LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trên toàn thế giới thì Kiểm toán nhà nước(KTNN) đóng một vai trò quan trọng thực hiện chức năng kiểm tra các hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước và các quỹ công khác. Đóng vai trò là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất, KTNN là công cụ không thể thiếu của Quốc hội và Chính phủ trong điều hành nền kinh tế nói chung và quản lý nguồn tài sản quốc gia nói riêng. Tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và sự phân chia quyền lực c
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mô hình tổ chức Kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong nền Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa mỗi nước mà KTNN có thể có các loại mô hình tổ chức khác nhau.
Tại Việt Nam, KTNN được thành lập theo Nghị định số 70/CP, ngày 11/7/1994, nhằm giúp Thủ Tướng Chính Phủ thực hiện các chức năng được giao. Theo quy định này, KTNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất theo hai cấp là KTNN trung ương và KTNN địa phương. Mới đây trong Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 ngày 14 tháng 6 năm 2005 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Kiểm toán Nhà nước, KTNN Việt Nam trở thành một cơ quan thuộc Quốc hội, “là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Trong quá trình hoạt động, Kiểm toán nhà nước Việt Nam đã có những thành công và đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước nói chung việc kiểm soát, quản lý sử dụng Ngân sách Nhà nước(NSNN) nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước vẫn còn những hạn chế nhất định. Để ngày càng phát triển và thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, cũng giống như bất cứ đơn vị nào khác, Kiểm toán nhà nước cần phải liên tục kiện toàn tổ chức, cải tiến hoạt động của mình để phù hợp với tình hình mới và đáp ứng được những yêu cầu mới.
Nhận thấy đây là một vấn đề cần đi sâu tìm hiểu nên em đã chọn đề án: "Mô hình tổ chức KTNN ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường" cùng với sự hướng dẫn của cô giáo THS. Tạ Thu Trang. Bài viết của em gồm có ba phần chính:
Phần 1: Lý luận chung về Kiểm toán Nhà nước.
Phần 2: Tổ chức bộ máy và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam.
Phần 3: Một số nhận xét và kiến nghị.
Phần 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán nhà nước
1.1.1. Tất yếu khách quan hình thành Kiểm toán Nhà nước
" KIỂM TOÁN" thuật ngữ nghề nghiệp và cũng là một hoạt động nghiệp vụ đã xuất hiện và được chấp nhận phổ biến ở rất nhiều nước trên thế giới. Yêu cầu bình đẳng, minh bạch, công khai trong hoạt động kinh tế , yêu cầu bảo đảm và nâng cao độ tin cậy của thông tin tài chính của nền kinh tế thị trường là đòi hỏi sự ra đời và là nền cho sự phát triển Kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước, yêu cầu lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia trong cơ chế quản lý kinh tế mới, trong công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi sự hình thành Kiểm toán Nhà nước.
Cùng với sự ra đời của nhà nước, sự ra đời và phát triển của tài chính công mà chủ yếu là ngân sách nhà nước, yêu cầu, đòi hỏi của việc kiểm tra, kiểm soát việc chi tiêu ngân sách và công quỹ từ phía nhà nước ngày càng lớn, việc ra đời của Kiểm toán nhà nước là một tất yếu.
Kinh nghiệm nhiều năm ở nhiều quốc gia trên thế giới đó là sự hiện diện và hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc thiết lập và giữ vững kỷ cương tài chính, chấp hành Luật Ngân sách Nhà nước, phát hiện và ngăn chặn các hành vi tham nhũng, tiêu xài phung phí tiền của Nhà nước. Kiểm toán nhà nước đã thực sự trở thành một bộ phận hợp thành không thể thiếu của hệ thống kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước. Vai trò, tác dụng của Kiểm toán nhà nước đã được thừa nhận và không một tổ chức nào khác có thể thay thế được vị trí của nó trong việc kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực nhà nước trong các đơn vị trong khu vực công cộng.
1.1.2. Khái niệm Kiểm toán nhà nước
Kiểm toán nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của Nhà nước thực hiện các chức năng kiểm toán tài sản công. Ở thời kỳ trung đại, Kiểm toán nhà nước đã xuất hiện để đối soát tài sản của vua chúa. Qua quá trình phát triển cho đến nay, Kiểm toán nhà nước ở các nước phát triển đều thực hiện chức năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng.
1.1.3. Chức năng của Kiểm toán nhà nước.
Là một cơ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, Kiểm toán nhà nước thực hiện các chức năng sau:
● Thứ nhất, chức năng kiểm tra, kiểm soát.
Kiểm toán nhà nước có chức năng xác minh tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp của số liệu kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thu - chi, sử dụng ngân sách nhà nước và việc thi hành pháp luật về kinh tế, tài chính, kế toán, ngân sách của nhà nước ở các đơn vị trong khu vực công. Đây là chức năng vốn có và mang tính chất truyền thống của Kiểm toán nhà nước.
● Thứ hai, chức năng tư vấn.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan giúp việc bên cạnh cơ quan lập pháp và hành pháp, tư vấn cho Quốc hội hay Chính phủ trong việc xây dựng những văn bản quy phạm pháp luật, ban hành những quyết định liên quan đến tài chính, ngân sách; hoặc trong việc đưa ra những quyết định quan trọng về quản lý và sử dụng nguồn tài sản công như phương án đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia, thực hiện các chương trình trên tầm vĩ mô.
Thông qua công tác kiểm toán của mình, Kiểm toán nhà nước nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị và giải pháp góp phần giữ vững kỷ cương pháp luật, ngăn ngừa các hành vi vi phạm, sử dụng kém hiệu quả, lãng phí công quỹ, vốn và tài sản quốc gia.
Ngoài ra, với tư cách là cơ quan kiểm toán tối cao của quốc gia, Kiểm toán nhà nước còn có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực mà nó phụ trách.
1.1.4. Nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước.
Theo quy định của pháp luật, Kiểm toán nhà nước ở những quốc gia khác nhau có những nhiệm vụ khác nhau, song xét một cách chung nhất, nhiệm vụ và quyền hạn chung nhất của Kiểm toán nhà nước bao gồm:
1.1.4.1. Thực hiện kiểm toán.
Kiểm toán nhà nước thường thực hiện các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của nhà nước tại các đơn vị sử dụng vốn và tài sản công. Kiểm toán nhà nước cũng thực hiện các cuộc kiểm toán hoạt động để đánh giá hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý của các đơn vị công. Để thực hiện nhiệm vụ này, Kiểm toán nhà nước cần thực hiện:
● Lập kế hoạch kiểm toán hàng năm, trình cơ quan có thẩm quyền duyệt;
● Tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm đã được phê duyệt và các nhiệm vụ đột xuất theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
● Kiểm tra, xác minh tính đúng đắn, trung thực, hợp lý của các tài liệu có liên quan đến ngân sách nhà nước; kiểm tra các thông tin, tài liệu kế toán - tài chính của các tổ chức, đơn vị sử dụng kinh phí nhà nước, xem xét việc chấp hành các chế độ, chính sách tài chính, ngân sách, kế toán của nhà nước của nhà nước;
● Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc sửa chữa, xử lý những sai phạm của các đơn vị được kiểm toán để chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, ngân sách, chế độ kế toán;
● Quản lý hồ sơ kiểm toán, giữ gìn bí mật thông tin, tài liệu, số liệu kế toán và thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật.
1.1.4.2. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Kiểm toán nhà nước có nhiệm vụ soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh về Kiểm toán nhà nước, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác về lĩnh vực Kiểm toán nhà nước theo thẩm quyền.
Kiểm toán nhà nước đóng góp ý kiến với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về ngân sách, tài chính, kế toán.
1.1.4.3. Chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán.
Kiểm toán nhà nước chỉ đạo và hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán, quy trình, chuẩn mực và phương pháp kiểm toán trong hệ thống kiểm toán nhà nước.
Kiểm toán nhà nước hướng dẫn về chuyên môn và nghiệp vụ đối với các tổ chức kiểm toán nội bộ trực thuộc các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội có sử dụng nguồn kinh phí nhà nước.
1.1.5. Quyền hạn của Kiểm toán nhà nước.
Cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán nhà nước ở những nước khác nhau theo quy định trong pháp luật là khác nhau. Những quyền hạn chung nhất là:
● Yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp các giải trình về các vấn đề có liên quan đến hoạt động kiểm toán;
● Phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong việc thu thập tài liệu, bằng chứng;
● Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền trong các việc:
- Xử lý các đơn vị, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về ngân sách, tài chính, kế toán;
- Xử lý các tổ chức, cá nhân gây cản trở công việc kiểm toán hay cung cấp thông tin sai sự thật.
- Chịu trách nhiệm soạn thảo, sửa đổi, ban hành, bổ sung các văn bản pháp luật về quản lý kinh tế - tài chính, kế toán - kiểm toán.
Ngoài những điểm chung trong nhiệm vụ và quyền hạn, tuỳ theo quy định trong pháp luật của từng nước, Kiểm toán nhà nước tại mỗi nước còn có những nhiệm vụ và quyền hạn riêng, ví dụ: Toà thẩm kể của Pháp có quyền xét xử như một quan toà đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật về tài chính - kế toán, ngân sách.
1.1.6. Nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán nhà nước.
Để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Kiểm toán nhà nước cần tuân thủ một số nguyên tắc hoạt động nhất định.
Những nguyên tắc hoạt động cơ bản của Kiểm toán nhà nước:
● Tuân thủ pháp luật, chuẩn mực và quy trình kiểm toán đã được pháp luật thừa nhận.
● Đảm bảo tính độc lập một cách tương đối: không một tổ chức, cá nhân nào được phép can thiệp một cách trái pháp luật vào hoạt động của Kiểm toán nhà nước.
● Đảm bảo tính trung thực, khách quan và giữ gìn bí mật nhà nước, bí mật của các đơn vị, tổ chức được kiểm toán.
● Không gây cản trở hoạt động và can thiệp vào công việc điều hành, quản lý của đơn vị được kiểm toán.
● Đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động kiểm toán.
1.2. Các mô hình tổ chức bộ máy Kiểm toán nhà nước.
Bộ máy Kiểm toán nhà nước là một hệ thống tập hợp những viên chức nhà nước để thực hiện chức năng kiểm toán ngân sách và tài sản công.
Như vậy, trong quan hệ với hệ thống bộ máy Nhà nước, KTNN là một phân hệ thực hiện chức năng kiểm toán; xét trong hệ thống kiểm toán nói chung, KTNN là một phân hệ thực hiện chức năng kiểm toán đối với một đối tượng cụ thể là tài sản Nhà nước; xét trong mối quan hệ với kiểm toán viên nhà nước, KTNN là một hệ thống tập hợp các kiểm toán viên này theo một trật tự xác định để thực hiện chức năng kiểm toán tài sản công.
Trong hàng loạt những mối liên hệ phức tạp với bộ máy nhà nước, hệ thống kiểm toán và các kiểm toán viên, đã hình thành nhiều mô hình tổ chức bộ máy KTNN khác nhau tuỳ theo tính chất và phạm vi của các mối liên hệ đó.
1.2.1. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước xét trong mối liên hệ với bộ máy nhà nước.
1.2.1.1. Mô hình cơ quan Kiểm toán nhà nước được tổ chức độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp.
Mô hình này (sơ đồ 1.1) được ứng dụng ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển, có nhà nước pháp quyền được xây dựng nền nếp, hệ thống kiểm toán đã hình thành từ lâu đời và phát triển ở một trình độ cao (Ví dụ: Kiểm toán nhà nước Cộng hoà liên bang Đức, Toà Thẩm kế của Cộng hoà Pháp...), nhờ đó Kiểm toán nhà nước phát huy được đầy đủ tính độc lập trong việc thực hiện các chức năng của mình.
Sơ đồ 1.1. Mô hình Kiểm toán nhà nước
được tổ chức độc lập với Quốc hội và Chính phủ.
Bộ máy Nhà nước
Kiểm toán
nhà nước
Toà
án
Quốc
hội
Chính phủ
Các ban của Quốc hội
Các bộ của Chính phủ
Ban hành luật
Bổ nhiệm
Duyệt ngân sách
Giám sát
Ghi chú:
Liên hệ trong tổ chức
Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ đặt hàng kiểm toán
Quan hệ kiểm toán
1.2.1.2. Mô hình cơ quan Kiểm toán nhà nước trực thuộc cơ quan hành pháp.
Việc tổ chức cơ quan KTNN trực thuộc cơ quan hành pháp (Chính phủ) điều hành nhanh nhạy quá trình thực hiện ngân sách và các hoạt động khác. Tuy nhiên, nó cũng hạn chế phần nào tính độc lập của Kiểm toán nhà nước khi thực hiện chức năng phản biện của Chính phủ.
Việc tổ chức cơ quan KTNN trực thuộc Chính phủ ở các nước khác nhau cũng không hoàn toàn như nhau. Chẳng hạn, ở Trung Quốc, KTNN được tổ chức thành một cơ quan hành chính như một bộ, song có quyền kiểm toán các bộ khác của Chính phủ (kể cả Bộ Tài chính); hoặc, KTNN cũng có thể được tổ chức như một cơ quan chuyên môn bên cạnh nội các (như ở Nhật Bản, Indonesia) hay bên cạnh Thủ tướng Chính phủ (Việt Nam trước đây)...
1.2.1.3. Mô hình cơ quan Kiểm toán nhà nước trực thuộc cơ quan lập pháp.
Trong mô hình này, cơ quan KTNN là một cơ cấu trực thuộc Quốc hội (có thể là Thượng viện hoặc Hạ viện), là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của cơ quan quyền lực tối cao.
Với mô hình này, KTNN trợ giúp đắc lực cho nhà nước không chỉ ở kiểm tra thực hiện pháp luật mà còn cả trong việc soạn thảo và xây dựng các sắc luật liên quan đến ngân sách, tài chính, kế toán.... Mô hình này cũng tạo điều kiện tối đa để có thể độc lập và thực hiện chức năng phản biện đối với Chính phủ, giúp Quốc hội (cơ quan quyền lực tối cao, đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân) thực thi quyền kiểm soát các hoạt động tài chính của Chính phủ (cơ quan hành pháp tối cao, trực tiếp vận hành nền tài chính quốc gia).
Tuy nhiên, mô hình này cũng khiến cho cơ quan Kiểm toán nhà nước không có cơ hội tiếp xúc trực tiếp thường xuyên với sự điều hành và các hoạt động của Chính phủ, do đó có thể làm chậm đi công tác kiểm toán.
Mô hình cơ quan Kiểm toán nhà nước trực thuộc cơ quan lập pháp được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước trên khắp thế giới như Anh, Mỹ, Canada...
Sơ đồ 1.2. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước Canada.
TOÀN QUYỀN
Quốc hội
Thủ tướng
Toà án tối cao Canada
Toà án Liên bang Canada
Thượng viện
Hạ
viện
Cơ quan Kiểm toán quốc gia
Nội các
Văn phòng Thủ tướng, Văn phòng HĐ
cơ mật
Các
công ty trong các ngành then chốt
Chủ tịch Ban Ngân quỹ
Các tổ chức, ban ngành nhà nước
Ban Bí thư
Hội thảo liên Chính phủ
Các bộ trưởng
Các
uỷ ban, trưởng ban
Uỷ ban Kế toán Nhà nước
1.2.2. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước xét theo hình thức tổ chức cơ quan.
Xét theo hình thức tổ chức, cơ quan Kiểm toán nhà nước có thể được tổ chức thành “Toà” (Court) hoặc “Văn phòng” (Office).
1.2.2.1. Mô hình kiểm toán Nhà nước được tổ chức thành “Toà”.
Đây là mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước phổ biến tại nhiều nước có nền kinh tế phát triển ở Tây Âu (Toà Thẩm kế Pháp (Court of Accounts), Kiểm toán Nhà nước Hà Lan (Netherlands Court of Audit...).
Được tổ chức theo mô hình “Toà”, các cơ quan Kiểm toán nhà nước này độc lập với cả cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và thường có một địa vị pháp lý đặc biệt. Ngoài chức năng kiểm toán các đơn vị thuộc khu vực công, Kiểm toán nhà nước còn có thể đóng vai trò quan toà hay công tố viên trong các vụ án xét xử những vi phạm trong việc quản lý và sử dụng nguồn tài sản quốc gia.
Ví dụ điển hình của Kiểm toán nhà nước được tổ chức theo mô hình này là Toà Thẩm kế Pháp, phần lớn các kiểm toán viên nhà nước đều là những quan toà khi tham gia cơ quan kiểm toán nhà nước.
1.2.2.2. Mô hình Kiểm toán nhà nước được tổ chức thành “Văn phòng”.
Đây là hình thức tổ chức Kiểm toán nhà nước phổ biến ở các nước (Ví dụ: Kiểm toán nhà nước Anh - The UK National Audit Office, Kiểm toán nhà nước Trung Quốc - National Audit Office Of The People’s Republic Of China...).
Cơ quan Kiểm toán nhà nước được tổ chức theo hình thức “văn phòng” có thể độc lập với cả Quốc hội và Chính phủ (Cơ quan kiểm toán quốc gia Australia), hay trực thuộc Quốc hội (Văn phòng Tổng kế toán trưởng Canada), hoặc trực thuộc chính phủ (Kiểm toán nhà nước Trung Quốc).
Được tổ chức theo hình thức “Văn phòng”, Kiểm toán nhà nước thường chỉ đảm nhận các chức năng kiểm toán các đơn vị thuộc khu vực công cộng, tư vấn cho cơ quan hành pháp và lập pháp trong việc đưa ra những quyết định, những chính sách điều hành nền tài chính công... chứ không có chức năng phán xét, xét xử những sai phạm trong quản lý và sử dụng tài sản và nguồn lực quốc gia.
1.2.3. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước xét trong mối quan hệ nội bộ cơ quan.
Xét về liên hệ nội bộ, cơ quan Kiểm toán nhà nước lại có thể liên hệ theo chiều dọc (liên hệ dọc) hay liên hệ theo chiều ngang (liên hệ ngang).
1.2.3.1. Liên hệ ngang.
Liên hệ ngang là mối liên hệ nội bộ trong cơ quan kiểm toán cùng cấp (trung ương, khu vực hay địa phương). Liên hệ này có thể trực tuyến hoặc chức năng.
● Liên hệ trực tuyến: Trong liên hệ trực tuyến, Tổng kiểm toán trưởng (hoặc Phó tổng kiểm toán được uỷ nhiệm) trực tiếp chỉ huy các hoạt động của kiểm toán nhà nước.
Liên hệ trực tuyến có điểm ưu việt là đảm bảo lệnh của Tổng kiểm toán trưởng được chuyển trực tiếp đến các kiểm toán viên, đảm bảo điều hành nhanh nhạy và thông tin ngược xuôi kịp thời. Tuy nhiên, mô hình này chỉ thích hợp trong điều kiện quy mô kiểm toán và số lượng kiểm toán viên không quá lớn.
Chẳng hạn, điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN(Việt Nam) qui định: " cơ cấu tổ chức bộ máy giúp tổng kiểm toán nhà nước thực hiện nhiệm vụ được giao gồm:"
1. Kiểm toán NSNN
2. Kiểm toán Đầu tư xây dựng cơ bản và các dự án vay nợ viện trợ Chính phủ.
3. Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước.
4. Kiểm toán Chương trình đặc biệt (an ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia…).
5. Văn phòng kiểm toán nhà nước.
Tương tự như vậy là mô hình tổ chức của Hội đồng kiểm toán Nhật Bản, Singapore…
● Liên hệ chức năng: Trong liên hệ chức năng, quyền điều hành công việc được phân thành nhiều khối, mỗi khối lại chia thành nhiều cấp khác nhau. Mô hình này thích hợp với bộ máy kiểm toán có quy mô lớn.
Ta có thể lấy cơ quan kiểm toán quốc gia Australia làm ví dụ.
Sơ đồ 1.3. Các mối liên hệ trong cơ quan kiểm toán quốc gia Australia.
CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Giám đốc các bộ phận kiểm toán
C
B
...
A
Ban quản lý tiềm lực
Ban hoạch định chính sách và phát triển
Ban công nghệ tin học
Ban hỗ trợ quản lý
1.2.3.2. Liên hệ dọc.
Liên hệ dọc là mối liên hệ trong nội bộ tổ chức của cơ quan Kiểm toán nhà nước theo tính chất cấp bậc, có hai mô hình chủ yếu:
● Mô hình cơ quan kiểm toán nhà nước trung ương có mạng lưới ở tất cả các địa phương. Mô hình này thích hợp với các nước có quy mô lớn, các địa phương phân bố rộng và phân tán, khối lượng tài sản công tại mỗi địa phương lớn và quan hệ phức tạp. Đồng thời, mỗi địa phương cũng có khối lượng công sản, tài sản tương đối đồng đều. Tình hình đó đòi hỏi phải có tổ chức kiểm toán nhà nước ngay tại địa phương. Kiểm toán nhà nước Trung Quốc tổ chức Sở Kiểm toán ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, ngoài ra, các đặc khu hành chính, khu tự trị... cũng được tổ chức các văn phòng kiểm toán nhà nước
● Mô hình cơ quan kiểm toán nhà nước trung ương có mạng lưới kiểm toán ở từng khu vực. Những khu vực này trước hết phải có khối lượng công sản đủ lớn và thường ở xa trung tâm nên đòi hỏi có KTNN tại thực địa để thực hiện chức năng của KTNN. Mô hình này thích ứng với những nước có quy mô nhỏ song địa bàn tương đối phân tán. Ví dụ, Kiểm toán nhà nước Thái Lan gồm mười lăm kiểm toán khu vực (Ayutthaya, Chon Buri, Nakhon Pathom, Nakhon Ratchasima, Ubon Ratchathani, Udon Thani, Khon Kaen, Chang Mai, Lampang, Phitsanulok, Nakhon Sawan, Phetchaburi, Surat Thani, Nakhon Sithammarat, Songkhla). Mỗi kiểm toán khu vực phụ trách từ bốn đến sáu tỉnh, thành phố.
Ở một số nước nhỏ và tương đối tập trung có thể không có liên hệ dọc, cũng có trường hợp, liên hệ dọc này lại thực hiện ngay trong liên hệ ngang bằng cách bố trí kiểm toán một vài khu vực nào đó thành một bộ phận trong các bộ phận chuyên môn. Mô hình Kiểm toán nhà nước Nhật Bản là một ví dụ: Trong năm bộ phận của Hội đồng kiểm toán quốc gia, bộ phận thứ ba vừa phụ trách kiểm toán lĩnh vực giao thông - vận tải và xây dựng, vừa phụ trách các vùng Hokkaido và phụ trách đất công.
Như vậy, cơ quan kiểm toán nhà nước chứa đựng rất nhiều mối liên hệ về tổ chức, tuỳ thuộc vào đặc điểm của đối tượng, của phạm vi, của khách thể của kiểm toán, tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức bộ máy nhà nước và hàng loạt các quan hệ khác bên trong và bên ngoài hệ thống kiểm toán.
Phần 2.
TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
2.1. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
2.1.1. Sự cần thiết phải thành lập Kiểm toán nhà nước tại Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới, mặt trái của nền kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ và sâu sắc, đặc biệt nạn tham nhũng, sử dụng không hiệu quả làm thất thoát tài sản công, chi tiêu ngân sách lãng phí, sai mục đích, sai chế độ... là những vấn đề nổi cộm và nhức nhối nhất. Tình hình đó đòi hỏi cấp thiết phải có một cơ quan nhà nước với vai trò và chức năng là người kiểm tra tài chính công cao nhất, giúp đỡ cho Quốc hội, Chính phủ trong việc điều hành nền tài chính quốc gia.
Tuyên bố Lima (Peru, 10/1977) cũng nhấn mạnh “...nhất thiết mỗi quốc gia phải có một Cơ quan Kiểm toán tối cao mà tính độc lập của nó phải được xác lập bằng pháp luật...”.
Trong hơn mười năm hoạt động KTNN đã giúp các nghành , các địa phương chấn chỉnh công tác quản lý điều hành và quyết toán NSNN; giúp các đơn vị, các doanh nghiệp Nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, hoàn thiện công tác kế toán, thống kê. Biểu hiện là qua các cuộc kiểm toán lại lần thứ hai, lần thứ ba trình độ quản lý tài chính, ngân sách của các đơn vị đã có bước cải thiện rõ rệt, các thiếu sót trong công tác kế toán, thống kê từ chứng từ, sổ sách kế toán đến báo cáo quyết toán tài chính giảm đáng kể. Bước đầu KTNN đã khẳng định được uy tín và vị thế của mình, hoạt động kiểm toán của KTNN được Đảng, Nhà nước và Quốc hội quan tâm đánh giá cao và khuyến khích phát triển; nhiều nghành nhiều địa phương, doanh nghiệp chủ đầu tư có văn bản đề nghị KTNN kiểm toán giúp; nghành toà án cũng đã có lần đề nghị KTNN giám định giúp khía cạnh tài chính của một vụ án kinh tế. Chỉ tính riêng KTNN khu vực IV qua tám năm hoạt động đã thực hiện 74 cuộc kiểm toán lớn với hơn 2000 lượt đơn vị được kiểm toán, qua kiểm toán đã kiến nghị tăng thu, giảm chi, đưa vào quản lý NSNN hơn 3.150 tỷ đồng, phát hiện một vụ tham nhũng lớn đề nghị Bộ Công an điều tra…
Như vậy, sự ra đời của KTNN tại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với tiến trình đổi mới đất nước và thông lệ quốc tế; nó là một tất yếu khách quan là sản phẩm trí tuệ của quá trình đổi mới, đáp ứng sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, nhằm tăng cường kiểm soát của Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng Ngân sách Nhà nước và tài sản quốc gia.
2.1.2. Cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
KTNN Việt Nam được thành lập ngày 11/7/1994 theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ.
Ngày 24/01/1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 61/TTg quy định về điều lệ tổ chức, hoạt động; cơ cấu tổ chức; nhiệm vụ và quyền hạn và những vấn đề liên quan khác của KTNN khi mới thành lập. Ngày 13/8/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 93/2003/NĐ-CP, có bổ sung và sửa đổi, thay thế Nghị định 70/CP, ngày 11/7/1994, đã quy định rõ hơn về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của KTNN.
Nhằm hoàn thiện hơn nữa KTNN tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN, đáp ứng những đòi hỏi mới, Luật KTNN đã được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7, ngày 14/6/2005, và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Địa vị pháp lý của KTNN Việt Nam ngày càng được nâng cao và hoàn thiện.
2.1.3. Vai trò và vị trí của Kiểm toán nhà nước Việt Nam
Là một cơ quan nằm trong tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam, KTNN một công cụ mạnh của quản lý nhà nước, cung cấp phương tiện, căn cứ thực tiễn để Nhà nước thực hiện việc quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung và quản lý việc sử dụng Ngân sách nhà nước và nguồn tài sản quốc gia nói riêng.
Tuy cơ quan Kiểm toán nhà nước Việt Nam không có một tổ chức tiền thân, không có tiền lệ trong cơ cấu tổ chức nhà nước, nhưng nó vẫn có chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất. Hoạt động của Kiểm toán nhà nước có tác động mạnh đến quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà đầu tư, các nhà quản lý, các nhà tài trợ và các tổ chức, cá nhân khác quan tâm đến tình hình hoạt động của các đơn vị thuộc khu vực công.
2.1.4. Chức năng của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 và Nghị định số 93/2003/NĐ-CP, ngày 13/8/2003 của Chính phủ khẳng định: Kiểm toán nhà nước là cơ quan thuộc Chính Phủ, thực hiện chức năng kiểm toán, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước các cấp, báo cáo tài chính của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng Ngân sách Nhà nước; kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong việc quản lý, sử dụng Ngân sách Nhà nước và tài sản công theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ giao hoặc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Cụ thể:
- Kiểm toán báo cáo tài chính, ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân;
- Kiểm toán tổng quyết toán Ngân sách Nhà nước của Chính phủ trước khi trình ra Quốc hội;
- Kiểm toán báo cáo quyết toán của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan thuộc Quốc hội, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sự dụng kinh phí Nhà nước;
- Kiểm toán báo cáo quyết toán các chương trình, dự án, các công trình đầu tư của nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước... theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Chính phủ phê duyệt và các nhiệm vụ đột xuất do Thủ tướng Chính phủ giao hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Luật Kiểm toán nhà nước, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, cũng kế thừa quan điểm trên. Điều 14, Luật Kiểm toán nhà nước, chức năng của Kiểm toán nhà nước, nêu rõ: “Kiểm toán nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước”.
2.1.5. Nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước Việt Nam
Theo quy định tại Nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 01/4/2003, đồng thời căn cứ Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ, đ ã quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm tóan nhà nước ở Việt Nam .
Kể từ ngày 01/01/2006, Khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước Việt Nam được quy định cụ thể trong Điều 15 và Điều 16 của Luật này, về cơ bản là sự kế thừa những tư tưởng được thể hiện trong các Nghị định nêu trên của Chính phủ, trong đó có những thay đổi phù hợp với điều kiện mới khi Kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội.
2.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
2.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nước Việt Nam.
Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập và tổ chức theo Nghị định 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ, và điều lệ tổ chức hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 23/8/2003 của Chính phủ ban hành đã tăng cường, hoàn thiện thêm một bước cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước.
Kiểm toán nhà nước Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ, là công cụ kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước.
Kiểm toán nhà nước có 16 tổ chức giúp Tổng kiểm toán thực hiện chức năng, nhiệm vụ, 11 kiểm toán nhà nước ở trung ương và 5 kiểm toán nhà nước khu vực, cùng với 3 tổ chức sự nghiệp, với 680 cán bộ, công chức, kiểm toán viên trong biên chế.
Mô hình tổ chức bộ máy Kiểm toán nhà nước Việt Nam (trước năm 2006) được thể hiện trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1. Mô hình tổ chức Kiểm toán nhà nước Việt Nam (trước năm 2006)
CHÍNH PHỦ
TỔNG KIỂM TOÁN
Vụ
giám định, kiểm tra chất lượng
Kiểm toán
Tạp chí Kiểm toán
Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ
Kiểm toán
đầu tư
dự án II
CÁC TỔ CHỨC SỰ NGHIỆP TRỰC THUỘC
Trung tâm tin học
Vụ pháp chế
Vụ
tổ chức cán bộ
Văn phòng
Kiểm toán các chương trình đặc biệt
KTNN
các khu vực
Kiểm toán các
tổ chức tài chính, ngân hàng
Kiểm toán DNNN
Kiểm toán đầu tư
dự án II
Kiểm toán NSNN II
Kiểm toán NSNN I
Tổng kiểm toán nhà nước Việt Nam do Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Tổng kiểm toán có nhiệm vụ và quyền hạn:
Lãnh đạo, quyết định và chịu trách nhiệm về công việc của KTNN, được tham dự những phiên họp của Chính phủ về xem xét, phân bổ, quyết toán NSNN và về những vấn đề có liên quan đến hoạt động của KTNN;
Chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung các văn bản pháp quy do KTNN soạn thảo trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển Kiểm toán nhà nước sau khi được phê duyệt;
- Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể giải thể các tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các tổ chức đó;
- Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng cường kỉ cương, kỉ luật hành chính trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Kiểm toán Nhà nước;
- Thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp luật;
Giúp việc cho Tổng kiểm toán có các Phó tổng kiểm toán. Phó tổng kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Tổng kiểm toán. Phó tổng kiểm toán được Tổng kiểm toán phân công phụ trách một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Tổng kiểm toán về nhiệm vụ mình được phân công. Khi Tổng kiểm toán vắng mặt, một Phó tổng kiểm toán được Tổng kiểm toán uỷ nhiệm lãnh đạo công tác của Kiểm toán nhà nước.
Các bộ phận trong Kiểm toán nhà nước Việt Nam được thành lập, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo các quyết định của Tổng kiểm toán. Theo quyết định của Tổng kiểm toán Nhà nước ngày 01/3/2004, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận trong Kiểm toán nhà nước Việt Nam được quy định như sau:
● Vụ Tổ chức cán bộ.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ hiện nay được quy định trong Quyết định số 98/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ là:
- Trong công tác tổ chức bộ máy, Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì nghiên cứu xây dựng các đề án, chuẩn bị các văn bản qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước cùng các bộ phận trình Tổng Kiểm toán Nhà nước để trình cấp có thẩm._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0673.doc