Mô hình tổ chức Công ty mẹ - Công ty con trong hệ thống thương mại dịch vụ ở Việt Nam

Đặt vấn đề Công cuộc công nhiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước ta đã và đang diễn ra sâu rộng ,khẩn trương ở các ngành,địa phương ,doanh nghiệp và mỗi người lao động .Mỗi năm là một bước tiến đáng ghi nhớ về thử thách ,thành tựu ,kinh nghiệm quý cho những năm tiếp sau.Đó là nhờ có sự quản lý của nhà nước.Nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các DNNN trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế Đảng và nhà nước đã quan tâm nhiều đến việc đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước.

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mô hình tổ chức Công ty mẹ - Công ty con trong hệ thống thương mại dịch vụ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số mô hình tổ chức quản lý DNNN mới đã được ban hành như: Mô hình DNNN có Hội đồng quản trị được áp dụng đối với các DNNN có quy mô lớn, hoạt động dưới hình thức các tổng công ty( TCT) thành lập theo Quyết định 90, 91/ TTg ngày 7/3/1994 của thủ tướng Chính phủ; và mô hình DNNN không có Hội đồng quản trị được áp dụng đối với các DNNN độc lập và DNNN thành viên hạch toán độc lập thuộc các TCT. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, việc thực hiện các mô hình tổ chức quản lý mới còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, ảnh hưởng không ít đến hiệu quả sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp, không đáp ứng được những vấn đề thực tiễn đặt ra khi môi trường đầu tư, kinh doanh đang có những diễn biến mới.Mặt khác sự phát triển mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp có những đặc điểm riêng ,đến một mức độ nào đó sẽ nảy sinh nhu cầu cần có sự liên kết giữa các doanh nghiệp để hợp nhất các nguồn lực và cơ cấu tài chính hợp lý hoá quá trình lập kế hoạch chiến lược thực hiện phân công liên kết về sản xuất ,thị trường ,công nghệ. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm ra một mô hinh thích hợp nhất cho các DNNN, để vừa bảo đảm xây dựng được những tập đoàn kinh tế lớn, thực sự là những "quả đấm mạnh" trong kinh tế, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, vừa bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với nền kinh tế. Một trong những mô hình được chú ý nhiều nhất là mô hình tổ chức các tập đoàn kinh doanh theo kiểu công ty mẹ - công ty con. Đây là một mô hinh tổ chức hiện đại, đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Nghị quyết Trung ương Đảng khoá ĩ hội nghị lần thứ 3 đã khẳng định:"thí điểm rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà nước sanh hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con,trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên". Để nắm bắt một cách kịp thời và sâu sắc đường lối chủ chương của Đảng và cũng là đáp ứng nhu cầu cần thiết của bản thân trong bước đường sắp tới.Em quyết định tìm hiểu về đề tài này:"Mô hình tổ chức công ty mẹ - công ty con trong hệ thống thương mại dịch vụ ở Việt nam”. Do thời gian và trình độ còn hạn chế đề án này chắc chắn còn có nhiều thiếu sót.Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo để có thể làm tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn. chương I: nhữngvấn đề cơ bản về công ty mẹ-công ty con I.Khái niệm: CTM- CTC là cách gọi của chúng ta, chuyển ngữ từ tiếng Anh “ Holding company” và “ Subsidiaries company” sang tiếng Việt. Holding company là công ty nắm vốn, Subsidiaries company là công ty nhân vốn. Tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình CTM- CTC là một hình thức tổ chức kinh tế được thực hiện bởi sự liên kết của hai hay nhiều doanh nghiệp độc lập hoạt động trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo thế mạnh chung trong việc thực hiện những mục tiêu nhất định. Thực chất, CTM là một nhà tài phiệt, quan hệ mẹ- con giữa CTM là sự chi phối của nhà tài phiệt vào hoạt động sản xuất kinh doanh của CTC nhờ có vốn của các nhà tài phiệt tại các CTC đó. Nhà tài phiệt này khác các cổ đông thông thờng ở chỗ, do có nhiều vốn nên có thể cùng lúc là cổ đông của nhiều công ty. Vì là cổ đông của nhiều công ty, hơn thế nữa là cổ đông chi phối hoặc đặc biệt nên nhà tài phiệt có thể tác động đặc biệt đối với hoạt động của các CTC . CTM có thể là một công ty hoạt động tài chính thuần tuý( chuyên dùng vốn để mua cổ phần tại các CTC), cũng có thể là một công ty vừa hoạt động tài chính vừa trực tiếp sản xuất- kinh doanh. Công ty con( CTC) là công ty có vốn đầu tu của CTM, bị CTM chi phối bằng việc nắm giữ trên 50% quyền biểu quyết hoặc nắm giữ quyền chỉ định đa số thành viên Hội đồng quản trị hoặc nắm giữ quyền biểu quyết đa số trong Hội đồng quản trị. Công ty mẹ và công ty con đều là doanh nghiệp độc lập, có tu cách pháp nhân đầy đủ, có vốn và tài sản riêng. Công ty mẹ là một trong những chủ sở hữu của công ty con. Mối quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con là mối quan hệ của chủ sở hữu với doanh nghiệp có vốn đầu tu của mình. Mối quan hệ này đã đuợc xác định trong Luật Doanh nghiệp và điều lệ của công ty con. Ngoài mối quan hệ chủ sở hữu thì các mối quan hệ khác về kinh tế nh mua- bán, thuê- cho thuê; vay- cho vay đều là mối quan hệ giữa 2 pháp nhân đầy đủ, phải thể hiện qua hợp đồng kinh tế theo quy định của luật pháp. II.Quy luật hình thành mô hình tổ chức công ty CTM-CTC Tư bản tài chính: Một bộ phận ngày càng lớn của tư bản công nghiệp không thể thuộc về các nhà tư bản kinh doanh công nghiệp vẫn sử dụng nó. Những nguời này chỉ có thông qua ngân hàng mới sử dụng đuợc tu bản, và đối với họ ngân hàng là những nguời sở hữu tu bản đó. Mặt khác, ngay ngân hàng cũng bắt buộc phải bỏ một bộ phận tư bản ngày càng lớn của nó vào công nghiệp. Nhờ đó ngân hàng, với mức độ luôn luôn tăng lên, trở thành nhà tu bản công nghiệp. Tu bản ngân hàng ấy - tức là tư bản duới dạng tiền- qua đó trên thực tế đã biến thành tư bản công nghiệp. Nó là tư bản tài chính. “ Tu bản tài chính là tư bản do ngân hàng chi phối và do các nhà công nghiệp sử dụng” Định nghĩa này chua đầy đủ, vì nó không chỉ rõ một trong những yếu tố quan trọng nhất, cụ thể là sự tập trung sản xuất và tu bản đã phát triển mạnh đến nỗi đang và đã dẫn đến độc quyền. Sự tập trung sản xuất, các tổ chức độc quyền sinh ra từ sự tập trung đó; sự hợp nhất hay sự hay sự hoà vào nhau giữa ngân hàng và công nghiệp - đó là lịch sử phát sinh của tu bản tài chính, và là nội dung của khái niệm tu bản tài chính. Đầu sỏ tài chính: Trong hoàn cảnh chung của nền sản xuất hàng hoá và của chế độ tu hữu, sự “ lộng hành” của các tổ chức độc quyền tu bản tất nhiên trở thành sự thống trị của một bọn đầu sỏ tài chính. Chế độ tham dự: Nguời lãnh đạo đứng ra kiểm soát công ty gốc(công ty mẹ); công ty gốc lại chi phối các công ty phụ thuộc vào nó( các công ty con); các công ty con này lại chi phối các “công ty cháu” .v.v. Nh vậy không cần có một t bản thật lớn mà ngời ta vẫn có thể chi phối đợc những lĩnh vực sản xuất rất lớn. Thật thế, nếu có 50% tổng số tu bản là luôn luôn đủ để kiểm soát đợc công ty cổ phần, thì ngời lãnh đạo chỉ cần có một triệu để kiểm soát đuợc số tu bản là tám triệu trong các “công ty cháu”. và nếu lối tổ chức móc xích ấy cứ phát triển lên thì với một triệu ta có thể kiểm soát đuợc 16 triệu , 32 triệu … Trên thực tế , kinh nghiệm chứng tỏ rằng chỉ cần có 40% số cổ phiếu cũng đủ để chi phối công việc của một công ty cổ phần, vì một số nào đó những cổ đông nhỏ ở rải rác , họ không có một khả năng nào để tham dự các hội nghị chung. Vì thế chế độ tham dự chính là công cụ để tăng uy lực cho bọn đầu sỏ tài chính. Cạnh tranh và hợp tác: Là hai mặt đối lập nhng lại quan hệ với nhau một cách biện chứng trong nền kinh tế toàn cầu. Trong kinh doanh nếu yếu tố lợi nhuận buộc các nhà sản xuất phải suy nghĩ nên đầu t vào lĩnh vực nào, ở đâu, với quy mô bao nhiêu,… thì cành tranh lại buộc họ phải hoạt động một cách hiệu quả nhất để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh xảy ra ở bất kỳ đâu khi có nhiều ngời cùng muốn một thứ có hạn( thị trờng, các nguồn, vị trí, lơng bổng…), trong khi đó, sự hợp tác lại xuất hiện bất cứ lúc nào khi làm việc gì đó tỏ ra là phi kinh tế hay vợt quá khả năng của một tổ chức( cá nhân, doanh nghiệp hay quốc gia). Điều này giải thích tại sao ngày nay các quốc gia lớn, nhỏ trong khi cạnh tranh gay gắt với nhau, vẫn tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thơng mại và các lĩnh vực khác. Tuơng tự đối với các công ty, cùng với sự nổi lên của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cuộc liên minh, sáp nhập quốc tế với quy mô cha từng thấy giữa các cônng ty lớn trong các ngành có tính độc quyền cao nh ô tô, năng lợng, hàng không, tài chính… Liên kết kinh tế: Theo nghĩa chung nhất, liên kết là sự kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ nhằm phối hợp hoạt động vì mục đích chung. Để tăng trởng bên cạnh phơng pháp truyền thống( mở rộng trực tiếp), ngày nay, chi phí cơ hội ngày một tăng cộng với quy luật khan hiếm đã buộc các công ty phải nối dài cánh tay của mình thông qua liên kết - có thể là liên kết tiến, liên kết lùi, liên kết ngang hay liên kết dọc. Sự liên kết tối u cũng có thể là lỏng lẻo hay chặt chẽ theo các cấp bậc: mới đầu chỉ là thoả thuận hợp tác, sau đó là hợp doanh trách nhiệm hữu hạn, tiến tới Liên minh chiến lợc và cuối cùng là sự liên kết hoàn toàn thông qua sáp nhập và mua lại giữa các công ty. Sáp nhập diễn ra khi có sự tự nguyện của cả đôi bên. Trong khi đó, mua lại xảy ra khi có sự “ ép uổng”, nó có thể hữu hảo theo kiểu “ đành lòng chấp thuận” nhng nhiều khi là những vụ thôn tính theo kiểu “ mua đứt bán đoạn” không thơng tiếc. Nguyên tắc của liên kết: Dù là liên kết theo kiểu gì thì mục tiêu của nó vẫn là giảm bớt sự thua thiệt không cần thiết do cạnh tranh quá mức, đa dạng hoá về sản phẩm và địa lý, giảm bớt chi phí nnghiên cứu và giao dịch, chia xẻ rủi ro, trao đổi kinh nghiệm và thông tin giữa các thành viên nhằm phục vụ cho các cuộc cách tân và đầu t rộng lớn. Chính vì thế, nguyên tắc tối cao của sự liên kết phải là lấy ngắn bù dài, mạnh bù yếu, lấy sự khác biệt để tạo nên sức mạnh- nghĩa là các doanh nghiệp thành viên phải bổ sung hỗ trợ cho nhau về sự thiếu hụt của các nguồn chứ không phải là bài trừ và tiêu diệt lẫn nhau. Trên đây là những cơ sở khoa học( lý luận và thực tiễn) để hình thành mô hình công ty mẹ _ công ty con. Nó đợc Lênin đúc kết trong tác phẩm : “ Chủ nghĩa đế quốc_giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa t bản”. Mô hình công ty mẹ _ công ty con đã đợc áp dụng rộng rãi , thành công ở nhiều nớc trên thế giới. III. Đặc điểm: Công ty mẹ- công ty con đợc dùng để thể hiện sự chi phối( hoặc lệ thuộc) của một doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác. Vì không phải là một mô hình tổ chức nên nó không bị cứng nhắc với các quyết định của bất cứ cấp hành chính nào. Mối quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con đợc xác định trong quy định của luật pháp và điều lệ của công ty, nó tơng đối ổn định. Song việc hình thành công ty mẹ- công ty con lại rất linh hoạt. Một công ty hôm nay còn là còn là công ty con của một công ty khác, song ngày mai có thể chỉ là công ty liên kết hoặc hoàn toàn độc lập với công ty mẹ, nếu công ty mẹ bán một phần hoặc toàn bộ số cổ phần ở công ty con cho đơn vị khác. Ngợc lại, một công ty có thể trở thành công ty mẹ của công ty khác( mặc dù công ty này có thể không muốn) nếu nó mua lại đợc số cổ phần đủ để chi phối công ty đó. Tất cả những sự thay đổi đó không cần bất cứ một quyết định nào của cấp hành chính. Tất nhiên, việc mua, bán, sáp nhập, chia tách này nếu vợt thẩm quyền quyết định của doanh nghiệp thì cần phải có ý kiến của chủ sở hữu. Song nó không phải là các quyết định mang tính chất hành chính. Toàn bộ công ty mẹ và các công ty con gọi là một tập đoàn. Tập đoàn kinh tế không phải là khái niệm chỉ một tổ hợp kinh tế to tát, lớn lao. Nó đơn thuần chỉ một tổ hợp gồm công ty mẹ và các công ty con trong nền kinh tế. Tập đoàn có thể chỉ hoạt động trong một địa phơng, song cũng có thể hoạt động trong một vùng, trong cả nớc hoặc xuyên quốc gia. Việc hình thành công ty mẹ- công ty con đơng nhiên sẽ hình thành tập đoàn kinh tế. Muốn có một tập đoàn kinh tế mạnh thì phải có một công ty mẹ thực sự vững mạnh trên tất cả các mặt vốn, công nghệ, lĩnh vực hoạt động… đủ để giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Không có công ty mẹ mạnh thì không thể có một tập đoàn kinh tế mạnh. Mối liên kết giữa công ty mẹ với các công ty con tuỳ thuộc chủ yếu vào sự chi phối về vốn và tài sản, phơng thức đầu t, góp vốn cổ phần để hình thành các công ty con. Bằng sự khống chế vốn góp ở nhiều mức độ khác nhau, doanh nghiệp trở thành công ty mẹ của nhiều loại công ty con, từ đó hình thành mối liên kết nhiều tầng giữa công ty mẹ với các công ty con chặt chẽ, nửa chặt chẽ, lỏng lẻo. Công ty con nào đợc công ty mẹ góp vốn nhiều hơn thì mối liên hệ chặt chẽ hơn. Quan hệ giữa công ty mẹ với công ty ở mức độ chặt chẽ nếu công ty mẹ đầu t vốn 100%. Khi đó, công ty mẹ với t cách thực hiện quyển chủ sở hữu quyết đình về cơ cấu tổ chức quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thởng, kỷ luật các chức danh quản lý chủ yếu; quyết định điều chỉnh vốn điều lệ; chuyển nhợng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ cho công ty khác; quyết định dự án đầu t theo quy định của nhà nớc; quyết định nội dung,sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty con; giám sát, đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty con; đuyệt báo cáo quyết toán hàng năm; quyết định việc sử dụng lợi nhuận của công ty con… Tuy nhiên, công ty con vẫn là một pháp nhân độc lập. Thông qua việc đầu t, khống chế cổ phần, góp vốn cổ phần, công ty mẹ cử ngời đại diện phần vốn góp để tham gia Hội đồng quản trị của các công ty con. Các công ty con thuộc tầng liên kết chặt chẽ có thể tham gia góp vốn, tài sản để hình thành các công ty concủa mình( gọi là công ty cháu). Tuy nhiên, công ty mẹ có thể không cho phép các công ty con thuộc tầng liên kết không chặt chẽ góp vốn để thành lập các công ty cháu nhằm tránh sự rối loạn trong quyển quản lý tài sản. Nhờ cơ chế góp vốn linh hoạt, hình thành mối liên kết giữa công ty mẹ với công ty con cũng nh giữa các công ty con với nhau để hình thành một chỉnh thể thống nhất hữu cơ các pháp nhân doanh nghiệp hoạt động theo những chiến lợc phát triển chung nhất định và đó cũng là cơ sở để hình thành các tập đoàn kinh doanh sau này. Kinh nghiệm của nhiều nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển cho thấy nhiều doanh nghiệp đã rất thành công trong việc sử dụng cơ chế góp vốn để hoàn thiện tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của mình, phát triển nhanh chóng với quy mô và năng lực ngày càng lớn mạnh, vợt phạm vi một ngành, một quốc gia, trở thành những tập đoàn kinh tế lớn như Samsung, Hyundai, LG, Daewoo, IBM, SIEMENS, SONY,… Trong mô hình công ty mẹ- công ty con, các nghiệp vụ giao dịch chủ yếu giữa công ty mẹ và các công ty con đã giảm bớt về khối lợng nhng chặt chẽ về nội dung. Những nghiệp vụ giao dịch chủ yếu của công ty con con với công ty mẹ thường là: + Báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh, vốn, tài chính. + Nhận và thực hiện các yêu cầu kinh doanh theo mục tiêu chiến lợc chung. + Tự chủ điều hành và liên hệ với các thành viên khác trừ cấp cao hơn ở cấp trên trực tuyến. Như vậy khi có quan hệ giao dịch mua bán công ty mẹ và công ty con sẽ tiến hành các nghiệp vụ giao dịch kinh doanh thông thờng, không áp đặt “ xin- cho” theo mô hình một TCT. Các nghiệp vụ giao dịch đó luôn bình đẳng trớc pháp luật do tài sản và hàng hoá lu chuyển giữa hai pháp nhân riêng biệt. Nếu trong cùng một TCT thì việc giao dịch này giữa các thành viên và giữa các thành viên với TCT chỉ mang tính nội bộ và không sang nhợng quyền sở hữu. Khi các công ty con độc lập với nhau thì trong giao dịch mua bán kinh doanh vẫn phải tiến hành các nghiệp vụ bình thờng theo đúng pháp luật sở tại và thông lệ chung. Tuy nhiên, cần chú ý tới những đặc trng cơ bản trong nghiệp vụ giao dịch trong mô hình công ty mẹ- công ty con, đó là: + Giao dịch ký hợp đồng: Các công ty con vẫn phải tiến hành giao dịch theo thông do các công ty độc lập với nhau. Các văn bản chứng từ đều thống nhất từ lúc giao dịch đến lúc kết thúc hợp đồng. Các điều khoản của hợp đồng phải đầy đủ nhng có quy định gọn nhẹ hơn. Mỗi công ty con đều phải chịu trách nhiệm pháp lý theo pháp luật nơi công ty con hoạt động nên phải thực hiện đầy đủ chứng từ hợp pháp hợp lệ. + Giao hàng và lập chứng từ giao hàng: Giao hàng theo thông lệ quốc tế và phải có đầy đủ chứng từ giao hàng. Thông thờng các tập đoàn đa và xuyên quốc gia tổ chức mô hình công ty mẹ - con này nên các công ty con phải hoạt động ở nhiều môi trờng và hệ thống pháp luật khác nhau. Công ty mẹ vẫn khống chế và kiểm soát đợc các công ty con nhng không quản lý tập trung và can thiệp quá sâu vào các hoạt động thờng nhật của các công ty con. Do đó, các công ty con vẫn phải lập đầy đủ chứng từ giao hàng cho các công ty con khác theo luật lệ địa phơng và thông lệ quốc tế. + Thanh toán theo hợp đồng có u ái: Phơng thức thanh toán chuyển tiền hay bù trừ. Do các công ty độc lập nên có tài chính riêng và hạch toán riêng, mặt khác các công ty con phối hợp với nhau trên tinh thần hợp tác trong cùng một tập đoàn nên phải có u ái với nhau. + Khiếu kiện nếu có tranh chấp nhng không phải đa ra toà hay cơ quan xét xử thứ ba: Thờng là công ty con ở cấp nào sẽ khiếu kiện ngay cho công ty mẹ cấp trên trực tiếp nơi có thẩm quyền giải quyết. Nhiều sự vụ sẽ không cần đa lên công ty mẹ chính gốc hay phải đa ra toà nên chi phí đợc giảm tối thiểu. IV.Công ty Mẹ-Con"tình mẫu tử"Xây dựng công ty bằng tinh thần doanh nghiệp. DN là sản phẩm của con nguời.Vận mệnh tốt xấu mà doanh nghiệp có đuợc tuỳ thuộc vào con ngơì.Việc sinh tử của nó cũng hoàn toàn do con nguơì định đoạt.Chua nói đến sự phát triển và yêu cầu thành danh, quá trình tồn tại của nó đã rất chật vật.Yêu cầu phải cạnh tranh sinh tồn có ngay từ khi doanh nghiệp mới đợc thành lập, càng gay gắt hơn nếu muốn trởng thành,hay để bứơc qua từng nấc thang danh vọng.Cuộc cạnh tranh đó cần sự động não cao và liên tục,sự bền bỉ và tháo vát.Điều này chẳng những đòi hỏi kiến thức hay trí tuệ mà còn trông cậy vào khả năng tổ chức,nắm vững và quán xuyến công việc.Đó là trang bị tối thiểu,sự tinh tế trong vận dụng và huy động các nguồn lực,khả năng thích ứng cao,mới là thứ tạo ra các khoảng cách trên đờng chạy thi thị trờng.ở đây bắt đầu xuất hiện sự sàng lọc.Quá trình sàng lọc đợc xem là không có điểm dừng,vì luôn luôn có nhân tố mới gia nhập.Công ty nh một động cơ "vĩnh cửu ko đuợc nghỉ ngơi dừng lại,không đựơc già đi.Điều gì đã lamd cho nguơì ta mê mệt với cuộc làm ăn nh vậy?Đó là niềm đam mê doanh nghiệp.Đây mới chính là chất keo kết dính nhiều đời ngời vào sự hng vong của một công ty. Năng lợng mà công ty nhận đợc trên dờng chạy vợt thời gian đó không gì khác hơn là trí tuệ của con ngời.Tài trí ấy luôn đợc bổ sung để thích ứng trong suốt chiều dài sống của nó.Cứ thế doanh nghiệp nhận đuợc sự đổi mới liên tục để có đợc thể trạng trẻ mãi không già.Đích đến của doanh nghiệp cũng vì thế mà hầu nhu luôn di động,luôn đợc nâng lên hay dời xa ra phía trứơc ,dù có thành đạt chăng nữa vẫn luôn là chua tới .Động cơ làm giàu của họ đến một lúc đuợc hoá thành nhu cầu hiển đạt.Cao hơn là sự lu danh hay tự cống hiến để đơì.Cũng nhờ vậy mà nhiều công ty đang tồn tại đã trải qua hàng trăm năm.Rất nhiều công ty có lịch sử khơỉ nghiệp chỉ là "hộ cá thể",phát triển từ đời cha qua đời con,lớn mạnh sang đời cháu,rồi mở rộng đại chúng ở đời chắt.Từng doạn lột xác nh vậy,các thực thể doanh nghiệp đựoc mặc tiếp những "chiếc áo" mới,do hình thái công ty cần đuợc thay đổi cho phù hợp với nhu cầu và giai đoạn phát triển.Tất cả đợc đúc kết thành các mô hình và kinh nghiệm tổ chức công ty.Từ những thành bại trong quá trình chắt lọc "thử và sai"nh vậy,khoa học doanh nghiệp đã hình thành rõ nét từ già nửa sau thế kỷ 20. Các thực thể doanh nghiệp đã phát triển lớn mạnh,muốn mở rộng quy mô và tầm hoạt động,thờng đợc cấu trúc thành bối cảnh"mẹ-con".Theo đó công ty mẹ nắm quyền kiểm soát một hay nhiều công ty khác,bằng cách lập ra hoặc "cho thuê tài sản" tại các đơn vị hoạt động (cũng là các công ty),hay mua lại cổ phần để sở hữu pá đảo tại một công ty có sẵn.Là "Me"nhng không theo một tôn ti hành chánh trên dới hay hệ thống nào.Mối quan hệ "Mẹ-Con" hiện hũu trên cơ sở hiệu quả,vì quyền lợi và chỉ tồn tại khi công ty con giỏi làm ăn hay đợc tiên liệu là sẽ tốt.Không giỏi thì mẹ sẽ bỏ con dễ dàng!Đây lại là cách "cu sử"cần thiết.Công ty Mẹ cũng không phải là một loại hình doanh nghiệp gì khác lạ,đó chỉ là công ty bình thờng nh bao công ty khác và cũng nh con của nó.Ngay cả "quyền kiểm soát"cũng dựa theo chừng mực luật lệ(vốn luôn có các điều khoản bảo vệ cổ đông nhỏ).Không có vai trò chủ quản,công ty Mẹ đuợc "lên chức "từ nhu cầu làm ăn tự nhiên,chứ không phải "tổ chức" mới có ."Mẹ "là cách gọi hình tợng để phân biệt,để diễn đạt tơng quan một bối cảnh về sở hữu,việc làm ăn của mẹ có thể hiểu là kinh doanh vốn.Kinh doanh vốn khác với quản lý vốn.Ta thấy động cơ hiệu quả luôn là lý giải thuyết phục của bối cảnh,với một chút "quyền lực"có từ quyền sở hữu.Đấy vẫn là đồng tiền đi liền khúc ruột!Cho nên , nếu 'Me-Con' mà tổ chức mô phỏng theo kiểu hợp lại khiên cỡng thì kết quả cũng chỉ là "mô phỏng".Mẹ nuôi thì sẽ có con nuôi.Chỉ khi là Mẹ ruột-con ruột thì mới có một đan uyện tâm huyết chọn vẹn . Thế là đã rõ,từ các thực thể nhỏ lẻ cho đến anh không lồ,không đâu có thể thiếu vắng sự tận tuỵ và tài trí tổ chức điều hành.Hơn nữa ,tinh thần doanh nghiệp ngày nay không chỉ liên hệ đến chuyện làm ăn cụ thể,mà còn là thứ tinh hoa trí tuệ của loài ngời,đợc triết lý nh là sự nghiệp đáng tôn vinh.Hãy bắt đầu xây dựng công ty bằng tinh thần doanh nghiệp để có sự đam mê. V.Điều kiện tổ chức công ty mẹ-con. 1.Hoàn cảch quốc tế-Môi trường kinh tế quốc tế Sự kiện khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ đã có tác động to lớn đến nền kinh tế thế giới, vốn vẫn chưa hoàn toàn ổn định sau cuôc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại Châu á. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, tốc độ tẳng trưởng kinh tế thế giới năm 2001 chỉ đạt 1,4% so với 3,8% năm 2000 và dự kiến, năm 2003 cũng chỉ đạt 1,6%. Thương mại toàn cầu cũng tụt xuống mức thấp nhất trong lịch sử kinh tế hiện đại, với tốc độ giảm từ 13% xuống 1% năm 2001. Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế của thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, trong thời gian tới, những xu hướng sau sẽ tiếp tục là những vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm: Thứ nhất, nền kinh tế tri thức sẽ tiếp tục phát triển ngày càng mạnh mẽ. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là lấy khoa học công nghệ hiện đại làm xương sống, khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì thề, sự cạch tranh trên phạm vi thế giới đã trở thành sự cạch tranh quốc lực tổng hợp, lấy kinh tế làm cơ sở, lấy khoa học công nghệ để mở đường. Năm 1997, giá trị khoa học công nghệ cao trong ngành công nghệ thông tin của Mỹ đã chiếm hơn 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tổng giá trị xuất khẩu ngành dịch vu có hàm lượng chất xam cao (chủ yếu là công nghệ thông tin) chiếm gần 40% giá trị xuất khẩu. Gần 50% tổng giá trị sản phẩm quốc nội của các nước OECD là từ các ngành sản xuất có tri thức làm nền tảng. Thứ hai, mở của và hội nhập sẽ tiếp tục được đẩy mạnh. Trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ kinh tế quốc tế phát triển rất sôi động, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế của toàn thế giới cũng như của mỗi quốc gia. Thông qua hội nhập, các nền kinh tế đang phát triển có thể thu hút được một khối lượng lớn vốn đầu tư, khoa học công nghệ, khoa học quản lý từ các nước phát triển, đồng thời mở ra cho các nước này một thị trường tiêu thụ hàng xuât khẩu rộng lớn. Từ đó, các nước đang phát triển có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xây dựng được cơ cấu sản phẩm tối ưu, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ ba, toàn cầu hoá nền kinh tế sẽ là xu thề tât yếu. Thực vậy, nền kinh tế của các quốc gia đang ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Một sản phẩm không còn được tạo thành từ một quốc gia mà giờ đây đã được tạo thành từ nhiều quốc gia khác nhau. Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia (TNC) càng làm cho xu thề này rõ rệt hơn. Các TNC có chi nhánh ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, có măt hầu hết trong các ngành công nghiệp quan trọng. Nó đã tạo ra gần 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, 50% kim ngạch mậu dịch, 90% công nghệ kỹ thuật cao, 75% chuyển giao công nghệ của toàn thế giới . Bối cảnh kinh tế trên sẽ đem lại cho chung ta những cơ hội lớn, đông thời cũng là những thách thức lớn mà chúng ta phải tính đến trong quá trình lựa chọn một mô hình phù hợp cho quá trình xây dựng các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam. Xu thế phát triển của tập đoàn kinh tế hiên nay Hiện nay trên thế giới có hai xu thế trái ngược nhau liên quan đến hình thức kinh doanh lớn. Một là xu hướng sáp nhập ở một số nước, mà chủ yếu là các nước châu Âu. Các doanh nghiệp lớn sáp nhập với nhau, hình thành nên những tập đoàn khổng lồ, chi phối hầu hết một lĩnh vực nào đó của khu vực hoạc thế giới. Gần đây, xu hướng này lan sang cả ngành ngân hàng, tạo nên những tập đoàn tài chính không lồ, như ngân hàng Nationale de Paris sáp nhập với Parisbank, lập nên một ngân hàng mới với số vốn hàng trăm tỷ USD. Việc sáp nhập này nhằm tăng hiệu quả theo quy mô, tăng cường khả năng cạnh tranh của các tập đoàn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc mở rộng quy mô như vậy lai không cải thiện mấy hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của cả tập đoàn. lý do có nhiều, chẳng hạn như sự thiếu mền dẻo trong chính sách của quốc gia, ví dụ như việc sáp nhập 2 ngân hàng lớn của Đức là Deutsche Bank và Dresdner không mang lại kết quả như mong muốn do luật lao động của Đức quá cứng nhắc, khó giảm số lao động dư thừa. Theo ý kiến của các nhà quan sát, muốn đản bảo việc sáp nhập mang lại kết quả tốt thì Nhà nước phải tạo được sân chơi bình đẳng cho kinh doanh riêng lẻ, ngừng trợ cấp cho ngân hàng quốc doanh, nới lỏng luật lao động và chấp nhận sáp nhập xuyên quốc gia. Hai là xu thế giảm bớt quy mô, hoặc thậm chí phá sản ở một số tập đoàn ở châu á. Ví dụ Hàn Quốc, đến ngày 23/1/1997, đã có 11 tập đoàn bị phá sản. Tổng số nợ nước ngoài tính đến thời điểm đó là 1 tỷ won (khoảng 727,8 triệu USD). Để giải quyết tình trạng này, nhiều tập đoàn đã phải bán bớt cổ phần và tài sản, như Huyndai đã bán bớt các chi nhánh của mình, chỉ giữ lại 57 đơn vị sản xuất kinh doanh, so với 95 đơn vị trước đây, thu về 85,5 tỷ tiền vốn. 2. Hoàn cảnh trong nước Trong hơn 10 năm qua, dưới ánh sáng của các nghị quyết Đại hội VII,VIII và IX, chúng ta đã triển khai nhiều chủ trương, thực hiện nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới và phát triển các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Những biện pháp kiên quyết và sâu rộng nhất tập trung chủ yếu ở 3 đợt chính: Đợt thứ nhất (1990 - 1993): tập trung kiểm soát số lượng DNNN, vốn đã bị bung ra trong một thời gian dài trước đó. Nhiệm vụ chủ yếu là sắp xếp lại những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, hình thành một số tiêu chuẩn điều kiện cho các DNNN như về vốn pháp định, ngành nghề kinh doanh, quy mô, luận chứng về thị trường, tiêu thụ sản phẩm … Đợt thứ hai (1994 - 1997):tập trung khắc phục tính chất hành chính trung gian của các tổng công ty cũ, thành lập mới các tổng công ty Nhà nước theo quyết định 90, 91 của Thủ tướng Chính phủ (TCT 90, TCT 91) trong những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tiến hành cổ phần hóa một số các DNNN, đưa vào thực hiện luật doanh nghiệp Nhà nước , bắt đầu xóa bỏ đần chế độ chủ quản của các cơ quan quản lý Nhà nước. Đợt thư ba(1998 đến nay ) tiếp tục củng cố và hoàn thiên các TCT, thực hiện các biện pháp nhằm lành mạnh hoá tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước, lập kế hoạch chiến lược đổi mới công nghệ, hoàn thiên quản lý, nâng cao sưc cạnh tranh và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp Nhà nước. Chúng ta tiếp tục tiến hành việc chuyển một bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước sang hình thức công ty cổ phần, băt đầu triển khai các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước theo tinh thần nghị quyết trung ương (khao VIII). Nhờ những biện pháp đó, đên nay, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm đi nhiều từ 12300doanh nghiệp trước đây xuống còn 5571 ( 2001) doanh nghiệp, tức giảm 54,7%, trong đó có 17 TCT 91, 77 TCT 90. Cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước bước đầu đã được điều chỉnh cho hớp lý hơn. quá trình tích tụ và tập trung vốn đã có bước cải thiên đáng kể. Nếu năm 1994, số doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đông chiêm tới 43%tổng số thì đến năm 2000, số đó chỉ còn 25%. Số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng tăng tương ứng là 10 % lên 20%. Vốn bình quân của tất cả các DNNN tăng gần 7 lần, từ 3,3 tỷ năm 1994 lên 22 tỷ năm 2000. Thực tề đã chứng tỏ DNNN thực sự có vai trò chi phối, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển đúng quỹ đạo, góp phần quyêt định vào việc tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phần đóng góp của DNNN chiếm gần 40 % tổng nộp ngân sách và trên 50% kim ngạch xuât khẩu của cả nước. Tỷ lệ nộp ngân sách trên một đồng vốn đã tăng từ 14,7% năm 1991 lên 28% năm 2000. Tỷ lệ đóng góp của DNNN trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng từ 6,8% năm 1993 lên 12% năm 2000. Những kêt quả này mới chỉ là bước đầu nhưng đã xoá đi mặc cảm rằng cư nói đên DNNN, là nói đến kém hiệu quả, thua lỗ triền miên. Về việc xây dựng các tập đoàn kinh tế, nhờ có sự quan tâm và đầu tư rất lớn của Đảng và Nhà nước, chung ta đã thành lập được 17 TCT 91(tổng công ty thành lập theo quyết định 91 của thủ tướng Chính phủ) và 74 TCT 90 (tổng công ty thành lập theo quyết định 90). Chúng ta cũng dần kiện toàn bộ máy tổ chức hoạt đông của các TCT, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này. Kết quả đạt được cũng rất khả quan: các TCT đã bảo toàn được vốn, huy động được nhiều nguồn lực đầu tư mới, đổi mới công nghệ, tăng cương năng lực sản xuất, hiệu quả và sức cạnh tranh đã có bước tăng đáng kể. Theo Cục tài chính doanh nghiệp - bộ tài chính, năm 2001, riêng 17 TCT 91 đã tự bổ xung 18.038 tỷ đông vốn, các TCT đã đạt mức doanh thu tăng 27,6%, nộp ngân sách tăng 39,9% so với năm 99. Các TCT ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp Nhà nước sau đúng 10 năm thực hiện cũng đã đem lại những kết quả hết sức khả quan. Đến cuối năm 2001, chung ta đã cổ phần hoá được 773 DNNN và bộ phận DNNN. Tổng số vốn Nhà nước được đánh gía trong các DNNN được cổ phần hoá là 2.714 tỷ đồng (không kể giá trị quyền sử dụng đất), tăng 13,7% so với trước cổ phần hoá, băng 1,97% tổng vốn Nhà nước trong các DNNN. Trong số các doanh nghiệp được cổ phần hoá, TCT91 chiếm 25%, còn lại là các doanh nghiệp địa phương. Các hình thức cổ phần hoá cũng hết sức đa dạng, t._.ừ giữ nguyên giá trị doanh nghiệp và phát hành thêm cổ phiếu, tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hoá, chuyển toàn bộ DNNN sang công ty cổ phần cho đến bán một phần DNNN. Các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đã thực sự làm ăn có lãi, người lao động gắn bó hơn với công ty. Theo các số liệu của 202 doanh nghiệp đã cổ phần hoá trên 1 năm thì tính chung, doanh thu của các doanh nghiệp đã tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng 22%, vốn Nhà nước không những được bảo toàn mà còn tăng 17,3%. Số người lao động có việc làm cũng tăng trên 5,1% so với trước khi cổ phần hoá. Tuy nhiên, đi sâu vào phân tích có thể thấy nổi lên một số yếu kém và những vấn đề đặt ra đối với quá trình sắp xếp và đổi mới các DNNN như sau: Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được. Tốc độ tăng trưởng của các DNNN cũng có đấu hiệu giảm dần, nợ khó đòi ngày càng lớn; DNNN vẫn còn ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước. Theo đánh giá chung, mới chỉ có 40% DNNN làm ăn có hiệu quả, 40% còn gặp nhiều khó khăn, khi lỗ, khi lãi, còn lại 20% là thực sự chưa có hiệu quả. Thuế thu nhập doanh nghiệp của DNNN còn chiếm tỷ trọng lớn trong nộp ngân sách Nhà nước (14,2% năm 2001); tỷ xuât lợi nhuận trước thuế có xu hướng giảm dần từ 11,2% năm 1996 xuống 9,5% năm 2000. Các tổng công ty Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn về vốn (66%) nhưng mới tạo ra được 58% doanh thu, trong đó TCT 91 chiếm 44% về vốn ngân sách cho toàn bộ các doanh nghiệp nhưng chỉ tạo ra 31% doanh thu. Các TCT 90 nắm giữ 22% vốn nhưng chỉ tạo ra 27% trong tổng doanh thu của toàn bộ các DNNN. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, xếp hạng 62/75 về chỉ số năng lực cạnh tranh . Thứ hai, đầu tư đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang là cản trở lớn đối với cạnh tranh và hội nhập. Theo số liệu của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường, trừ một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực (doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất thiết bị đo điện, lắp ráp điện tử, sản xuất sợi, dệt…) còn lại thì đều lạc hậu so với thế giới và khu vực từ 3 - 5 thế hệ, trình độ cơ khí hoá, tự động hoá dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%. Hậu quả trực tiếp của tình trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt, thép, phân bón, ximăng, kính xây dựng…có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20% - 40%, riêng đường thô cao hơn 70% - 80%. Đến cuối năm 2001, cả nước mới có gần 500 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO, trong đó có 231 DNNN. Thứ ba, quy mô của các DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý. Đến nay cả nước có 5571 doanh nghiệp với tổng số vốn khoảng 116000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỷ đồng. Số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ chiếm tới 65,4%. DNNN chưa tập trung hoàn toàn vào những ngành và lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế. Thứ tư, tình trạng lao động thiếu việc làm và dôi dư có xu hướng ngày càng tăng, gây khó khăn lớn cho quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu của bộ Lao động và thương binh - Xã hội, hiện nay số lao động không có việc làm thường xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp lên tới 40%. Thứ năm, trình độ quản lý của các DNNN phần lớn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường. Nhiều nơi cán bộ quản lý của các DNNN còn chưa được đào tạo bài bản, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, còn nhiều lúng túng khi làm ăn trong cơ chề thị trường. Thứ sáu, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý DNNN còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ. Những hạn chế, yếu kém của DNNN có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan: - chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức và vai trò, vi trí của kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Nhiều vấn đề còn chưa rõ, còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng vẫn chưa được tổng kết và rút ra kinh nghiệm. - Quản lý Nhà nước đối với DNNN còn nhiều yếu kém, vướng mắc; cải cách thủ tục hành chính diễn ra chậm. - Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vẫn chưa tạo được động lực mạnh mẽ để thúc đẩy cán bộ và người lao động nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh. - Một bộ phận cán bộ doanh nghiệp còn chưa đáp ứng được yêu cầu về năng lực cũng như phẩm chất chính trị. - Sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của chính phủ đối với việc đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN còn chưa tương xứng với vai trò của nhiệm vụ quan trọng này. Tổ chức và phương thức hoạt động của cơ quan Đảng tại DNNN còn chậm được đổi mới. Nhận thức được vai trò to lớn cũng như những khó khăn tồn tại cần khắc phục của các DNNN, Đảng và Chính phủ đã nhấn mạnh đương lối chỉ đạo đối với công cuộc đổi mới và sắp xếp DNNN và đề ra mục tiêu 10 năm 2001 - 2010: "Sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước, góp phần quan trọng đảm bảo các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nươc theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Một trong những vấn đề hiện nay là phải tiến hành đổi mới, sắp xếp các DNNN lớn, chủ yếu là các Tổng công ty theo hướng nâng cao hiệu qủa hoạt động, đưa chúng thực sự trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có khả năng cạnh tranh và chi phối trong nền kinh tế. Chương II: thực trạng mô hình CôNG TY Mẹ-công ty con I.Thực trạng nền kinh tế Việt nam 1.Kinh tế việt nam năm 2003-bài học kinh nghiệp Thương mại hàng hoá, dịch vụ phát triển dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần ( thương mại nhiều thành phần). Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng IX đã khẳng định tiếp thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, tạo nên điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh ,tập trung sửa đổi ,bổ xung cơ chế, chính sách, pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để đảm bảo các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài hợp tác cạnh tranh lành mạnh…đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để phát triển nền kinh tế đưa thương mại phát triển trong điều kiện hội nhập . Thương mại phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế, thương mại theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân hoạt động thương mại, dịch vụ đặt ra. Đó là các vấn đề quan hệ lợi ích, thương mại với môi trường, nhu cầu kinh doanh với các nhu cầu xã hội, buôn lậu, gian lận thương mại … những vấn đề đó trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngược trở lại và có ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại dịch vụ. Vì vậy sự tác động của nhà nước vào các hoạt động thương mại trong nước và với nước ngoài là một tất yếu của sự phát triển. Sự quản lý của nhà nước đlei với thương mại của nước ta được thực hiện bằng luật pháp và các chính sách, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển thương mại. Nhà nước sử dụng những công cụ đó để quản lý các hoạt động thương mại làm cho thương mại phát triển trong trật tự kỷ cương, kinh doanh theo đúng quy tắc thị trường. Thương mại tự do hay tự do lưu thông hàng hoá dịch vụ theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Sản xuất hàng hoá trước hết là sản xuất những giá trị sử dụng nhưng những giá trị sử dụng này phải qua trao đổi mới là hàng hoá được. Bởi vậy, thương mại làm cho sản xuất phù hợp với những biến đổi không ngừng của thị trường trong nước và thế giới, với tiến bộ kỹ thuật thay đổi nhanh chóng, đồng thời thông qua việc phục vụ tiêu dùng (sản xuất và cá nhân) làm nảy sinh những nhu cầu mới mà kích thích sản xuất.Tự do thương mại làm cho lưu thông hàng hoá nhanh chóng, thông suốt là điều kiện nhất thiết phải có để phát triển thương mại và kinh tế hàng hoá. Sản xuất được mở cửa, nhưng việc mua bán những sản phẩm sản xuất bị gò bó, hạn chế thì rút cuộc sản xuất cũng bị kìm hãm. Thương mại theo giá cả thị trường. Giá cả thị trường được hình thành trên cơ sở gía trị thị trường, nó là giá trị trung bình và là giá trị cá biệt của những hàng hoá chiếm phần lớn trên thị trường. Mua bán theo giá cả thị trường tạo ra động lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo cơ hội để các doanh nghiệp vươn lên làm giàu. Tất cả các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đều được tiền tệ hoá và được thiết lập một cách hợp lý theo định hướng kế hoạch của nhà nước, tuân theo các quy luật của lưu thông hàng hoá và của kinh tế thị trường. * Kết quả của thương mại Việt Namđạt được trong năm 2003, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm. Thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế –thương mại quốc tế cũng là quá trình tiếp tục xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tham gia quá trình hội nhập kinh tế thương mại quốc tế, thương mại Việt Nam đã góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Có thể đánh giá những thành tựu và hạn chế của thương mại Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế thương mại quốc tế thời kỳ 1996-2003. + Hoạt động thương mại trong nước. - Thành tựu và nguyên nhân. Thành tựu: Hoat động thương mại liên tục tăng hàng năm với tốc độ tương đối cao, đáp ứng được yêu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của sản xuất dân cư, góp phần quan trọng vào sự phát triểnvà chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội.Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội từ năm 1996-2003 bình quân tăng 11% năm.Năm 1996 đạt 144,1nghìn tỷ đồng, dự kiến năm 2003 đạt 306 nghìn tỷ đồng, so với năm 1996 tăng 112%. Tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội ở khu vực miền núi khá cao, giảm dần chênh lệch với các tỉnh đòng bằng, đô thị. Hàng hoá ngày càng phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng.Văn minh thương mại ngày càng được nâng cao. Từ năm 1996 đến nay không có “cơn sốt”do quan hệ cung cầu hàng hoá mất cân đối với quy mô lớn, phạm vi rộng, thời gian dài. Kênh lưu thông một số măth hàng: xăng dầu, phân bón, xi măng, thép, thóc gạo… Bước đầu định hình và củng cố có sự tham gia đông đảo của các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, gắn sản xuất với tiêu thụ , gắn hàng hoá với thị trường trong nước và thị trường thế giới. Phương thức kinh doanh ngày càng đa dạng và tiếp tục được mở rộng trên cả thành thị , nông thôn và miền núi, thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế với nhiều quy mô, hình thức tổ chức và tình hình sở hữu khác nhau. Trị giá, trị cước đã bảo đảm cho nhân dân miền núi mua với giá ổn định các mặt hàng như muối, dầu hoả , phân bón…, trợ giá giống cây trồng được các địa phương đánh giá là có hiệu quả nhất trong các mặt hàng chính sách. Dịch vụ phát triển đa dạng, đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế phục vụ tốt đời sống của nhân dân. Du lịch phát triển nhanh, troẻ thành một ngành dịch vụ quan trọng đlei với toàn xã hội nhiều loại hình dịch vụ đa dạng, phong phú và có chất lượng phục vụ tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch trong và ngoài nước. Trật tự kỷ cương trên thương trường được khôi phục một bước tệ buôn bán gian lận thương mại và kinh doanh trái phép đã bước đầu được kìm chế. Nguyên nhân Đã hình thành được thị trường thống nhất và ổn định trong toàn quốc, hoạt động thương mại sội động với cơ chế lưu thông và môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng thuận lợi. Hàng hoá được tự do buôn bán, thương nhân dược tự do hoạt động theo pháp luật và các quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường nông thôn từng bước phát triển và mở rông với một cấu trúc chủ thể kinh doanh ngày càng đa dạng, trong đó thị trường miền núiđã có bước phát triển theo hướng trở thành thị trường của nền kinh tế hàng hoá gắn liền với thị trường cả nước. Hoạt động thương mại phát triển với sự tham gia của các thành phần kinh tế , trong đó thương mại tư nhân và cá thể phát triển mạnh. Quản lý nhà nước về hoạt đọng thương mại ngày càng được đổi mới đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường, thúc đẩy các chủ thể tham gia hoạt động thương mại tăng cường đầu tư, mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh. -Những hạn chế và nguyên nhân Hạn chế Hoạt động thương mại vẫn còn trong tình trạng phân tán, chia cát theo cấp và ngành. Mạng lưới bán hàng tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị. Tốc độ tăng trưởng mức bán lẻ bình quân đầu người giã các vùng lãnh thổ còn khá chenh lệch. Chỉ số giá tiêu dùng biến đọng thất thường, giảm phát kéo dài trong vài năm gần đây đã ảnh hưởng xấu đến sản xuất và tiêu thụ hàng hoá . Phát triển thương mại ở thị trường nông thôn, miền núi còn chậm , vẫn có chênh lệch lớn giữa thị trường nông thôn , miền núi với khu vực đông bằng, nhất là các thành phố,. Việc cung ứng các mặt hàng chính sách và tổ chức tiêu thụ nông sản… đlei với khu vực miền núi vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của đồng bào. Công tác phân tích, dự báo thị trường để định hướng sản xuất kinh doanh còn mang tính chủ quan . Thiếu các chính sách và giải pháp cụ thể để vận hành tổng thể thị trường và lưu thông hàng hoá và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá , của doanh nghiệp và nền kinh tế. Việc phát triển nhiều ngành công việc chế biến và nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng chưa gắn với việc quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu trong nước. Nguyên nhân Thu nhập của dân cư, nhất là khu vực nông thôn còn hạn chế, tuy có tăng nhưng rất chậm. Sức mua của thị trường đặc biệt là thị trường nông thôn (cả đồng bằng và miền núi) còn yếu và ít được cải thiện. Sức mua tính trên đầu người ở miền núi chỉ bằng một nửa so bình quân cả nước. Phát triển thương mại nhà nước chưa rõ, hiệu quả kinh doanh thấp, năng lực cạnh tranh kém, mạng lưới thương mại phân tán, chia tách theo ngành và cấp khá nặng nề. Vốn cho kinh doanh vừa thiếu nghiêm trọng lại vừa sử dụng kém hiệu quả , phương thức kinh doanh chậm được đổi mới. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước chỉ hoạt động tập trung ở các thành phố, thị xã, chưa tổ chức mạng lưới và phương thức kinh doanh thích hợp ở thị trường nông thôn , miền núi, chưa thực hiện được chức năng là công cụ của nhà nước trong việc điều tiết thị trường. Thương mại hợp tác xã chưa được chú trọng thoả đáng , còn lúng túng trong việc lựa chọn định hướng hoạt động và mô hình kinh doanh. Trừ thương mại tư nhân và cá thể, còn thương mại của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp và tăng trưởng chậm. Quá trình liên kết giữa lưu thông với sản xuất, chế biến phát triển chậm và yếu ở nhiều mặt hàng, nhiều địa bàn. + Hoạt động xuất nhập khẩu *. Ước tính năm 2003 tổng giá trị xuất khẩu của cả nước đạt xấp xỉ 19,88 tỷ USD tăng 19% so năm 2002 (so với kế hoạch đầu năm tăng 11,7%) . Trong đó, khu vức kinh tế trong nước tăng 11,7%, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 27,2%. Mặc dù bình quân các tháng trong quý 4 đều đạt trên 1,65 tỷ USD nhưng do các tháng cuối năm 2002 tăng rất mạnh nên đã làm giảm nhẹ tốc độ tăng trưởng của các tháng cuối năm 2003, vì thế tốc độ tăng cả năm thấp hơn tốc tốc độ tăng của 6 tháng đầu năm. Cơ cấu hàng xuất khẩu tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng hàng công nghiệp và chế biến, giảm dần hàng thô, tuy nhiên sự dịch chuyển này vẫn rất chậm và chưa có sự bvề vững. Tổng giá trị xuất khẩu của năm 2002 là 16706 triệu USD. Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản năm 2002 là 5210 triệu USD chiếm 31,2%, hàng thủ công mỹ nghệ 6400 triệu USD chiếm 38,3%, hàng nông lâm sản và nông lâm sản chế biến 3074 triệu USD chiếm 18,4% hàng thuỷ sản là 2022 triệu USD chiếm 12,1%. Ước tính 2003: Tổng giá trị xuất khẩu 19880 triệu USD , hàng công nghiệp nặng và khoáng sản 6150 triệu USD chiếm 31%, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp 7951 triệu USD chiếm 40,1%, hàng nông lâm sản và nông lâm sản chế biến là 3562 triệu USD chiếm 18%, hàng thuỷ sản 2217 triệu USD chiếm 11,2%. So với năm 2002 nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tỉ trọng công nghiệp nhẹ tăng 24,2% , cao hơn mức tăng xuất khẩu chung, nhưng tốc đọ tăng trưởng của nhóm hàng nông lâm sản và thuỷ sản lại thấp hơn . Nửa cuối năm 2003, kinh tế thế giới có sự hồi phục sau cuộc khủng hoảng sự kiện 11/9/2002, đại dịch SARS và cuộc chiến tranh I- Rắc, điều này đã thúc đẩy nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng thế giới tăng, nhưng do nguồn hàng của nước ta hạn chế, nên mặc dù giá một số hàng nông sản tăng cao hơn cùng kỳ như gạo, cà phê, cao su nhưng kết quả xuất khẩu của những mặt hàng này còn ở mức khiêm tốn. Theo số liệu thống kê sơ bộ của năm 2003, hàng gia công vẫn chiếm tỷ trọng cao trong hàng xuất khẩu của Việt Nam. Hàng gia công của khu vực kinh tế trong nước chiếm tới 27%, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm xấp xỉ 60% (năm 2002 tỷ lệ này là 57,7% ). Đây là tỷ lệ khá cao chứng tỏ hang xuất khẩu của ta còn phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nước ngoài và phần thực thu ngoại tệ cho quốc gia vẫn còn ở mức khiêm tốn. Xét về cơ cấu các ngành thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu năm 2003, tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, chiếm tới 50,4% tổng giá trị xuất khẩu (năm 2002 là 47,1%). Khu vực kịnh tế ngoài nhà nước cũng tăng nhẹ, chiếm khoảng 25% trong tổng số (năm 2002 khoảng 23%) trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước chỉ chiếm 24%. Loại trừ dầu thô, sự tăng cao của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là kết quả của việc các doanh nghiệp này chủ yếu tập trung vào đầu tư sản xuất kinh doanh các nhóm hàng công nghiệp nhẹ như dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, dây điện và cáp điện, đó là những nhóm hàng phải nhập nhiều nguyên liệu từ nước ngoài. Trong khi đó sự đầu tư vào khâu sản xuất chế biến để xuất khẩu các nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản để sử dụng được tối đa nguồn nguyên liệu trong nước lại chưa thu hút được khu vực doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế nguồn lực đầu tư vào thiết bị công nghệ chế biến nên chất lượng hàng hoá thuộc nhóm nông, lâm thuỷ sản chưa cao theo yêu cầu của thị trường quốc tế, vì thế sản phẩm chưa có sức cạnh tranh cao, chưa tạo được thị trường vững chắc. Thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam năm 2003 chủ yếu vẫn tập trung ở các thị trường lớn. Nhưng về thị phần đã có sự thay đổi đó là sự tăng lên mạnh mẽ của thị trường Mỹ chiếm tới 20% thị phần, đứng ở vị trí thứ nhất (trong khi năm 2002 tỷ lệ này là 14,5%) cao hơn cả thị phần của khối AEAN (15%) và khối EU (19%). Xuất khẩu chính thức 11 tháng sang Mỹ đạt 3,65 tỷ USD (ước tính cả năm đạt khoảng xấp xỉ 4tỷ), trong đó nhóm hàng đạt trị giá cao nhất là dệt may:1,82tỷ USD chiếm 54% toàn bộ giá trị hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam; tiếp theo là nhóm hải sản đạt 768triệu USD chiếm 38%giá trị xuất khẩu hải sản cả nước.Sau 2 năm thực hiện hiệp định thương mại Việt_Mỹ, kết quả này chứng tỏ tiềm năng tiêu thụ hàng hoá Việt Nam tại thị trường Mỹ là rất lớn, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam cần rất thận trọng trong nghiên cứu môi trường pháp lý Hoa Kỳ trong kinh doanh đặc biệt đối với chính sách nhập khẩu của Mỹ. Sau sự kiện bán phá giá cá tra, basa, hai loại hàng hoá này của ta đã chịu mức giá cao hơn. Ngoài ra ngày 31/12/2003 liên minh tôm miền nam nước Mỹ SSA đã khởi kiện 6 nước xuất khẩu tôm sang Mỹ trong đó có Việt Nam với lý do bán phá giá. Điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu hải sản của Việt Nam năm sau vào Mỹ. Việc tích cực khai thác thị trường Mý rất đáng khuyến khích vì hàng hoá vào Mỹkhông yêu cầu chất lượng chặt chẽ như EU, Nhật Bản, nhưng sẽ là nguy hiểm nếu chúng ta quá phụ thuộc và tập trung chạy theo một thị trường mà không chú ý đến duy trì và thúc đẩy thị trường truyền thống như ASEAN, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc và các thị trường mới như châu Phi. Điều này thực tế đã xảy ra với hàng dệt may trong năm 2003, xuất khẩu vào Mỹ tăng 2,2 lần so với năm 2002 thì xuất khẩu vào Nhật Bản lại giảm 1,6%, Đài Loan giảm 20,8%, Hàn Quốc giảm 28,6%, EU giảm 5,2%. Không đạt được tốc độ phát triển cao như thị trường Mỹ, xuất khẩu năm 2003 sang các nước ASEAN và khối EU về thị phần vẫn tương tự như năm 2002 (tương ứng là 15%, 22%, cao hơn tốc đọ tăng trưởng đạt khoảng 23% và 22%, cao hơn tốc độ tăng chung). Thị trường Trung Quốc và Ôxtrâylia đều có tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng xuất khẩu chung và thị phần có sự giảm nhẹ so với năm trước. Thị trường châu âu đã có sự khởi sắc đôi chút chiếm khoảng 1,2% thị phần (năm 2002 là 0,8%) nhưng vẫn là thị trường còn rất hạn chế đối với hàng hoá Việt Nam. Đây là thị trường rát “dễ tính” về yêu cầu chất lượng hàng hoá và phù hợp với chủng loại hàng sản xuất tại Việt Nam, nhưng do rất nhiều hạn chế về sự ổn định và an toàn của hệ thống thanh toán cũng như về công tác xúc tiến thương mại nên chưa hấp dẫn được các nhà sản xuất Việt Nam. Trong bối cảnh thị trường quốc tế có nhiều biến động của năm 2003 thì kết quả xuất khẩu đã đạt được thể hiện sự nỗ lực phấn đấu khai thác thị trường nguồn hàng, nâng cao chất lượng hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam và đây cũng là cơ sơ tạo đà cho các năm tiếp theo. Kết quả khả quan này do những nguyên nhan chủ yếu: Nền kinh tế phục hồi nhanh sau dịch bệnh SARS được kiểm soát và cuộc chiến tranh I-rắc kết thúc nhanh đã tăng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng. Hiêp định thương mại Việt –Mỹ đã tạo ra thị trường rộng lớn cho hàng hoá Việt Nam. Sự điều hành và hỗ trợ tích cực của chính phủ, các bộ nghành bằng nhiều chính sách như hỗ trợ tín dụng, vốn, lãi suất, thưởng kim ngạch … đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tích cực mở rộng xúc tiến thương mại, khai thác thị trường. Đồng thời môi trường pháp lý về đầu tư ngày càng thông thoáng cũng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Kết quả đầu tư thiết bị công nghệ tiên tiểntong các năm đã nâng cao hơn khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên trường quốc tế. Sự kiểm soát và tuân thủ chặt chẽ tiêu chuẩn và chất lượng hàng hoá trong các khâu từ sản xuất đến nuôi trồng chế biến của các cơ quan quản lý ( đặc biệt đlei với hàng thuỷ sản) theo tiêu chuẩn quốc tế cũng tạo được chỗ đứng ổn định hơn hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Sự tăng giá của nhiều loại hàng trên thế giới cũng làm tăng trị giá xuất khẩu của Việt Nam như dầu thô, cà phê, cao su, hạt điều lạc nhân. Tính riêng cho những mặt hàng này sự tăng giá đã làm tăng khoảng 730 triệu USD trong tổng trị giá xuất khẩu. Chất lượng hàng xuất khẩu đã nâng lên đáng kể, bước đầu tạo ra sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới, do các nhà sản xuất trong nước đã chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngược lại với xuất khẩu, tốc độ tăng nhập khẩu của các tháng cuối năm 2003, vẫn giữ ở mức cao nên cả năm 2003 ước đạt sấp xỉ 25 tỷ USD, tăng 26,7% so với 2002. Trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 16,27 tỷ, chiếm tỷ trọng 65% so với tổng số và tăng 25% khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 30%. Trong khu vực kinh tế trong nước, khối các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc nhập khẩu các mặt hàng chiến lược để điều tiết nền kinh tế như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thiết bị khai thác dầu khí, máy bay… nên trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp này chiếm tỷ trọng khoảng 70% trị gía nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước. Do yêu cầu năng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời giảm tỷ lệ hàng gia công trong xuất khẩu nên nhu cầu đổi mới thiết bị công nghệ, nguyên, nhiên vật liệu cũng tăng lên mạnh mẽ, chính vì vậy nhập khẩu năm 2003 về tư liệu sản xuất tăng 27,8% so với 2002, chiếm tỷ trọng tới 93,6% trong tổng trị giá nhập khẩu, trong đó nhập khẩu của nhóm máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng ước đạt 8,1 tỷ, tăng xấp xỉ 40%, bao gồm cả số máy bay nhập khẩu năm 2003 là 540 triệu USD. Nhập khẩu máy móc thiết bị từ các nước phát triển có nền khoa học công nghệ tiên tiến tăng tới 45% và chiếm tỷ trọng khoảng 57% (năm 2002 chiếm tỷ trọng khoảng 47%), điều này thể hiện chất lượng máy móc nhập khẩu cũng được nâng cao hơn. Về hàng tiêu dùng trị giá nhập khẩu tăng 11,9% chiếm tỷ trọng 6,4% trong tổng trị giá nhập khẩu, tỷ trọng năm 2002: 7,2%. Trong số 7 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu sang Việt Nam đạt trị giá trên 1 tỷ USD có 6 nước và vùng lãnh thổ thuộc châu á là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Xingapor, thái Lan và Trung Quốc giữ vị trí đứng đầu xấp xỉ 3 tỷ USD (năm 2002 ở vị trí thứ 5) với hàng hoá chủ yếu là xăng dầu, máy móc thiết bị phân bón, nguyên phụ liệu dệt may da… Chính vì thế tỷ trọng hàng nhạp khẩu từ châu á vẫn chiếm tỷ lệ cao là 76% mặc dù đã giảm nhẹ so với năm 2002 (80,2%). Nhập khẩu từ các nước ASEAN năm 2003ước đạt 5,8 tỷ USD, tăng 23,5% so năm 2002 thấp hơn mức tăng nhập khẩu chung và chiếm tỷ trọng xấp xỉ 30% trong tổng số. Trong 6 tháng cuối năm , nhập khẩu từ khối này tăng 25,5% so cùng kỳ, như vậy việc bắt đầu thức hiện Hiệp định CEPT/AFTA từ 1/7/2003. Trong khối các nước ASEAN, hai nước xuất khẩu lớn nhất vào Việt Nam là Xigapo và Thái Lan đạt trên 1 tỷ USD. Nhập khẩu từ khối các nước EU cả năm 2003 ước đạt khoảng 3 tỷ USD, tăng gần 39%. Trong đó một số thị trường đạt tốc đọ tăng trương rất cao như Hà Lan 301%, Thuỵ điển 225%, Bỉ 182%, Pháp 130,6%. Nhóm các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu ước đạt 15,3 tỷ USD tăng 24,8%. Tỷ lệ tăng này chủ yếu do bị ảnh hưởng của sự tăng giá. Ví dụ như: nhóm xăng dầu nhập khẩu trị giá đạt 2,41 tỷ USD tăng 19,5% trong khi lượng nhập khẩu lại giảm 1,3%, nhóm sắt thép về lượng giảm tới 8,2% nhưng trị giá tăng 23,1%, phân bón lượng tăng 4% nhưng trị giá xấp xỉ 26,5%, chất dẻo, sợi dệt , bông cũng tương tự. Chỉ tính riêng cho những mặt hàng có báo cáo đơn vị tính về lượng, thì yếu tố giá đã làm tăng thêm trị giá nhập khẩu của những mặt hàng này là khoảng 1,3 tỷ USD. Sự tăng lên nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh từ khi luật doanh nghiệp ra đời (theo số liệu của bộ kế hoạch và Đầu tư năm 2003 có khoảng 26 nghìn đơn vị đăng ký thành lập doanh nghiệp), đồng thời nhu cầu tiêu dùng của cá nhân về phương tiện đi lại cao cấp đã làm tăng nhập khẩu ô tô tới 30,3%, chủ yếu là dạng linh kiện lắp ráp. Nhập siêu cả năm 2003 ước tính tới 5,11tỷ USD chiếm 25,7%trị giá hàng xuất khẩu. Đây là tỷ lệ cao nhất trong 5 năm gần đây. Trong đó nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước 6,4 tỷ USD Khu vực kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài xuất siêu là 1,287 tỷ USD nhưng nếu không kể dầu thô thì nhập siêu là2,49 tỷ USD. Đáng lưu ý là nhập siêu hoàn toàn tập trung vào các nước châu á xấp xỉ 9tỷ USD, trong đó các nước thuộc châu lục khác đều có xuất siêu. Xuất siêu cao nhất là Mỹ khoảng 2,8 Tỷ USD. Nguyên nhân dẫn đến nhập siêu. Giá hàng nhập khẩu đặc biệt là vật liệu như xăng dầu, sắt thép, phân bón, hoá chất… tăng rất cao trong 6 tháng đầu năm. Tăng nhập khẩu máy móc, thiết bị đầutư cho sản xuât đặt cho máy bay và cho các cong trình thể thao cho Seagames22. Nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu như vải, nguyên phụ liệu dệt may, da và thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng giảm khi thực hiện CEPT/AFTA cũng là nguyên nhân gây thúc đẩy nhập khẩu. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia quốc tế thì năm 2004 có nhiều đấu hiệu khả quan phục hồi và tăng trưởng nền kinh tế thế giới, điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam thúc đẩy hơn nữa trong việc hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra thị trường rộng mở hơn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nếu chúng ta tăng cường mạnh mẽ xúc tiến thương mại và nâng cao hơn nữa chất lượng hàng hoá. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, để góp phần thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập siêu cho các năm sau, thì chất lượng công nghệ, máy móc thiết bị nhập khẩu và việc khai thác sử dụng có hiệu quả những hàng hoá đó là yếu tố rất quan trọng mà các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa. *Hội nhập quốc tế thương mại quốc tế. Những thành tựu đạt dược và nguyên nhân. Thành tựu. Về cơ bản đã thực hiện được chủ trương “đa dạng hoá thị trường và đa dạng hoá quan hệ kinh tế, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới”. Đến nay Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 200 nước và vùng lãnh thổ, trong 6 năm (1996-2002) ký trên 60 hiệp định thương mại với các nước. Riêng hai năm rưỡi vừa qua đã mở thêm được 20 thị trường mới, ký được 12 hiệp định thương mại, trong đó có hiệp định Việt Nam –Hoa Kỳ, đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong quan hệ thương mại tự do với quốc gia có thị trường lớn nhất thế giới năm 2002, 4 hiệp định thương mại và hai hiệp định khung; (năm 2003 là 2 hiệp định thương mại). Hiện tại ta tiếp tục đàm phán,hoàn chỉnh 9 hiệp định thương mại (trong đó có 1 hiệp định ký lại). Như vậy tính đến tháng 9/2003 nước ta đã ký hiệp định thương mại với 84 quốc gia và có thoả thuận về đlei sử tối huệ quốcvới 81 quốc gia và vùng lãnh thổ; tổ chức 6 phiên họp của ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO. Đã dẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương và đa phương; phát triển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ, bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới như ngân hàng thế giới WB. Quỹ tiền tệ thế giới IMF, ngân hàng phát triển châu á (ADB); gia nhập hiệp hội các nước đông nam á (ASEAN)và khu vực mậu dịch tự do ASEAN-AFTA; tham gia sáng lập diễn đàn á -ÂU (ASEM); gia nhập diễn đàn châu á -Thái bình dương (APEC); trở thành quan sát viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và đang gia nhập tổ chức này. Nước ta cũng đã ký hiệp định khung về hợp tác quốc tế với liên mi._.h tế trong và ngoài nước. Nhờ vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã từng bước được mở rộng không chỉ ở trong nước mà bước đầu vươn ra một số nước trong khu vực và thế giới, sản xuất kinh doanh liên tục tăng trưởng qua nhiều năm. Mô hình tổ chức “Công ty mẹ-Công ty con” của Constrexim là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh được thực hiện bởi sự liên kết của nhiều pháp nhân doanh nghiệp độc lập hoạt động trên nhiều lĩnh vực và địa bàn khác nhau để tạo thế mạnh trung. Công ty mẹ được hình thành trên cơ sở giữ nguyên pháp nhân của Constrexim. Các công ty con có ba loại gồm: 4 công ty là doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước trong đó có hai công ty được hình thành trên cơ sở các đơn vị trực thuộc Constrexim, một công ty được thành lập mới trên cơ sở dự án đầu tư được phê duyệt, một công ty được tiếp nhận từ UBNN thành phố Hải Phòng, hai công ty con là công ty TNHH hình thành trên cơ sở góp vốn của Constrexim với hai công ty TNHH có sẵn ở Hà Nội và thành phố HCM, một công ty con là công ty cổ phần hình thành trên cơ sở cổ phần hoá một đơn vị trực thuộc. Như vậy trong cơ cấu của doanh nghiệp này có nhiều loại hình công ty là các pháp nhân độc lập và chịu sự điều chỉnh của các luật tương ứng như luật DNNN đối với công ty 100% vốn Nhà nước. Giữa chúng còn có mối quan hệ dàng buộc nhất định được quy định trong điều lệ tổ chức hoạt động của công ty mẹ, các công ty con. Công ty mẹ bỏ vốn vào các công ty con và không hưởng một khoản phụ phí nào do các công ty con phải nộp. Để đầu tư mang lại lợi ích chung cho toàn Constrexim, trong từng giai đoạn sẽ có sự thống nhất công ty mẹ với công ty con để hình thành Quỹ đầu tư phát triển chung. Tỷ lệ huy động quỹ này sẽ thống nhất theo từng kế hoạch 5 năm và theo nguyên tắc vay phải trả có lãi suất nội bộ. Công ty mẹ quyết định đầu tư vốn cho các công ty con độc lập và có quyền tăng giảm đầu tư một phần vốn Nhà nước từ công ty con này sang đơn vị khác phục vụ kế hoạch đầu tư phát triển của toàn Constrexim. Các công ty con được toàn quyền sử dụng quỹ khen thưởng từ kết quả kinh doanh của mình. Mô hình tổ chức công ty mẹ công ty con của Constrexim đã đạt được những tiến bộ so với mô hình doanh nghiệp Nhà nước khác đặc biệt khác về bản chất với mô hình Tổng công ty như đây là mô hình cho phép kết hợp một cách hài hoà các loại sở hữu trong phạm vi một doanh nghiệp, tạo ra cơ sở để giải quyết mối quan hệ trong nội bộ DNNN theo hướng nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị tự chủ, đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Điểm khác biệt rất rõ giữa hai mô hình công ty mẹ-con và tổng công ty là tổng công ty chỉ là cơ quan quản lý, không trực tiếp kinh doanh và chủ yếu dựa vào các phụ phí của các công ty thành viên nộp lên. Quan hệ kinh tế giữa tổng công ty và đơn vị các dưới vẫn là “mệnh lệnh” và “xin-cho”. Trong khi đó mô hình công ty mẹ-con đều là những pháp nhân kinh doanh độc lập. Cả công ty mẹ và công ty con đều vận động kinh doanh trên thương trường, đều tự nuôi mình và tạo ra các sản phẩm cho xã hội; các chiến lược phát triển của công ty mẹ-con sẽ do chính những người lăn lộn trên thương trường đề ra, nên tránh được những căn bệnh quan liêu, xa rời thực tiễn và đảm bảo tôn chỉ hai bên cùng có lợi. Để mô hình này có thể vận hành tốt, đạt hiệu quả mong muốn Nhà nước cần quan tâm vận dụng những cơ chế riêng cho nó. Đó là mở rộng sự phân công phân cấp quyết định cho doanh nghiệp trong việc quyết đình đầu tư, khẳng định rõ nguyên tắc quản lý và sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Đặc biệt trong lĩnh vực tài chính vì mô hình này kết hợp nhiều hình thức sở hữu vốn với nhiều cấp độ quan hệ tài chính đan kết nhau, đòi hỏi có sự quan tâm tháo gỡ từ các cơ quan Nhà nước. Chỉ có như vậy mô hình công ty mẹ công ty con mới đạt được hiệu quả hoạt động một cách tối đa. III.Hướng phát triển mô hình Triển vọng kinh tế Việt Nam trước kỷ nguyên mới Phân tích của giáo s Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trởng trờng Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, cho thấy khủng hoảng chung đối với các nớc trong vùng đa tới giảm thiểu sức mua sắm hàng công nghệ, tồn đọng thì phải xuống giá. Trong khi có thể cha cần đổi xe đời mới, nhng ăn uống thì không thể thiếu, cho phép các nớc sản xuất nông phẩm năng suất cao nh Việt Nam có đợc u thế tuyệt đối trên thơng trờng. Nhóm thành ngữ diễn đạt tình trạng không công bằng cũ: "bán đi một xe tải mủ cao su chỉ mua về đợc một cái vỏ xe" đã bị đảo ngợc và năm 1998 nông phẩm Việt nam xuất khẩu đã vợt lên hàng thứ 2 về xuất khẩu gạo sau Thái Lan, với 3.800.000 tấn gạo, đạt kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo trên 1 tỷ USD. Trong đó, giá gạo loại 5% tấm bán xấp xỉ giá gạo Thái Lan là 320USD/tấn so với 2 năm trớc chỉ có 190USD/tấn và giá phân Urea 83USD/tấn so với 2 năm trớc 120USD/tấn. Phân bón là nhu yếu phẩm phục vụ sản xuất mà còn tuột nh thế, trong đó còn có yếu tố các nhà máy phân bón trong nớc nay đã có thể cung ứng lối 50% nhu cầu, còn các mặt hàng công nghệ thuộc xa xỉ phẩm, mức sụt giảm cao hơn, dù có gây bất lợi cho các xí nghiệp sản xuất trong nớc, nhng nếu biết tận dụng lao động rẻ, nâng chất lợng sản phẩm lên cao thì đây là cơ hội cho hàng nội vốn thất thế trớc hàng ngoại, có thể cạnh tranh đợc và thực tế đã có nhiều nhóm hàng nội top ten đang cạnh tranh đợc với hàng ngoại nhập. Đúng như lời của giáo sư Võ Tòng Xuân nói: "Khách hàng quý vị cứ đến mua và mua số lợng cao đi, giá cả hợp lý thì nông dân đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi trồng giống lúa gì cũng đợc, số lợng bao nhiêu cũng có thể đáp ứng", giá lúa tăng hợp lý và giá phân bón, thuốc sát trùng giảm hợp lý, ngời nông dân có lợi thì công cuộc phát triển kinh tế thuận lợi. Thế mạnh nông thôn và nông nghiệp còn đầy triển vọng đối với một ngành dịch vụ mũi nhọn, đó là du lịch theo xu hớng tour thiên nhiên môi trờng mà hầu hết công ty du lịch trên thế giới đang hớng về Việt Nam trong khối ASEAN nh là một thế mạnh hầu có thể xây dựng chào bán các tour thiên nhiên, kết hợp nghiên cứu nhân văn và môi trờng sinh thái. Khi đến để vận động xin phép triển khai một trung tâm du lịch thiên nhiên, bộ môn du lịch thiên nhiên của trờng Đại học California Polytechnic nhận định rằng hệ thảm động thực vật, bãi biển, sông núi và con ngời có bề dày 4.000 năm văn hoá Việt Nam đợc kể nh vô tận để có thể xây dựng thành tour môi trờng, vì chỉ cách trung tâm thành phố chừng vài ki-lô-mét đã có thể leo núi, tắm sông hay tiếp xúc với ngời nông dân chất phác. Hàng trăm giống lúa ngon, thích hợp với đồng ruộng Việt Nam đã đợc đa vào sử dụng, nhiều giống cây ăn quả nhiệt đới đã đợc lai tạo, gây giống đa tới cho ngời nông dân, chỉ tiêu trồng lại 5.000.000 héc-ta rừng đợc xúc tiến với sự hởng ứng nồng nhiệt của ngời dân cũng nh các doanh nhân trong nớc, các cảng nớc sâu Dung Quất, Chân Mây cùng với hệ thống cảng Cần Thơ, Thị Vải, Hải Phòng, Nha Trang... đã đợc nâng cấp hay khởi công xây dựng, đa khai thác dầu thô lên 25.000.000 tấn một năm, xây dựng cầu sông Gianh, cầu Mỹ Thuận sông Tiền, các đờng cao tốc Nội Bài, Quốc lộ 5 hay xa lộ Nam Sài Gòn, chuẩn bị xây cầu sông Hậu, cảng Soài Rạp, Quốc lộ 51 Vũng Tàu. Việc chuyển đổi sản xuất trong nông nghiệp đa tới đạt 32.000.000 tấn lơng thực/năm và chỉ tiêu năm 2001 là 40.000.000 tấn lơng thực/năm, hiện tại lơng thực bình quân đầu ngời đã có 400kg so với năm 1989 chỉ có 280kg. Nền kinh tế trang trại nhanh chóng đạt tới 115.000 trang trại, có trang trại quy mô rộng đến cả ngàn héc-ta, phần lớn tập trung ở vùng núi, sản phẩm từ các trang trại này bảo đảm lơng thực cho thị trờng nội địa và giúp xuất khẩu các mặt hàng chính nh: gạo, chè, cà phê, cao su ngày càng tăng cao. Trên tiến trình công nghiệp hoá, những năm cuối thế kỷ 20 có vẻ tăng chậm nhịp độ đầu t nớc ngoài, nhng nét nổi bật là các dự án bắt đầu tăng vốn và qui mô sản xuất, trong đó nguồn năng 2.730.000 ngời Việt ở nớc ngoài bắt đầu rời bỏ thời kỳ đầu t chui mà qua Luật khuyến khích đầu t trong nớc đã chuyển qua đầu t trực tiếp với 100% vốn nớc ngoài. Số dự án đầu t trực tiếp của Việt kiều đã có 176 dự án đợc cấp phép với số vốn 115 triệu USD và 25 tỷ đồng, trong đó có dự án quy mô đầu t lên trên 1.000.000 USD. Đầu t trực tiếp của Việt kiều trở thành một chất xúc tác để tiến trình xây dựng 64 khu công nghiệp và 6 khu chế xuất đợc đẩy nhanh hơn, hiện một số khu chế xuất đã có hàng xuất khẩu. Cuối năm 1998, thủ đô Hà Nội đã có dịp tổ chức thành công Hội nghị thợng đỉnh ASEAN lần thứ 6 mà Việt Nam có rất nhiều u thế phát triển đã đợc hội nghị đánh giá. Sự kiện Việt Nam tham dự các định chế Thơng mại Quốc tế WTO, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu A' - Thái Bình Dơng APEC là những thuận lợi để hội nhập, phát triển. Cơn khủng hoảng tiền tệ năm 1998, tác hại của nó theo chuyên viên ngân hàng Trần Bá Tớc là quá thấp đối với Việt Nam. Trong khi các nớc bị suy thoái, cắt giảm hàng nhập khẩu của Việt Nam nhiều nh thế mà mức tăng trởng GDP dự kiến 10% còn tăng trởng đợc trên 6% là cả một nỗ lực thành công của Việt Nam, kể cả việc lèo lái để củng cố hối suất nội tệ đồng Việt Nam vẫn đứng vững, trong khi chúng ta có đợc cơ hội lớn là xác nhận giá trị nông phẩm của một nớc nông nghiệp tăng, kéo theo tăng sản lợng. Thế kỷ 21 là một thế kỷ hứa hẹn các chiến công trên xây dựng, sản xuất cũng lẫy lừng nh các chiến công trên trận chiến mà các thế hệ thuộc thế kỷ 20 đã trải qua và dâng hiến. Khả năng vận dụng ở nước ta. ở nước ta, trong quá trình chuyển sang cơ chế quản lý mới, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường. Bên cạnh xu hướng tiêu cực là các doanh nghiệp muốn “độc lập phải tự chủ” theo kiểu tách biệt nhau, thì hiện nay đã và đang diễn ra mạnh mẽ xu hướng tích cực, đó là quá trình liên kết chặt chẽ với nhau để tồn tại và phát triển kinh doanh. Những quan hệ liên kết tích cực ấy phát triển khá đa dạng và mang lại những kết quả tích cực. Đó là các qua hệ liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến nguyên liệu…Nhưng để vận dụng các mô hình liên kết như mô hình công ty mẹ công ty con thì chúng ta phải hoàn thiện và phải thực hiện tốt một số vấn đề sau: + Mô hình này đang được thí điểm ở một số tổng công ty như công ty Constrexim, Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Tổng công ty Bưu chính viễn thông. Mặc dù đạt được những kết quả đáng kể nhưng không vì thế mà chúng ta chuyển đổi một cách ồ ạt vội vàng. + Tiến hành chuyển thể hàng loạt, nhằm công ty hoá toàn bộ các doanh nghiệp thành viên trong các Tổng công ty hiện nay. Doanh nghiệp nào hoạt động không có hiệu quả và không phải ngành mũi nhọn thì nên mạnh dạn giải thể. + Xây dựng cơ chế đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước trong các công ty cổ phần. + Phải hoàn thiện một khung pháp lý chặt chẽ. IV.Biện pháp 1.Tập trung xúc tiến để thu hút FDI Theo ông Phan Hữu Thắng,Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài(Bộ kế hoạch và Đầu tư),quy I,vốn đăng ký mới cả nươc đạt trên 710 triệu USD,tăng 25% so với cùng kỳ.Đề đạt được mục tiêu thu hút 3,3 tỷ USD năm nay,chỉ cần có nhiều cố gắng hơn nữa trong công tác xúc tiến. Vốn đầu tư thực hiện được trong tháng 3 đạt khoảng 550 triệu USD,tăng 15% so với cùng kỳ.Song theo ông Thăng,dự những chi tiêu đạt được trong quý I năm nay đều tăng hơn so với cùng kỳ năm ngoái,nhưng nếu trong 3 quý tới,cả nưứoc vẫn duy trì mức vốn thực hiện như hiện nay thì cả năm vốn đầu tư thực hiện và đăng ký mới chỉ ở mức 2,2 tỷ USD và 2,86 tỷ USD(năm2003 các chỉ tiêu lần lượt là thu hút vốn đăng ký 3,3 tỷ USD. Thăng cho biết,hoạt động xúc tiến đầu tư quan trọng trong năm nay là gắn kết giữa các cơ quan TW và địa phương.Qua kinh nghiệm những năm vừa qua,những hoạt động xúc tiến đầu tư của các địa phương đã đem lại những kết quả rất tích cực.Sở dĩ tháng 1 thu hút đầu tư nước ngoài có sự tăng trưởng vượt bậc là do hệ qủa của việc các địa phương đã tăng cường hoạt động này trong năm 2003. Sau Nghệ An, có thể hai địa phương khác cũng tổ chức xúc tiến đầu tư nước ngoài là Thái Nguyên và Quảng Bình. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, việc ký kết các hiệp định đầu tư với Nhật Bản, hợp tác xúc tiến với Singapore đã có tác dụng rất tích cực, bởi qua những thoả thuận do Việt Nam đã thấy rõ những yêu cầu của những đối tác tiềm năng và hướng hoạt động xúc tiến vào những đối tác đó bởi họ có vốn, công nghệ và kinh nghiệm lý. "Khi những nhà đầu tư từ hai quốc gia này đến đây sẽ tạo những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nước khác đầu tư vào theo", ông Thăng nói. Cũng theo Cục Đầu tư nước ngoài, những mục tiêu quan trọng hàng đầu và xuyên suốt tiếp theo trong việc thu hút FDI năm nay là thương xuyên hoàn thiện môi trường đầu tư, đồng thời hỗ trợ giúp đỡ những doanh nghiệp đã , đang sản xuất kinh doanh. Trong quý I, 3 dự án được coi là khá quan trọng đối với môi trường đầu tư của Việt Nam là dự án liên doanh Việt Nam - Canada khai thác và chế biến khoáng sản Núi Phao (Dai Tu, Thái Nguyên) có tổng vốn đầu tư đăng ký là 147 triệu USD, lớn nhất trong các dự án đầu tư nước ngoài trong ngành khai thác của Việt Nam và dự án tăng vốn thêm là công ty Sun Steel tăng thêm 126 triệu USD , dự án công ty Sài Gòn Max 100 triệu USD. Điều này được nhìn nhận là dấu hiệu chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam đang có những cải thiện rõ rệt. Doanh thu từ khối doanh nghiệp FDI trong 3 tháng đầu là 3,9 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ, số lao động trực tiếp của khu vực hiện là 680.000 người, tăng 15%. Hiện nay, khu vực doanh nghiệp FDI có khoảng 4430 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 42 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 24 tỷ USD. Mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn 2001- 2005 là 11 tỷ USD vốn thực hiện 12 tỷ USD vốn đầu tư. 2.Biện pháp nhằm thúc đẩy tiến trình đổi mới DNNN theo mô hình công ty mẹ - công ty con. a.Đối với doanh nghiệp Trước hết, để quá trình đổi mới tổ chức và quản lý sang mô hình công ty mẹ - công ty con được nhân rộng và thành công, điều kiện tiên quyết là bản thân các cấp lãnh đạo của các doanh nghiệp, cơ quan chủ quản phải hiểu rõ được bản chất của mô hình mới cũng như cách vận hành của nó nhằm tránh tình trạng áp dụng theo phong trào, thiếu sự suy xét cẩn thận. Cần phải tổ chức nhiều buổi hội thảo, nói chuyện với các chuyên gia am hiểu về mô hình tổ chức này cho các vị trí lãnh đạo. Cũng cần phải phổ biến mô hình mới đối với cán bộ công nhân viên nhằm giúp họ hiểu rõ hơn quá trinh sắp xếp lại tổ chức, nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của họ trong mô hình tổ chức mới. Để thích nghi với mô hình tổ chức mới, các DNNN, TCT cần chú trọng nâng cao năng lực quản lý, kỹ thuật nghiệp vụ, công nghệ sản xuất, tuyển chọn và bồi dưỡng nguồn nhân lực. Tiến hành rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện có, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, thuyên chuyển những cán bộ không dủ năng lực, bổ xung những cán bộ có đủ tiêu chuẩn cả về đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ. Tạo ra một thế hệ kế tiếp năng động, có kỹ năng quản lý tốt. Những DNNN, TCT trở thành công ty mẹ cần có kế hoạch chi tiết về việc cử người đại diện của mình ở các công ty con. Quá trình lựa chọn này phải thực sự căn cứ vào phẩm chất đạo đức, trình độ của từng người, tránh tình trạng "nể nang", "thân quen"… Nói tóm lại, để quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con đạt kết quả tốt cần phải có sự nỗ lực cố gắng từ cả hai phía, Nhà nước và bản thân các doanh nghiệp. Mặc dù hiện nay, quá trình này mới trong giai đoạn thử nghiệm, còn gặp nhiều khó khăn nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, nhât định quá trình này sẽ thành công và các DNNN sẽ khẳng định được vai trò của mình trong một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước mà chúng ta đang thực hiện. b.Đối với nhà nước và các Bộ,nghành có liên quan *.hoàn thiện khung pháp lý đối với mô hình tổ chức công ty mẹ - công ty con Mô hình tổ chức công ty mẹ - công ty con là một mô hình mới được áp dụng ở nước ta. Vì vậy, để tạo điều kiện cho việc nhân rộng mô hình, chúng ta cần phải tiếp tục xây dựng, bổ xung hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan đến mô hình tổ chức này. Những quy định pháp lý cần chú trọng điều chỉnh các vấn đề mấu chốt trong cấu trúc của công ty mẹ , công ty con, trong mối liên kêt công ty mẹ - công ty con, đặc biệt là chế độ tài chính, báo cáo tài chính, kế toán và kiển toán, thuế, chứng khoán, đầu tư, giao dịch thương mại trong và ngoài tập đoàn. Chúng ta nên học tập kinh nghiệm của các nước đã áp dụng thành công mô hình công ty mẹ - công ty con. Ví dụ như Australia, Luật công ty của nước này quy định rất chi tiết của công ty mẹ và tập đoàn kinh doanh, mối quan hệ giữa ba nhóm chủ thể: công ty mẹ , công ty con và tập đoàn kinh doanh. Ngoài ra, những quy định chi tiết về kế toán và tài chính cũng được quy định riêng trong hệ thốngTiêu chuẩn kế toán và tài chính, điển hình là ASB - 1024. Các quy định và tiêu chuẩn liên quan đến chứng khoán cũng được quy định riêng bởi Uỷ ban chứng khoán và đầu tư (ASIC). Chúng ta cũng cần chú ý rằng, khi tiến hành tái cơ cấu các Tổng công ty, DNNN để chuyển sang cấu trúc công ty mẹ - công ty con thì có sự thay đổi quan trọng về các quan hệ pháp lý. Hiện nay ở Việt Nam, Tổng công ty Nhà nước là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, sau khi chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ - công ty con thì công ty mẹ vẫn có tư cách pháp nhân, theo Nghị định mới. Nhưng ở hầu hết các nước công nghiệp phát triển thì tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, mặc dù tập đoàn kinh tế là một thực thể kinh tế (theo Luật Công ty của Australia). Với tư cách là một tổng thể, tập đoàn kinh doanh là một tổ chức liên kết chặt chẽ với các đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân đầy đủ, nhưng bản thân tập đoàn kinh tế thì không có tư cách pháp nhân, không có tư cách ký kết các hợp động kinh tế. Những quy định đó là cần thiết và hợp lý để loại trừ sự lẫn lộn tư cách và giao dịch giữa các pháp nhân thành viên và tổ chức bao trùm của chúng - tập đoàn kinh tế, tránh sự trùng lặp và không rõ ràng trong các giao dịch kinh tế và trách nhiệm pháp lý. Việc Nghị định mới sắp sửa được ban hành sẽ tạo cho quá trình chuyển đổi các Tổng công ty, DNNN sang mô hình công ty mẹ - công ty con môt cơ sở pháp lý cơ bản. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, Nghị định này vẫn tồn tại một số thiếu sót. Khá nhiều quy định trong Nghị định mở rộng hơn so với quy định trong Luật DNNN và các văn bản hướng dẫn, trong khi tất cả các DNNN, kể cả các doanh nghiệp thức hiện mô hình công ty mẹ - công ty con vẫn phải chịu sự điều chỉnh của Luật DNNN. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong viêc áp dụng các quy định của pháp luật. Các cơ quan chức năng nên nhanh chóng tổng kết thực tiễn để thống nhất các quy đinh phân tán hiện nay đối với DNNN nói chung, mô hình công ty mẹ - công ty con nói riêng để tập trung vào một bộ luật cao nhất cho các DNNN là Luật DNNN nhằm tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động. Các quy đinh có liên quan khác cũng nên được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với quy chế hoạt động mới của mô hình. *Đổi mới các cơ chế chính sách, đặc biệt là cơ chế tài chính cho phù hợp với quan hệ tổ chức mới Đối với mô hình tổ chức công ty mẹ - công ty con, sự tự chủ của công ty mẹ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là sự tự chủ về tài chính có ý nghĩa rất quan trọng. Cơ quan quản lý Nhà nước nên thay đổi phương thức quản lý như hiện nay, nên chỉ cần tập trung kiểm soát các công ty thông qua một số các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu, tránh tình trạng can thiệp sâu vào việc quản lý kinh doanh của doanh nghiệp: Công ty mẹ phải thực sự được nắm quyền sở hữu về vốn ở mức độ đủ để chi phối các thành viên trong mô hình. Nhà nước nên tiếp tục nghiên cứu để thúc đẩy việc thành lập các công ty tài chính tại các doanh nghiệp, thực hiện viêc giao vốn Nhà nước chi doanh nghiệp thông qua công ty đầu tư tài chính, tiến tới hình thành tập đoàn tài chính quốc gia nắm vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp, hình thành cơ chế tập đoàn tài chính Nhà nước nắm vốn Nhà nước tại các DNNN, công ty tài chính của doanh nghiệp nắm vốn của TCT trong các công ty con. Thực tế trong thời gian dài qua chúng ta đã chủ trương thành lập các công ty tài chính và thành lập được 5 công ty tài chính ở 5 TCT 91. Hiệu quả hoạt động của các công ty tài chính này đối với việc đảm bảo nguồn vốn cho TCT hoạt động cũng như quản lý nguồn vốn rất tích cực. Tuy nhiên do một số hạn chế trong chính sách, cũng như sự thiếu quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan chủ quản nên việc hình thành các công ty tài chính không được áp dụng nhiều ở các TCT. Tập đoàn tài chính quốc gia này là một doanh nghiệp có tính sở hữu cao nhât được Nhà nước thành lập. Vốn của tập đoàn bao gồm: - Nhà nước giao vốn pháp định, cấp bổ sung - Tại một thời điểm, toàn bộ vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp được chuyển qua tập đoàn này - Toàn bộ vốn của Nhà nước (tiền, hiện vật, đất đai…) ở các doanh nghiệp được chuyển thành cổ phần của Nhà nước ở các doanh nghiệp và các DNNN hiện nay chuyển thành công ty cổ phần ở các cấp độ cổ phần hoá như sau: + DNNN đã và đang cổ phần hoá đa sở hữu hiện nay. +DNNN có cổ phần của Nhà nước, tập thể doanh nghiệp và ngưòi lao động trên cơ sở phân chia vốn cổ phần từ vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng là vốn ngân sách cấp hay vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn của doanh nghiệp tự tích luỹ. + Đối với các doanh nghiệp khác mà Nhà nước cần thâm nhập sẽ được đầu tư bằng hình thức: tín dụng thoả thuận lãi suất và hỗ trợ như hình thức tín dụng của Quỹ hỗ trợ phát triển hiên nay; mua cổ phần trực tiếp hoặc mua trên thị trường chứng khoán đối với công ty niêm yết; cầm cố cổ phiếu… Tập đoàn sẽ vay vốn trên thị trường dưới các hình thức tín dụng thông thường, phát hành các chứng chỉ đầu tư, nhận uỷ thác đầu tư, thực hiện nhiêm vụ đầu tư của Nhà nước theo chương trình dự án. Như vậy, vốn Nhà nước đầu tư qua tập đoàn này chuyển từ hành chính Nhà nước (cân đối, chia vốn) sang doanh nghiệp kinh doanh năng đông hơn mà không trùng với các ngân hàng thương mại hiện nay. Việc vốn ngân sách Nhà nước được đầu tư thông qua tập đoàn tài chính quốc gia có nhiều cái lợi. Trước hết, Nhà nước có thể tập trung quản lý nguồn vốn ngân sách thông qua một đầu mối duy nhất là tập đoàn tài chính quốc gia. Thứ hai, cơ chế này tách biệt vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn tư tích luỹ trong các DNNN. Theo phân tích của nhiều chuyên gia, chính sự không tách biệt giữa vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn tự tích lũy trong các DNNN là một điểm không khuyến khích doanh nghiệp Nhà nước phát triển vì đơn giản bản thân doanh nghiệp cảm thấy họ không được hưởng thành quả lao động của mình. Thứ ba, thông qua cơ chế tín dụng, các công ty tài chính có thể động viên được các nguồn lực khác trong xã hội, giúp làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, hơn hết, khi thực hiện theo cơ chế này, đồng vốn được trả về đúng "môi trường sống" của nó, và đã là vốn thì được đối xử bình đẳng với nhau, không còng vốn "chùa" mà chỉ có vốn "đầu tư phát triển". *Hoàn thiện các quy chế về việc chuyển đổi hình thức của các DNNN Hiện nay, một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp và chuyển đổi một số DNNN khác sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp là do các quy định chưa thống nhất và phù hợp. Khi chuyển sang mô hình công ty mẹ - công ty con thì rất nhiều DNNN phải chuyển đổi hình thức doanh nghiệp. Do đó, để thúc đẩy việc áp dụng mô hình tổ chức mới này, các cơ quan chức năng cần khẩn trương tổng kết thực tiễn, ra soát lại các văn bản pháp lý, khắc phục những điểm bất hợp lý và có biện pháp khuyến khích đối với những doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi hình thức doanh nghiệp. Kết luận Mô hình công ty mẹ - công ty con với nhiều ưu điểm nổi bật đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng thành công ,mang lại hiệu quả kinh tế to lớn.Đối với nước ta đây là mô hình mới lần đầu tiên được áp dụng nhưng đã thể hiện được sự cần thiết để các doanh nghiệp Nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo ,nòng cốt của mình trong nền kinh tế quốc dân . Để việc chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ- công ty con được thuận lợi đòi hỏi nhà nước phải biết và hiểu về những khó khăn như:chưa có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết,các cơ chế chính sách còn nhiều bất cập,bản thân các doanh nghiệp cũng chưa hiểu rõ bản chất,tác dụng của mô hình công ty mẹ - công ty con nhưng chúng ta có thể tin là dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước với những ưu điểm của nó trong tương lai. Thế là đã rõ,các thực thể nhỏ lẻ cho đến anh khổng lồ,không đâu có thể thiếu vắng sự tận tuỵ và tài trí tổ chức điều hành. Đề án này đem lại một cái nhìn sơ bộ về mô hình công ty mẹ - công ty con .Nhờ có sự hướng dẫn tận tình của Giáo Sư Đặng Đình Đào và sự nhiệt tình của các cô thủ thư em đã hoàn thành đề án.Trong suốt quá trình làm đền án chúng em đã làm phiền đến thầy.Mong thầy hiểu và thông cảm cho chúng em.Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo "Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa tư bản"-Lênin. Kinh tế chính trị-Lênin-Tập 22 Kinh tế và dự báo: Số 4 /2001 Số 11/2001 Tạp chí khinh tế và phát triển: Số 54 tháng 12/2001 Số 60 tháng 6/2002 Số 64 tháng 10/2002 Tài chính:tháng 8/2002 Thời báo kinh tế Việt nam: Số 108/2000 Số 131/2000 Số 118/2002 Mô hình tổ chức"Công ty mẹ - Công ty con "của công ty xây lắp xuất nhập khẩu vật liệu xây dựng(Constrexim)-KLTN,Bùi Giang Lâm Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành trung ương Đảng(khoá IX) về tiếp tục sắp xếp,đổi mới,phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước.NXB chính trị quốc gia,2001. Quyết định 90/1994/QĐ-TTg ngày 7/3/1994 về việc tiếp tục sắp xếp DNNN Quyết định 91/1994/QĐ-TTg ngày 7/3/1994 về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh. Luật DNNN ngày 20/4/1995 Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 Thông tin chuyên đề"DNNN và cải cách DNNN"- viện kinh tế thế giới Cải cách DNNN - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Thông tin chiến lược ,chính sách công nghiệp- Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp,bộ Công nghiệp số 11/1999 và số 8/2002 Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 3/2001 Tạp chí khinh tế kế hoạch số 3/2000 Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001 của Constrexim Tài liệu hội thảo "Cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo mô hình công ty mẹ -công ty con "-Đơn vị tổ chức báo Diễn đàn Doanh nghiệp tháng 11/2002 Tạp chí doanh nghiệp số 8/2001:mô hình công ty mẹ -công ty con mô hình mới hiệu quả mới . Tạp chí Kinh tế kế hoạch số 3/2000:Lộ trình đổi mới ,sắp xếp DNNN trong 3 năm 2000-2002 và đến năm 2005 " Tạp chí kinh tế và dự báo số 11/2001:Tạo bước ngoặt đối với DNNN Những thông tin trên Mạng internet Mục lục Đặt vấn đề 1 Chương I:Nhữngvấn đề cơ bản về công ty mẹ- công ty con 3 I. Khái niệm: 3 II. Quy luật hình thành mô hình tổ chức công ty CTM-CTC Tư bản tài chính: 4 Chế độ tham dự: 4 Đầu sỏ tài chính: 4 Liên kết kinh tế: 5 Nguyên tắc của liên kết: 6 III. Đặc điểm: 7 IV. Công ty Me-Con"tình mẫu tử"Xây dựng công ty bằng tinh thần doanh nghiệp. 10 V. Điều kiện tổ chức công ty mẹ-con. 12 1. Hoàn cảch quốc tế-Môi trường kinh tế quốc tế 12 2. Hoàn cảnh trong nước 14 Chương II:Thực trạng mô hình Công ty mẹ - Công ty con 20 I. Thực trạng nền kinh tế Việt nam 20 1. Kinh tế việt nam năm 2003-bài học kinh nghiệp 20 * Kết quả của thương mại Việt Nam đạt được trong năm 2003, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm. 21 + Hoạt động thương mại trong nước. 22 - Thành tựu và nguyên nhân. 23 Thành tựu: 24 Nguyên nhân 24 Hạn chế 24 Nguyên nhân 24 + Hoạt động xuất nhập khẩu 25 *. Hội nhập quốc tế thương mại quốc tế. 31 Những thành tựu đạt dược và nguyên nhân. 32 T hành tựu. 32 Nguyên nhân: 32 Những hạn chế và nguyên nhân. 33 Những hạn chế: 33 Nguyên nhân: 33 * Một số vấn đề rút ra từ thực trạng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thương mại quốc tế. 34 Kết quả đạt được. 34 2. Hạn chế và tồn tại 35 II. Sức mạnh công ty mẹ-con.hợp nhất nguồn lực và cơ cấu tài chính. 1. Những mô hình liên kết chi phối giữa CTM-CTC. 36 Mô hình liên kết chủ yếu bằng vốn 36 Mô hình liên kết theo dây chuyền sản xuất kinh doanh 36 Mô hình liên kết giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh 37 2. Mối liên hệ giữa công ty me-công ty con. 38 III. Ưu - Nhược điểm của mô hình 39 1.Ưu điểm. 39 2. Nhựơc điểm. 41 IV. Thực trạng mô hình công ty Mẹ – con 44 1. Thêm một tổng công ty hoạt động theo mô hình Công ty Mẹ-Công ty Con 44 2. VNPT sẽ triển khai thí điểm mô hình công ty Mẹ –Công ty Con Một mô hình phổ biến trên thế giới 44 3. Mô hình thí điểm công ty Me-Con 46 4. Thêm ba doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con 48 5. Ngày 17/02/2003,Bộ lao động - Thương binh và xã hội đã ban hành thông tư số 04/2003/TT-BLĐTBXH,hướng dẫn thực hiện điều chỉnh tiền lương và phụ cấp trong các doanh nghiệp. 49 6. SJC được chuyển sang mô hình công ty mẹ - công ty con 50 7. Chọn cổ phần hóa 3 tổng công ty lớn trong tháng 4 51 ChươngIII: Biện pháp phát triển mô hình công ty Mẹ -con,hướng phát triển. I.Song sinh mẹ và con không thể vội vã áp dụng mô hình mớicho các doanh nghiệp. 55 II. Kinh nghiệm thế giới về mô hình 57 Tập đoàn hàng ngang: 57 Tập đoàn sản xuất hàng dọc kiểu cung ứng- sản xuất: 59 Tập đoàn sản xuất hàng dọc kiểu sản xuất- phân phối: 59 Tập đoàn kinh doanh nhỏ: 60 Kinh nghiệm của một tập đoàn 60 III. Hướng phát triển mô hình 63 Triển vọng kinh tế Việt Nam trước kỷ nguyên mới 63 Khả năng vận dụng ở nước ta. 66 IV. Biện pháp 67 1. Tập trung xúc tiến để thu hút FDI 67 2. Biện pháp nhằm thúc đẩy tiến trình đổi mới DNNN theo mô hình công ty mẹ - công ty con. 69 a. Đối với doanh nghiệp 69 b. Đối với nhà nước và các Bộ,nghành có liên quan 70 *. Hoàn thiện khung pháp lý đối với mô hình tổ chức công ty mẹ - công ty con 70 *Đổi mới các cơ chế chính sách, đặc biệt là cơ chế tài chính cho phù hợp với quan hệ tổ chức mới 71 *Hoàn thiện các quy chế về việc chuyển đổi hình thức của các DNNN 73 67 Kết luận 75 69 Tài liệu tham khảo 76 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33775.doc
Tài liệu liên quan