MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT.....................................................................................3
MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.................................5
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ..............................5
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.......................
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.....................................5
1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ.............................................................6
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI............................................................................................................10
1.2.1. Một số khái niệm.........................................................................................10
1.2.2. Chính sách và quy trình cho vay của ngân hàng thuơng mại......................12
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá chất luợng hoạt động cho vay.........................................16
1.2.4. Rủi ro trong hoạt động cho vay...................................................................19
1.3. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA...............19
1.3.1. Các hình thức cho vay.................................................................................20
1.3.2. Vai trò của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ...............20
1.3.3. Thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam......................23
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của NHTM đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ......................................................................................24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG ĐÔNG HÀ NỘI...............................................................................34
2.1 GIỚI THIỆU VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG ĐÔNG....34
2.1.1. Sự ra đời và phát triển................................................................................34
2.1.2. Cơ cấu tổ chức............................................................................................35
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội........................................................................................................37
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY VỚI CÁC DNNVV TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN PHƯƠNG ĐÔNG HÀ NỘI...............................................................................................................................39
2.2.1. Quy trình cho vay DNNVV Chi nhánh ngân hàng TMCP Phưong Đông.39
2.2.2. Thực trạng cho vay đối với DNNVV tại Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông................................................................................................................42
2.3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNVV CỦA CHI NHÁNH........................................................................................................................50
2.3.1 Kết quả đạt được..........................................................................................50
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân..................................................................52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG ĐÔNG HÀ NỘI................58
3.1. ĐỊNH HƯỚNG CHO VAY DNNVV TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG ĐÔNG HÀ NỘI.........................................................................................58
3.1.1. Định hướng chung của chi nhánh...............................................................58
3.1.2. Định hướng cho vay đối với DNNVV của chi nhánh.................................59
3.2. GIẢI PHÁP CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG ĐÔNG HÀ NỘI............................................................................60
3.2.1. Xây dựng chính sách tín dụng linh hoạt và hợp lý.....................................61
3.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay....................................................66
3.2.3. Đơn giản hoá thủ tục cho vay.....................................................................68
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.......................................................................................69
3.3.1. Kiến nghị đối với các DNNVV..................................................................66
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng TMCP Phương Đông.........................................73
3.3.3. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Việt nam........................................74
3.3.4. Một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước.................................75
KẾT LUẬN........................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM
Ngân hàng thương mại
DNNVV
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
NHNN
Ngân hàng nhà nước
DSCV
Doanh số cho vay
DSTN
Doanh số thu nợ
TSĐB
Tài sản đảm bảo
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
TCTD
Tổ chức tín dụng
KH
Khách hàng
NH
Ngân hàng
TH
Thực hiện
KH
Kế hoạch
TSCĐ
Tài sản cố định
LỜI MỞ ĐẦU
Với đặc điểm là một nước có nền kinh tế mới nổi, nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh ở Việt Nam hiện nay ngày càng cao và số doanh nghiệp đã có sự gia tăng vượt bậc, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV).
Cũng như các quốc gia đang phát triển khác, lực lượng DNNVV Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế thị trường, góp phần đắc lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, khi bước vào tự do cạnh tranh, các DNNVV của Việt Nam vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn về công nghệ, thông tin, thị trường, đặc biệt là khó khăn về vốn. Hiện nay, phần lớn NHTM đã xác định bộ phận DNNVV là nhóm khách hàng mục tiêu. Tuy nhiên công tác mở rộng cho vay đối với DNNVV còn nhiều trở ngại, doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn về vốn, và ngân hàng tiếp tục bế tắc trong quyết định cho vay, hạn chế sự phát triển của nền kinh tế-xã hội.
Cho vay DNNVV là mục tiêu trước mắt và lâu dài của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội nhằm phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ cũng như giữ vững vị trí một trong những NHTM hàng đầu Việt Nam.
Luận văn “Mở rộng cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội” đã được lựa chọn nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động cho vay DNNVV tại Chi nhánh, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị để mở rộng hoạt động này.
CHƯƠNG1
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Về khái niệm Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp năm 1999 và được sửa đổi năm 2005 do Quốc hội Việt Nam khóa XI thông qua đã quy định rõ: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Trong Luật này cũng quy định về các loại hình doanh nghiệp bao gồm: Công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Cách phân chia này dựa trên căn cứ về hình thức sở hữu, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước trong quản lý hành chính và điều chỉnh các chính sách vĩ mô nhằm phát triển nền kinh tế thị trường với các thành phần kinh tế cân đối hơn. Việc thành lập, tổ chức quản lý, và hoạt động của các loại hình DN này đều được pháp luật quy định rõ.
Mặt khác, để tạo thuận lợi cho việc hỗ trợ các DN phát triển, người ta thường chia các loại hình DN dựa theo tiêu thức về quy mô. Theo tiêu thức này, DN được chia thành DN lớn và DNVVN. Các tiêu chí đánh giá quy mô của một DN bao gồm chỉ tiêu về vốn, doanh thu, lao động,…Mỗi quốc gia, mỗi khu vực có thể lựa chọn một chỉ tiêu hoặc một nhóm các chỉ tiêu khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển và quan điểm riêng của mỗi nước. Việc đưa ra được tiêu chí xác định phù hợp là rất quan trọng nhằm xây dựng chính sách hỗ trợ và định hướng phát triển đối với các DN đúng đắn và hợp lí hơn.
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ban hành ngày 23/11/2001 quy định: “DNNVV là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn kinh doanh ko quá 10 tỷ hoặc số lao động không quá 300 người” bao gồm các DN nhà nước, DN thành lập theo Luật DN, hợp tác xã, hộ kinh tế cá thể.
Theo khái niệm trên, DNNVV ở Việt Nam là các tổ chức kinh tế kinh doanh độc lập, được đăng kí kinh doanh tại các cơ quan nhà nước, các DN thành lập và hoạt động theo Luật DN, các Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. Như vậy, DNNVV và DN lớn nhìn chung bao gồm các hình thức sở hữu giống nhau, tuy nhiên khác nhau về quy mô, cụ thể là các chỉ tiêu về lao động và vốn.
Việc đưa ra được tiêu chí đánh giá DNNVV phải dựa trên tình hình thực tế của đất nước nhằm đánh giá đúng đối tượng, giúp việc hoạch định chính sách hoàn thiện hơn, kịp thời hỗ trợ hoạt động cho các DN. Đồng thời việc phân loại hợp lí cũng giúp bản thân DN dễ dàng định hướng phát triển cho mình. Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, mỗi giai đoạn khác nhau có thể căn cứ vào điều kiện cụ thể để đưa ra tiêu thức xác định DNNVV khác nhau.
Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNVV chiếm đại đa số trong tổng số DN tại các quốc gia và đóng góp lớn vào việc thực hiện các chính sách về kinh tế-xã hội. Hoạt động của DNNVV luôn gắn liền với thể chế chính sách và trình độ phát triển của quốc gia đó. Nhìn chung, các DNNVV ở Việt Nam cũng mang những đặc điểm tương đồng với các nước DNNVV ở các nước đang phát triển. Những đặc điểm đó là:
Thứ nhất, DNNVV năng động, linh hoạt, dễ thích nghi với sự thay đổi của thị trường.
Đây là một trong những đặc điểm ưu việt của DNNVV. DNNVV chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho xã hội. Với mặt hàng phong phú đa dạng, thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu sản xuất kinh doanh của các DN lớn, các DNNVV dễ dàng chiếm được thị trường. DNNVV luôn phải hướng đến thị hiếu của người tiêu dùng, vì vậy có thể nói DNNVV là lực lượng phản ánh tín hiệu của thị trường chính xác nhất. Mặt khác, với số vốn ít, vòng quay vốn của các DNNVV thường là ngắn, các phương án sản xuất kinh doanh không lâu dài như các DN lớn. Với lợi thế đó, DNNVV dễ dàng thay đổi quy mô, thay đổi sản phẩm khi có sự thay đổi của thị trường. So với các DN lớn, DNNVV không gặp nhiều tổn thất khi thị trường biến động, có thể nói DNNVV là những “thanh giảm xóc” đắc lực cho nền kinh tế.
Thứ hai, các DNNVV hiện nay đã chú trọng đổi mới công nghệ nhưng còn tương đối lạc hậu, không đồng bộ và trình độ quản lý còn yếu kém.
Công nghệ tốt giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, sản xuất ra được các sản phẩm với mức chất lượng phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và giảm bớt chi phí sản xuất, nhờ đó tăng năng lực cạnh tranh. Ngược lại, công nghệ lạc hậu và chậm đổi mới làm hạn chế khả năng sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, hạn chế năng suất và sản lượng, chất lượng sản phẩm, làm tăng chi phí sản xuất, thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, đồng thời làm hạn chế năng lực cạnh tranh của DN.
Đây không chỉ là hạn chế của các DNNVV Việt Nam, mà còn là tình trạng chung tại các nước đang phát triển. Bản thân các DN và nhà nước đã nhận thức được tầm quan trọng của việc cải tiến và đổi mới công nghệ, tuy nhiên chưa đạt hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, các DNNVV của Việt Nam đã tiến hành nhập ngoại nhiều công nghệ hiện đại, nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm để mua và chuyển giao công nghệ, nên hầu như các máy móc thiết bị không sử dụng được hoặc sử dụng không đúng năng suất. Thậm chí một số chủ DN do không có kinh nghiệm nên trở thành nạn nhân của những thương vụ chuyển giao công nghệ, gây thiệt hài nặng nề cho bản thân DN.
Mặt khác, do chi phí nhập ngoại công nghệ tương đối lớn so với quy mô vốn nên các DNNVV thường không đủ khả năng để đổi mới một cách đồng bộ. Nhiều DNNVV đã chọn phương án mỗi kì mua một ít, rồi sau đó mới cải tiến dần dần. Điều này đã gây ra việc dây chuyền sản xuất không thể khai thác hết công suất, sản phẩm sản xuất ra không đảm bảo chất lượng, không có sức cạnh tranh trên thị trường…
Trình độ và năng lực của đội ngũ quản lý DN là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên. Nhiều chủ DN không nhận thức được tầm quan trọng của công cuộc đổi mới công nghệ, hoặc nhận thức được nhưng không đủ nỗ lực và nhạy bén để thực hiện. Qua khảo sát, phần lớn chủ các DNNVV không được qua các trường lớp đào tạo chính quy, điều này phần nào hạn chế tầm nhìn chiến lược phát triển lâu dài cho DN. Trình độ và năng lực của đội ngũ quản lý DNNVV hiện đang là một vấn đề được các nước rất quan tâm và chú trọng cải thiện.
Thứ ba, DNNVV góp phần giải quyết hiệu quả vấn đề lao động và việc làm, nhưng phần lớn đội ngũ lao động còn yếu kém.
Khác với các DN và các tập đoàn kinh tế lớn, đội ngũ lao động của DNNVV có trình độ khá đa dạng. Từ lao động thủ công, lao động có tay nghề đến lao động có trình độ cao đều có cơ hội làm việc tại các DNNVV, trong đó phần lớn là lao động với trình độ thấp. Chính vì vậy việc quản lý và sử dụng lao động tại các DN này thường không hiệu quả.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến việc chất lượng lao động tại các DNNVV còn thấp là do đặc thù ngành nghề của DN. Như đã nói ở trên, các DNNVV chủ yếu cung cấp các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu cho xã hội, trong đó chủ yếu là các sản phầm tiêu dùng và các sản phẩm truyền thống.
Ngoài các ngành mới nổi như điện tử, viễn thông…thì các DNNVV chủ yếu hoạt động trọng các ngành nghề truyền thống như dệt may, thủy sản, chế biến lương thực thực phẩm…Trong khâu sản xuất của những ngành này thường không yêu cầu cao về trình độ lao động, chủ yếu sử dụng lao động tay chân hoặc lao động có kinh nghiệm truyền thống, không qua đào tạo chính quy. Ngoài ra DNNVV chủ yếu được hình thành từ hộ kinh doanh cá thể, Hợp tác xã, hoặc một nhóm người có quan hệ gia đình, bạn bè lập nên, do đó tính chọn lọc không cao. Với đội ngũ lao động không qua trường lớp, hoạt động của các DNNVV càng trở nên trì trệ và lỗi thời so với các DN lớn.
Bên cạnh đó, khả năng thu hút lao động có trình độ cao cũng là một nguyên nhân chính dẫn đến việc chất lượng lao động DNNVV còn yếu. Với quy mô vốn nhỏ và trình độ quản lý hạn chế của chủ DN, các DNNVV thường không tạo ra được môi trường làm việc hấp dẫn đối với đội ngũ lao động chuyên nghiệp. Những DN, tập đoàn kinh tế lớn mạnh với môi trường làm việc giàu kinh nghiệm và đem lại nhiều giá trị gia tăng mới là điểm đến hàng đầu của lao động chất xám trình độ cao. Tình trạng trên cũng là biểu hiện tất yếu của quá trình phân công lao động xã hội.
Mặt khác, bản thân các DNNVV cũng chưa biết cách khai thác nguồn lực sẵn có. Do bộ máy quản lý thiếu kinh nghiệm nên vấn đề tổ chức hoạt động còn yếu kém, phân công nghĩa vụ và xác định quyền lợi cho nhân viên chưa rõ ràng, chưa tạo ra được môi trường cạnh tranh thúc đẩy nhân viên phát huy năng lực. Vì vậy môi trường làm việc của các DNNVV thường trì trệ, duy ý chí, sử dụng lao động không hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực sẵn có và không thu hút được các lao động có trình độ cao.
Thứ tư, DNNVV có quy mô vốn nhỏ nên năng lực cạnh tranh còn thấp.
Quy mô vốn là tiêu chí chủ yếu để phân biệt DNNVV với DN lớn. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến các đặc điểm chính của DNNVV. Có thể nói, vì thiếu vốn nên DN gặp khó khăn trong đổi mới công nghệ, đào tạo đội ngũ quản lý và nâng cao năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Việt Nam đang trên lộ trình thực hiện các cam kết với tổ chức thương mại thế giới WTO, hàng rào thuế quan từng bước được dỡ bỏ đồng nghĩa với việc hàng hóa của Việt Nam bình đẳng với hàng hóa của các nước khác trên thị trường thế giới. Nói cách khác, các DN Việt Nam không còn được bảo hộ thương mại như trước đây, đặc biệt là DNNVV. Các DNNVV Việt Nam với quy mô vốn thấp và còn nhiều hạn chế về công nghệ, lao động, trình độ của đội ngũ quản lý…nên phải đứng trước rất nhiều khó khăn.
Vấn đề đặt ra đối với các DNNVV lúc này là phải mở rộng quy mô vốn nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các DNNVV gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực vốn nội tại của DN còn hạn chế, không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản đảm bảo, lại chưa gây dựng được uy tín nên các NH thường e ngại khi quyết định cho vay. Bên cạnh đó, tình hình tài chính của DNNVV đa số là không lành mạnh. Với trình độ của đội ngũ quản lý và năng lực của nhân viên còn yếu kém, các báo cáo tài chính được lập thường không rõ ràng, chưa đủ độ tin cậy và không đáp ứng được yêu cầu mà NH đưa ra.
Ngoài ra do chưa có kinh nghiệm khi đi vay nên các DNNVV không linh hoạt trong việc xử lý các loại văn bản cần thiết, gây cản trở quá trình hợp tác giữa DN với NH. Vì vậy nhìn chung DNNVV khó tiếp cận với nguồn vốn của tổ chức tín dụng. Kết quả một cuộc điều tra hơn 2.800 doanh nghiệp nhỏ và vừa tại 10 tỉnh, thành phố do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với Tổ chức Danida (Đan Mạch) năm 2007 cho thấy, tình trạng phổ biến là có khoảng 35-45% doanh nghiệp tin tưởng nộp hồ sơ vay vốn thường xuyên nhưng 19% gặp khó khăn và đã bị từ chối. Số doanh nghiệp còn lại có nhu cầu vay không thường xuyên, nhưng một số cũng gặp trở ngại trong thủ tục tiếp cận và nâng tỷ lệ gặp khó khăn tín dụng lên mức 32,5%. Ngoài ra, số doanh nghiệp thuộc nhóm không nộp hồ sơ một phần cũng gặp trở ngại như thiếu tài sản thế chấp thích hợp, nhận thức quá trình vay vốn quá khó khăn hoặc do tỷ lệ lãi suất quá cao.
Mặt khác, DNNVV hầu như không đáp ứng đủ yếu cầu để tham gia vào thị trường chứng khoán, nên không thể trực tiếp huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy DNNVV chủ yếu huy động vốn từ gia đình, bạn bè, và một số là từ vay các cá nhân khác với lãi suất cao.
Chính tình trạng gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng đã khiến cho các DNNVV thiếu các dịch vụ kinh doanh tiên tiến nhằm đáp ứng thị trường, và không theo kịp tốc độ cạnh tranh của nền kinh tế quốc tế.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Một số khái niệm
Ngân hàng thương mại
NHTM xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới, bắt nguồn từ nhu cầu gửi tiền của các nhà buôn và khả năng bảo quản tiền của những người thợ vàng. Những nhà buôn giàu có với gia sản khổng lồ thường tích trữ của cải bằng vàng và gửi gắm ở những người thợ vàng, đồng thời những người kinh doanh nhỏ lẻ lại rất cần tiền để kinh doanh buôn bán. Bên cạnh những người thợ vàng nhanh nhạy, một số nhà quý tộc khác cũng nhận ra tính vô danh của tiền, có thể dùng tiền gửi của người này để cho vay lấy lãi đối với người khác, sau đó đến hạn thanh toán cho người gửi sẽ thu hồi tiền trở lại. Từ đó những người thợ vàng trở nên giàu có, và hình thức đầu tiên của NHTM đã ra đời.
Ngày nay, với sự phát triển chóng mặt của nền kinh tế thế giới, hệ thống NHTM ngày càng đóng vai trò quan trọng. Mạng lưới NHTM không chỉ nằm trong lãnh thổ nội địa, mà còn mở rộng ra khu vực và quốc tế, phục vụ nhu cầu xuất nhập khẩu và giao thương giữa các nước. NHTM là thành phần không thể thiếu trong mọi hoạt động kinh doanh của mỗi quốc gia.
Về định nghĩa NHTM, đã có nhiều quan điểm cũng như định nghĩa khác nhau, nhưng nhìn chung đều xem xét NHTM với vai trò là một trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường.
Tại Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng do quốc hội khóa X thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 đưa ra định nghĩa về NHTM như sau:
“NHTM là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Luật này còn định nghĩa “TCTD là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Theo định nghĩa trên, TCTD bao gồm các NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Tuy nhiên NHTM khác với các TCTD phi ngân hàng ở chỗ, NHTM được thực hiện toàn bô hoạt động ngân hàng, là tổ chức nhận tiền gửi và thực hiện các hoạt động thanh toán. Còn các TCTD phi ngân hàng chỉ được thực hiện một số hoạt động ngân hàng, không được phép nhận tiền gửi cũng như không cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM đóng vai trò là một trung gian tài chính, làm nhiệm vụ điều phối lại nguồn vốn trên thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiết kiệm và đầu tư của xã hội. Với sự tham gia của NHTM, nền kinh tế trở nên sôi động hơn, tiết kiệm được thời gian và chi phí, kích thích tăng trưởng và đầu tư.
Xét trên phương diện là một tổ chức pháp nhân, NHTM cũng hoạt động như một doanh nghiệp và chịu sự điều chỉnh của các Bộ luật ngoài ngành như Luật Dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật Đầu tư.,…và bao gồm nhiều loại hình khác nhau phù hợp với nhu cầu đa dạng của xã hội.
Căn cứ vào hình thức sở hữu có thể chia NHTM thành các loại hình như sau: Ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần , ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Cùng với quá trình mở cửa hội nhập, các NHTM cổ phần ngày càng đóng vai trò chủ đạo, thúc đẩy cạnh tranh trong toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung và nền kinh tế nói riêng.
Ngoài ra, người ta có thể phân loại NHTM dựa vào tính chất hoạt động kinh doanh. Theo tiêu thức này các NHTM bao gồm NH bán buôn, NH bán lẻ, NH vừa bán buôn vừa bán lẻ…Cùng với sự tham gia của các loại hình NHTM khác nhau, người tiêu dùng ngày càng có nhiều lựa chọn nhằm tối đa hóa lợi ích và đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là hoạt động tài trợ cho chi tiêu của doanh nghiệp cá nhân, và cơ quan chính phủ. Hay nói cách khác, cho vay là hoạt động cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Chính sách và quy trình cho vay của ngân hàng thương mại
1.2.2.1 Chính sách cho vay
Khái niệm chính sách cho vay
Chính sách cho vay bao gồm hệ thống các quan điểm, chủ trương, định hướng, quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng, được xây dựng phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng và những quy định pháp lý hiện hành.
Mục tiêu của chính sách cho vay là
Xác định giới hạn áp dụng cho các hoạt động cho vay
Thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động cho vay
Đảm bảo mỗi quyết định cho vay đều khách quan, tuân thủ theo quy định của ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế.
Chính sách cụ thể
Chính sách khách hàng: Ngân hàng phân loại khách hàng truyền thống, những khách hàng có quan hệ tns dụng lâu năm và những khách hàng mới. Những khách hàng truyền thống rễ dàng tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng hơn được hưởng chính sách ưu đãi về lãi suất, thủ tục...
Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng: Ngân hàng cam kết tài trợ cho khách hàng với món tiền hoặc hạn mức nhất định. Số lượng tài trợ được chia nhỏ trong các giai đoạn khác nhau và dưới hình thức tiền tệ khác nhau. Chính sách này được quy định theo từng thời kỳ trong năm, có tính đến quy mô và tính chất nguồn vốn của ngân hàng.
Chính sách lãi suất và phí tín dụng: Ngân hàng có các mức lãi suất khác nhau tuỳ theo kỳ hạn, tuỳ theo loại tiền, tiền theo khách hàng. Ngân hàng cho vay phải tính đến rủi ro, lãi suất hoà vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Lãi suất có thể cố định trong suốt thời kỳ tín dụng hoặc có thể biến đổi, hoặc kết hợp cả cố định và thả nổi. Lãi suất chiết khấu do ngân hàng nhà nước quy định hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Còn đối với phí tín dụng đó là khoản tiền mà để có thể cam kết tín dụng khách hàng phải trả cho ngân hàng khoản tiền đó. Nó được tính bằng phần trăm trên hạn mức cam kết. Phí tín dụng có thể là phí bảo lãnh, phí cam kết, phí quản lý...Phí suất được xác định chủ yếu dựa trên rủi ro, chi phí huy động vốn hoặc chi phí khác.
Chính sách thời hạn tín dụng và kỳ han trả nợ: Thời hạn tín dụng được tính từ lúc khoản tiền đầu tiên phát ra đến lúc khách hàng hoàn trả hết vốn và lãi theo hợp đồng cam kết. Thời hạn tín dụng trung bình càng nhỏ, rủi ro của ngân hàng càng thấp, càng tăng tính thnah khoản của các khoản tài trợ. Trong chính sách tín dụng, ngân hàng cần xác định rõ ngân hàng cung ứng tín dụng như thế nào, từ đó ngân hàng xác định kỳ hạn của nguồn vốn để quyết định kỳ hạn chính sách cho vay nếu khả năng tìm kiếm nguồn vốn và chuyển hoán kỳ hạn của ngân hàng không cao.
Chính sách về các khoản đảm bảo: Các khoản đảm bảo của ngân hàng nhằm hạn chế bớt các khoản thiệt hại cho ngân hàng khi khách hàng có khó khăn không trả được nợ. Các tài sản đảm bảo có thể là các giấy tờ có giá, hàng hoá trong kho, nhà cửa, thiết bị hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Chính sách đảm bảo bao gồm các quy định về các laọi đảm bảo, tỷ lệ phần trăm đảm bảo, đánh giá và quản lý đảm bảo. Ngân hàng chỉ chấp nhận các tài sản có khả năng bán được làm đảm bảo. Thông thường ngân hàng chỉ cho vay với mức giới hạn thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đảm bảo, tỷ lệ bao nhiêu là phụ thuộc vào khả năng bán và khả năng thay đổi thị trường của tài sản đảm bảo.
Điều kiện giả ngân và điều kiện thanh toán: Ngân hàng có thể giải ngân một lần hoặc nhiều lần tuỳ đối tượng. Để tiền tài trợ được sử dụng đúng mục đích, ngân hàng thưòng giả ngân gắn liền với một số điều kiện nhất định như các chứng tù nhập hàng hoặc biên bản nghiệm thu công trình từng phần của bên A hoặc món nợ trước đã trả. Điều kiện giả ngân cho phép ngân hàng thực hiện kiểm soát trong khi cho vay, giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Điều kiện thanh toán bao gồm thanh toán tiền gốc, lãi. Ngân hàng có thể yêu cầu thanh toán cả gốc và lãi một lần khi đáo hạn. Các khảon cho vay trung và dài hạn được yêu cầu trả gốc và lãi thành nhiều kỳ, gốc và lãi được tính riêng hoặc chung thành khoản trả đều
Tóm lại: Chính sách cho vay rất quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại. Mục tiêu của nó làm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay, tăng khả năng sinh lời. Nội dung chính của chính sách tín dụng là tài trợ khách hàng trên cơ sở an toàn. Thực chất đó chính là chính sách khách hàng của ngân hàng.
1.2.2.2 Quy trình cho vay
Cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Tất cả các ngân hàng đều phải chịu một mức rủi ro nào đó khi cho vay tư nhân, doanh nghiệp, hộ tiêu dùng...Và ngân hàng nào cũng phải chịu một vài tổn thất người đi vay không thể hoàn trả trước được khoản vay như họ thoả thuận. Mức độ tổn thất cho vay có thể giảm thiểu bằng cách tổ chức thực hiện và quản lý việc cho vay một cách có chuyên môn cao hay nói cách khác phải xây dựng được quy trình cho vay một cách hợp lý.
Khái niệm quy trình cho vay
Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trng việc cấp tín dụng, bao gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ gắn bó với nhau.
Ý nghĩa của việc thiết lập quy trình cho vay
Việc xây dựng quy trình cho vay hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi.
Quy định pháp lý đối với hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay được quy định trong luật tín dụng – Ngân hàng, tuỳ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, xăn cứ vào bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005, luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 ngày 15/06/2004... đã đưa ra các quy định pháp lý đối với hoạt động cho vay. Các văn bản đưa ra phạm vi áp dụng, đối tượng áp dụng cũng như một số quy định cụ thể điều kiện vay vốn.
Các bước trong quá trình cho vay
Lập hồ sơ vay vốn
Phân tích tín dụng
+ Xem khách hàng có đáng tin cậy không dựa vào các yếu tố như: Tính cách, năng lực, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện môi trường và sự kiểm soát.
+ Liệu một hợp đồng tín dụng có cấu trúc hoàn chỉnh hay không để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và người gửi tiền thông qua các tài sản đảm bảo: Các tài sản thế chấp thông thường, các khoản phải thu, hàng tồn kho, bất động sản...
Giải ngân
Kiểm tra giám sát khoản vay
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động cho vay
Chỉ tiêu nợ quá hạn
Nợ quá hạn là những khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời gian cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng cộng với thời gian đã được gia hạn thêm nếu khách hàng có yêu cầu. Nợ qua hạn có thể có nhiều nguyên nhân khách nhau do chủ quan hay khách quan từ phía doanh nghiệp... Các ngân hàng luôn mong muốn giảm tỷ lệ nợ qua hạn đến mức thấp nhất bởi vì nó làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Là những khoản nợ mà ngưòi vay vẫn có thể trả được cho ngân hàng. Lý do của các khảon trả chậm này là khách hàng đã bán được hàng nhưng chưa thu được tiền do gặp tình trạng đột xuất với lý do chính đáng. Trong trường hợp này ngân hàng có thể xem xét tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc trả nợ cho ngân hàng như: Gia han thêm thời gian, cùng doanh nghiệp xúc tiến việc đòi nợ.
Nợ quá hạn khôngcó khả năng thu hồi: Khi nợ quá hạn tồn tại đến một thời điểm nào đó và khả năng không thu hồi được nợ cao thì khoản nợ này được coi là khoản nợ mà người vay ít có khả năng trả cho ngân hàng do nhiều nguyên nhân như: Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản, hay người vay cố tình lừa đảo ngân hàng. tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi cao phản ánh hoạt động cho vay của ngân hàng kém hiệu quả và chất lượng của khoản vay thấp.
+ Khi phân tích đánh giá về nợ quá hạn thường xem xét các chỉ tiêu:
+ Tổng dư nợ quá hạn, nợ khó đòi trong thời kỳ tích luỹ qua các năm
+ Cơ cấu nợ quá hạn theo thời gian (Dưới 6 tháng, từ 6 tháng đến 12 tháng, trên 12 tháng) Nợ quá hạn trên 12 tháng được gọi là nợ khó đòi
Tổng dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Theo chỉ tiêu thống kê của ngân hàng nhà nước Việt Nam, trỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% là chấp nhận được.
Chỉ tiêu tổng dư nợ
Tổng dư nợ phản ánh vốn mà ngân hàng đã giải ngân. Con số và tốc độ tăng của doanh số cho vay qua các thời kỳ, các năm phản ánh quy mô và xu hướng đầu tư của ngân hàng là mở rộng hay thu hẹp. Tổ._.ng dư nợ khi được đề cập để đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm: Cho vay ngắn hạn, trung hạn, và cho vay khác. Chi tiêu này được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một thời gian nhất định. Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng hoạt động cho vay thấp vì nó chỉ ra ngân hàng không có khả năng mở rộng cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém, thị phần thấp...Tuy nhiên khi xem chỉ tiêu này chúng ta không nên xem chúng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem chúng trong cả quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố bên ngoài để chỉ số này phản ánh tốt nhất.
Tuy nhiên không phải ở bất cứ thời điểm nào tổng dư nợ cao đều phản ánh chất lượng hoạt động cho vay cao. Cho nên chỉ tiêu này không phải là quan trọng nhất mà chỉ tiêu này thường được sử dụng để tính tỷ lệ cho vay trên tổng huy động vốn.
Tổng dư nợ
Tỷ lệ cho vay trên = x 100%
tổng huy động vốn Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn để đầu tư của NHTM. Tỷ lệ này luôn nhỏ hơn 1. Nếu tỷ lệ cho vay trên tổng nguồn vốn gần bằng 1 thì NHTM phải chú ý tăng trưởng nguồn vốn để đề phòng mất khả năng thanh toán. Nếu tỷ lệ này thấp thì cần phải tăng trưởng dư nợ hoặc giảm nguồn vốn huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến chất lượng hoạt động cho vay.
Chỉ tiêu lợi nhuận
Phần lớn lợi nhuận của ngân hàng là từ hoạt động cho vay. Chỉ tiêu về lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng. Tuy nhiên việc đánh giá chất lượng tín dụng qua chỉ tiêu này gặp phải khó khăn là việc xác định lợi nhuận do hoạt động cho vay đem lại là rất khó vì nó liên quan đến chi phí vốn, chi phí cho vay...
Với chỉ tiêu lợi nhuận, chất lượng tín dụng có thể xem xét qua hai chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng như sau:
Thu nhập sau thuế Thu nhập sau thuế
ROE = ROA =
Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản
Hai chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng trên một dơn vị vốn chủ sở hữu, trên một đơn vị tài sản. Hai chỉ tiêu này càng lớn cho thấy khả năng sinh lời của ngân hàng càng cao hay ngân hàng hoạt động có hiệu quả.
Chỉ tiêu lãi treo
Lãi treo cũng là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng hạot động cho vay. Lãi treo phản ánh mặt trái của chất lượng hoạt động cho vay. Đây là số tiền mà lẽ ra là nguồn thu của ngân hàng nhưng trên thực tế ngân hàng chưa trả. Ngược lại nếu tỷ lệ lãi treo của ngân hàng thấp, chứng tỏ ngân hàng thu được lãi ở hầu hết các khoản cho vay tức là chất lượng hoạt động cho vay tốt.
Tổng lãi treo
Tỷ lệ lãi treo =
Tổng dư nợ
Rủi ro trong hoạt động cho vay
Khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay
Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng khách hàng không trả hoặc trả không đúng hạn, hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng.
Các nguyên nhân và dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Nguyên nhân khách quan: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi của Chính phủ, chính sách kinh tế... vượt qua tầm kiểm soát cua người vay lẫn người cho vay.
Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay: Trình độ yếu kém của người quản lý trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trng quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng.
Nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng: Chất lượng cán bộ yếu kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng, đánh giá không tốt, cố tình làm sai.
Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
+ Nợ quá han và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
+ Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
+ Tính đa dạng hoá của tài sản
+ Tình hình tài chính và phương án của người vay
+ Đảm bảo tiền vay
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng
+ Môi trường hoạt động của người vay
+ Các chỉ tiêu khác: Điểm của khách hàng, các khảon vay có vấn đề, tính kém đa dạng của khoản vay, mất ổn định vĩ mô.
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Các hình thức cho vay
Cho vay từng lần
Mỗi lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Ngân hàng áp dụng phương thức cho vay từng lần khi khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn, khách hàng lập hồ sơ vay vốn theo quy định.
Cho vay theo hạn mức tín dụng
Cho vay hạn mức tín dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và có đặc điểm sản xuất kinh doanh, luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần
Căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tài sản đảm bảo tiền vay, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo dụ án đầu tư
Ngân hàng cho vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Cho vay trả góp
Khi vay, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả ccộng với số nợ gốc được chia ra để trả thep nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng. Việc cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng theo quy định của chính phủ, ngân hàng nhà nước, ngân hàng cho vay về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự án. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng khách hành phải trả phí cam kết theo mức quy định của ngân hàng cho vay.
Cho vay hợp vốn
Ngân hàng cùng một số tổ chức tín dụng khác thực hiện cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó ngân hàng cho vay hoặc một tổ chức tín dụng khác làm đầu mối dàn xếp. Cho vay hợp vốn được thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của ngân hàng cho vay.
Cho vay theo hạn mức thấu chi
Là việc cho vay thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của chính phủ và ngân hàng Nhà nước về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Các loại hình cho vay theo phương thức khác
Tuỳ theo nhu cầu của khách hàng và thực tế phát sinh, từng ngân hàng sẽ xem xét cho vay theo các phương pháp khác phù hợp với đặc điểm hoạt động trong các thời kỳ không trái với quy định của pháp luật.
Vai trò của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thực trạng hiện nay của các doanh nghiệp là thiếu vốn trầm trọng do vay nguồn vốn của ngân hàng được xem như là “nguồn dinh dưỡng quý gía“ cho những đứa con “suy dinh dưỡng“. Nguồn vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể là do vay từ bạn bè ngưòi thân, các công ty, các tổ chức tín dụng khác. Hiện nay thị trường chứng khoán cũng đã xuất hiện nhưng các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa đủ điều kiện để huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Do vậy, vốn ngân hàng vẫn là cách tối ưu để các doanh nghiệp tiếp cận.
Hoạt động cho vay của ngân hàng giúp cho hoạt động của doanh nghiệp được liên tục và hoạt động có hiệu quả.
Thực tế là các doanh nghiệp tiếp cận vốn bằng cách đi vay của người thân hoặc các tổ chức tín dụng khác thì chỉ vay được với lượng vốn nhỏ, không nhanh chóng trong khi các cơ hội kinh doanh lại không đợi các doanh nghiệp. Các quy luật của thị trừơng ngày càng thay đổi, đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt. Trong hoạt động kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn cải tiến kyc thuật, thay đổi mẫu mã, máy móc và thiết bị. Vì vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Đặc trưng của vay vốn ngân hàng là cấp phát vốn mà là nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi theo quy định. Do đó không phải chi thu hồi vốn là đủ mà các doanh nghiệp còn phải tìm kiếm các biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn. Chính điều này sẽ là động lực để giúp các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường làm ăn có hiệu quả.
Hoạt động cho vay của ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa hình thành được cơ cấu vốn tối ưu.
Nguồn vốn vay là công cụ đòn bẩy để các doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn vốn tự có thì hạn hẹp, nếu sử dụng nguồn vốn tự có thì chi phí vốn sẽ cao làm cho giá sản phẩm tang sẽ khó tiếp cận được thị trường. Do vậy nguòon vốn từ hoạt động cho vay của ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm ra bài toán tối ưu hoá việc sử dụng vốn nhằm tối đa hoá lưọi nhuận với mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
1.3.3 Thực trạng cho vay DNNVV ở Việt Nam
Từ khi nghị định số 90 ra đời, cùng với sự lớn mạnh và đóng góp của các DNNVV và sự tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong những nam gần đây DNNVV luôn được coi là các khách hàng tiềm năng của các ngân hàng. Nếu như trứoc kia các ngân hàng quốc doanh chỉ tập trung cho vay các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp quốc doanh thì gần đây quan điểm đã thay đổi. Ngân hàng ngoại thương đổi mới công nghệ, phát triển thị trường bán lẻ dành 3000 tỷ đồng để cho vay DNNVV, ngân hàng Đầu tư và phát triển dành 3200 tỷ, Ngân hàng Vietin là ngân hàng tiên phong trong việc cho vay DNNVV với rất nhiều chương trình tín dụng cho các DNNVV như: Chưong trình JBIC, chưong trình SMEFP... mức dư nợ cho vay các DNNVV của ngân hàng này chiếm tới 50 - 60% tổng dư nợ.
ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho các DNNVV là từ kênh ngân hàng, trong 3 năm 2005 - 2007 số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các DNNVV chiếm bình quân là 40% tổng dư nợ, đặc biệt là tính đến tháng 12/2007 tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng gần 37,8% so với cuối năm 2006, vượt xa chỉ tiêu tăng trưởng của cả năm là 18 - 22%, trong khi đó năm 2006 tăng 21,4%, năm 2005 tăng 19,2%.
Trong một điều tra về thực trạng DNNVV, do Cục phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố mới dây cho thấy chỉ có 32,38% số các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn Nhà nước (chủ yếu là từ các ngân hàng thương mại), 35,24% số các doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Khảo sát tại một số ngân hàng cho thấy, con số cũng tương đương, trong 100 hồ sơ vay vốn của các DNVN thì chỉ có khoảng 35 - 40 hồ sơ có thể được chấp nhận cấp vốn. Như vậy khả năng tiếp cận vốn ngân hàng thương mại của các DNVN vẫn nhiều hạn chế.
Nguyễn nhân là vấn đề tài sản đảm bảo của doanh nghiệp, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa rõ ràng, không đủ độ tin cậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vốn đi vay nên tiềm ẩn nhiều rủi ro, hơn nữa là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập gây khó khăn cho ngân hàng trong việc đánh giá rủi ro...
1.3.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNNVV là mối quan hệ tín dụng giữa NH với DN, trước hết phụ thuộc vào thiện chí của NH và sự nỗ lực của DN. Tuy nhiên NH và DN đều là các thành viên của nền kinh tế, được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, do đó mọi quan hệ đều chịu sự điều chỉnh của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy có nhiều nhân tố khác nhau tác động tới hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNVV, bao gồm các nhân tố thuộc về bản thân NH và các nhân tố khách quan khác.
1.3.4.1 Các nhân tố chủ quan
Thứ nhất, chính sách tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất và có quy mô lớn nhất, bao trùm mọi cơ chế chính sách của NHTM. Hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm. Theo đó, chính sách tín dụng tạo ra sự thống nhất chung và tăng cường chuyên môn hóa cho hoạt động tín dụng. Chính sách tín dụng bao gồm các chính sách về khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, chính sách lãi suất và phí suất tín dụng, về đảm bảo tiền vay,…Trước mỗi kì kinh doanh, các NHTM thường đưa ra phương hướng đối với mọi hoạt động, trong đó có hoạt động tín dụng, xác định rõ chỉ tiêu đối với từng đối tượng khách hàng, như khách hàng DN, khách hàng cá nhân… Nếu NH xác định mở rộng cho vay với đối tượng DNNVV thì chính sách tín dụng đối với DNNVV sẽ được nới lỏng. Khi đó các điều kiện về thủ tục, giấy tờ liên quan đến hồ sơ vay vốn, tài sản đảm bảo cũng dễ được chấp nhận hơn, các DNNVV dễ dàng tiếp cận với tín dụng NH. Ngược lại, nếu NH xác định hạn chế cho vay DNNVV để tập trung phát triển dịch vụ khách hàng cá nhân hoặc hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn,…sẽ khiến cho việc vay vốn của DN gặp nhiều khó khăn. Vậy nhân tố tiên quyết và quan trọng nhất tác động đến hoạt động cho vay đối với DNNVV là phương hướng, thiện chí cho vay của NHTM.
Thứ hai, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Trong xã hội ngày nay, dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng đòi hỏi con người phải tuân thủ những chuẩn mực cơ bản về đạo đức nghề nghiệp. Người hành nghề cần dựa trên nền tảng về đạo đức nghề nghiệp nhằm đàm bảo cho nghề nghiệp và sản phẩm của ngành nghề được xã hội trọng dụng, tôn vinh. Đối với lĩnh vực ngân hàng-tài chính, là những nghề liên quan mật thiết đến hoạt động kinh tế, đạo đức nghề nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng quyết định tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Hiện nay chưa có một văn bản pháp quy nào quy định các chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng, tuy nhiên bản thân mỗi ngân hàng nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng nói chung đều đã xây dựng được những chuẩn mực cơ bản. Nhìn chung, xã hội đánh giá đạo đức của cán bộ ngân hàng dựa trên những tiêu chuẩn “khách quan và trung thực, bảo mật và thận trọng, năng lực chuyên môn và tuân thủ chuẩn mực chuyên môn”. Trong quá trình hành nghề, cán bộ ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng, phải thực sự không bị chi phối và không bị tác động bởi bất kì lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng tới sự trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình. Bản thân cán bộ tín dụng phải minh bạch trong quá trình thẩm định những doanh nghiệp có quan hệ mật thiết, hoặc được hưởng các quyền lợi kinh tế khác. Việc cán bộ tín dụng hành xử trái với đạo đức nghề nghiệp sẽ gia tăng rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
DNNVV là đối tượng khách hàng thường không đáp ứng được yêu cầu về tính minh bạch của vấn đề tài chính và tài sản đảm bảo, do đó cần thẩm định kĩ lưỡng trước khi quyết định cho vay. Vì vậy một số doanh nghiệp đã tìm cách cung cấp những quyền lợi cá nhân cho cán bộ tín dụng, nhằm thuyết phục cán bộ làm sai quy định, tạo điều kiện cho DN vay vốn ngân hàng. Nếu cán bộ tín dụng là người hành nghề không tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp sẽ gây ra nhiều rủi ro cho khoản vay, giảm hiệu quả hoạt dộng cho vay DNNVV, gây thiệt hại tới toàn bộ kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Bên cạnh đó, khi nói đến rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng ngân hàng, chúng ta thường đề cập đến rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng mà ít nói đến rủi ro đạo đức của người quản lý. Một nhà quản lý làm đúng chức năng, nhiệm vụ thì sẽ phòng ngừa được sự phát sinh của loại rủi ro đạo đức nghề nghiệp. Nhưng trên thực tế, vì lợi ích cá nhân hay một nhóm tập thể cán bộ quản lý đã vô tình hoặc cố ý tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro này phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán bộ quản lý đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn có thể chưa hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ tín dụng, thẩm định ghi rõ nguyên nhân trong báo cáo thẩm định là không duyệt cho vay. Thông thường thì những khoản vay đó sẽ không được phê duyệt, nhưng vì một lý do tế nhị nào đó, nhà quản lý hay nhóm cán bộ quản lý đã bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách hàng hợp thức hoá hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, thẩm định phải thực hiện theo ý kiến chỉ đạo.
Thực tế cho thấy, ngân hàng nào chú trọng đến công tác tín dụng, luôn tuân thủ các quy trình từ xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát việc sử dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ nghi ngờ, nợ xấu... luôn nêu cao phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thì ở đó, chất lượng tín dụng cao và kiểm soát tốt, giảm thiểu rủi ro. Ngược lại, ở đâu sự quan tâm chú trọng không đầy đủ đúng mức thì ở đó, chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao và thậm chí mất cả cán bộ.
Thứ ba, trình độ và chất lượng thẩm định tín dụng của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Các DN khi vay vốn trước hết phải lập hồ sơ gửi đến NH, bao gồm các giấy tờ thể hiện tư cách pháp nhân của DN, quyền sở hữu hợp pháp về các TSĐB, lập dự án đầu tư và các giấy tờ liên quan khác. Khi đó cán bộ tín dụng sẽ kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của các loại giấy tờ, xem xét khả năng tài chính của DN và tính khả thi của dự án. Việc này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ về kế toán, kiểm toán, nắm chắc các quy định của pháp luật và quy chế cho vay của NH. Bên cạnh đó cán bộ tín dụng phải có kiến thức tổng hợp về các vấn đề kinh tế xã hội có liên quan tới lĩnh vực kinh doanh của DN, như nhu cầu của thị trường, khả năng xâm nhập thị trường, khả năng cung ứng nguyên vật liệu cho dự án... Nếu cán bộ NH có hiểu biết rộng các lĩnh vực kinh tế xã hội và đáp ứng các yêu cầu về chuyên môn thì mới đưa ra được đánh giá chính xác nhất năng lực tài chính của DN, đưa ra hạn mức tín dụng đáp ứng được nhu cầu về vốn vay của DN và phù hợp với khuôn khổ cho vay của NH. Điều này không chỉ hữu ích đối với DN mà còn giúp NH tăng thêm mối quan hệ với đội ngũ KH tiềm năng là DNNVV, hạn chế các rủi ro có thể gặp phải do quá trình thẩm định tín dụng không đúng thực tế. Ngược lại, nếu cán bộ tín dụng không có đầy đủ kiến thức kinh tế-xã hội và không nắm chắc quy định cho vay của NH sẽ dẫn đến việc không xác định đúng năng lực của DN và tính khả thi của dự án đầu tư, khiến cho DN không được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Mặt khác, nếu đánh giá tính khả thi của dự án cao hơn thực tế sẽ tăng thêm nhiều rủi ro trong cho vay của NHTM.
1.3.4.2 Các nhân tố khách quan
Việc mở rộng cho vay đối với các DNNVV mang lại lợi ích to lớn đối với DN, NHTM và cả nền kinh tế - xã hội nói chung. Tuy nhiên liên quan tới vấn đề này còn phụ thuộc nhiều nhân tố ngoài bản thân NHTM.
Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Thứ nhất, hiểu biết của DN về thủ tục và quy chế cho vay của NHTM. Trước khi lập hồ sơ vay vốn, DN phải tìm hiểu về các thủ tục mà NH quy định. Từ đó DN mới lập được bộ hồ sơ đúng theo tiêu chuẩn NH yêu cầu. Việc này giúp cả DN lẫn NH đều tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời tạo ra ấn tượng tốt cho NH về tác phong làm việc chuyên nghiệp của DN, ảnh hưởng tích cực tới quyết định cho vay của NH.
Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến việc tiếp cận vốn NH của các DNNVV Việt Nam còn rất hạn chế xuất phát từ chính bản thân các DN đó. DN không hiểu về chính sách tín dụng của NHTM, có tâm lý sợ thủ tục vay vốn của NH rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay của NH khó khăn. Phần lớn các DNNVV thiết lập thủ tục vay vốn của ngân hàng không đúng quy định mà ngân hàng yêu cầu, dẫn đến tốn kém thời gian và chi phí, tác phong làm việc thiếu chuyên nghiệp khiến NH nghi ngờ trình độ của DN và hạn chế cho vay.
Thứ hai, tính minh bạch về tài chính và trình độ quản lý của DN. Khi tiến hành xem xét hồ sơ xin vay của DN, việc NH quan tâm nhất là thẩm định tài chính DN và tính khả thi của dự án đầu tư. Với việc sử dụng các hệ thống kế toán chuẩn, lập báo cáo tài chính minh bạch rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho DN tiếp cận với nguồn vốn của NHTM. Ngược lại, nếu DN không chứng minh được tính minh bạch về tài chính cũng như đáp ứng được các yêu cầu về hệ thống sổ sách kế toán, thì NH sẽ nghi ngờ khả năng trả nợ của DN. Bên cạnh đó, trình độ của đội ngũ quản lí DN cũng rất quan trọng, cho biết DN đó có đang được dẫn dắt bởi một bộ máy quản lí có năng lực và có tầm nhìn hay không. Đây là yếu tố thẩm định dựa trên lòng tin nhưng có vai trò rất quan trọng trong quyết định cho vay của NHTM.
Thứ ba, khả năng xây dựng dự án đầu tư của DN. Trong quá trình thẩm định tài chính DN, việc NH quan tâm hàng đầu là xem xét tính khả thi của dự án đầu tư DN đưa ra. Dự án đầu tư thể hiện kế hoạch DN dự định sử dụng vốn vay của NH, là căn cứ để sau này NH xem xét việc DN thực hiện vốn vay đúng mục đích hay không, là cơ sở quan trọng hàng đầu trong việc NH quyết định cho DN vay trung dài hạn. Nội dung của dự án đầu tư bao gồm phương án sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển thị trường, kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất,… Một phương án đạt yêu cầu phải có nội dung rõ ràng, có kế hoạch sử dụng vốn vay hợp lí, thể hiện được sự nghiên cứu kĩ lưỡng của chủ DN về các vấn đề liên quan, cho thấy DN quyết tâm nỗ lực thực hiện dự án. Đồng thời việc nghiên cứu dự án kĩ lưỡng cho thấy DN đã dự liệu trước mọi khả năng có thể xảy ra nhằm chống đỡ rủi ro một cách tốt nhất. Vì thế, xây dựng một dự án đầu tư tốt sẽ tăng thêm niềm tin của NH đối với DN. Ngược lại, nếu DN thiết lập phương án sản xuất kinh doanh sơ sài, không có sự nghiên cứu trước về một số khả năng có thể xảy ra sẽ gia tăng rủi ro cho khoản vay, dẫn đến việc NHTM có tâm lí e ngại khi cho vay đối với DNNVV.
Thứ tư, vấn đề đảm bảo tiền vay. Các DNNVV thường có năng lực tài chính còn hạn hẹp, lại chưa có mối quan hệ lâu năm với NH, đặc biệt không có người hoặc tổ chức kinh tế nào bảo lãnh nên TSĐB luôn là vấn đề được các NH quan tâm khi xem xét hồ sơ xin vay. Một DNNVV mặc dù chưa có mối quan hệ uy tín với NH nhưng đáp ứng đúng yêu cầu về TSĐB sẽ được đáp ứng khoản vay. Tuy nhiên, do vốn chủ sở hữu thấp, khả năng tài trợ tài sản cố định của DNNVV thường không cao nên gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng tài sản cố định làm TSĐB. Mặt khác, tài sản của DNNVV thường gắn liền với chủ DN, sự tách bạch giữa tài sản của DN và tài sản của chủ DN không rõ ràng, khiến NH gặp nhiều vướng mắc khi xác định giá trị TSĐB. Một số DN có TSĐB song tính đảm bảo về mặt pháp lý chưa cao, một số tài sản có giá trị thấp. Việc định giá tài sản đảm bảo của khách hàng là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá còn nhiều bất cập. TSĐB là vấn đề ảnh hưởng tới rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM, vì thế DNNVV cần đáp ứng đầy đủ về mặt pháp lí và hợp tác với NH để mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cùng với xu hướng mở cửa và hội nhập hiện nay, lực lượng sản xuất ngày càng đóng vai trò quan trọng. Lực lượng sản xuất bao gồm các cá nhân và tổ chức tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nên giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Lực lượng sản xuất biểu hiện mức độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, mặt khác chịu ảnh hưởng rất lớn từ các thể chế chính sách và môi trường kinh tế vĩ mô. Nền kinh tế càng quốc tế hóa bao nhiêu, hoạt động của các cá nhân, tổ chức cũng được mở rộng bấy nhiêu. Trong thời kì Việt Nam còn duy trì nền kinh tế tập trung bao cấp, phần lớn DN còn thuộc sở hữu Nhà nước nên không có sự tự chủ, linh hoạt trong sản xuất kinh doanh, DN không có nhu cầu vay vốn sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh, khiến cho mối quan hệ giữa các DN với NHTM rất yếu ớt. Tuy nhiên từ lúc bước vào cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc. Đặc biệt là việc giảm dần tỷ trọng DN Nhà nước, thay vào đó là sự các DN tư nhân, công ty cổ phần, DN nước ngoài….Với sự tham gia của nhiều loại hình DN, đặc biệt là các DNNVV, thị trường ngày càng phát triển sôi động và hệ thống NHTM ngày càng mở rộng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu về vố. Hiện nay, các DNNVV ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng, là bộ phận khách hàng tiềm năng đối với các NHTM. Vì vậy NHTM ngày càng chú trọng mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNNVV.
Thứ hai, trình độ phát triển và cơ sở hạ tầng của địa phương mà ngân hàng hoạt động. Với chiến lược mở rộng mạng lưới chi nhánh và gia tăng các điểm giao dịch, các NHTM luôn hướng tới việc khai thác tiềm năng ở nhiều địa phương, nhiều khu vực kinh tế khác nhau. Đối với đặc trưng của từng vùng miền, NH sẽ có chiến lược xây dựng phương hướng kinh doanh phù hợp. Ở từng địa phương, NH sẽ tiến hành khảo sát và phân loại khách hàng, xác định đối tượng tiềm năng mà NH hướng đến. Nếu địa phương đó chú trọng phát triển các ngành công nghiệp xây dựng, các loại hình dịch vụ mới nổi, các làng nghề truyền thống và chủ yếu là các DNNVV, thì hoạt động cho vay DNNVV sẽ rất thuận lợi. Mặt khác với một địa phương chủ yếu là các khu công nghiệp lớn, hoặc cơ sở hạ tầng yếu kém, chủ yếu phát triển nông nghiệp thì hoạt động mở rộng cho vay DNNVV của NH đó rất yếu kém. Vì vậy, một trong những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay DNNVV của ngân hàng là đặc trưng ngành nghề và trình độ phát triển của địa phương mà NH hoạt động.
Thứ ba, sự cạnh tranh của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Với sự gia tăng của các dịch vụ ngân hàng-tài chính hiện nay, các NHTM không ngừng đẩy mạnh cạnh tranh nhằm gia tăng thị phần hoạt động, đi trước đón đầu trong việc tìm kiếm khách hàng. Hiện nay, hầu hết các NHTM đều nhận ra DNNVV là lực lượng KH rất tiềm năng, do đó mức độ canh tranh trong hoạt động này càng gay gắt. Một NH chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các NH khác, lại không có chính sách quảng bá phù hợp sẽ có nguy cơ bị thu hẹp thị phần hoạt động. Ngược lại, nếu trên địa bàn mới ít NH đặt chi nhánh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho NH đó chiếm lấy thị trường, gây dựng mối quan hệ với các DN và tăng cường mở rộng cho vay DNNVV.
Các nhân tố thuộc về môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm chính sách thể chế của Nhà nước và các cơ quan chức năng, có vai trò quan trọng đối với việc mở rộng cho vay DNNVV của các NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, DNNVV và các NHTM đều tham gia với tư cách là các tổ chức kinh tế có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, đều phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật về kinh tế, thương mại. Nhà nước quản lí DN thông qua các quy định về đăng kí kinh doanh, các thủ tục xuất nhập khẩu, chính sách thuế quan, hỗ trợ hoạt động các hiệp hội… Đặc biệt các DNNVV còn yếu kém về năng lực tài chính, chưa tự chủ trong các mối quan hệ quốc tế, vì thế chịu sự ảnh hướng rất lớn từ môi trường pháp lý.
Với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, môi trường pháp lý lành mạnh là môi trường bình đẳng và công bằng cho các loại hình doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh. Bằng các văn bản quy định cụ thể về mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ giúp Nhà nước xây dựng được môi trường pháp lý công minh. Đó là nền tảng để các DN, đặc biệt là DNNVV tự do cạnh tranh, có phương hướng trong mọi hoạt động và phát huy được năng lực của mình. Môi trường pháp lý lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho DNNVV và các NHTM dễ dàng tìm đến với nhau hơn, đẩy mạnh đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác, nếu việc ban hành các quy định, chính sách của Nhà nước không đồng bộ, không minh bạch, sẽ đẩy DNNVV vào thế bị động. DN không được kinh doanh trong một môi trường tự chủ và công bằng, không có phương hướng và căn cứ pháp lý, khiến cho mọi hoạt động trở nên trì trệ và gặp nhiều cản trở. Môi trường pháp lý không lành mạnh khiến cho mọi thành viên trong nền kinh tế bị ảnh hưởng, kìm hãm đầu tư và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Các nhân tố thuộc về Ngân hàng nhà nước và các cơ quan chức năng
Thứ nhất, các chính sách và quy định của NHNN ảnh hưởng to lớn tới việc mở rộng cho vay của NHTM. Các NHTM đóng vai trò là đầu mối quan trọng của nền kinh tế, là động lực của tiết kiệm và đầu tư, thúc đẩy nhịp độ các hoạt động sản xuất và thương mại trong nước và quốc tế. Vì thế Nhà nước cần phải tác động tới hệ thống NHTM nhằm đảm bảo an toàn cho nền kinh tế thị trường, thực hiện các chính sách vĩ mô về kinh tế xã hội. NHNN là cầu nối để Nhà nước thực hiện các mục tiêu đó. Tùy vào từng giai đoạn phát triển với định hướng khác nhau, NHNN sẽ đưa ra hàng loạt các chính sách tài chính tiền tệ, thông qua hệ thống NHTM để điều chỉnh thị trường. Chính sách tiền tệ của NHNN được tiến hành thông qua các công cụ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các quy định về TSĐB…và các NHTM thực hiện các quy định đó của NHNN. Ví dụ: Để kiềm chế lạm phát, NHNN ra quy định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khi đó các NHTM phải thực hiện nâng mặt bằng lãi suất nhằm tăng huy động tiết kiệm, giảm đầu tư, thu hút tiền từ lưu thông về để đảm bảo dự trữ bắt buộc. Điều này khiến NHTM phải thắt chặt cho vay, chính vì thế hoạt động cho vay DNVVN cũng khó khăn hơn. Ngược lại trong giai đoạn cần kích thích hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh, NHNN sẽ giảm lãi suất chiết khấu hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khi đó mặt bằng lãi suất giảm và các NHTM có thể mở rộng hoạt động cho vay, giúp DNNVV dễ dàng tiếp cận với tín dụng của NHTM.
Thứ hai, sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng. Mọi vấn đề thành lập và hoạt động của DN đều chịu sự quản lý và điều hành của các cơ quan Nhà nước. Tùy vào từng lĩnh vự, DN chịu sự quản lý của các cấp Bộ, Ngành khác nhau, như Bộ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,…các UBND Tỉnh, thành phố. Trong đó mọi giấy tờ thủ tục kinh doanh đều được cấp, duyệt, thanh tra, kiểm tra và giám sát bởi các cơ quan này. Do đó, cơ chế chính sách của các cơ quan Nhà nước đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của DNNVV. Nếu được sự hỗ trợ kịp thời trong việc hoàn thiện các giấy tờ, thủ tục, được tạo điều kiện sản xuất kinh doanh tại địa phương, DNNVV sẽ dễ dàng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động, từ đó thuận lợi hơn trong việc vay vốn NH.
Như vậy, hoạt động cho vay DNNVV của NHTM chịu ảnh hưởng từ nhiều nhân tố khác nhau. Để nâng cao hiệu quả hoạt động này không chỉ cần sự nỗ lực từ bản thân NH và DN, mà còn cần sự hỗ trợ đắc lực từ các cơ quan chức năng khác.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN PHƯƠNG ĐÔNG HÀ NỘI
2.1 GIỚI THIỆU VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG ĐÔNG
2.1.1 Sự ra đời và phát triển
Ngân hàng TMCP Phương Đông thành lập năm 1996, Hội sở tại 45 Lê Duẩn, Quận 1, TP Hồ Chí Minh. Ngân hàng TMCP Phương ._.nh và NHTM cổ phần. Vì vây thị phần DNNVV cũng bị chia sẻ, thị phần hoạt động của Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội ngày càng có nguy cơ bi thu hẹp lại, đòi hỏi NH phải có chiến lược xây dựng, quảng bá hình ảnh tới các đối tượng khách hàng mục tiêu mà ngân hàng đã đề ra. Một trong những yếu tố quan trọng nhất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM là xây dựng lòng tin đối với KH, khiến cho KH muốn gửi tiền và sử dụng các dịch vụ của NH đó.
Với mục tiêu đó, trước hết NH phải chăm sóc và gìn giữ mối quan hệ với những DNNVV có sẵn. Đó là bộ phận KH đã tham gia gửi tiền, hoặc có quan hệ tín dụng, sử dụng các dịch vụ của NH. Trong đó có các DNNVV truyền thống, các DNNVV mới và đang trong quá trình lựa chọn. ngân hàng cố gắng tối đa hóa sự thỏa mãn của các DNNVV. Củng cố lượng DNNVV truyền thống giúp NH khẳng định được uy tín và vị thế của mình, ổn định thị phần hoạt động và là nền tảng để thu hút được các DNNVV mới.
Nghiên cứu nhu cầu của các DNNVV, nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm
Một trong những phần quan trọng nhất của Chính sách khách hàng là nghiên cứu nhu cầu của các DNNVV là gì. Để đưa ra được sản phẩm hợp lí và hiệu quả, NH phải thực hiện phân đoạn thị trường cho từng đối tượng DNNVV khác nhau, nh ư NH có thể phân đoạn theo tiêu chí quy mô, ngành nghề kinh tế, hình thức sở hữu…để biết DN gặp khó khăn gì, có những lợi thế gì, và cần gì ở NH. Từ đó NH mới xây dựng các hình thức cho vay, các dịch vụ đáp ứng được nhu cầu của KH, đồng thời đem lại nguồn thu cho NH.
Chủ động tìm kiếm và mở rộng, đa dạng hóa đối tượng DNNVV để đạt được cơ cấu cho vay hợp lí
Các NHTM đóng vai trò là người đi vay và cũng là người cho vay trong nền kinh tế, tuy nhiên hầu như một số NH còn giữ quan niệm KH phải tìm đến với mình. Tâm lí này đặc biệt phổ biến ở các NHTM quốc doanh. Trong thời buổi cạnh tranh hiện nay, để nâng cao vị thế của mình và theo đuổi mục tiêu chiến lược đề ra NH phải chủ động tìm kiếm đến các DNNVV, mở rộng thị trường. Trong quá trình tìm kiếm, NH phải kết hợp các hình thức tiếp thị, phồ biến thông tin cần thiết về NH, và thiết lập duy trì mối quan hệ bền vững với DNNVV.
Để hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao, NH luôn phải điều chỉnh cơ cấu dư nợ cho vay sao cho hợp lí. Đó là cơ cấu theo đối tượng KH, cơ cấu theo thành phần, ngành nghề kinh tế…Một cơ cấu tín dụng hợp lí phải phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường và tạo ra sự cân đối giữa các khu vực. Hiện nay, lực lượng DNNVV ngày càng gia tăng, đặc biệt là các DN tư nhân, công ty cổ phần, các làng nghề truyền thống; tỷ trọng DN nhà nước ngày càng giảm. Tuy nhiên tỷ trọng cho vay đối với DN nhà nước còn tương đối cao, trong tương lai NH phải giảm dần tỉ lệ này bằng cách thu hẹp đối với những DN nhà nước làm ăn không hiệu quả và tăng cường mở rộng cho vay đối với các DN ngoài quốc doanh. Đó là xu thế tất yếu mà các NHTM hiện nay đang hướng tới.
Nâng cao vai trò tư vấn, hỗ trợ khách hàng, nhằm đẩy nhanh quá trình hợp tác với khách hàng. Một trong những hạn chế hiện nay của DNNVV là thiếu kinh nghiệm về việc đáp ứng các thủ tục, yêu cầu của NH trong quá trình cho vay. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ NH nâng cao vai trò tư vấn và hỗ trợ DNNVV. Đây là phương thức giúp NH tiếp cận với DN, tạo ra hình ảnh tốt đẹp về NH trong mắt khách hàng, đồng thời tiết kiệm thời gian và chi phí cho quá trình hợp tác giữa hai bên.
3.2.1.2 Đa dạng hóa phương thức cho vay và xây dựng chính sách thời hạn nợ hợp lí
Hiện nay, việc lựa chọn phương thức cho vay nào, giải ngân ra sao là không bắt buộc. Giữa NH và KH có thể thỏa thuận với nhau để áp dụng phương thức phù hợp nhất. Như chúng ta đã biết, DNNVV Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Vậy có được khoản vay phù hợp với chu kì sản xuất, vòng quay vốn, các thời điểm ra, vào của dòng tiền…sẽ giúp DN chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh và ổn định để phát triển. Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội hiện đang áp dụng nhiều hình thức cho vay khác nhau, tuy nhiên chủ yếu là cho vay trực tiếp từng lần. Phương thức này nhìn chung là cần thiết đối với những KH mới, tuy nhiên gây mất thời gian do mỗi lần vay DN phải lập lại hồ sơ từ đầu về tất cả các thủ tục, TSĐB…Vì thế khi DN và NH có mối quan hệ thường xuyên, NH nên chủ động cho vay theo hạn mức hoặc một số hình thức khác. Như thế cả NH và DN đều tiết kiệm được thời gian và chi phí, giảm khối lượng thủ tục rườm rà và tạo điều kiện cho DN lên kế hoạch sản xuất kinh doanh cho cả kì.
Cơ cấu về thời hạn trong dư nợ tín dụng là một trong những yếu tố phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn vốn và khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư của xã hội. Hiện nay trong tổng dư nợ đối với DNNVV, dư nợ ngắn hạn vẫn chiếm đa số với tỷ lệ 61,5%, dư nợ trung dài hạn của Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội chủ yếu cho vay đối với những DN lớn. Trong khi đó, nhu cầu về vốn trung và dài hạn của DNNNV là rất lớn. Do đó, NH cần tăng cường hoạt động cho vay trung và dài hạn của DN, góp phần cung cấp cho DN một nguồn vốn lâu dài và ổn định.
Hiện nay, tiêu chuẩn chủ yếu để xét duyệt cho vay trung dài hạn của Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội là tài sản đảm bảo. Tuy nhiên các DNNNV thường không đáp ứng đủ điều kiện này. Mặt khác, nguồn trả nợ vốn vay trung dài hạn là các khoản thu từ dự án đầu tư. Để tạo điều kiện cho DN và đánh giá khả năng trả nợ thực tế, Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội cần xét duyệt cho vay dựa trên tính khả thi của dự án đầu tư. Đây là yếu tố cần thiết nhằm chuyển dịch cơ cấu thời hạn nợ trong cho vay DNVVN hợp lí hơn.
3.2.1.3 Đổi mới chính sách bảo đảm tiền vay
Mặc dù rủi ro đối với cho vay DNNVV vẫn ở mức cao, tuy nhiên, đây lại là hoạt động cho vay đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho NH. Đặc biệt rủi ro chủ yếu xuất phát từ việc DN chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh nên nếu cớ sự phối hợp chặt chẽ giữa NH với DN thì sẽ hạn chế được những rủi ro đó. Tuy nhiên các NH thường e ngại khi cho vay DNNVV nên hầu hết các khoản vay của DNNVV đều phải có TSĐB và NH thường yêu cầu rất cao về các TSĐB này. Điều này sẽ hạn chế khả năng xin vay của các DN bởi lẽ không phải DN nào cũng có thể đáp ứng được nhu cầu về TSĐB khi đi vay.
Hiện nay, các NHTM với việc xác định KH mục tiêu là DNNVV đã tìm cách mở rộng tài sản thế chấp nhằm tạo điều kiện vay vốn cho DN. Việc định giá các TSĐB, đặc biệt là bất động sản của DN, còn là một vấn đề khó xác định và thường mất rất nhiều thời gian. Việc xác định TSĐB ở các DNNN hoặc DNNN mới cổ phần hóa còn nhiều bất cập. Hơn nữa, nguồn trả nợ chính của DN khi đi vay là từ dự án mà DN thực hiện, chứ không phải là TSĐB. Vì vậy, Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội nên mở rộng các hình thức đảm bảo tiền vay và không quá đặt nặng vấn đề TSĐB mà nên chú trọng vào tính khả thi của dự án.
Ngoài ra, NH cần tăng cường hỗ trợ và hợp tác với DNNVV nhằm đem lại lợi ích cho cả 2 bên. NH có thể tiến hành các buổi thuyết trình giới thiệu sản phẩm, phổ biến về thủ tục và yêu cầu cho vay của NH tại DN, góp phần tăng thêm hiểu biết của DN về các loại hình dịch vụ của NH, rút ngắn thời gian và chi phí trong quá trình hợp tác giữa NH và DN.
3.2.2 Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay
Thẩm định cho vay bao gồm có thẩm định khách hàng, thẩm định về tính khả thi của dự án thông qua tìm hiểu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, khảo sát thị trường sản phẩm mà DN đang hướng tới.
Thứ nhất, thẩm định khách hàng bao gồm các điểm sau:
Thẩm định tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ khách hàng. Đây là yếu tố đầu tiên và cơ bản nhất trong quá trình thẩm định khách hàng. Trước hết, cán bộ thẩm định phải xem xét tư cách pháp lí của DN thông qua các giấy tờ liên quan như giấy phép đăng kí kinh doanh, xác nhận của chính quyền địa phương. Đồng thời phải nắm được các quy định của pháp luật về những ngành nghề mà DN được phép tham gia sản xuất kinh doanh và các loại giấy tờ có liên quan. Ví dụ DN khai thác khoáng sản phải có giấy phép hoạt động khai thác mỏ, các giấy tờ gia hạn có chứng thực của các cơ quan có thẩm quyền. Thẩm định hồ sơ khách hàng là bước cơ bản đánh giá mức độ lành mạnh của DN.
Kiểm tra mục đích vay vốn của DN. Đối với bất cứ khoản vay nào DN cũng phải có mục đích cụ thể. Ngân hàng sẽ xem xét mục đích sử dụng vốn vay có hợp pháp hay không, thiết thực hay không và khả năng thành công như thế nào. Đây cũng là căn cứ để ngân hàng theo dõi, đánh giá DN sau này và là cơ sở để giải quyết các khúc mắc giữa NH với DN trong quá trình giải ngân và thu hồi vốn.
Đánh giá năng lực tài chính của DN chủ yếu dựa trên hệ thống sổ sách kế toán của DN và các báo cáo tài chính hàng kì. Công việc này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có nền tảng về kế toán, kiểm toán, thường xuyên cập nhật những quy định mới về hệ thống kế toán chuẩn. Từ đó mới đánh giá được tính chính xác, trung thực của những con số DN đưa lên.
Đánh giá đội ngủ quản lý của DN. Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất phản ánh tác phong, môi trường làm việc và uy tín của DN. Tuy nhiên một số cán bộ ngân hàng thường bỏ qua hoặc không đủ các mối quan hệ xã hội để đánh giá. Do vậy cần chú trọng hơn nữa sự hiểu biết về đội ngũ quản lí của DN.
Xác định giá trị TSĐB. Đây là một cơ sở để ngân hàng quyết định cho vay, đưa ra hạn mức cho vay, và là nguồn thu của ngân hàng nếu khách hàng mất khả năng trả nợ. Việc đưa ra được hạn mức cho vay chính xác phụ thuộc vào vấn đề xác định giá trị tài sản đảm bảo có chính xác hay không. Với các tài sản là bất động sản, hoặc một số tài sản của các DN nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần gặp nhiều bất cập trong công tác thẩm định. Trong quá trình này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải nắm chắc các quy định về đảm bảo tiền vay của NHNN, Ngân hàng TMCP Phương Đông Hội sở và các quy định có liên quan. Đồng thời cán bộ NH phải xin ý kiến chỉ đạo và phối hợp ra quyết định từ cấp trên nhằm đưa ra được đánh giá sát thực nhất.
Thứ hai, thẩm định dự án đầu tư, được xem là nội dung thẩm định mang tính quyết định tới quá trình phê duyệt cho vay của ngân hàng, đặc biệt là các khoản vay trung dài hạn. Bao gồm:
Đánh giá nhu cầu thị trường. Thông qua mục đích sử dụng vốn vay, ngân hàng cần xem xét thị trường mà DN đang hướng tới có tiềm năng hay không. Để đánh giá được tiêu chí này, cán bộ NH phải tìm hiểu về ngành nghề DN hoạt động, các chỉ tiêu chung của ngành, xu hướng phát triển của ngành, và nhu cầu của thị trường đã bão hòa hay chưa? Đánh giá nhu cầu thị trường phụ thuộc vào sự chủ động của cán bộ ngân hàng, do đó Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội cần chú ý khuyến khích và đào tạo tính chủ động, các phương pháp thu thập và xử lí thông tin về thị trường.
Đánh giá chiến lược và khả năng xâm nhập thị trường của sản phẩm. Khi đưa ra phương án sản xuất kinh doanh, DN phải có kế hoạch rõ ràng về từng bước sản xuất, quảng bá và phân phối sản phẩm. Thông qua đó, cán bộ NH phải xem xét tính hợp lí về mặt thời gian, cách thức, chiến lược. Đồng thời góp ý cho DN nhằm tăng thêm tính khả thi cho dự án.
Đánh giá công nghệ và khả năng cung cấp nguyên vật liệu trong cả kì sản xuất: Một trong những hạn chế của các DNNVV ở Việt Nam là không có kinh nghiệm về công nghệ, dẫn đến việc tiêu tốn tiền của nhưng công nghệ mua về hoặc không phù hợp với tiềm năng của DN. Mặt khác, các yếu tố về nguyên liệu đầu vào cũng rất quan trọng, đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra đúng tiến độ. Vì vậy, thông qua chiến lược sản phẩm và công suất của máy móc, thiết bị, cán bộ tín dụng phải tính toán xem khả năng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào có đáp ứng được nhu cầu sản xuất hay không.
Thứ ba, thẩm định tài chính dự án: Là việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án. Thông qua các chỉ tiêu tính toán cụ thể, NH sẽ xem xét tính chân thực của các số liệu và đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Đồng thời cán bộ NH phải chú ý tới kế hoạch lưu chuyển tiền tệ, thời điểm và quy mô dòng tiền ra, vào của dự án. Đây là căn cứ để NH ra quyết định về phương thức cho vay, phướng thức giải ngân và thu hồi vốn sao cho hợp lí.
3.2.3 Đơn giản hóa thủ tục cho vay
Một trong những nguyên nhân cản trở DNNVV tìm đến với NHTM là do thủ tục vay vốn của NH còn quá rườm rà. Tình trạng này đặc biệt phổ biến trong các NHTM quốc doanh. Hiện nay quy trình cho vay của toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Phương Đông bao gồm 6 bước và đã được đổi mới phù hợp hơn. Tuy nhiên một số thủ tục là không cần thiết, ví dụ như đối với khách hàng truyền thống có nhu cầu vốn ngắn hạn có thể bỏ qua bước phân tích tài chính khách hàng, thẩm định khách hàng. Việc này sẽ giúp NH tiết kiệm được thời gian và chi phí, mà vẫn đảm bảo chất lượng cho vay.
Xây dựng quy trình, thủ tục đơn giản và rõ ràng đòi hỏi sự phối hợp giữa các cấp ngân hàng, giữa hội sở và chi nhánh và qua thời gian thử nghiệm thực tế. Bên cạnh đó bản thân Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội phải có sự chủ động, linh hoạt nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho khách hàng, đặc biệt là các DNNVV.
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị đối với các DNNVV
Để phát triển hoạt động cho vay giữa NH và các DNNVV thì không chỉ NH cần có những sự thay đổi mà bản thân DN cũng phải tự hoàn thiện và chủ động hơn để đáp ứng được những yêu cầu cho vay của NH.
3.3.1.1 Tăng cường tính lành mạnh và minh bạch về tài chính
Việc cần làm trước hết đối với các DNNVV hiện nay là tăng cường tính lành mạnh và minh bạch về tài chính. Minh bạch tài chính thường được dùng để chỉ mức độ có sẵn, chính xác và chi tiết của các báo cáo tài chính của DN. DN có mức độ minh bạch cao thường được xem là được quản lý tốt hơn bởi vì điều đó có nghĩa là đội ngũ quản lý được tổ chức và đưa ra những quyết định dựa trên thông tin đầy đủ. Hơn nữa, minh bạch và công khai tài chính trong DN cũng là một trong những cơ sở quan trọng để giữ vững, phát triển DN và giúp cho DN dễ dàng tiếp cận nguồn vốn trên thị trường.
Để nâng cao tính minh bạch trong hoạt động tài chính của mình, DN có thể áp dụng rộng rãi một chế độ kế toán đơn giản, thống nhất và thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực kế toán do Nhà nước ban hành. Điều này sẽ tạo điều kiện cho NH tiếp cận các báo cáo tài chính của DN một cách dễ dàng hơn, từ đó tạo được niềm tin đối với NH. Bên cạnh đó, minh bạch tài chính chỉ có giá trị khi được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán uy tín. Vì vậy, DN có thể mời các công ty kiểm toán độc lập định kì thực hiện kiểm tra tình hình tài chính và để hoạt động này trở thành một hoạt động thường niên của DN. Chi phí của việc thuê công ty kiểm toán độc lập là khá cao và không nhiều DNNVV hiện nay sẵn sàng chi trả cho khoản phí này. Tuy nhiên, khi làm được điều này, hình ảnh và uy tín của DN trong mắt NH nói riêng và trong mắt các nhà đầu tư nói chung sẽ được cải thiện đáng kể. Một vấn đề quan trọng nữa trong việc minh bạch tài chính, đó là phải thay đổi quan niệm và ý thức của lãnh đạo cũng như nhân viên DNNVV. Bản thân DN phải coi việc công khai minh bạch tài chính là quyền lợi để tạo các mối quan hệ hợp tác, là điều kiện để tiếp cận rộng rãi với thị trường dịch vụ tài chính. Có như vậy, DN mới có thể hoạt động một cách chuyên nghiệp, hiệu quả và bền vững.
3.3.1.2 Nghiên cứu kĩ việc lập dự án đầu tư
Không chỉ thực hiện tốt việc minh bạch tài chính, các DNNVV còn cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng việc lập dự án đầu tư trước khi xin vay NH. Để có thể xin được tài trợ của ngân hàng, DN cần phải có một dự án đầu tư và một phương án hoàn trả nợ hiệu quả. Lập dự án đầu tư đầy đủ, kĩ càng và chuyên nghiệp sẽ chứng minh cho NH thấy được sự cần thiết, mục tiêu, hiệu quả đầu tư của dự án, làm cơ sở cho NH xem xét hiệu quả dự án và khả năng hoàn trả vốn. Thông qua dự án đầu tư, NH sẽ đưa ra quyết định có nên tài trợ cho dự án hay không và nếu tài trợ thì tài trợ đến mức độ nào để đảm bảo ít rủi ro nhất. Dự án đầu tư cũng là căn cứ quan trọng để DN theo dõi, đánh giá và có điều chỉnh kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác công trình, đồng thời để hiệp hội các DNNVV cũng như các cơ quan quản lý nhà nước xem xét sự phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển kinh tế của ngành, của hiệp hội nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Nhiều DN do quá mong muốn vay được vốn của NH mà đã lập hồ sơ không chính xác, khai không số liệu, làm
Khi thực hiện lập dự án đầu tư, DN cần phải đảm bảo được tính khoa học, tính pháp lý, tính thực tiễn, tính thống nhất và tính phỏng định.
Thứ nhất, tính khoa học của dự án được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu:
Về số liệu thông tin. Những dữ liệu, thông tin để xây dựng dự án phải đảm bảo trung thực, chính xác, tức là phải chứng minh được nguồn gốc và xuất xứ của những thông tin và những số liệu đã thu thập được (do các cơ quan có trách nhiệm cung cấp, nghiên cứu tìm hiểu thực tế...).
Về phương pháp lý giải. Các nội dung của dự án không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất, đồng bộ. Vì vậy, quá trình phân tích, lý giải các nội dung đã nêu trong dự án phải đảm bảo logic và chặt chẽ.
Về phương pháp tính toán. Khối lượng tính toán trong một dự án thường rất lớn. Do đó, khi thực hiện tính toán các chỉ tiêu cần đảm bảo đơn giản và chính xác. Đối với các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về kích thước, tỷ lệ.
Về hình thức trình bày. Dự án chứa đựng rất nhiều nội dung, nên khi trình bày phải đảm bảo có hệ thống, rõ ràng và sạch đẹp.
Thứ hai, dự án đầu tư phải có tính pháp lý. Dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, tức là phù hợp với chính sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi DN phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản luật pháp có liên quan đến các hoạt động đầu tư đó.
Thứ ba, dự án đầu tư của DN cần đảm bảo tính thực tiễn. Tính thực tiễn của dự án đầu tư thể hiện ở khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Các nội dung, khía cạnh phân tích của dự án đầu tư không thể chung chung mà dựa trên những căn cứ thực tế, phải được xây dựng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về mặt bằng, thị trường, vốn...
Thứ tư, khi lập dự án đầu tư, DN cần phải chú trọng đến tính thống nhất của dự án. Lập và thực hiện dự án đầu tư là cả một quá trình gian nan, phức tạp. Đó không phải là công việc độc lập của chủ đầu tư mà nó liên quan đến nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, các nhà tài trợ...
Cuối cùng, DN cũng cần phải quan tâm đến tính phỏng định của dự án đầu tư. Những nội dung, tính toán về quy mô sản xuất, chi phí, giá cả, doanh thu, lợi nhuận... trong dự án chỉ có tính chất dự trù, dự báo. Thực tế thường xảy ra không hoàn toàn đúng như dự báo. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, thực tế xảy ra lại khác xa so với dự kiến ban đầu trong dự án.
Khi DN đáp ứng được tất cả các tiêu chí này trong lập dự án đầu tư, chắc chắn khả năng dự án được các NH tài trợ là rất cao; uy tín, hình ảnh cũng như tính chuyên nghiệp của DN sẽ được nâng cao trong con mắt của NH.
3.3.1.3 Nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế và nâng cao khả năng tiếp cận thị trường
Trước đây, khi Việt Nam chưa gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, các DNNVV vẫn đang nhận được sự bảo hộ rất lớn từ phía nhà nước. Đó là các chính sách về thuế, bảo hộ xuất khẩu, tìm kiếm thị trường…Tuy nhiên trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO hiện nay, Việt Nam đang dần dỡ bỏ hàng rào thuế quan cũng như các chính sách hỗ trợ đối với DN. Vấn đề này đặt ra thử thách rất lớn đối với các DNNVV. Vì vậy bản thân DN muốn tồn tại và phát triển trước hết phải sản xuất sản phẩm theo chuẩn mực quốc tế về quy cách, chất lượng...phải chủ động tìm kiếm thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Chỉ khi DNNVV có quyết tâm và nỗ lực, các NHTM mới dám cho vay bởi hoạt động này chứa đựng nhiều rủi ro.
3.3.1.4 Chủ động trong nghiên cứu cơ chế chính sách và tiếp cận với ngân hàng thương mại
DNNVV cần chủ động trong việc tìm hiểu cơ chế, chính sách và pháp luật của nhà nước đối với lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình. Một DN nắm vững luật pháp sẽ có khả năng hoạt động hiệu quả hơn, và sẽ tránh được việc thực hiện những dự án đầu tư không phù hợp với quy định pháp luật. Để thực hiện tốt hoạt động này, các DNNVV có thể lập ra một bộ phận pháp chế, hoạt động độc lập và chuyên nghiệp. Bộ phận này sẽ nghiên cứu và liên tục cập nhật các chính sách, văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của DN và của ngành, từ đó xây dựng, điều chỉnh những quy định, điều lệ riêng cho DN. Những quy định, điều lệ này phải phù hợp với DN và nằm trong khuôn khổ của pháp luật.
Bên cạnh vấn đề luật pháp, các DNNVV hiện nay còn chưa thực sự chủ động tiếp cận nguồn vốn vay của NH. Rất nhiều trường hợp, DN chỉ tìm đến vay NH khi không thể huy động được vốn từ nguồn nào khác. Nguyên nhân một phần do tâm lý ngại công khai minh bạch thông tin, nhưng cũng còn do DN lo ngại thủ tục phiền phức và thời gian nhận được vốn vay lâu. Vì vậy, bản thân DN phải thay đổi những định hướng sai lệch này và cần chuẩn bị cho mình những điều kiện đầy đủ, chủ động tìm đến với ngân hàng. DN có thể xây dựng mối quan hệ với NH trước khi xin vay thông qua việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ của NH như quản lý ngân quỹ, trả lương cho công nhân viên qua tài khoản tại NH… Khi đã có được mối quan hệ với NH, DN sẽ có thể trình bày những nhu cầu về vốn, khả năng của DN và cũng như dự án đầu tư.
Mặt khác, DN cũng cần tìm hiểu về các dịch vụ NH, nâng cao hiểu biết về chính sách và thủ tục cho vay của NH để đáp ứng các yêu cầu về hồ sơ, giấy tờ của NH một cách sớm nhất, giảm bớt thời gian xem xét quyết định cho vay, nhờ đó, DN cũng sẽ nhanh chóng nhận được nguồn tài trợ từ NH.
Hoạt động cho vay của DNNVV và NH là một hoạt động mang tính hai chiều, tác động qua lại và tương hỗ lẫn nhau. Vì vậy, NH và bản thân DN đều phải có những sự cố gắng hoàn thiện để hoạt động cho vay đạt hiệu quả cao nhất.
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP Phương Đông Hội sở
Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội luôn chịu sự chỉ đạo trong mọi hoạt động của Ngân hàng TMCP Phương Đông Hội sở, vì thế việc mở rộng cho vay đối với DNNVV của chi nhánh Hà Nội cần sự hỗ trỡ rất lớn từ phía Ngân hàng TMCP Phương Đông Hội sở. Hiện nay, Ngân hàng TMCP Phương Đông Hội sở đã xác định DNNVV là khách hàng chiến lược, tuy nhiên về chính sách thực hiện thì còn nhiều bất cập. Luân văn xin đề cập một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, Chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội cần xây dựng chính sách tín dụng cho vay DNNVV. Trong đó cần ban hành quy trình cho vay cho đối tượng khách hàng này, cùng với những chính sách ưu đãi cụ thể. Việc ban hành những ưu đãi đối với DNNVV giúp các chi nhánh chủ động hơn trong quá trình thẩm định và quyết định cho vay.
Thứ hai, để chỉ đạo hiệu quả công tác cho vay DNNVV, Ngân hàng TMCP Phương Đông Hội sở cần thành lập tổ chuyên trách về cho vay DNNVV. Ban này sẽ thực hiện việc cập nhật, xử lí thông tin, trực tiếp chỉ đạo công tác cho vay DNNVV ở các chi nhánh.
Thứ ba, Ngân hàng TMCP Phương Đông Hội sở cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát hoạt động của các Chi nhánh. Việc kiểm tra phải tiến hành định kì nhằm đảm bảo chi nhánh thực hiện đúng quy định, đúng tiến độ được giao phó. Bên cạnh đó, công tác thanh tra thường xuyên giúp phát hiện những sai phạm kịp thời, ghi nhận những khó khăn để cũng Chi nhánh tháo gỡ và xử lí.
3.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Thứ nhất, NHNN Việt Nam cần có những quy định thông thoáng hơn trong vấn đề bảo đảm tiền vay. Trước hết cần sớm ban hành các quy chế cụ thể cho phép các ngân hàng đang hoạt động ở Việt Nam được phép chấp nhận giá trị quyền sử dụng đất làm tài sản thế chấp. Đây là xu hướng hợp lí đối với thực trạng thị trường tài chính-tiền tệ của Việt Nam hiện nay, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng cho vay, đặc biệt là với đối tượng khách hàng DNNVV.
Thứ hai, NHNN Việt Nam cần ban hành một số quy định cụ thể về chính sách tín dụng đối với DNNVV, là căn cứ để các NH lập và đưa ra thể chế cho vay với đối tượng khách hàng này, tạo ra sự linh hoạt và hành lang hoạt động cho cán bộ tín dụng.
3.3.4 Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNNVV của NHTM, các cơ quan nhà nước cũng cần có những biện pháp cụ thể để tạo ra những điều kiện đầy đủ và thuận lợi cho hoạt động này phát triển. Xây dựng và hoàn chỉnh khung pháp lý đảm bảo sự ổn định và rõ ràng về môi trường đầu tư và tính công khai, minh bạch về chế độ, chính sách khuyến khích đầu tư.
Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng môi trường pháp lý lành mạnh đối với mọi thành phần kinh tế. Để tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng và công bằng cho các loại hình doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh, phải từng bước tiến tới hệ thống luật pháp đồng bộ, điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp theo một cơ chế chính sách thống nhất trên quan điểm Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân, từng doanh nghiệp. Chính phủ cần nhanh chóng xây dựng và hoàn chỉnh khung pháp lý đảm bảo sự ổn định và rõ ràng về môi trường đầu tư và tính công khai, minh bạch về chế độ, chính sách khuyến khích đầu tư. Đồng thời hình thành hệ thống kế toán tài chính và thống kê kinh tế để cung cấp cho các doanh nghiệp không phân biệt loại hình sở hữu.
Thứ hai, Tăng cường hỗ trợ thông tin với DNNVV. Vấn đề thông tin là một trong những khó khăn lớn đối với DNNVV. Vì thế, Nhà nước cần có chính sách về cung cấp thông tin cho bộ phận DN này. Với việc lập các website chuyên về tin tức, sự kiện, thị trường cho các ngành nghề DNNVV sẽ giúp DN có được hiểu biết tổng quan nhất. Đồng thời các cơ quan chức năng có thể tiến hành đào tạo các khóa về thủ tục đăng kí kinh doanh, hoạt động xuất nhập khẩu, đào tạo công tác quản lí, các quy chế của NHTM…nhằm nâng cao hiểu biết cũng như năng lực của DNNVV.
Thứ ba, các cơ quan nhà nước cần hạn chế phân biệt đối xử giữa các DN lớn, DN Nhà nước với các DNNVV. Việc phân biệt đối xử không những tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các loại hình DN trong nền kinh tế mà còn làm giảm uy tín cũng như hiệu quả quản lý của Nhà nước. NHNN và Bộ Tài chính có thể tác động đến các NHTM bằng việc đưa ra những ưu đãi với NH khi thực hiện cho vay DNNVV.
Thứ tư, nên thành lập các khu công nghiệp tập trung cho DNNVV. Hoạt động tập trung giúp Nhà nước dễ dàng hỗ trợ cho các DNNVV về cơ sở hạ tầng, cập nhật thông tin, phát triển thị trường và giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho DNNVV.
Thứ năm, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ thành lập và phát triển DNNVV ở một số ngành lợi thế, như các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh, các ngành tại đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, cũng như trong các lĩnh vực phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn, các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm thuộc các ngành nghề truyền thống…Đó được xem là những ngành thuận lợi cho DNNVV, vì thế Nhà nước cần định hướng cho DN đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong những lĩnh vực trên.
Cuối cùng, các cơ quan nhà nước cần có những biện pháp cụ thể để đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của các hiệp hội. Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (Vinasmea) được thành lập từ năm 2005, với định hướng là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tập hợp, liên kết, hợp tác, hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hiệp hội giữ vai trò cầu nối giữa các doanh nghiệp với cơ quan chức năng trong mọi mặt hoạt động, đồng thời làm tham mưu, đóng góp ý kiến với các cơ quan nhà nước nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách vì lợi ích đất nước và vì lợi ích của doanh nghiệp...
KẾT LUẬN
Trước sự phát triển của lực lượng DNNVV Việt Nam hiện nay, mở rộng cho vay đối với các DNNVV là hoạt động rất tiềm năng và là xu thế tất yếu của các NHTM.
Chuyên đề tốt nghiệp về đề tài “Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội” đã nêu lên một số cơ sở lý luận về hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay DNNVV nói riêng, tìm hiểu và vận dụng vào việc phân tích để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Đồng thời chuyên đề đã giới thiệu hoạt động của chi nhánh ngân hàng TMCP Phương Đông Hà Nội trong 2 năm 2007-2008. Thực hiện đi sâu phân tích hoạt động cho vay DNNVV tại Chi nh ánh, phát hiện những điểm mạnh và điểm yếu của hoạt động này, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp và một số kiến nghị nhằm mở rộng cho vay DNNVV.
Trong những năm vừa qua, Chi nhánh Hà Nội đã xác định được phướng đúng đắn và đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động cho vay DNNVV, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Để nâng cao hiệu quả mở rộng cho vay DNNVV, đòi hỏi toàn thể đội ngũ cán bộ nhân viên và Ban lãnh đạo Chi nhánh phải chủ động khắc phục khó khăn, không ngừng trau dồi nghiệp vụ và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Ngân hàng Thương mại, PGS.TS Phan Thị Thu Hà – NXB Thống Kê 2006.
Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại, TS Nguyễn Minh Kiều – NXB Thống Kê 2007.
Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng, Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng – NXB Thống Kê 1998.
Quản trị Ngân hàng thương mại, Peter Rose 2004.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Frederic S.Mishkin – NXB Khoa học kỹ thuật 1994.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, TS.Lê Xuân Bá, TS Trần Kim Hào, TS Nguyễn Hữu Thắng-NXB Chính trị quốc giá 2006.
Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, GS.TS Nguyễn Đình Hương – NHB Chính trị Quốc gia 2002.
“Mấy vấn đề về đầu tư tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV nước ta”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 19/06.
Báo cáo Doanh nghiệp Việt Nam 2006 - Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam VCCI
Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số 21-27
Luật doanh nghiệp 2005, luật các tổ chức tín dụng 2004, luật ngân hàng Nhà nước 1998 và các văn bản luật của Ngân hàng Nhà nước và những hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Sổ tay tín dụng và Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2007, 2008 của Chi nhánh Ngân hàng Phương Đông Chi nhánh Hà Nội.
Các trang web:
www.sbv.gov.vn
www.hasmea.org
www.vneconomy.vn.
www.ocb.com.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2634.doc