Lời nói đầu
Theo thông lệ hàng năm sau mỗi khóa đào tạo cử nhân hành chính chính quy HVHCQG lại tổ chức cho sinh viên tham gia khóa thực tập; sinh viên khóa II chúng tôi được phân công về các cơ quan, bộ, ban, ngành, địa phương thực tập.
Là một sinh viên thuộc đoàn thực tập số 12 về Toà HC - TAND Hà Nội, trong thời gian thực tập vừa qua tôi đã thu nhận được khá nhiều kiến thức thực tế, đã làm sáng tỏ hơn những kiến thức sách vở được thầy cô truyền đạt trên giảng đường.
Trong công cuộc đổi mới
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Toà hành chính - Toà án nhân dân TP Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,Toà HC đã được thành lập và bắt đầu hoạt động từ 1/7/1996 để xét xử các vụ án hành chính, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cuả các cơ quan , tổ chức và cá nhân.
Toà HC là cơ quan tài phán hành chính có lịch sử hình thành và phát triển còn rất trẻ.Vì thế trong gần 10 năm hình thành và phát triển của mình , tuy đã đạt được nhiều thành tựu song bên cạnh đó cũng còn tồn tại không ít vướng mắc bất cập về mô hình đang cần được tháo gỡ.
Qua tìm hiểu thực tế tại Toà HC-TAND Hà Nội, tiếp xúc hỏi ý kiến với các cán bộ Toà và những người dân đến khiếu kiện , bản thân tôi thấy rằng còn có rất nhiều hạn chế về mô hình và phương thức hoạt động của Toà HC cần được nghiên cứu và hoàn thiện;nhằm làm cho Toà HC thực sự là cơ chế hữu hiệu đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp của người dân và là phương thức xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh.
Với bản báo cáo nhỏ bé của mình, tôi không có tham vọng trình bày “sâu rộng” về vấn đề này;tôi chỉ mong được trình bày những hiểu biết còn ít ỏi của mình qua việc tìm hiểu tài liệu và thời gian thực tập tại Toà HC vừa qua.
Sau đây tôi xin trình bày những kết quả thu nhận được của bản thân về khoá thực tập này , thông qua bản báo cáo thực tập với đề tài:” Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Toà HC”
Lời cảm ơn
Bản báo cáo này được hoàn thành , ngoài những cố gắng nỗ lực của bản thân , tôi còn nhận được sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo :
Thầy Vũ Đức Đán ; Cô Lê Thị Thảo ; Thầy Nguyễn Tiến Hiệp – Khoa Nhà nước và Pháp luật.
Thầy Nguyễn Minh Đức – Ban đào tạo – Học viện Hành chính Quốc gia.
Cùng sự giúp đỡ , tạo điều kiện thuận lợicủa các cán bộ công chức Toà Hành chính-TAND TP Hà nội
Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã dạy dỗ , truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt khoá học.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều , song bản báo cáo của tôi sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định.Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để bản báo cáo có chất lượng tốt hơn.
Sinh viên: Nguyễn Thị Lê Trâm
Lớp : KH 2B
Học viện Hành chính Quốc gia.
Chương 1
Giới thiệu chung về Tòa Hành chính
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt Đảng và nhà nước thường xuyên quan tâm đến việc bảo đảm cho công dân có thể nêu những ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước, khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật trong các cơ quan Nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trên cơ sở các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền đã có nhiều cố gắng trong việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu kiện của công dân.
Tuy nhiên, trong thực tế công tác này còn có nhiều tồn tại: đơn thư khiếu nại tồn đọng còn nhiều, việc giải quyết của các cấp, các ngành còn chậm trễ, hiệu quả giải quyết thấp, người dân thường bị thiệt thòi về quyền lợi, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân vào các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là từ trước đến nay thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hành chính vẫn được giao cho các cơ quan hành chính nhà nước.
Như chúng ta đã biết đối tượng khiếu kiện hành chính là hoạt động của các cơ quan hành chính, điều đó dẫn đến một điểm bất hợp lý là cơ quan hành chính nhà nước vừa là người bị kiện vừa là người giải quyết và chính vì vậy mà việc giải quyết khó bảo đảm tính công bằng, khách quan.
Người dân đã bị thiệt thòi về quyền lợi, khi khiếu nại chỉ biết trông chờ vào thái độ tích cực hay không của cơ quan hành chính nhà nước.
Chưa có một cơ quan hoàn toàn độc lập, chỉ tuân theo pháp luật có quyền phán quyết quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, bảo vệ và khôi phục quyền lợi của công dân. Chính vì vậy, phù hợp với xu hướng cải cách nền hành chính nhà nước với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nhà nước ta đã quyết định thành lập các tòa hành chính.
Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ X đã thông qua "luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức TAND", trong đó quy định về sự hình thành tổ chức và hoạt động xét xử Hành chính.
Ngày 21/5/1996 UBTV Quốc hội thông qua "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính". Đây là những văn bản pháp lý đầu tiên rất quan trọng đánh dấu sự ra đời của cơ chế tài phán hành chính ở Việt Nam. Kể từ đó, người dân có thể khởi kiện cơ quan Nhà nước về những quyết định hay hành vi trái pháp luật trước tòa án. Do đó, một quyết định hay hành vi của cơ quan hành chính nhà nước có thể được đưa ra xem xét công khai và bình đẳng trước cơ quan tài phán. Đây thực sự là một bước tiến mới trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, một biểu hiện rõ ràng, cụ thể của sự đổi mới trong nhận thức về quá trình dân chủ hóa xã hội, bảo vệ các quyền dân sự của công dân.
Sự hình thành cơ quan tài phán hành chính và thiết lập cơ chế xét xử hành chính ở Việt Nam là cả một quá trình tìm tòi, suy nghĩ và tranh luận kéo dài nhiều năm với những quan điểm, quan niệm rất khác nhau. Để có thể lý giải được những quy định của pháp luật liên quan đến cơ chế xét xử hành chính hiện nay, cần thiết phải nhắc lại một cách khái quát quá trình đó.
Bắt đầu từ những ý tưởng về sự hiện hữu của cơ quan tài phán hành chính. Đây hoàn toàn là vấn đề không đơn giản và trên thực tế không phải nước nào trên thế giới cũng chấp nhận sự hiện hữu một cơ quan tài phán với chức năng xét xử hoạt động hành chính. Những ý tưởng đó hình thành gần như cùng một lúc từ 2 cơ sở:
1. Nhu cầu thực tế của công tác giải quyết khiếu kiện hành chính.
2. Sự phát triển của khoa học hành chính trước yêu cầu của cải cách nền HC nhà nước ở Việt Nam đầu những năm 90. Trên cơ sở những ý tưởng về sự hiện hữu của cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam, thanh tra Nhà nước cơ quan có trách nhiệm chủ yếu trong việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến công tác xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã đề nghị chính phủ giao nhiệm vụ nghiên cứu để thiết lập tòa hành chính ở Việt Nam.
Từ tháng 5 năm 1993, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức giao cho Thanh tra Nhà nước(nay là Thanh tra Chính phủ) chủ trì phối hợp với Bộ tư pháp, Ban tổ chức - cán bộ Chính phủ(nay là Bộ nội vụ), TAND Tối cao nghiên cứu soạn thảo dự án luật tổ chức tòa án hành chính.
Để có thêm căn cứ khoa học cho việc thực hiện nhiệm vụ khó khăn trước một vấn đề còn tương đối mới mẻ này, thanh tra Nhà nước đã triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ: "Cơ sở khoa học của việc thiết lập hệ thống tòa án HC ở Việt Nam" (số đăng ký 92 - 98 - 207/ĐT) và đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước: "Tòa án HC - những vấn đề lý luận và thực tiễn (số đăng ký 95 - 98 - 406/ĐT). Cả 2 đề tài nêu trên đã được nghiệm thu và đánh giá đạt loại xuất sắc. Trong quá trình nghiên cứu của đông đảo các nhà khoa học quản lý, khoa học pháp lý và những người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại hành chính. Qua đó, những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến sự hình thành cơ quan tài phán hành chính ngày càng sáng tỏ và được nhiều người ủng hộ.
Vấn đề tài phán hành chính và sự thiết lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam cũng luôn được coi là một trong những nội dung quan trọng của quá trình nghiên cứu cải cách nền hành chính quốc gia. Song song với quá trình nghiên cứu khoa học, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, Thanh tra Nhà nước đã chủ trì việc nghiên cứu và soạn thảo dự án luật về tổ chức tòa án hành chính; đồng thời cũng chuẩn bị dự thảo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án tài chính để khi Quốc hội thông qua dự luật, Toà án HC có cơ sở pháp lý đi vào hoạt động.
Ngày 20/12/1994, Chính phủ đã có tờ trình UBTV Quốc hội về dự án Luật tổ chức Viện tài phán HC (tờ trình số 7120/CP), trong đó nêu rõ sự cần thiết phải thiết lập cơ quan tài phán HC ở Việt Nam và đề nghị phương án tổ chức cơ quan tài phán HC thành một hệ thống thuộc Thủ tướng nhưng độc lập với cơ quan hành pháp với tên gọi là Viện tài phán HC.
Phương án này xây dựng trên quan điểm coi hành chính tài phán cùng với hành chính quản lý là một nội dung thống nhất trong nền hành chính quốc gia. Thủ tướng là người đứng đầu cơ quan hành pháp, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động hành pháp. Các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chính phủ về lĩnh vực quản lý mà mình phụ trách. Tổ chức như vậy bảo đảm sự thống nhất của nền HC quốc gia, giúp cho Viện tài phán HC đưa ra được các phán quyết nhanh chóng, kịp thời, đồng thời sẽ bảo đảm hoạt động tài phán không cản trở các hoạt động quản lý. Đặt cơ quan tài phán hành chính trong quyền hành pháp thuộc Thủ tướng sẽ tạo ra cơ chế kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ hoạt động của cơ quan quản lý, bảo đảm tính pháp chế trong mọi hành vi của cơ quan này. Thực hiện phương án này sẽ tạo ra bước phát triển cao hơn trong công tác giải quyết khiếu nại HC mà từ trước đến nay vẫn do các cơ quan HC và cơ quan thanh tra tiến hành. Hiệu lực thi hành bản án HC được bảo đảm bởi quyền lực của thủ tướng chính phủ.
Ngày 28/12/1994, UBTV Quốc hội họp đã xem xét và cho ý kiến bước đầu về dự án luật tổ chức Viện tài phán HC. Trên tinh thần đó, thường trực Chính phủ đã họp và thảo luận những ý kiến bước đầu của UBTV quốc hội, cân nhắc những ưu điểm và nhược điểm, những khó khăn và thuận lợi của từng phương án, và thấy rằng phương án tổ chức Tòa án HC thành một hệ thống thuộc Thủ tướng là thích hợp hơn cả. Vì vậy, Chính phủ tiếp tục đề nghị UBTV Quốc hội xem xét phương án tổ chức cơ quan tài phán HC thành hệ thống độc lập thuộc Thủ tướng như tờ trình số 7120/CP ngày 20/12/1994 của Chính phủ trình UBTV Quốc hội. Tuy nhiên, theo phương án này cần chỉnh lý một số điểm sau: tên gọi cơ quan tài phán hành chính là Tòa Hành chính, không gọi là Viện tài phán Hành Chính…"
UBTV Quốc hội đã xem xét dự luật tại 2 phiên họp ngày 15 và ngày 25/3/1995. Trên thực tế, cuộc tranh luận chủ yếu tập trung vào vấn đề mô hình tổ chức Tòa án hành chính như thế nào? Do Tòa án Hành chính là vấn đề rất mới mẻ đối với chúng ta và quá trình thảo luận có nhiều ý kiến khác nhau nên UBTV Quốc hội đã đề nghị Chính phủ nghiên cứu, chỉnh lý và trình Quốc hội các phương án khác nhau về tổ chức Tòa án Hành chính để Quốc hội xem xét, quyết định.
Ngày 30/3/1995 Chính phủ đã có tờ trình số 1650/CP trình Quốc hội về Dự án Luật tổ chức Tòa án Hành chính kèm theo dự thảo các văn bản pháp luật tương ứng với từng phương án, bao gồm:
- Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức Tòa án Nhân dân (phương án Tòa án Hành chính thành các phân tòa trong TAND).
- Dự thảo Luật Tổ chứcTòa Hành chính (tổ chức Tòa án Hành chính thành hệ thống độc lập với hệ thống TAND hiện nay).
- Dự thảo Pháp lệnh tổ chức Tòa án Hành chính (Tổ chức Tòa án Hành chính thành hệ thống như Tòa án Dân sự).
Đồng thời với các phương án tổ chức Tòa án Hành chính là Dự thảo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Hành chính.
Tại kỳ họp thứ VII Quốc hội khóa IX, Quốc hội đã dành nhiều thời gian để thảo luận về dự án luật và các ý kiến vẫn chủ yếu xoay quanh việc phân tích các ưu nhược điểm, nhưng thuận lợi và khó khăn, tính hợp lý và bất hợp lý của từng mô hình tổ chức Tòa án Hành chính ở Việt Nam. Cuối cùng, Quốc hội đã quyết định chọn phương án tổ chức Tòa án Hành chính thành các phân tòa trong hệ thống Tòa án Nhân dân và giao TAND Tối cao phối hợp với các cơ quan hữu quan của Chính phủ soạn thảo dự thảo "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức Tòa án Nhân dân" cho sự thiết lập tòa Hành chính.
Ngày 28/9/1995, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ IX đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức TAND, trong đó quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử các vụ án Hành chính. Về mặt tổ chức, tại Tòa án Nhân dân tối cao và Tòa án Nhân dân cấp tỉnh có tòa Hành chính, còn tại Tòa án Nhân dân cấp huyện có các thẩm phán xét xử hành chính.
Ngày 21/5/1996, "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính" được ban hành (sau đó được sửa đổi, bổ sung ngày 25/12/1998). Sự ra đời của cơ quan xét xử hành chính đánh dấu một bước phát triển mới trong thiết chế bảo đảm dân chủ của người dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, tránh được sự xâm phạm từ phía các cơ quan Nhà nước.
Có thể thấy rằng, quá trình nghiên cứu và hình thành cơ chế tài phán hành chính ở nước ta thể hiện xu hướng tất yếu của việc dân chủ hóa đời sống xã hội và dân chủ hóa ngay trong bản thân hoạt động của bộ máy Nhà nước. Khi nghiên cứu quá trình này cũng có rất nhiều nét tương đồng với sự hình thành cơ chế tài phán Hành chính ở một số nước trên thế giới, đặc biệt là khi tìm hiểu lịch sử hơn 200 năm hình thành và phát triển của Hội đồng Nhà nước Pháp, cơ quan tài phán Hành chính tối cao và hệ thống Tòa án Hành chính của Pháp cũng như quá trình tranh luận kéo dài mấy chục năm qua ở Thái Lan về sự cần thiết và phương án tổ chức cơ quan tài phán Hành chính ở nước này. Chính vì vậy, khi đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án Hành chính ở nước ta hiện nay, một mặt chúng ta cần tìm ra những mặt hạn chế của nó để khắc phục nhưng mặt khác chúng ta cũng cần phải coi đó là quá trình phát triển tất yếu từ không đến có, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện của cơ chế này.
Tháng 12/1998 Quốc hội đã thông qua "Luật khiếu nại, tố cáo" thay thế cho "Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân" năm 1991. Như vậy, cơ chế giải quyết khiếu kiện Hành chính được thực hiện theo qui định của các văn bản này cho đến nay đã có những kết quả nhất định, đồng thời cũng bộc lộ những vấn đề khó khăn bất cập và đã được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại tố cáo năm 2003 khắc phục.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa hành chính:
a. Chức năng, nhiệm vụ:
Tại điều 1- Luật tổ chức tòa án nhân dân đã khẳng định:
"TAND Tối cao, các Tòa án Nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những viện khác theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác".
Tòa Hành chính là cơ quan xét xử, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quá trình hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là của các cơ quan Hành chính Nhà nước. Nói cách khác, Tòa Hành chính là cơ quan xét xử có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện của công dân đối với quyết định hay hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước hoặc công chức Nhà nước khi họ cho là trái pháp luật, xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của họ.
Như vậy, ta thấy một điểm đặc biệt của Tòa Hành chính là cơ quan xét xử mà đối tượng của nó là các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cán bộ, cơ quan Nhà nước, đặc biệt là cán bộ và cơ quan hành chính Nhà nước.
Nếu như các tòa án khác (Tòa dân sự, kinh tế, lao động…)có trách nhiệm giải quyết tranh chấp giữa các pháp nhân với nhau hoặc giữa pháp nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhau… thì ngược lại, Tòa Hành chính có thẩm quyền xét xử các tranh chấp giữa công dân và cán bộ, cơ quan Nhà nước.
Nói tóm lại, chức năng của tòa Hành chính là xét xử về hành chính, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước giữa công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan hành chính Nhà nước và các cơ quan khác khi thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của nhân viên Nhà nước trong bộ máy đó. Trong khi xét xử, Tòa Hành chính có các quyền và nghĩa vụ: kiểm tra tính hợp pháp các quyết định hành chính, các hành vi hành chính bị khiếu kiện xét xử các vụ kiện hành chính.
b. Quyền hạn:
1. Thẩm quyền chung:
Pháp luật giao cho Tòa án thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành chính đối với quyết định và hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và cán bộ viên chức nhà nước.
Tuy nhiên chúng ta biết rằng, hoạt động quản lý diễn ra hàng ngày, hàng giờ rất đa dạng và phong phú, vi phạm trong quản lý hành chính cũng có rất nhiều cấp độ khác nhau. Nếu cho phép mọi tranh chấp hành chính đều có thể kiện trước Tòa án thì sẽ có một khối lượng rất lớn các vụ việc, Tòa án không thể giải quyết được. Vì vậy, pháp luật lựa chọn những loại việc thường xảy ra nhiều vi phạm, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân để xác định là đối tượng xét xử của tòa án hành chính.
Theo quy định của Điều 11- "Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính". Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án Hành chính sau đây:
*. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Hiện nay hầu hết các lĩnh vực quản lý Nhà nước đều có quy định về xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể như các lĩnh vực: giao thông, văn hóa, thương mại, hải quan, thuế, quốc phòng, bảo vệ môi trường, lâm nghiệp, đất đai, khoáng sản, xây dựng, bưu chính viễn thông, lao động, thủy sản, y tế, an ninh trật tự…).
*. Khiếu kiện quy định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác;
*. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính.
*. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống;
*. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Quản lý đất đai gồm các nội dung sau đây( theo luật đất đai hiện hành):
+ điều tra, khảo sát, đo dạc,đánh giá ,phân hạng đất và lập bản đồ địa chính
+ Quy hoạch và kế hoạch hóa việc sử dụng đất;
+ Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó.
+ Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất.
+ Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý sử dụng đất.
+ Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
*. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản sản xuất, kinh doanh.
*. Khiếu kiện Quyết định HC, Hành chính HC trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản.
*. Khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC trong việc thu thuế, truy thu thuế.
Theo quy định của Pháp luật hiện nay có các loại thuế sau:
+ Thuế thu nhập
+ Thuế xuất nhập khẩu
+ Thuế sử dụng đất nông nghiệp
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt
+ Thuế chính quyền sử dụng đất
+ Thuế nhà đất
+ Thuế tài nguyên
+ Thuế môn bài
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp
+ Thuế giá trị gia tăng
*. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thu phí, lệ phí.
*. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Pháp lệnh đã liệt kê ra 9 loại việc thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, điều đó tạo điều kiện cho công dân có thể xác định những việc nào mình có thể khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết. Ngoài ra để có thể đáp ứng kịp thời được tình hình khi xét thấy có một số loại việc cần thiết phải cho phép khởi kiện ra tòa án, khoản 10 Điều 11 pháp lệnh quy định: Tòa án có toàn quyền xét xử "các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật" . Điều đó tạo ra một "quy định mở" cho việc bổ sung sau này các việc khác thuộc đối tượng xét xử của Tòa hành chính.
2.Thẩm quyền cụ thể:
Tại Khoản 2 Điều 30-Pháp lệnh đã qui định:
"Tòa hình sự, Tòa dân sự và Tòa án hành chính, Tòa án nhân dân, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
*. Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
*. Phúc thẩm những vụ án mà bản án quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng".
Cụ thể, Tòa án hành chính thuộc Tòa án Nhân dân Hà Nội là một phân tòa thuộc Tòa án Nhân dân cấp tỉnh. Do đó, Tòa hành chính Hà Nội có thẩm quyền giải quyết các vụ kiện hành chính qui định tại khoản 2 Điều 12- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
"Tòa án Nhân dân tỉnh, thành phố, trực thuộc Trung ương (gọi chung là tòa án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây:
*. Những khiếu kiện Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm soát nhân dân tối cao và Quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ.
*. Những khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan chức năng thuộc một trong cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 điều này và Quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức của của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ.
*. Những khiếu kiện Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan Nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước đó.
*. Những khiếu kiện Quyết định kỷ luật buộc thôi việc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm 6 khoản 2 điều này.
*. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện đối với khiếu kiện Quyết định HC, Hành chính HC của UBND, Chủ tịch UB ND cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng phức tạp hoặc trong trường hợp các thẩm phán của tòa án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi".
Tòa án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Qua tìm hiểu thực tế tại Tòa án Hành chính TAND Hà Nội (với phương pháp hỏi ý kiến trực tiếp cán bộ trong Tòa hành chính). Tôi tìm hiểu được rõ hơn về quyền hạn thẩm quyền của Tòa hành chính với nội dung:
Việc phân định thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành chính giữa các cấp tòa án căn cứ vào đối tượng bị kiện. Thông thường Tòa án Nhân dân cấp có quyền xét xử đối tượng bị kiện là cấp đó trở xuống. Cấp nào có quyền xét xử đối tượng bị kiện là cấp đó trở xuống. Tuy nhiên pháp luật quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với Quyết định HC, Hành vi HC của cơ quan cấp bộ, cơ quan thuộc Chính phủ vì những lý do sau đây:
1. Các bộ và cơ quan thuộc Chính phủ là những cơ quan quản lý Nhà nước ở cấp Trung ương chịu trách nhiệm quản lý ngành và một lĩnh vực nào đó trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy, các cơ quan này có thể có các Quyết định HC hoặc Hành vi HC tác động đến quyền và lợi ích của công dân, cơ quan, tổ chức ở bất cứ địa phương nào. Nếu quy định bắt buộc mọi khiếu kiện đối với Quyết định HC, Hành vi HC của các cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương đều phải khởi kiện tại Tòa án cấp Trung ương (Tòa án Nhân dân tối cao) thì trong nhiều trường hợp, các đương sự sẽ gặp khó khăn khi tiến hành khởi kiện nhất là các đương sự ở vùng sâu vùng xa. Vì vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho người khởi kiện, pháp luật quy định việc khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan quản lý cấp Trung ương được tiến hành tại ngay Tòa án Nhân dân cấp tỉnh, nơi mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc trên trụ sở.
2. Nếu quyết định mọi khởi kiện đều phải khởi kiện tại Tòa án cấp Trung ương thì sẽ dẫn đến tình trạng TAND Tối cao sẽ phải giải quyết rất nhiều vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Đây là điều mà chúng ta đang cố gắng hạn chế trong quá trình cải cách tư pháp và xu hướng trên thế giới cũng đang loại trừ dần thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm kháng cáo của các tương sự qua 2 cấp xét xử. (ý kiến của phó chánh tòa hành chính-TAND Hà nội:Bà. Nguyễn Túy Hoa…)
3. Thành tựu của Toà hành chính (Tòa HC-tAND Hà nội)
a. Tích cực
Kể từ khi Nhà nước quyết định thiết lập cơ chế tài phán hành chính đến nay đã gần 10 năm. Đây thực sự là nét mới trong đời sống pháp luật của xã hội nước ta, mang đậm tính chất dân chủ và pháp quyền.
Nó vừa tạo điều kiện để công dân có thêm cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình vừa tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền Nhà nước, trước hết là các cơ quan hành chính Nhà nước, những cơ quan có quan hệ trực tiếp và hàng ngày đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
Qua gần 10 năm hoạt động,xét xử HC đã bước đầu phát huy tác dụng trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân và góp phần vào việc kiểm tra tính hợp pháp của các Quyết định HC và Hành vi HC của cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu đi vào hoạt động, Tòa án nhân dân các cấp trong đó có Tòa án Nhân dân Hà Nội với phân tòa hành chính, đã thụ lý và giải quyết được một số vụ việc, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan , tổ chức. Tòa án đã tạo điều kiện để các bên thoả thuận và cơ quan HCcó quyết định bị khiếu kiện tự kiểm tra, thu hồi hoặc sửa đổi Quyết định HC của mình cho phù hợp và chấm dứt khiếu kiện trước khi tòa án mở phiên tòa xét xử.
Ví dụ:
1. Bản án số 05/HCST (27.8.2004)
Thụ lý số: 05/HCST (22.6.2004)
Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Minh (Thẩm phán)
Hội thẩm nhân dân: Bà Đỗ Thị Minh Chi
Ông Vũ Mạnh Đam
Đại diện VKSNDTP Hà nội: Ông Trần Hưng Bình (Kiểm sát viên)
Thư ký phiên tòa: Bà. Trần Thị Minh Thu (cán bộ Tòa án).
Người khởi kiện: Công ty TNHH Nippon Paint Việt Nam
Trụ sở: Lô 33 khu công nghiệp Biên Hòa II - Đồng Nai.
Người bị kiện: Cục Sở hữu trí tuệ
Trụ sở: 384, 386 đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
2. Bản án số: 08/HCST (23, 24/12/04).
Thụ lý số: 08/HCST (5/10/2004)…
(Xem bảng thống kê số liệu…).
b. Hạn chế:
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được, việc xét xử hành chính còn gặp nhiều khó khăn, chưa thực sự phát huy được vai trò của mình. Theo kết quả khảo sát của các cơ quan có trách nhiệm thì kể từ khi đi vào hoạt động cho đến cuối năm 1998 TAND các cấp đã nhận được không dưới 2.000 đơn kiện hành chính nhưng hầu hết là không đủ điều kiện để thụ lý theo quy định của pháp luật. Từ ngày 01/07/96 đến hết 1997 mới thụ lý 150 vụ và đưa ra xét xử 97 vụ. Năm 1997 chỉ có 24/61 Tòa án cấp tỉnh và 16 Tòa án huyện có xét xử vụ hành chính. Năm 1998 theo thống kê sơ bộ, TAND các cấp mới xử hơn 200 vụ án hành chính. Năm 1999 tòa án giải quyết được 319 vụ trong số 408 vụ án hành chính đã thụ lý. Năm 2000, Tòa án giải quyết được 419 vụ trong tổng số 503 vụ đã thụ lý. Năm 2001 giải quyết được 513 vụ trong số 688 vụ đã thụ lý. Nhìn chung cho đến nay, tình hình xét xử hành chính vẫn chưa có chuyển biến lớn mặc dù tình hình khiếu kiện hành chính nói chung vẫn diễn ra ngày một phức tạp và gay gắt.
Theo thống kê của Tòa án hành chính TAND Hà Nội (xem bảng số liệu sau).
c. Nguyên nhân.
Như vậy có thể thấy số lượng vụ mà tòa án đưa ra xét xử còn ít so với số vụ việc khiếu nại mà các cơ quan hành chính tiếp nhận và quản lý. Có thể nêu khái quát một số nguyên nhân của tình hình trên như sau:
Một là, xét xử hành chính là một công việc hoàn toàn mới mẻ, chúng ta chưa có kinh nghiệm, tổ chức bộ máy còn chưa hoàn thiện. Một số địa phương có khó khăn về cơ sở vật chất, đặc biệt là về nhân sự, nhất là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, gây tâm lý làm việc tạm, thiếu tập trung của một số cán bộ, thẩm phán.
Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về tố tụng hành chính nói riêng chưa được chú trọng đúng mức và chưa thực hiện tốt trong cả nước. Nhiều người không biết rõ phạm vi thẩm quyền của TA trong việc xét xử hành chính nên đã khởi kiện những vụ việc không thuộc thẩm quyền của tòa án , có vụ việc để quá thời gian khởi kiện. Bên cạnh đó, có bộ phận không nhỏ nhân dân không biết đến sự ra đời của cơ chế xét xử hành chính nên khi quyền và lợi ích của mình bị vi phạm đã không biết khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết.
Ba là, về mặt tâm lý xã hội, hoạt động xét xử hành chính còn là điều khá lạ lẫm với nhiều người. Nhiều trường hợp, vụ việc đã có đủ điều kiện để có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng người dân e ngại va chạm với chính quyền nên đã không khởi kiện mà chọn con đường khiếu nại hành chính. Bên cạnh đó, nhiều cán bộ trong các cơ quan quản lý Nhà nước có tâm lý sợ mất uy tín nếu ra tòa nên đã ủy nhiệm cho cán bộ không đủ thẩm quyền để thay mặt mình tham gia phiên tòa hành chính, gây khó khăn cho tòa án trong quá trình xét xử vụ việc.
Việc phải nộp một khoản án phí cho vụ kiện hành chính cũng là một trong những nguyên nhân khiến người dân không muốn khởi kiện mà chọn con đường khiếu nại hành chính (không phải mất chi phí cho việc khiếu nại của mình).
Bốn là, đội ngũ thẩm phán chuyên trách có nhiệm vụ xét xử hành chính vừa thiếu về số lượng lại vừa yếu về năng lực chuyên môn. Trong khi đó, yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán hành chính lại khá cao không những phải nắm vững pháp luật mà còn cần có sự hiểu biết khá toàn diện về quản lý hành chính nhà nước trong nhiều lĩnh vực. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho hoạt động xét xử hành chính của các Tòa án kém hiệu quả chưa tạo được sự tin tưởng của nhân dân. Số lượng thẩm phán và cán bộ của tòa án hành chính còn hạn chế.
Năm là, hiện nay pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử đối với một số vụ án hành chính nhất đị._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28106.doc