý phù hợp. Có thể thực hiện một số biện pháp sau: yêu cầu khách hàng có thêm tài sản thế chấp, nếu khách hàng không thể tăng thêm tài sản đề nghị khách hàng có sự bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba như người cung ứng, cổ đông…; giúp đỡ thu hồi các khoản nợ của khách hàng , gia hạn nợ, tăng thêm vốn cho khách hàng; nhân viên tín dụng có thể cố vấn cho khách hàng về việc bán sản phẩm, thu ngân, sản xuất…Nguyên tắc của Ngân hàng là không bao giờ được “giết” con nợ tức là không đẩy con nợ đến chỗ phá sản, cho nên trong hoạt động cho vay đối với DNNQD các biện pháp khai thác, giúp đỡ khách hàng được coi là cách hay nhất để xử lý một khoản tín dụng đã trở thành nợ khó đòi. Tuy nhiên, trong trường hợp nhận thấy khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay không thu được kết quả thì Chi nhánh tiến hành thanh lý TSĐB của khách hàng vay.
3.4. Một số kiến nghị
3.4.1. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam
Hỗ trợ, chỉ đạo Chi nhánh thành lập phòng Marketing, xây dựng chiến lược Marketing đến từng Chi nhánh để các Chi nhánh quảng bá hình ảnh và sản phẩm dịch vụ của mình và của cả hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
NHNo&PTNT Việt Nam cần ban hành những công văn, văn bản hướng dẫn cụ thể.
Chi nhánh đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam đưa ra chính sách lãi suất hợp lý, linh hoạt, cần xem xét tính toán tới các yếu tố tác động, đặc thù riêng của từng Chi nhánh, từng đối tượng khách hàng, từng nhu cầu của khách hàng nhằm tạo sự chủ động, mang lại hiệu quả trong công tác huy động vốn và cho vay.
Ngân hàng cần đẩy mạnh nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khác nhau của các DNNQD để đưa ra những sản phẩm mới, khác biệt, có tính cạnh tranh.
Tiếp đến đa dạng hoá các phương thức cho vay, TSĐB. Đơn giản thủ tục và quy trình cho vay.
Mở rộng các lớp tập huấn đào tạo cán bộ, tổ chức các buổi hội thảo, nghiên cứu trao đổi thông tin, kinh nghiệm, trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
Vì khối lượng thanh toán bằng tiền mặt ngày càng nhiều nên đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam xây dựng kho tiền cho Chi nhánh để thuận tiện cho công tác kiểm đếm và vận chuyển.
Tiếp tục triển khai đề án tái cơ cấu, tạo sự chủ động hơn nữa cho Chi nhánh về lãi suất, hạn mức quyền hạn của giám đốc…trong thẩm định, phê duyệt món vay. Ngoài ra, NHNo&PTNT Việt Nam cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với từng Chi nhánh để nâng cao hiệu quả hoạt động của Chi nhánh.
3.4.2. Kiến nghị đối với DNNQD
Nâng cao trình độ kế toán doanh nghiệp, thực hiện đúng chế độ hạch toán kế toán tài chính doanh nghiệp, phải tiến hành minh bạch hoá các báo cáo tài chính. Việc minh bạch các báo cáo tài chính tạo điều kiện để Ngân hàng tìm hiều thông tin về doanh nghiệp, nâng cao uy tín của doanh nghiệp và còn tạo thuận lợi cho quá trình quản lý, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước.
Đào tạo nâng cao trình độ quản lý của các chủ DNNQD để họ nhận thức được xu hướng phát triển của nền kinh tế, có phương hướng sản xuất kinh doanh hiệu quả để đi tắt đón đầu,nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Cần nâng cao trình độ tay nghề lao động, tăng tinh thần trách nhiệm nhằm sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp và đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Cần có sự tách biệt rõ ràng giữa tài sản riêng của chủ doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp. Đây là yêu cầu cần thiết để doanh nghiệp dễ dàng nhận được nguồn tài trợ từ Ngân hàng.
3.4.3 Kiến nghị đối với NHNN
Để đảm bảo khả năng các DNNQD tiếp cận được các nguồn vốn của các NHTM, NHNN nên thực hiện một số công việc sau:
Cần quán triệt, chỉ đạo và giám sát các NHTM về việc thực hiện chỉ thị số 03/2003/CT-NHNN ngày 21/02/2003 yêu cầu các NHTM tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận thuận lợi với nguồn vốn của Ngân hàng.
Chỉ đạo các NHTM báo cáo những vướng mắc, tồn tại bất cập trong các văn bản đã ban hành để sớm có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
NHNN ban hành các văn bản pháp luật về quy chế kiểm tra, kiểm toán nội bộ, luật thanh tra Ngân hàng và các thông tư chỉ thị hướng dẫn để phù hợp với lộ trình hội nhập của Ngân hàng.
NHNN cần có sự điều chỉnh về quy định TSĐB, nguồn vốn tự có tham gia vào phương án sản xuất kinh doanh một cách linh hoạt, tạo điều kiện để các Ngân hàng tự chủ, linh hoạt trong quá trình thẩm định và cấp tín dụng cho DNNQD, đảm bảo lợi ích của cả Ngân hàng và doanh nghiệp.
Cần thống nhất với các bộ ngành về những vấn đề liên quan tới việc chuyển nhượng, sát nhập, phá sản của DNNQD; thủ tục đăng ký giao dịch đảm bảo; các vấn đề về báo cáo tài chính của doanh nghiệp khi vay vốn.
NHNN cần thường xuyên đánh giá, phân tích những biến động của hoạt động kinh doanh trên thị trường Ngân hàng – tài chính trong nước và quốc tế, cảnh báo sớm những nguy cơ, rủi ro đối với hệ thống NHTM để các Ngân hàng này có kế hoạch và chiến lược kinh doanh hợp lý.
Cần có chính sách khuyến khích các NHTM cạnh tranh lành mạnh đồng thời tạo điều kiện để các NHTM tăng cường hợp tác và hội nhập.
Mở rộng các chương trình đào tạo, tập huấn cho các cán bộ NHTM, đặc biệt là về quản trị Ngân hàng và khả năng lãnh đạo.
NHNN cũng cần có biện pháp trao đổi, tiếp xúc, giao lưu giữa Ngân hàng với sinh viên các trường đại học, cao đẳng để các chương trình đào tạo đi sát với thực tế hơn, tạo mầm cán bộ nhân viên Ngân hàng trong tương lai.
Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) cần phải nâng cao chất lượng, đổi mới công nghệ để thu thập, phân tích, xử lý và dự báo thông tin tín dụng chính xác, cập nhật để các NHTM có đủ thông tin đánh giá khả năng trả nợ khách hàng, tránh được sự lựa chọn đối nghịch, tăng tính an toàn, hiệu quả trong món vay.
3.4.4. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước
Các cơ quan quản lý Nhà nước tạo môi trường kinh doanh ổn định và phát triển: cần có những chính sách, biện pháp đảm bảo môi trường kinh doanh ổn định, công bằng cho hoạt động doanh nghiệp trong đó có DNNQD và Ngân hàng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh tốc độ cấp giấy phép hoạt động, chứng nhận các giấy tờ có liên quan.
Nhà nước cần có cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến khích các DNNQD phát triển, hỗ trợ thông tin, xúc tiến thương mại, minh bạch hoá các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá DNNN, hệ thống các NHTM Nhà nước để tạo ra động cơ kinh doanh mới, tăng năng lực điều hành. hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, nang cao năng lực quản lý, năng lực tài chính, tăng khả năng cạnh tranh cho các NHTM trong quá trình hội nhập.
Xây dựng hành lang pháp lý hoàn thiện, chặt chẽ, đồng bộ cho hoạt động Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và nghiệp vụ cho vay nói riêng.
Nhà nước nên cho phép thành lập và đưa vào hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương để bảo lãnh cho các DNNQD vay vốn Ngân hàng. Quỹ này được lấy từ ngân sách của địa phương, còn có trách nhiệm tiếp nhận các khoản đầu tư bên ngoài để bổ sung nguồn vốn hỗ trợ,Nhà nước sẽ cấp bù lãi suất vá đảm bảo kinh phí hoạt động cho quỹ này.
Ngoài ra, cũng cần nâng cao phong cách, tác phong, thái độ, trách nhiệm của cán bộ công chức để nâng cao hiệu quả làm việc; quyết tâm thực hiện cơ chế “một cửa, một dấu” nhưng phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố pháp lý.
Tóm lại: Trong chương 3, dựa trên cơ sở những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong việc cho vay DNNQD tại Chi nhánh đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để khắc phục những khó khăn, hạn chế tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNQD tiếp cận một cách dễ dàng, hiệu quả nguồn vốn của Ngân hàng và Chi nhánh thực hiện được mục tiêu mở rộng cho vay đối với DNNQD của mình.
Kết luận
Nền kinh tế thị trường ngày càng sôi động, đặc biệt là khi cánh cửa WTO mở rộng mang đến nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt nam. Các DNNQD đã tăng lên một cách đáng kể, đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế, đây là thị trường tín dụng đầu ra lớn và tiềm năng cho các NHTM. Trên cơ sở lựa chọn và phân tích đề tài: “Mở rộng cho vay DNNQD tại NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Hà Nội”, chuyên đề gồm có những nội dung chính sau:
Một là, hệ thống hoá các đặc điểm, vai trò, phân loại DNNQD trong nền kinh tế hiện nay và khái quát hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNQD.
Hai là, phân tích thực trạng hoạt động cho vay DNNQD tại NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Hà Nội. Đánh giá những thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế, khó khăn còn tồn tại cần khắc phục để mở rộng cho vay DNNQD tại Chi nhánh.
Ba là, trên cơ sở thực trạng hoạt động cho vay DNNQD tại Chi nhánh đưa ra một số giải pháp và kiến nghị với Ngân hàng cấp trên, cơ quan quản lý Nhà nước, các DNNQD nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNQD tiếp cận được với nguồn vốn Ngân hàng và Ngân hàng mở rộng được hoạt động cho vay của mình đối với đốí tượng này.
Trong chuyên đề này, tôi đã vận dụng những hiểu biết chung về DNNQD, những kiến thức cơ bản về hoạt động cho vay DNNQD cùng với những kiến thức và kinh nghiệm thu thập được trong quá trình thực tập tại NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo; tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của ban lãnh đạo, các anh chị trong phòng tín dụng của Ngân hàng đã giúp tôi hoàn thành bài viết này.
Tài liệu tham khảo
PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê 2006.
GS Lê Văn Tư, Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê
Sổ tay tín dụng NHNo&PTNT Việt Nam
TS. Nguyễn Văn Ngân, Một số nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê
PGS.TS Lưu Thị Hương, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Thống kê
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 323 tháng 4/2005
Tạp chí Tài chính số 3/2006
Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 3/2006
Tạp chí Ngân hàng, số 22 tháng 11- 2006
Tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 6/2007
Các trang web
http:// www.gos.gov.vn
http:// www.vbard.com.vn
www.Google.com.vn
http:// www.kiemtoán.com.vn
Các văn bản pháp luật
QĐ 1627 - NHNN ngày 31/12/2001
QĐ 493 – NHNN ngày 22/4/2005
QĐ 457 – NHNN ngày 19/4/2005
NĐ 163 – CP ngày 29/12/2006
Luật doanh nghiệp 2005
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33194.doc