DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Các từ tiếng Việt viết tắt
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
TĐKT Tập đoàn kinh tế
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
UBND Ủy ban nhân dân
Các từ tiếng Anh viết tắt
CIEM Center Institute for Economic Management ( Viện nghiên cứu Quản
lý kinh tế Trung Ương)
Co. Company (Công ty)
EVN Vietnam Elecricity (Tập đoàn Điện lực Việt Nam)
FPT The Corporation for Financing and Promoting Technology ( Tập
đoàn tài chính và phát triển công nghệ)
Ltd Limited (Trách nhiệm hữu hạn)
MOCIE M
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Mô hình tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc và bài học về chính sách phát triển tập đoàn kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inistry of Commerce Industry and Energy ( Bộ Thương mại
Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc)
PSPD People’s Solidarity for Participatory Democracy ( Đoàn kết nhân
dân tham gia dân chủ)
R&D Research and Development (Nghiên cứu và phát triển)
UNDP United Nation Development Programme ( Chương trình phát triển
Liên Hiệp Quốc)
VNPT Vietnam Posts and Telecommunications ( Tập đoàn Bưu chính viễn
thông Việt Nam)
VRG Vietnam Rubber Association ( Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt
Nam)
LỜI MỞ ĐẦU
1)Tính tất yếu phải nghiên cứu đề tài
Hiện nay khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế đang là xu hướng chi phối chủ yếu trong thế giới hiện đại. Mỗi quốc gia đều đặt mục tiêu phải chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Quá trình đó đòi hỏi các quốc gia phải có một đầu tàu kinh tế thực sự thúc đẩy nền kinh tế đi lên mạnh mẽ, đủ sức cạnh tranh với nước ngoài và tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới vốn rộng mở nhưng vô cùng khắc nghiệt. Những đầu tàu kinh tế đó chính là các tập đoàn kinh tế. Tại các nước trên thế giới tập đoàn kinh tế đã có bề dày lịch sử từ hàng trăm năm nay và thực sự đã trở thành một nhân tố vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Còn ở Việt Nam khái niệm tập đoàn kinh tế chỉ mới xuất hiện từ những năm cuối của thế kỷ trước. Chính vì thế những nghiên cứu về tập đoàn kinh tế ở Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn đều có nhiều hạn chế. Vì vậy việc nghiên cứu mô hình tập đoàn kinh tế trở thành một tất yếu khách quan.
Việt Nam thuộc Châu Á - khu vực trong những năm gần đây được đánh giá là khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất thế giới. Cả thế giới đã phải hướng sự chú ý của mình vào Châu Á khi chứng kiến sự phát triển thần kỳ về kinh tế của châu lục này . “Sân khấu thế giới đang di chuyển về phía Đông” "Trích Thế giới quả là rộng lớn và có rất nhiều việc phải làm" Tác giả Kim Woo Chung - Sáng lập tập đoàn Daewoo
- đó là đánh giá mới đây nhất của các nhà kinh tế thế giới. Đóng vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế Châu Á phải kể đến khu vực Đông Bắc Á với 3 nền kinh tế lớn là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Một đặc điểm chung đáng lưu ý nhất ở các quốc gia này là nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế của họ đó chính là các tập đoàn kinh tế. Ở Nhật Bản nó có tên gọi Zaibatsu, ở Trung Quốc là Jituan Gongsi và ở Hàn Quốc được gọi là Chaebol. Đây là 3 mô hình tập đoàn kinh tế tiêu biểu nhất ở Châu Á. Mỗi loại hình tập đoàn kinh tế đều có đặc trưng nhất định về sở hữu và quản lý. Trong đó mô hình Chaebol là mô hình có nhiều điểm tương đồng nhất với tập đoàn kinh tế ở Việt Nam.
Theo cách xem xét đó, đề án: “Mô hình tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc và bài học về chính sách phát triển tập đoàn kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập” đã được chọn để nghiên cứu.
Mô hình tập đoàn kinh tế Chaebol của Hàn Quốc từ lâu đã được đánh giá là một mô hình tập đoàn kinh tế điển hình. Nhờ có các Chaebol mà nền kinh tế Hàn Quốc đã trỗi dậy trong một thời gian ngắn. Hai thập kỷ 60 và 70 chứng kiến sự phát triển đỉnh cao nhất của mô hình này và đó cũng là thời kỳ mà Hàn Quốc cùng với Đài Loan lập được hai trong số những kỷ lục kinh tế xuất sắc nhất Châu Á. Có lẽ trong số đó có những thành tích xuất sắc vào bậc nhất thế giới.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc hiện nay được coi là đối tác thương mại và đầu tư lớn thứ tư ở Việt Nam. Nền kinh tế của Hàn Quốc hiện nay vẫn bị chi phối chủ yếu bởi hệ thống các Chaebol.
2)Mục đích nghiên cứu
Hiện nay ở Việt Nam các tập đoàn kinh tế mới được hình thành và phát triển cho nên vấp phải rất nhiều hạn chế. Nghiên cứu về Chaebol - một trong những mô hình tập đoàn kinh tế tiêu biểu nhất Châu Á để nhằm xác định, rút kinh nghiệm và đưa ra chính sách cũng như biện pháp hiệu quả để phát triển mô hình tập đoàn phù hợp với xu thế nhưng vẫn đặc sắc Việt Nam.
Việt Nam và Hàn Quốc đã thiết lập quan hệ toàn diện đến nay được 16 năm. Trong thời gian đó, Hàn Quốc đã trở thành một trong những đối tác quan trọng nhất của Việt Nam. Nghiên cứu các tập đoàn mà ảnh hưởng của nó chi phối toàn bộ nền kinh tế Hàn Quốc sẽ giúp Việt Nam có những đối sách phù hợp trong quá trình hợp tác kinh tế với nước này và góp phần thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ kinh tế nói riêng và mối quan hệ toàn diện nói chung Việt Nam - Hàn Quốc.
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay ở Hàn Quốc có khoảng trên 30 Chaebol lớn nhỏ, nhưng chỉ có khoảng 5 Chaebol chi phối chủ yếu nền kinh tế Hàn Quốc. Đề án này nghiên cứu về 3 trong số 5 Chaebol này. Đó là các Chaebol: Samsung, Hyundae và Daewoo.
Các Chaebol ở Hàn Quốc ra đời từ những năm 50 ở Hàn Quốc nên phạm vi nghiên cứu sẽ được bắt đầu từ khi các Chaebol được ra đời cho đến nay.
Bên cạnh đó đề án cũng nghiên cứu về các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam từ giai đoạn hình thành cho đến nay.
4) Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề án là phương pháp thu thập số liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh.
5) Kết cấu đề án
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề án gồm 4 chương sau đây:
Chương 1:Tổng quan về mô hình tập đoàn kinh tế nói chung và Chaebol
Chương 2: Thực trạng về tập đoàn kinh tế Chaebol ở Hàn Quốc
Chương 3: Giải pháp khắc phục những nhược điểm trong mô hình
tập đoàn kinh tế Chaebol ở Hàn Quốc
Chương 4: Tập đoàn kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế.
CHƯƠNG 1TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NÓI CHUNG VÀ CÁC CHAEBOL CỦA HÀN QUỐC
1.1. Khái niệm tập đoàn kinh tế và một số đặc điểm chung của tập đoàn kinh tế
1.1.1. Khái niệm tập đoàn kinh tế (TĐKT)
Tại các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, khi nói đến “Tập đoàn kinh tế” thường sử dụng các từ: “Consortium”, “Conglomerate”, “Cartel”, “Trust”, “Alliance”, “Syndicate” hay “Group”.
Ở châu Á, trong khi người Nhật Bản gọi TĐKT là “Keiretsu” hoặc “Zaibatsu” thì người Hàn Quốc lại gọi là “Cheabol”; còn ở Trung Quốc, cụm từ “Jituan Gongsi” được sử dụng để chỉ khái niệm này (chính xác hơn là Tổng công ty).
Mặc dù về mặt ngôn ngữ, tùy theo từng nước, có thể dùng nhiều từ khác nhau để nói về khái niệm TĐKT, song trên thực tế việc sử dụng từ ngữ lại phụ thuộc vào nguồn gốc xuất xứ và tính chất đặc trưng của từng loại TĐKT. Ví dụ, Consortium trong tiếng latinh có nghĩa là “đối tác, hiệp hội hay các hội” bao gồm hai hay nhiều thực thể tập hợp lại để cùng tham gia vào một hoạt động chung hoặc là đóng góp nguồn lực để thực hiện mục tiêu chung. Khi tham gia vào một Consortium, các công ty vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân độc lập của mình. Thông thường, vai trò kiểm soát của Consortium đối với các công ty thành viên chủ yếu giới hạn trong các hoạt động chung của cả tập đoàn, đặc biệt là việc phân phối lợi nhuận. Sự ra đời của một Consortium được xác lập trên cơ sở hợp đồng, trong đó quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của từng công ty thành viên tham gia Consortium. Cartel: trong tiếng Anh thường được dùng để chỉ TĐKT. Cartel là một nhóm các nhà sản xuất độc lập có cùng mục đích là tăng lợi nhuận chung bằng cách kiểm soát giá cả, hạn chế cung ứng hàng hoá, hoặc các biện pháp hạn chế khác. Đặc trưng tiêu biểu trong hoạt động của Cartel là việc kiểm soát giá bán hàng hoá, dịch vụ nhưng cũng có một số Cartel được tổ chức nhằm kiểm soát giá mua nguyên vật liệu đầu vào. Tại nhiều nước, mặc dù bị cấm bởi luật chống phá giá (Antitrust law); tuy nhiên, nhiều Cartel vẫn tiếp tục tồn tại trên phạm vi quốc gia và quốc tế, dưới hình thức ngầm hoặc công khai, chính thức hoặc không chính thức. Cartel thường có mặt tại những thị trường bị chi phối mạnh bởi một số loại hàng hoá nhất định, nơi có ít người bán và thường đòi hỏi những sản phẩm có tính đồng nhất cao.
Trong khi đó, các từ/cụm từ như “Group”, “Business group”, “Corporate group”, hay “Alliance” thường ám chỉ hình thức TĐKT được tổ chức trên cơ sở kết hợp tính đặc thù của tổ chức kinh tế với cơ chế thị trường. Về đặc trưng, đó là một nhóm công ty có tư cách pháp nhân riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ liên kết về phương diện quản lý. Mối quan hệ giữa các công ty trong một TĐKT có thể là chính thức hoặc không chính thức.
Có một điều đáng lưu ý là khi tồn tại như là một thực thể có tư cách pháp nhân, thì TĐKT lại được gọi là Conglomerate và/hoặc Holding company.
Các nhà kinh tế thế giới cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về TĐKT:
Thứ nhất, TĐKT là tập hợp các công ty hoạt động kinh doanh trên các thị trường khác nhau dưới sự kiểm soát về tài chính hoặc quản trị chung, trong đó các thành viên của chúng ràng buộc với nhau bằng các mối quan hệ tin cậy lẫn nhau trên cơ sở sắc tộc hoặc bối cảnh thương mại (Left, 1978).
Thứ hai, TĐKT là một hệ thống công ty hợp tác thường xuyên với nhau trong một thời gian dài (Powell and Smith Doesr, 1934).
Thứ ba, TĐKT dựa trên hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ thông qua ràng buộc trung gian, một mặt ngăn ngừa sự liên minh ngắn hạn giữa các công ty, mặt khác ngăn ngừa một nhóm công ty sáp nhập với nhau để hình thành một tổ chức duy nhất (Granovette, 1994).
Theo Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, tập đoàn kinh tế được xếp là một thành phần trong nhóm công ty, cụ thể như sau:
Nhóm công ty là một tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Thành phần của nhóm công ty gồm có:
- Công ty mẹ, công ty con.
- Tập đoàn kinh tế.
- Các hình thức khác.
Theo Viện nghiên cứu Quản lí kinh tế Trung ương CIEM: khái niệm tập đoàn kinh tế được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia. Trong mô hình này “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối “công ty con” về tài chính và chiến lược phát triển.
1.1.2. Một số đặc điểm chung của các tập đoàn kinh tế
Mặc dù có nguồn gốc xuất xứ khác nhau nhưng các TĐKT về cơ bản đều có những đặc điểm chung như sau:
Tập đoàn kinh tế có thể coi như sản phẩm của một lực lượng sản xuất phát triển. Nó ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu của tích tụ, tập trung, cạnh tranh, liên kết vì mục đích lợi nhuận, nó phản ánh hoạt động xã hội và văn hóa của một dân tộc hoặc đa quốc gia; nó thể hiện việc thực hiện chính sách kinh tế – xã hội và là sự biến đổi sản xuất kinh doanh cho phù hợp với tiến bộ khoa học công nghệ của những tổ chức và cá nhân trong sản xuất kinh doanh. Xét về bản chất, đó là một tổ chức kinh tế vừa mang tính chất của một doanh nghiệp kinh doanh vì mục đích sinh lời, vừa mang đặc trưng của một Hiệp hội kinh tế phục vụ lợi ích chung của các thành viên.
Là tập hợp các doanh nghiệp liên kết với nhau thông qua quan hệ về đầu tư vốn. Cơ cấu của tập đoàn gồm công ty mẹ và các công ty thành viên, các công ty thành viên trong tập đoàn là các thực thể kinh tế độc lập, hợp tác trên nguyên tắc mọi thành viên đều bình đẳng trước pháp luật. Công ty mẹ là công ty có cổ phần hay vốn cổ phần chiếm đa số (cổ phần chi phối) ở các công ty thành viên và vì vậy có quyền chi phối hoạt động kinh doanh của các công ty thành viên thông qua việc phê duyệt điều lệ hoạt động và cử nhân sự của công ty vào bộ máy quản lý và điều hành ở các đơn vị thành viên. Các thành viên trong tập đoàn được phân công hoạt động sản xuất kinh doanh theo chuyên ngành, theo sản phẩm hàng hóa làm ra, hay theo khu vực hoạt động, không cạnh tranh nội bộ.
Bản thân tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân mà là hình thức liên kết các pháp nhân độc lập là công ty mẹ và các công ty con hay các doanh nghiệp liên kết trong tập đoàn. Một doanh nghiệp ăn nên làm ra, có nhiều vốn tích lũy từ lãi sau thuế, đều có khát vọng tiếp tục phát triển bằng tái đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận nhiều hơn nữa. Doanh nghiệp này sẽ sử dụng vốn tích lũy của mình để đầu tư sang các ngành hàng khác, ở các vùng lãnh thổ khác, do các doanh nghiệp khác kinh doanh bằng nhiều cách, như lập doanh nghiệp mới, mua lại doanh nghiệp đã có, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần đại chúng đang niêm yết đến mức có quyền chi phối nó... Đó là một quá trình dài của sự tích lũy tư bản. Cuối cùng, doanh nghiệp ban đầu sẽ trở thành chủ sở hữu vốn hay nắm tỷ lệ vốn chi phối trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp khác, rồi thoát ly khỏi hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực sản xuất hàng hóa cụ thể, mà chỉ hoạt động đầu tư, trở thành công ty tài chính hay ngân hàng thương mại với tư cách là chủ sở hữu vốn chi phối trong vốn điều lệ của nhiều doanh nghiệp khác.
Khi đó và chỉ khi đó mà thôi, tập đoàn kinh tế mới hình thành và phát triển theo hướng vừa đa lĩnh vực ngành hàng kinh doanh, vươn ra thị trường quốc gia và thế giới, vừa đa sở hữu. Trong đó, công ty mẹ thường cũng là một công ty cổ phần, hoạt động đầu tư vốn vào các doanh nghiệp con trên quy mô lớn. doanh nghiệp con có thể tồn tại dưới loại hình công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty TNHH hay công ty TNHH một thành viên là công ty mẹ. Vì vậy, tập đoàn kinh tế là kết quả của quá trình tích tụ tư bản trong nền kinh tế thị trường. Nó không có “ngày sinh, tháng đẻ”, không có ai ra quyết định thành lập hay đăng ký thành lập như doanh nghiệp, do đó nó không phải là một thực thể pháp lý, nó vô hình, không có tư cách pháp nhân.
Quy mô của tập đoàn tương đối lớn và hoạt động đa dạng, đa nghành. Do 3 nguyên nhân chủ yếu là : thứ nhất, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; thứ hai là sau khi thực hiện cổ phần hoá và sắp xếp lại, các doanh nghiệp thường gặp nhiều khó khăn mới trong việc khẳng định thương hiệu, nên phải không ngừng mở rộng quy mô, đa dạng hoá hoạt động, sản phẩm, khai thác đối tác và thị trường có triển vọng, nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mình; thứ ba, là trong bối cảnh thị trường thay đổi rất nhanh, việc kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực là một trong những chiến lược, định hướng lâu dài cho bất kỳ một doanh nghiệp nào kể cả những doanh nghiệp lớn chuyên sâu trong lĩnh vực truyền thống, vì chúng cho phép doanh nghiệp năng động nắm bắt và thực hiện những hoạt động mới, giúp doanh nghiệp phát huy các nguồn lực bên trong, huy động nguồn lực bên ngoài, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp, góp phần phát triển thị trường, tạo thế, tạo đà phát triển bền vững cho doanh nghiệp.Có thể nói, việc đa dạng hoá đầu tư của các tập đoàn và doanh nghiệp là xu thế tất yếu, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn phát triển kinh doanh, từ sự xuất hiện cung cầu mới, từ xu hướng phát triển ngành và sự phát triển của khoa học công nghệ, cũng như từ sự gia tăng áp lực cạnh tranh giữa các đối thủ tiềm năng, buộc các doanh nghiệp phải bám sát thị trường và phải nhạy bén, năng động nắm bắt những thời cơ mới cho phép không ngừng mở rộng quy mô, tạo ra lợi nhuận cao và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
1.2. Chaebol
1.2.1. Khái niệm
Chaebol là từ phiên âm tiếng Hàn để chỉ các TĐKT. Hiện nay Chaebol không được dịch ra mà được sử dụng như một danh từ riêng để chỉ TĐKT đặc trưng của Hàn Quốc. Chaebol được hiểu là tổ hợp công nghiệp một biến thể thuộc sở hữu của các gia đình. Mỗi Chaebol gồm khoảng 40-50 công ty tuy không có liên hệ với nhau về mặt kinh tế, kỹ thuật nhưng lại thuộc sở hữu của cùng một gia đình. Về kết cấu, các Chaebol là các conglomerate (tập đoàn) gia đình trong đó các thành viên của gia đình đóng vai trò chủ đạo. Về nguồn gốc truyền thống, chúng vẫn là các doanh nghiệp kiếu gia đình phong kiến di thực lại và phát triển lên dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Các dòng họ tạo lập ban đầu là những tộc trưởng tạo dựng công ty, do đó cơ cấu tổ chức của nó mang hình thức tập đoàn đẳng cấp.
1.2.2. Nguồn gốc hình thành và phát triển của các Chaebol
Mặc dù cho đến những năm 1960 chương trình phát triển công nghiệp quan trọng của Hàn Quốc vẫn chưa được bắt đầu nhưng trên thực tế đã xuất hiện nguồn gốc của việc hình thành những doanh nghiệp trong nền kinh tế mang màu sắc chính trị từ những năm 1950. Đã có một số người Hàn sở hữu và quản lý những công ty khá lớn trong suốt thời kì cai trị của Nhật Bản. Sau khi thoát khỏi sự đô hộ của Nhật Bản, có những người Hàn Quốc đã chiếm được những tài sản trong các doanh nghiệp Nhật Bản và vài người trong số họ đã phát triển nó thành các Chaebol vào thập niên 90. Các công ty đó chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ và hợp tác hình thành nên tập đoàn bắt đầu từ thời kì tổng thống Park Chung Hee (nhiệm kì 1961-1979). Ông đã áp dụng mô hình tương tự như Zaibatsu – được phát triển ở Nhật Bản trong suốt thời kì Meiji Era. Tuy vậy mô hình Chaebol vẫn có những khác biệt với mô hình Zaibatsu thể hiện ở những điểm như: Chaebol được điều hành bởi gia đình trong khi Zaibatsu lại được điều hành bởi những nhóm các nhà quản lý chuyên nghiệp; trong các Chaebol quyền lực tập trung trong tay chính những người sở hữu, còn ở Zaibatsu có sự phân quyền và kết hợp chặt chẽ với các cổ đông; Chaebol thường hình thành những công ty con để sản xuất các sản phẩm phục vụ xuất khẩu, trong khi các tập đoàn lớn của Nhật Bản lại thường thuê các nhà đấu thầu bên ngoài.
Chaebol đã trải qua thời kì phát triển thần kỳ bắt đầu từ những năm 1960 gắn chặt với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu của Hàn Quốc. Thập niên 50 và đầu 60 sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là bông và sợi; thập niên 70 và 80 là sản phẩm công nghiệp nặng và hóa chất; thập niên 90 là các sản phẩm điện lạnh và công nghệ cao. Chính Chaebol đã làm thay đổi thâm hụt thương mại vào năm 1985 sang thặng dư vào năm 1986. Cán cân thanh toán từ 4 tỷ đôla Mỹ vào năm 1988 đã tăng lên 5 tỷ đôla Mỹ vào năm 1989. Những năm 1980 là thời kỳ mà các Chaebol phát triển bùng nổ trên thị trường xuất khẩu. Cuối những năm 1990 họ đã trở thành những tổ chức tài chính độc lập và dần thoát khỏi sự kiểm soát cũng như bảo trợ của Chính phủ.
Bảng 1.1 Danh sách các Chaebol hàng đầu Hàn Quốc
Thứ tự
Cuối thập niên 1950
Giữa thập niên 1960
Năm 1974
Năm 1983
Năm 1990
Năm 1995
Năm 2000
1
Samsung
Samsung
Samsung
Hyundai
Hyundai
Hyundai
Hyundai
2
Samho
Samho
LG
Samsung
Daewoo
Samsung
Samsung
3
Gaepung
LG
Hyundai
Daewoo
Samsung
Daewoo
LG
4
Daehan
Daehan
Hanjin
LG
LG
LG
SK
5
LG
Gaepung
Ssangyong
Ssangyong
Ssangyong
SK
Hanjin
6
Tongyang
Samyang
SK
SK
Hanjin
Ssangyong
Lotte
7
Keukdong
Ssangyong
Hanhwa
Hanhwa
SK
Hanjin
Daewoo
8
HankookGlass
Hwashin
Daenong
Hanjin
Hanhwa
Kia
Kumho
9
Donglip
Panbon
Dong-AhConst.
Kukje
Daelim
Hanhwa
Hanhwa
10
Taechang
Tongyang
HanilSyn.Textile
Daelim
Lotte
Lotte
Ssangyong
Nguồn: Stephan Haggard, et al., (eds.), Economic Crisis and Corporate Restructuring in Korea: Reforming the Chaebol , trang 41.
Khi nói đến nền kinh tế Hàn Quốc không chỉ người Hàn mà ngay cả quan khách báo chí quốc tế đều đề cập đến ba tập đoàn kinh tế hàng đầu – từ lâu được coi là “rường cột” của nền kinh tế nước này. Người Hàn Quốc ví bộ ba này là “tam đại Chaebol” bao gồm: Samsung (Ba ngôi sao), Hyundae ( Hiện đại), Daewoo (Đại vũ). Lịch sử hình thành của ba Chaebol này có thể trình bày ngắn gọn như sau:
Samsung là tập đoàn lớn nhất của Hàn Quốc, được sáng lập bởi Lee Byung Chul - con trai một địa chủ. Lớn lên trong thời kì mà Hàn Quốc chịu sự chiếm đóng của Nhật Bản, từ nhỏ Lee được giáo dục theo kiểu truyền thống Nho giáo. Đến năm 10 tuổi Lee được gửi đến học ở trường tiểu học ở Seoul và sau đó theo học đại học Waseda, Tokyo. Nhưng trước khi tốt nghiệp Lee đã rời trường để trở về Seoul và không làm gì trong vài năm. Năm 26 tuổi Lee được thừa kế xưởng gạo của gia đình nhưng công việc kinh doanh không thuận lợi, Lee đã rời quê đến Daegu. Năm 1938 Lee thành lập công ty tại Daegu lấy tên là Samsung. Công ty này đã có lúc rơi vào nguy cơ phá sản do ảnh hưởng của việc chiếm đóng của Nhật Bản nhưng Lee vẫn kiên trì theo đuổi công việc kinh doanh của mình. Năm 1945 chiến tranh Nhật – Hàn kết thúc, Samsung đã phát triển hưng thịnh với thị trường được mở rộng cả trong ngoài nước, trở thành một trong mười Công ty thương mại lớn nhất ở Nam Hàn. Năm 1950 chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Lee đã rời Seoul đến Pusan tiếp tục công việc kinh doanh của mình. Đến năm 1953 Lee thành lập công ty sản xuất đường tinh luyện lấy tên là Cheil Sugar, một năm sau đó là sự ra đời của Cheil Wool Texttile Company.
Samsung được hưởng lợi rất lớn từ Chính sách thay thế nhập khẩu của Chính phủ, kết quả là cuối những năm 1950 Samsung đã giành được quyền kiểm soát một số Ngân hàng thương mại và Công ty bảo hiểm. Đến những năm 1960 Lee đã chọn điện tử là mặt hàng sản xuất chủ yếu của Samsung. Nếu như vào năm 1977 các kỹ sư của Samsung mới làm công việc là tháo dỡ các tivi màu từ Mỹ, Nhật, Châu Âu để xem xét và copy lại thì chỉ không đầy 3 năm sau đó Samsung đã có thể tự sản xuất được mặt hàng này. Đến năm 1979 Samsung bắt đầu chế tạo đầu máy,…
Huyndai là TĐKT lớn thứ hai của Hàn Quốc, được sáng lập bởi Chung Yu Jung – người mà những năm 30 đã rời quê lên Seoul khi vẫn còn ở độ tuổi thiếu niên. Khởi đầu với công việc ở bến tàu và xưởng gạo, đến năm 1940 Chung mua lại cơ sở sữa chữa ôtô sau đó mở rộng sang lĩnh vực xây dựng, đóng tàu. Sau chiến tranh thế giới thứ hai Chung phát triển quan hệ với Mỹ, với quân đội và giành được những dự án xây dựng của Chính phủ Syungman Ree. Công ty có tên chính thức là Hyundai từ năm 1976. Với sự mở rộng liên tục cả về quy mô và lĩnh vực thì hiện nay Hyundai đã trở thành tập đoàn kinh doanh lớn hoạt động đa ngành nghề.
Daewoo được thành lập vào những năm 1960, người sáng lập là Kim Woo Chung – một trong những người trẻ nhất đứng đầu một Chaebol. Trong một thời gian dài Kim được coi như một nhà doanh nghiệp tiêu biểu của Hàn Quốc, Kim làm việc 100 giờ mỗi tuần và mỗi đêm chỉ ngủ 4 giờ. Kim không bao giờ có kỳ nghỉ. Chủ trương của người đứng đầu Daewoo là Daewoo luôn phải đi đầu trong các lĩnh vực mới. Lĩnh vực ban đầu và chủ yếu của DaeWoo là các ngành công nghiệp nặng sau đó là các sản phẩm về điện máy. DaeWoo luôn được đánh giá là tập đoàn đi đầu trong tính sáng tạo, đổi mới và táo bạo trong kinh doanh.
Bên cạnh các Chaebol truyền thống, gần đây ở Hàn Quốc bắt đầu xuất hiện những tập đoàn mức trung bình . Ví dụ như Appeal Telecom được sáng lập bởi Lee Ga Hyoung – một cựu viên chức của Samsung. Appeal Telecom đang sản xuất và quảng bá sản phẩm điện thoại di động và sắp tới sẽ mở rộng lĩnh vực hoạt động của nó. Ở Đức những tập đoàn kiểu tương tự như vậy đã đóng góp lớn cho nền kinh tế nên người ta cho rằng hoàn toàn có lý do để những tập đoàn này giành được vị trí quan trọng trong nền kinh tế Hàn Quốc.
CHƯƠNG 2THỰC TRẠNG VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ CHAEBOL HÀN QUỐC
2.1. Đặc trưng của Chaebol Hàn Quốc
Xét về cơ chế quản lý thì mỗi Chaebol lại có phương thức quản lý riêng nhưng nói chung các Chaebol đều có những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, trong cơ cấu của Chaebol các công ty thành viên hoạt động kinh doanh chuyên ngành hoặc đa ngành.
Thứ hai, khác với tập đoàn công nghiệp của phương Tây mọi quyết định quan trọng của Chaebol đều chỉ được quyết định ở cấp cao nhất - tức là Chủ tịch và mọi nhân viên đều phải tuân thủ. Tuy vậy các quan chức cũng có vai trò quan trọng và đóng góp không nhỏ trong việc ra quyết định.
Thứ ba, cơ cấu nhân sự trong các Chaebol nổi rõ lên là sự phân cấp, phân tầng rõ rệt theo kiểu “pyramid scheme” (hệ thống kiểu kim tự tháp). Loại tổ chức này tạo nên sự thống nhất chặt chẽ trong hoạt động và thúc đẩy mọi thành viên luôn nỗ lực để đạt được kết quả cao trong vị trí của mình và phấn đấu lên vị trí cao hơn trong cơ cấu đó. Tuy nhiên cách tổ chức này không tránh khỏi những hạn chế của một cơ chế quản lý truyền thống là tính cứng nhắc và thiếu sự điều chỉnh linh hoạt.
Thứ tư, mức độ chi phối trong các Chaebol tương đối chặt chẽ và chủ yếu do người sáng lập và hậu duệ của họ. Ví dụ: Chung Ju Yung và gia đình kiểm soát 61,3% cổ phần của Chaebol Hyundai. Chung Taeso và các con ông ta kiểm soát tới 85,45% cổ phần của Chaebol Hanbo. Sau khi In Koe Koo, người sáng lập Chaebol LG qua đời, quyển sở hữu và kiểm soát Chaebol thuộc về các con trai, con rể và anh em ruột của ông ta.
2.2. Cơ cấu quản lý trong các Chaebol Hàn Quốc
2.2.1. Về cơ cấu sở hữu
Về sở hữu các Chaebol duy trì chế độ sở hữu theo huyết thống, tức là do các cá nhân sáng lập ra nó kiểm soát và tuân thủ theo kiểu truyền thống là cha truyền con nối. Các thành viên trong gia đình theo thứ tự (thường là con trai cả của gia đình thay cha nắm quyền kiểm soát và quản lý tài sản để kế tục sự nghiệp của cha ông để lại). Theo "Uỷ ban buôn bán công bằng Hàn Quốc" thì phần sở hữu của các gia đình trong 30 Chaebol lớn nhất tăng từ 43,8% (năm 1995) lên 44,1% (năm 1996).
Cơ cấu sở hữu trong các Chaebol có thể chia làm 3 loại như sau:
Chủ sở hữu (Công ty mẹ)
Các chi nhánh Công ty chi nhánh
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu sở hữu trực tiếp (Mô hình của Tập đoàn Han Jin)
Chủ sở hữu (Công ty mẹ)
Công ty cổ phần
Chi nhánh hay công ty chi nhánh
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu Công ty cổ phần (Mô hình của Tập đoàn Daewoo)
Chủ sở hữu (Công ty mẹ)
Công ty cổ phần
Các tổ chức trung gian
Chi nhánh hay công ty chi nhánh
Sơ đồ 2.3: Cơ cấu sở hữu hỗn hợp (Mô hình của Tập đoàn Samsung)
Nguồn: CLCSCN
2.2.2. Về cơ cấu quyền lực
Cơ cấu quyền lực trong chính quyền cũng như trong kinh doanh, các Chaebol hoàn toàn nhất quán với các giáo lý của Khổng Tử và các giá trị truyền thống của Hàn Quốc. Vì vậy, mô hình mà chúng áp dụng dường như chỉ có thể thực hiện được trong một nền chuyên chế độc tài. Tất cả mọi người dân và xã hội đã chấp nhận điều này như một tập quán và truyền thống kinh doanh.
2.2.3. Về cơ chế điều hành
Trong mỗi Chaebol đều có một cơ quan điều hành riêng, cho dù tên gọi khác nhau, các cơ quan này đều có chức năng là giúp Chủ tịch tập đoàn phối hợp hoạt động của Công ty chi nhánh, điều hành nhân sự, tài chính, đầu tư nghiên cứu và triển khai (R&D). Bằng các hoạt động cụ thể, các cơ quan điều hành góp phần nâng cao tính hiệu quả của tập đoàn nói chung, các Công ty chi nhánh nói riêng. Do quan hệ đẳng cấp, Chủ tịch Chaebol có vai trò chi phối các thành viên khác của Hội đồng. Nhìn chung, Chủ tịch Chaebol mang tính độc đoán, gia trưởng, đó là đặc thù nổi bật nhất trong các tổ chức kinh doanh Hàn Quốc.
Ngày nay, với sự phát triển sâu rộng của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, các Chaebol thường vay nợ cao để mở rộng và phát triển kinh doanh. Thông thường vay từ 100 đến 200% số vốn tự có của họ để kinh doanh và nợ ngân hàng được Chaebol coi là nguồn lực không thể thiểu. Chính vì vậy nền tảng tài chính của họ không được vững chắc và nhiều Chaebol đã đi đến phá sản. Do vậy, để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các Chaebol phải cơ cấu tổ chức quản lý lại cho phù hợp với điều kiện kinh tế quốc tế đã thay đổi. Do đó, hầu hết các chaebol đã tìm cách tăng mức độ nhất thể hoá theo chiều dọc, tức là quá trình các Công ty lớn thâm nhập rộng rãi vào các ngành khác, mà những ngành này có quan hệ với các ngành hiện đang kinh doanh của Công ty như những bước trung gian của sản xuất và lưu thông để duy trì sự kiểm soát và giảm rủi ro.
2.3. Xu hướng đa dạng hóa trong các Chaebol Hàn Quốc
2.3.1. Tính tất yếu phải đa dạng hóa
Đa dạng hóa là xu thế chung của các tập đoàn trên thế giới. Theo số liệu thống kê cho thấy vào những năm 70 hai phần ba trong số 500 công ty hoạt động ở nước Mỹ đã thực hiện đa dạng hóa ở mức độ cao. Ban đầu các công ty thường mở rộng hoạt động theo vùng địa lý để tăng trưởng. Khi gặp phải giới hạn của nhu cầu của thị trường về không gian các công ty chuyển sang thực hiện đầu tư phát triển theo chiều sâu nhằm nâng cao khả năng sinh lời và sức cạnh tranh thông qua cải tiến công nghệ, giảm chi phí sản xuất và cuối cùng là các công ty mở rộng danh mục sản phẩm của mình để đưa ra thị trường. Các tập đoàn kinh tế đa dạng hóa với mức độ tăng trưởng cao đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế của một số nước và Hàn Quốc cũng không phải là ngoại lệ. Các Chaebol Hàn Quốc thực hiện chiến lược đa dạng hóa nhanh chóng lớn mạnh và trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế thần kỳ của Hàn Quốc trong vài thập kỷ qua.
2.3.2. Đặc trưng trong đa dạng hóa của các Chaebol Hàn Quốc
Sự phát triển theo khuynh hướng đa dạng hóa của Chaebol được bắt đầu từ những năm 50 khi các Chaebol thu nhận về tay mình các công ty thuộc sở hữu Nhà nước và mua lại các công ty tư nhân hoạt động yếu kém. Cho đến nay vì nhiều nguyên nhân khác nhau các Chaebol vẫn tiếp tục đa dạng hóa và đa dạng hóa đã trở thành một trong những đặc trưng không thể thiếu khi nhắc đến các Chaebol Hàn Quốc. Khuynh hướng này thể hiện qua một số đặc trưng chủ yếu sau:
Một là: Các Chaebol đa dạng hóa với tốc độ nhanh
Tốc độ đa dạng hóa nhanh của các Chaebol thể hiện qua 2 tiêu chí: số lượng gia tăng nhanh chóng số chi nhánh và công ty thành viên, số lĩnh vực mà các Chaebol tham gia hoạt động. Thập kỷ 70 đánh dấu sự phát triển với tốc độ cao của các Chaebol. Trong số 191 công ty thuộc 10 Chaebol dẫn đầu (bảng xếp hạng năm 1984) thì có tới 60% được hình thành trong thời kỳ này. Số lượng các công ty của 30 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc đã tăng 30% trong thời kỳ 1993 – 1997. Nếu so với năm 1987 thì số lượng công ty thành viên của 30 Chaebol hàng đầu đã tăng gần gấp rưỡi. Ví dụ điển hình là Hyundai. Đầu những năm 70 Hyundai chỉ có 4 công ty mới được tách ra từ công ty đóng tàu thì cuối những năm 70 Huyndai đã tấn công vào các lĩnh vực khác như cơ khí, phụ tùng ôtô, xây dựng, lọc dầu và nâng số công ty thành viên của mình lên 20 công ty. Trong mỗi lĩnh vực Hyundai lại có nhiều công ty con, như trong lĩnh vực xây dựng và đồ gỗ Hyundai có tới 6 công ty con: Hyundai Cement. Co. Ltd; Dongsu Industrial. Co. Ltd; Hyundai Wood Industry. Co. Ltd; Keumkay Development Industrial Co.Ltd; Keumkay Co.Ltd; Korea Chemical Co. Ltd. Về lĩnh vực nếu lúc đầu Huyndai hoạt động trong lĩnh vực đóng tàu thì đến năm 1993 Hyundai đã tham gia trên 30 lĩnh vực khác nhau. Hiện nay Hyundai là Chaebol có số thành viên nhiều thứ ba ở Hàn Quốc (chỉ sau Samsung và SK).
Hai là: Các Chaebol đa dạng hóa với mức độ cao
Theo số liệu thống cho thấy tốc độ đa dạng hóa trung bình của các công ty thuộc 20 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc lớn gấp 10 lần so với tốc độ đa dạng hóa các công ty không thuộc Chaebol. Chaebol có quy mô lớn thì tốc độ đa dạng hóa càng cao. Số lượng công ty thành viên ._.của 30 Chaebol lớn nhất ở Hàn Quốc trung bình là 27,5 công ty, đáng chú ý nhất có Samsung (80), Hyundai (57), LG (49), SK (46). Về mức độ đa dạng hóa trung bình của 20 Chaebol hàng đầu là 15,5 (tính theo số ngành mà các công ty tham gia kinh doanh), chỉ số này cao hơn nhiều so với mức trung bình các công ty của các nước trên thế giới.
Ba là: Sự đan xen giữa đa dạng hóa liên hệ và đa dạng hóa không liên hệ
Đa dạng hóa liên hệ là cần thiết cho sự tăng trưởng liên tục của các Chaebol khi các Chaebol lựa chọn tham gia những ngành công nghiệp nặng và hóa chất - là những ngành mang lại lợi ích lớn do được hưởng ưu đãi của Chính phủ. Đa dạng hóa không liên hệ được thực hiện chủ yếu thông qua đầu tư lẫn nhau giữa các Chaebol trong ngắn hạn. Nó cho phép các Chaebol trong thời gian ngắn có thể huy động được các nguồn lực theo yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ vào nguồn lực của các Chaebol khác và một Chaebol có thể đầu tư với quy mô lớn vào những ngành kỹ thuật mới nhờ chia sẻ rủi ro với các Chaebol khác.
2.3.3. Nguyên nhân đa dạng hóa
Một là: Chính sách kinh tế của Chính phủ trong sự nghiệp công nghiệp hóa
Các Chaebol được hưởng lợi chủ yếu từ chính sách công nghiệp hóa của Chính phủ Park Chung Hee. Chính sách này được chia ra làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1962 – 1972 Chính phủ đẩy mạnh cải cách và xây dựng thể chế nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu.
Giai đoạn 1973-1979 Chính phủ tập trung vào các ngành trọng điểm là công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất. Chính phủ dành ưu đãi cho các công ty tham gia vào hai lĩnh vực này như: ưu đãi về thuế, tài chính và một số quyền lợi khác. Cho nên trong điều kiện đó sự lựa chọn hợp lý nhất cho các Chaebol là tham gia vào những ngành có sự điều tiết của Chính phủ. Bởi vì đầu tư vào những ngành này sự tồn tại của công ty sẽ được đảm bảo, sẽ được vay vốn với lãi suất thấp ở ngân hàng và khi công ty không có khả năng thanh toán thì Chính phủ sẽ can thiệp để cho công ty tiếp tục hoạt động. Đến cuối những năm 70, 9 trong số 10 Chaebol lớn nhất đã đầu tư vào công nghiệp nặng. Samsung vốn nổi tiếng với những sản phẩm công nghiệp nhẹ như dệt và thực phẩm (tổng vốn đầu tư chiếm tới hơn 66% tổng giá trị tài sản) thì đến những năm 70 cũng đẩu tư vào công nghiệp nặng. Năm 1983 đầu tư vào ngành này của Samsung chiếm tới hơn 33% trong khi đầu tư vào công nghiệp nhẹ chỉ còn 17%.
Thái độ coi trọng và ưu tiên dành cho các công ty của Chính phủ làm cho các Chaebol chú ý đến việc mở rộng quy mô hơn là gia tăng lợi nhuận. Vì khi mở một công ty mới thì các Chaebol lại được vay tiền từ các ngân hàng của Chính phủ, khi vay được vốn mà thành lập công ty khác thì lại được vay vốn tiếp. Do đó các Chaebol liên tiếp thành lập các công ty mới để được vay nhiều vốn từ các ngán hàng của Chính phủ và nước ngoài.
Bên cạnh đó, Chính phủ không cho phép các Chaebol thực hiện phá sản đối với các công ty thành viên hoạt động kinh doanh không hiệu quả do lo ngại những hậu quả về chính trị và xã hôi khi tình trạng thất nghiệp gia tăng. Chính sách này cùng các biện pháp hỗ trợ giúp các công ty tiếp tục duy trì và mở rộng hoạt động. Bởi vậy mà quy mô và lĩnh vực hoạt động của Chaebol ngày một gia tăng.
Cuối cùng là Chính phủ giảm thiểu rủi ro cho các Chaebol bằng cách thủ tiêu cạnh tranh trong thị trường nội địa. Các công ty thuộc Chaebol được vay vốn với lãi suất thấp hơn nhiều so với các công ty không thuộc Chaebol. Ví dụ: năm 1970 mức lãi suất cho các Chaebol chỉ có 7,2% trong khi mức lãi suất trên thị trường là 35,2%. Chính phủ cũng thực hiện bảo vệ sản phẩm của Chaebol bằng cách kiểm soát hàng nhập khẩu. Do vậy Chaebol độc quyền, tích lũy được nguồn vốn lớn tạo điều kiện tham gia vào những ngành không phải trọng điểm.
Hai là: Tình trạng kém phát triển của yếu tố đầu vào và mức chi phí giao dịch thấp
Williamson đưa ra nhận định rằng mức độ phát triển của thị trường yếu tố đầu vào và chi phí giao dịch có ảnh hưởng quyết định đến khả năng thực hiện và mức độ đa dạng hóa của sản phẩm của các công ty. Nếu các yếu tố nguồn lực cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoạt động thông suốt thông qua thị trường thì doanh nghiệp khi chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh sẽ phải gánh chịu chi phí giao dịch lớn và ngược lại. Ở Hàn Quốc trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường vốn và thị trường lao động chưa hình thành. Sự thiếu vắng của thị trường yếu tố đầu vào cùng với mức chi phí giao dịch thấp là nhân tố khuyến khích các Chaebol thực hiện đa dạng hóa.
Ba là: Xuất phát từ việc các Chaebol mong muốn có sức mạnh để cải thiện quan hệ với Chính phủ và tự bảo vệ mình
Nếu Chaebol không tuân thủ các kế hoạch của Chính phủ thì chính phủ sẽ cắt nguồn tài chính và khi đó sớm hay muộn Chaebol cũng phải đối mặt với rủi ro tài chính của việc mất khả năng thanh toán. Chính phủ can thiệp vào kinh doanh của Chaebol, Chaebol dễ bị tổn thương trước những thay đổi về thể chế chính trị. Do đó đa dạng hóa lá cách để Chaebol tăng khả năng tự chủ của mình. Các lĩnh vực mà Chaebol thực hiện đa dạng hóa có tài chính phi ngân hàng, xây dựng, thương mại. Năm 1980, 10 Chaebol lớn nhất đã đầu tư vào lĩnh vực tài chính phi ngân hàng (như bảo hiểm) và 8 Chaebol đầu tư vào lĩnh vực thương mại. Hiện nay 30 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc đã sở hữu 30 trong số 35 công ty bảo hiểm và 13 trong số 38 ngân hàng thương mại.
Bốn là: Đặc điểm của hệ thống quản lý
Quyền lực trong các Chaebol tập trung trong tay một số người nhưng lại không được pháp luật bảo vệ. Do vậy để mở rộng phạm vi quyền lực của mình đồng thời giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp, tìm kiếm cơ hộ thăng tiến trong hệ thống cấp bậc quản lý, các nhà quản lý thường sử dụng đa dạng hóa như một giải pháp an toàn và hữu hiệu nhất.
Năm là: Tính chất biến động của của môi trường kinh doanh
Trong điều kiện môi trường kinh tế có nhiều biến động phức tạp, đa dạng hóa chính là giải pháp tối ưu của các Chaebol để giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng cạnh tranh.
2.4. Vai trò của các Chaebol đối với kinh tế Hàn Quốc
Một là: Đầu tàu kinh tế của Hàn Quốc
Vai trò này của các Chaebol bắt đầu từ những năm 60 (khi tổng thống Park Chung Hee nắm quyền ) xuyên suốt cho đến nay. Để các Chaebol thực hiện vai trò của mình, chính phủ Hàn Quốc lên kế hoạch phát triển kinh tế -vốn đã bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, cùng với đó chính phủ cũng giao cho Chaebol những ưu đãi đặc biệt. Trên thực tế Chaebol đã rất thành công với mục tiêu này.
Từ khi được hình thành cho đến trong suốt những năm 70 Chaebol đã thực sự trở thành trụ cột kinh tế của Hàn Quốc. Chaebol đã sản xuất kinh doanh thương mại và dịch vụ, thu hút chuyển giao công nghệ,… Các Chaebol trong thời kì này đã đóng góp rất lớn cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của nền kinh tế với tỷ lệ hàng năm trung bình 20-30% GDP và tỷ lệ xuất khẩu chiếm khoảng 40%, đồng thời đã tạo ra nền công nghệ hiện đại cho nền sản xuất Hàn Quốc. Chỉ tính riêng năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu của 4 Chaebol hàng đầu là Daewoo, Hyundai, LG và SK đã lên đến 111,7 tỷ USD, chiếm 58% tổng giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc, chiếm 1/3 tổng giá trị tư bản của thị trường.
Đóng góp lớn nhất cho nền kinh tế Hàn Quốc phải kể đến 3 tập đoàn - thường được mệnh danh là những “đại gia” của Hàn Quốc: Samsung (Ngôi sao), Hyundai (Hiện đại) và Daewoo (Đại vũ). Họ là những đại gia xuyên suốt thế kỉ 20 và 21. Bên cạnh đó cũng tồn tại những tập đoàn khác như: LG, Ssangyong,…cũng được coi là hệ xương sống của nền kinh tế Hàn Quốc.
Samsung từ lâu rồi được xem là hiện tượng, là đặc trưng điển hình của sự năng động, sáng tạo trong nền kinh tế của xứ Hàn. Daewoo là "vua" của nhiều kiểu ô-tô các loại, còn Hyundai là "anh cả đỏ" của kỹ nghệ đóng tàu thủy và các thiết bị quan trọng của công nghiệp quốc phòng.
Chaebol cũng chính là nhân tố quan trọng nhất kéo Hàn Quốc ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính. Ba tập đoàn đi đầu trong thời kỳ này là: Samsung Electronics, Huyndai Motor và LG Electronics. Trong khi các đối thủ cạnh tranh bị cản bước bởi những cơn khủng hoảng thì dường như ba tập đoàn này bị ảnh hưởng không mấy đáng kể. Bằng chứng gần đây nhất về chiến lược kinh doanh của các tập đoàn này là vào 19 tháng 9 mới đây, Hyundai thông báo mở thêm một nhà máy ô tô 600 triệu đô la mới ở Brasil. Số vốn của tập đoàn Hyundai Motor bao gồm cả công ty con Kia Motor, là 3,9 triệu USD vào năm ngoái, đồng thời Hyundai cũng đang mong đợi một bước phát triến mới vào hai năm tiếp theo. "Nhà máy ở Brasil là sự quyết tâm của chủ tịch tập đoàn Chung Mong Koo để đạt mục tiêu tăng số vốn sản xuất lên tới 6 triệu USD vào năm 2010," người phát ngôn Jake Jang của Hyundai nói .
Sau thông báo của Hyundai hai ngày là công bố của Samsung về việc chào mua hãng sản xuất thẻ nhớ SanDisk của Mỹ với giá là 5,85 tỉ USD. Về phần mình, LG đã nhiều lần nhấn mạnh là đến năm 2010 sẽ đạt mục tiêu trở thành một trong ba nhà phân phối thị trường có ảnh hưởng nhất ở một số sản phẩm như ti vi, điện thoại di động và những trang thiết bị tại nhà như tủ lạnh và máy điều hòa không khí. Những nhà quản lý của bộ ba tập đoàn này cho biết tất nhiên là họ biết được tình hình kinh tế đang có dấu hiệu đi xuống nhưng đó cũng chính là cơ hội cho họ phát triển nền sản xuất công nghiệp của mình.
Danh sách 10 Chaebol có tổng thu nhập lớn nhất:
Samsung 153,2 tỷ USD (2006)
LG Group 94,8 tỷ USD (2007)
SK Corporation 75,9 tỷ USD (2006)
Hyundai Group 57,2 tỷ USD
Hanjin 16,2 tỷ USD
Hyundai Heavy Industry 10,5 tỷ USD
Lotte 6,3 tỷ USD
Doosan 4,5 tỷ USD
Hanhwa 4,4 tỷ USD
Kumho Asiana Group 2,8 tỷ USD
(Nguồn : en.wikipedia.org)
Hai là: Nâng cao vị thế của nền kinh tế Hàn Quốc trên thị trường thế giới
Đi đầu trên con đường chinh phục thị trường thế giới phải kể đến Chaebol Samsung. Tập đoàn này có ba lĩnh vực kinh doanh quan trọng để tạo nên thê chân vạc vững chắc là: lĩnh vực điện tử ( Samsung Electronics), công nghiệp nặng (Samsung Heavy Industries) và kỹ thuật xây dựng (Samsung Engineering & Construction). Trong đó Samsung Electronics, thành lập năm 1969, là một bộ phận lớn nhất của tập đoàn Samsung, và hiện nay được coi là một trong những công ty điện tử lớn nhất thế giới. Theo bảng xếp hạng 500 thương hiệu mạnh nhất toàn cầu mới nhất của Fortune, năm 2007, trong số các công ty điện – điện tử, Samsung có mức doanh thu đứng thứ hai thế giới với 106 tỉ USD nhưng lợi nhuận lại đạt mức cao nhất thế giới với gần 8 tỉ USD. Thế nhưng, ít người biết rằng cho đến đầu những năm 90, Samsung chỉ là một công ty châu Á chưa có tên tuổi, sản phẩm vẫn nằm ở những chỗ khuất của các cửa hàng và ít được chú ý bởi thiết kế hầu như lặp lại và công nghệ thua xa các đối thủ sừng sỏ đến từ Nhật Bản.
Bằng những thay đổi hợp lý trong quản lý và tiếp thị, Samsung đã bứt phá ngoạn mục khi dần vươn lên trở thành một trong những thương hiệu hàng đầu thế giới kể từ năm 1997, thời điểm mà các nước trong khu vực như Philippines, Hong Kong, Indonesia, Malaysia,... nói chung và Hàn Quốc nói riêng đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tiền tệ, dẫn đến phải thu nhỏ quy mô.
Đến năm 2005, theo báo cáo của Interbrand, Samsung đã trở thành thương hiệu hàng điện tử tiêu dùng hàng đầu và được biết đến nhiều nhất trên toàn cầu, thay thế vị trí mà trước đó do Sony nắm giữ nhiều năm liền. Năm 2006, tạp chí Business Week xếp Samsung hạng 20 trong 100 thương hiệu hàng đầu thế giới và hạng nhì trong ngành công nghiệp điện tử. Trong danh sách 100 công ty sáng tạo nhất cũng do Business Week đưa ra, Samsung xếp hạng 20. Năm 2007, điện thoại di động Samsung lại tiếp tục qua mặt công ty điện thoại di động hàng đầu của Mỹ là Motorola để trở thành hãng sản xuất điện thoại di động thứ nhì trên thế giới. Cuối năm 2007, lần đầu tiên, doanh số năm của Samsung vượt qua con số 100 tỉ USD. Trước đó chỉ có hai công ty đồ dùng điện và điện tử vượt qua được ngưỡng 100 tỉ USD, là Siemens của Đức và Hewlett - Packard của Mỹ. Thành tích này được coi là điều khó tin được với một công ty vừa mới thành lập năm 1969 (Siemens lập năm 1847, Hewlett-Packard năm 1939).
Samsung cũng trở thành một trong những công ty có giá trị thương hiệu tăng nhanh nhất thế giới. Năm 2000, thương hiệu Samsung được Interbrand định giá là 5,2 tỉ USD, xếp hạng 43 trên thế giới. Sau khi chi 508 triệu USD cho quảng cáo trong năm 2000, thương hiệu Samsung được nâng lên hạng 42, trị giá 6,3 tỉ USD trong năm 2001, Như vậy, đầu tư cho quảng cáo, tiếp thị đã thu lợi được gấp đôi. Năm 2006, thương hiệu Samsung có giá trị hơn 16 tỉ USD, xếp hạng 20 trên thế giới trong khi chi phí dành cho marketing là hơn 1 tỉ USD.
Bảng 2.4 Giá trị thương hiệu Samsung (giai đoạn 2003-2007)
Đơn vị tính: Tỉ USD
Nguồn:Business Week - InterBrand
Samsung là xương sống chính của nền kinh tế Hàn Quốc bên cạnh các công ty như Hyundai, Daewoo, SK Telecom, Kia… Theo nhật báo Wall Street Journal, tại Hàn Quốc, Samsung là tập đoàn kinh tế lớn nhất, đóng góp 15% kinh tế quốc gia và 20% xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, từ lâu, Samsung đã vượt ra biên giới Hàn Quốc, trở thành tập đoàn đa quốc gia và đã có mặt ở 61 nước.
Bảng 2.5 Số liệu thống kê vị trí và thị phần toàn cầu của Samsung năm 2007
Nguồn: Theo Gartner Dataquest, IDC, Display Search
Thành công kinh doanh tiếp theo thuộc về Chaebol Hyundai
Tàu biển là một trong 6 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Hàn Quốc cùng với bán dẫn, ô tô, thiết bị viễn thông không dây, máy móc và sản phẩm hoá dầu. Xuất khẩu tầu biển sẽ chiếm 7% tổng kim ngạch xuất khẩu, đạt kỷ lục 21,8 tỉ USD trong năm nay. Hyundai Heavy Industries Co. là hãng đóng tàu biển lớn nhất thế giới, đang tăng doanh số bán hàng bởi vì nâng cao kinh doanh hàng hải toàn cầu dẫn đến nhu cầu tầu biển lớn sẽ tăng nhanh. Đây là lĩnh vực các công ty Hàn Quốc có thế mạnh nhất.
Hyundai Heavy và hai công ty con của Hyundai là Hyundai Mipo Dockyard Co. và Hyundai Sambo Heavy Industries Co. gặt hái được 12 tỷ USD từ xuất khẩu trong năm nay, xếp hạn thứ 4 sau Samsung Electronics Co., LG Electronics Co. và Hyundai Motor Co.
Xuất khẩu tàu biển mang về cho Hyundai khoảng 9,3 tỷ USD, trong khi đó các ngành khác như là dịch vụ kỹ thuật ngoài khơi, máy móc và động cơ, thiết bị xây dựng và hệ thống điện mang về số còn lại.
Hyundai Heavy ký được thương vụ kỹ thuật ngoài khơi lớn nhất thế giới với tổng số tiền hợp đồng là 1,6 tỷ USD với Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) vào hôm 20/12/2006. Hyundai đồng ý xây dựng 3 giàn khoan kỹ thuật và đặt ống dẫn dầu đặt dưới đáy biển từ giếng dầu Umm Shaif cho ADAM-OPCO - một công ty con của Tổng Công ty dầu mỏ nhà nước UAE vào năm 2010. Thiết bị này sẽ khai thác 300.000 thùng dầu thô mỗi ngày và 1 tỷ feet khối khí tự nhiên.
Tháng 9/2006, Hyundai Heavy hoàn thành việc lắp đặt và chạy thử hệ thống sản xuất trị giá 30 triệu USD, hệ thống bao gồm 324 robot, robot này phục vụ việc lắp ráp xe hơi tại nhà máy Kia Motors Corp. ở Slovakia. Đây là thương vụ xuất khẩu robot công nghiệp chưa từng có ở Hàn Quốc.
Các trạm phát điện trọn gói (PPS) do Hyundai Heavy phát triển và được Bộ Thương mại - Công nghiệp và Năng lượng (MOCIE) chọ là “sản phẩm siêu hạng của thế giới” là mặt hàng xuất khẩu phổ biến của Hàn Quốc. Hyundai Heavy đảm bảo có đủ đơn hàng PPS từ 20 nước ở Châu Á, Trung và Nam Mỹ và Châu Phi cho năm 2007. Ở Cu Ba, Hyundai Heavy đang lắp đặt 554 PPS trị giá tới 720 triệu USD.
Ngành kinh doanh thiết bị xây dựng của Hyundai Heavy cũng gặp được nhu cầu lớn. Công ty đã thu được 200 triệu USD từ bán được 3.000 thiết bị xây dựng và ô tô công nghiệp tại Châu Âu trong tháng 9. Có được thành quả này nhờ có xúc tiến tích cức thông qua các cuộc triển lãm và nhu cầu xây dựng đang tăng ở Đông Âu.
Cũng trong tháng 9, Hyundai Heavy chứng tỏ tiềm năng của ngành công nghiệp năng lượng mặt trời của Hàn Quốc do nhận được đơn hàng rất lớn ở nước ngoài. Ngành kinh doanh hệ thống điện thu được 50 triệu USD để xây dựng trạm điện mặt trời ở Tây Ban Nha.
Tất nhiên, ngành đóng tàu biển là ngành có đóng góp lớn nhất trong xuất khẩu của Hyundai, xuất khẩu tàu biển chiếm tới 93% doanh số bán ra của ngành đóng tàu. Nhờ có đầu tư lớn vào phát triển công nghệ và mở rộng nhà xưởng của các hãng đóng tàu biển lớn như Hyundai Heavy, mà Hàn Quốc trở thành nước dẫn đầu thế giới trong ngành công nghiệp đóng tàu suốt 4 năm liên tục. Hàn Quốc nhận được hơn 40% đơn hàng đống tàu thế giới trong 11 tháng đầu năm, trong đó ưu tiên đóng các tàu vận chuyển khí thiên nhiên hoá lỏng, tàu chứa dầu lớn và tàu container.
“Xuất khẩu tàu biển đã góp phần làm cho thặng dư thương mại lên tới 19 tỷ USD trong năm nay.” Hiệp hội đóng tàu biển Hàn Quốc cho biết, “Sự đóng góp của ngành công nghiệp vào nền kinh tế đất nước tăng nhanh chóng bởi 200.000 người đang làm việc tại các nhà máy đóng tàu hoặc dịch vụ cung ứng.”
Ba là: Phát huy tốt những lợi thế của doanh nghiệp gia đình
Sự tiến bộ về mặt khoa học kỹ thuật của các doanh nghiệp Hàn Quốc đóng một vai trò quan trọng trong việc "mài sắc" ưu thế cạnh tranh so với các công ty khác trên thế giới. Ông Kim Joo Hoon, cố vấn Bộ trưởng tài chính Kang Man Soo cho rằng mặc dù số lượng hàng xuất khẩu tăng trong năm gần đây nhưng vẫn còn tồn tại các doanh nghiệp kinh doanh nhỏ bị ngưng trệ sản xuất. "Những nhà xuất khẩu lớn lấy những sản phẩm có chất lượng tốt từ những nhà cung cấp địa phương với chi phí thấp so với nguồn hàng lấy từ Nhật hoặc Tây Âu". Ông Kim nói "điều này sẽ giúp đỡ những nhà xuất khẩu cạnh tranh được trong tương lai".
Có lẽ nhân tố quan trọng nhất cho phép các tập đoàn tiến hành mở rộng kinh doanh một cách mạnh mẽ là hệ thống quản lý của họ. Người phân tích của tập đoàn này nói rằng những nhà xuất khẩu lớn ở Hàn Quốc cũng được điều hành bởi sự kiểm soát của những tập đoàn gia đình hay những đại diện của họ.
Như vậy một khi những tập đoàn gia đình này nắm và sử dụng quyền lực tuyệt đối trong những quyết định đầu tư quan trọng thì những kế hoạch làm ăn lâu dài sẽ tiến hành được dễ dàng. "Chúng tôi rất tự tin vào những đầu tư của mình sẽ tạo ra những bước phát triển mới, nhất là khi nền kinh tế toàn cầu thoát khỏi tình trạng khó khăn". Ông Jang của tập đoàn Hyundai nói.
2.5. Mối liên hệ giữa Chaebol và chính phủ
Những công ty được thành lập ở Hàn Quốc vào cuối những năm 40 đầu những năm 50, có mối liên hệ khá chặt chẽ với Chính phủ của tổng thống Ree Syung Man (nhiệm kì 1948-1960). Điều này giải thích vì sao các doanh nghiệp này lại nhận được những ưu đãi đặc biệt từ Chính phủ.
Sau khi quân đội giành được chính quyền vào năm 1961, tổng thống Park Chung Hee đã tuyên bố sẽ xóa bỏ hoàn toàn nạn tham nhũng và bất công xã hội còn tồn tại từ thời tổng thống Ree. Một vài nhà tư bản công nghiệp đã bị bắt và bị buộc tội tham nhũng. Nhưng sau đó các lãnh đạo của chính quyền mới lại nhận ra rằng họ không thể thực hiện mục tiêu cải cách kinh tế của mình nếu không có sự giúp đỡ của các Chaebol. Một thỏa thuận hợp tác giữa Chính phủ và Chaebol đã được ký kết nhằm thực hiện mục tiêu quan trọng trước mắt là cải cách nền kinh tế đất nước.
Sự hợp tác giữa Chính phủ và Chaebol kéo theo nó là sự phát triển đáng kinh ngạc của nền kinh tế bắt đầu từ đầu những năm 60. Khởi đầu là sản xuất những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và công nghiệp nhẹ, tiếp đến là công nghiệp nặng, hóa chất, công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu. Các nhà chính trị và các nhà lập kế hoạch của Chính phủ rất tin tưởng vào kế hoạch hợp tác với các Chaebol. Mối quan hệ hợp tác này thể hiện ở Chỗ chính phủ đưa ra các kế hoạc chi tiết để phát triển công nghiệp, các Chaebol thực hiện các kế hoạch đó. Park coi Chaebol là đầu tàu của nền kinh tế, khuyến khích sản xuất để xuất khẩu (điều này ngược với chính sách chỉ nhập khẩu của tổng thống Ree), quy định về hạn ngạch cũng được thiết lập.
Các Chaebol được Chính phủ cho phép hưởng một loại trợ cấp và đặc quyền, bao gồm việc hạn chế các công ty đa quốc gia tham gia thị trường, hỗ trợ chiến lược tạo vốn và các hoạt động phát triển công nghệ hướng vào xuất khẩu. Bên cạnh đó được bảo hộ về thị trường để làm chủ các công nghệ phức tạp, giảm thiểu sự phụ thuộc vào đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), và buộc họ phải đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu của mình để cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Các Chaebol có thể phát triển mạnh là do hai nhân tố chủ yếu là: nguồn vốn vay từ nước ngoài và những ưu đãi đặc biệt từ phía Chính phủ. Bên cạnh đó tiếp nhận các nguồn công nghệ hiện đại từ nước ngoài cũng là nhân tố then chốt dẫn đến thành công (Hàn Quốc đã mua lại những công nghệ và bằng sáng chế từ nước ngoài để sản xuất nhưng lại bán sản phẩm với giá thành rẻ hơn các nước trên thế giới). Với chủ trương “vốn đi đầu” Chính phủ đã lựa chọn một số các công ty và đứng ra đảm bảo để các công ty đó có thể được tiếp nhận nguồn vốn vay từ nước ngoài, thêm vào đó là nguồn vốn huy động được từ các ngân hàng trong nước.
Mối quan hệ giữa Chaebol và Chính phủ thu được nhiều thành công và thực hiện được mục tiêu kinh tế của Chính phủ. Tuy nhiên các quyết định của Chính phủ đưa ra không được sự tham gia của giới kinh doang cộng thêm với sự can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các Chaebol đã dẫn tới việc lệ thuộc quá nhiều của Chaebol vào Chính phủ. Chính vì thế để có thể tự chủ và tăng sức đề kháng trước những biến động bất thường của môi trường kinh doanh, các Chaebol đã có nhiều hoạt động để giảm dần sự phụ thuộc quá nhiều vào Chính phủ.
2.6. Những điểm yếu của Chaebol
Một là: Sự thao túng quá lớn của các Chaebol với nền kinh tế Hàn Quốc
Địa vị và quyền lực đặc biệt của Chaebol được Chính phủ nâng đỡ đã dẫn đến thái độ bất chấp trách nhiệm xã hội. Nó tạo nên sự độc quyền về giá cả gây lạm phát triền miên, kèm theo tệ nạn buôn lậu, trốn thuế. Do tính ích kỷ của hệ thống gia đình trị, chế độ làm việc nhiều giờ khi tiền lương thấp, giá cả bị đẩy lên cao đã dẫn đến tình trạng khoảng cách giàu - nghèo tăng và đe dọa sự ổn định xã hội.
Mới đây Chủ tịch của Samsung – ông Lee Kun Hee phải từ chức do trốn thuế và lạm dụng tín dụng. Việc ông Lee từ chức đã được tường thuật trực tiếp trên đài truyền hình quốc gia Hàn Quốc, đánh dấu sự sụp đổ của một trong những nhân vật quyền lực nhất Hàn Quốc cũng như là dấu hiệu về ngày kết thúc quyền nắm giữ nền kinh tế quốc gia của các tập đoàn kinh tế do các gia đình lập ra và điều hành.
Một lần nữa Hàn Quốc lại phải đối mặt với nghịch lý sâu sắc nhất trong phép lạ kinh tế của mình là: Vì sao một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, tổng sản lượng lên tới 960 tỷ đôla Mỹ lại có thể nằm trong sự kiểm soát của một nhóm các tập đoàn gia đình như Samsung, Huyndae, Daewoo,… Theo thống kê của Ngân hàng trung ương Hàn Quốc, 30 Chaebol lớn nhất kiểm soát tới 40% nền kinh tế.
Vấn đề bây giờ là Hàn Quốc có tiến tới việc làm suy yếu quyền kiểm soát của các tập đoàn gia đình đối với nền kinh tế hay không hay ít nhất cũng phơi bày sự kiểm soát đó trước sự xem xét kỹ lưỡng trước công chúng và sự giám sát của pháp luật. Lên tiếng sau khi Chủ tịch Lee từ chức về tội trốn thuế và lạm dụng tín dụng, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak hứa sẽ tiêu chuẩn toàn cầu về điều hành doanh nghiệp cho các công ty nước này.
Ở Hàn Quốc có một sự phê phán rộng rãi đối với các Chaebol mà cung cách điều hành khép kín có vẻ như đã lỗi thời trong một đất nước năng động và cởi mở, đã thực thi dân chủ từ đầu những năm 1990. Đối với nhiều người Hàn Quốc, Chaebol làm cho họ nhớ lại thời kỳ chuyên chế trước đây khi mà các tập đoàn công nghiệp cấu kết với các giới quân đội cầm quyền. Tuy vậy họ vẫn coi các Chaebol là viên kim cương đặt trên trước vương miện tôn vinh một trong những nền kinh tế thành công nhất trên thế giới. Chính tham vọng cũng như động lực của các Chaebol đã làm cho nền kinh tế Hàn Quốc bùng lên từ đống tro tàn sau cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953). Hiện nay Hàn Quốc là nền kinh tế thứ 11 thế giới và mức sống cao nhất nhì Châu Á.
Nhìn chung trong thời gian qua Chính phủ đã tỏ ra khắt khe với Chaebol hơn trong thời kỳ trước nhưng cũng không rõ sức ép này đến đâu. Trong vụ ông Chung Mong Koo – Chủ tịch tập đoàn Huyndai ( bao gồm cả công ty xe hơi Hyundai) bị kêu án 3 năm tù về tội biển thủ công quỹ nhưng sau đó tòa phúc thẩm cho hưởng án treo do những đóng góp của ông trong nền kinh tế Hàn Quốc. Tòa cũng miễn thi hành án tù 3 năm về tội gian lận kế toán với Chủ tịch tập đoàn SK- một Chaebol khác. Sở dĩ như vậy vì người ta lo ngại nếu thực thi sẽ tạo ra một tiền lệ ảnh hưởng xấu đến các Chaebol khác mà trong đó những người lãnh đạo gần như là không thay thế được. Do vậy ngành tư pháp Hàn Quốc thường có truyền thống là “nhẹ tay” với các “đại gia”, thường cho họ khỏi ngồi tù sau khi đã đóng một khoản tiền từ thiện lớn.
Hai là: Làm mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu kinh tế quốc gia, công nghiệp nhẹ bị bỏ rơi, công nghiệp nặng cũng chỉ tập trung vào một số ngành nhất định
Trong thời kỳ đầu khi đưa ra mục tiêu cải cách kinh tế sau chiến tranh, Chính phủ Hàn Quốc đã khuyến khích các Chaebol nước này đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất. Khi đầu tư vào hai ngành này, Chaebol sẽ được hưởng ưu đãi rất lớn của Chính phủ. Chính vì thế các Chaebol đầu tư lớn vào công nghiệp nặng, dẫn đến công nghiệp nhẹ bị bỏ rơi. Nhưng sau đó để giảm ảnh hưởng của Chính phủ vào kinh doanh của mình, cũng như xuất phát từ yêu cầu phải đa dạng hóa để hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận các Chaebol đã giảm đầu tư vào công nghiệp nặng, tăng đầu tư vào sản phẩm công nghệ cao như điện tử, điện lạnh, tài chính,… Chính điều này đã dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc.
Ba là: Sự mất cân đối trong phân bổ nguồn lực
Các Chaebol không chỉ được hưởng những ưu đãi về thuế, điều kiện thuận lợi từ phía Chính phủ mà còn tập trung được nguồn lực và tài nguyên lớn. Do đó đã dẫn tới tình trạng những nguồn lực cần thiết cho sản xuất chỉ tập trung trong tay một nhóm Chaebol, gây bất lợi rất lớn với những công ty nằm ngoài Chaebol. Số liệu cho thấy rằng có tới 94,6% các công ty vừa và nhỏ không được nhà nước đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khiến chúng sụp đổ kéo theo thất nghiệp và bất ổn xã hội .
Bốn là: Tình trạng vay nợ quá lớn của các Chaebol
Với sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa cộng thêm tốc độ đa dạng hóa diễn ra quá nhanh thì các Chaebol thường vay nợ cao để mở rộng và phát triển kinh doanh. Thông thường họ vay từ 100-200% số vốn tự có để mở rộng kinh doanh va coi nợ ngân hàng là nguồn lực không thể thiếu.
Đa dạng hóa mang lại những lợi ích nhất định cho sự tăng trưởng của các Chaebol và nền kinh tế Hàn Quốc nói chung nhưng bên cạnh đó chiến lược này cũng làm cho tỷ lệ nợ trên tổng giá trị tài sản của các Chaebol không ngừng gia tăng ( do để đa dạng hóa các Chaebol buộc phải huy động vốn bổ sung từ bên ngoài chủ yếu là từ các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư nước ngoài). Từ năm 1970 đến nay tỷ lệ nợ trên tổng giá trị tài sản của 30 Chaebol hàng đầu luôn ở mức cao. Thời điểm năm 1982 và 1997 tỷ lệ này là gần 400%. Tỷ lệ nợ trên tổng giá trị tài sản cao làm cho mức chi phí về vốn lớn dẫn đến mức doanh lợi thấp và làm xuất hiện nguy cơ mất khả năng thanh toán. Vì lý do này đã khiến nhiều Chaebol phá sản vào cuối năm 1997.
Năm là : Tình trạng tiêu cực trong hoạt động của Chaebol
Kết quả điều tra cũng cho thấy tình trạng tham nhũng phổ biến trong các Chaebol đặc biệt là sự tồn tại của các quỹ đen và tình trạng hối lộ. Gần đây, người khổng lồ Samsung, tập đoàn được coi là “bầu sữa” đối với hàng ngàn nhà cung cấp linh kiện đã chao đảo vì những lời buộc tội tham nhũng. Kim Yong-Chul, cựu luật sư trưởng của Samsung tố cáo tập đoàn này có một quỹ đen khổng lồ lên tới 217 triệu USD để phục vụ cho mục đích hối lộ. Theo vị luật sư này, quỹ đen nói trên được lập ra bằng tiền của tập đoàn và ẩn dưới dạng cổ phiếu giả cũng như nằm trong các tài khoản ngân hàng đứng tên các quan chức tập đoàn, trong đó có chính vị luật sư này. Quỹ này được dùng để hối lộ các chính trị gia, cơ quan luật pháp và báo giới, và thậm chí được chi cho bộ sưu tập nghệ thuật của gia đình ông Chủ tịch tập đoàn. Mặc dù Samsung kịch liệt phản đối lời buộc tội này, nhiều người Hàn Quốc tỏ ra vô cùng lo ngại khi thấy tập đoàn vốn là niềm tự hào của họ về sức mạnh xuất khẩu của Hàn Quốc cũng như tiêu chuẩn toàn cầu về trách nhiệm doanh nghiệp, vẫn là “con tin” của “văn hóa tham nhũng”. Hiện các quan chức của Samsung bị cấm không được ra khỏi Hàn Quốc. Cơ quan chức năng liên tục tới kiểm tra các văn phòng của tập đoàn để tìm kiếm các dấu hiệu phạm tội.
Có thể nói cho tới nay, Hàn Quốc đã phát mệt vì các vụ scandal tham nhũng trong các doanh nghiệp lớn của nước này. Tuy nhiên, do kinh tế Hàn Quốc vẫn phụ thuộc quá nặng nề vào các Chaebol - và ảnh hưởng của những “ông lớn” này là quá rộng, người Hàn Quốc lo sợ rằng, việc đối xử “nặng tay” với họ sẽ gây tổn thương đối với chính nền kinh tế nước này. Chính vì lẽ đó, người dân Hàn Quốc gần như đã quen với việc năm nào nước này cũng cũng chao đảo vì một vụ scandal liên quan tới một trong số các chaebol. “Điều đáng ngại trong vụ này là mọi người vẫn thường coi Samsung là một trong những doanh nghiệp được quản lý tốt nhất ở Hàn Quốc. Bởi thế, mọi người sẽ đặt câu hỏi là liệu trên thực tế, mức độ tham nhũng ở các doanh nghiệp khác ở Hàn Quốc còn trầm trọng đến mức nào”, Tom Coyner, Chủ tịch công ty tư vấn quản lý Soft Landing Korea, nói.
Mặt khác, các Chaebol khuyến khích công ty con mua cổ phần của nhau nhằm ngăn cản sự tham gia của nhà đầu tư bên ngoài. Do mô hình tổ chức khép kín của các Chaebol nên hiện tượng chuyển nhượng cổ phần bất hợp pháp diễn ra khá thường xuyên và rất khó phát hiện các gia tộc sáng lập Chaebol lợi dụng điều này để thu lợi bất chính. Một tổ chức dân sự có tên là Đoàn kết nhân dân tham gia dân chủ (PSPD) đã âm thầm điều tra suốt 10 năm qua và phát hiện hơn 70 trường hợp bất hợp pháp, chiếm tỷ lệ 27% các vụ chuyển nhượng cổ phần đã thực hiện ở 64 trong 250 công ty con thuộc 38 Chaebol. Điển hình là năm 2001, cha con Chủ tịch Hyundai Chung Mong Koo lần lượt thâu tóm 40% và 60% cổ phần của Glovis, công ty vận tải có lãi nhất của Hyundai. Ngay sau đó, họ đã thu được 13,3 tỷ won (13,6 triệu USD) tiền cổ tức; 104,3 triệu USD tiền bán cổ phiếu và 417 triệu USD chênh lệch giá khi Glovis lên sàn chứng khoán. PSPD đã phát hiện hơn 30 vụ c._.ranh quốc tế của họ rất thấp. Đặc biệt hiện nay họ đang còn rất yếu về khoa học công nghệ, về nghiên cứu; hoạt động trong thị trường tài chính quốc tế cũng còn rất yếu, và khó có thể so sánh được với các tập đoàn quốc tế khác.
4.4. Giải pháp phát triển mô hình tập đoàn ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay đã trở thành đặc trưng và xu hướng chung của thế giới. Mọi quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều đang tích cực tham gia vào tiến trình chung đó mà Việt Nam không phải là ngoại lệ. Chủ động hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đồng nghĩa với việc Việt Nam phải đối mặt với những thử thách, với nguy cơ cạnh tranh quyết liệt với các nước trên thế giới. Việc mở cửa thị trường trong nước đã dẫn tới sự xâm nhập của hàng loạt các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Tăng cường năng lực cạnh tranh để giành lấy thị trường nội địa đồng thời mở rộng hoạt động ra thị trường thế giới quả thực là một thách thức vô cùng to lớn với bản thân các tập đoàn kinh tế cũng như với Chính phủ Việt Nam. Vậy Việt Nam phải có những giải pháp gì để phát triển mô hình tập đoàn kinh tế trong bối cảnh đó?
4.3.1. Giải pháp từ phía Chính phủ
Một là: Đánh giá lại hoạt động của các TĐKT
Trước hết cần phải khẳng định việc Chính phủ đưa ra quyết định thành lập các TĐKT trong thời gian qua là hết sức cần thiết nhằm thúc đẩy phát triển các TĐKT thuộc các lĩnh vực và các ngành trọng yếu của nền kinh tế. Nhưng cần có một khoảng thời gian nhất định để đánh giá lại về hoạt động của các TĐKT. Ở các nước phát triển các tập đoàn kinh tế quốc doanh khi đi vào hoạt động luôn theo 3 chức năng và 4 tiêu chí do Chính phủ đặt ra rất rõ ràng. Trong khi ở nước ta các TĐKT lại chỉ được xác định một chức năng chung là đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, và nhiệm vụ riêng là quả đấm thép. Việc xác định chức năng chung chung như vậy rất khó cho các TĐKT trong việc đưa ra chính sách phát triển cụ thể. Cho nên trước hết phải xác định cụ thể chức năng của TĐKT trong nền kinh tế từ đó mới có thể đưa ra phương hướng phát triển cụ thể cho TĐKT.
Hai là: Bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý quy định về hoạt động của TĐKT
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đang đòi hỏi khung pháp lý đầy đủ, đúng đắn cho sự hình thành và phát triển của TĐKT nói chung và TĐKT quốc doanh nói riêng. Nhà nước nên sớm ban hành các quy định về tính pháp lý, các mô hình và nguyên tắc hình thành các tập đoàn kinh tế. Nếu là tập đoàn kinh tế thì phải đáp ứng được những yêu cầu và tiêu chí thế nào như: quy mô tổ chức, phương pháp tổ chức, các hệ thống quản lý, đội ngũ số cán bộ, số vốn pháp định, các chỉ tiêu kinh tế tối thiểu... Song song với khung khổ cơ bản nhất về pháp lý, Nhà nước cũng nên có những quy định rõ ràng hơn trong cơ chế hoạt động và mối quan hệ bên trong mỗi tập đoàn liên quan đến kinh doanh, đầu tư, tài chính, thông tin, nhân sự, tài sản, trách nhiệm... Quan trọng nhất là phải xác định và phân biệt một cách rõ ràng hơn nữa vai trò của quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng cường luật pháp và các quy chế kiểm soát sự lấn sân của công ti phi tài chính vào các hoạt động tài chính. Việc cho phép FPT, EVN, .. thành lập ngân hàng là điều không thể chấp nhận được. Thực tế hiện nay là dù có luật, các cơ quan hữu quan lần như lơ là không thực hiện sự kiểm soát theo luật hoặc không đủ khả năng chuyên môn để kiểm soát hầu hết mọi hoạt động của công ty, vì thế Chính phủ cần siết chặt khả năng đầu tư của các công ty phi tài chính vào hoạt động tài chính, và chỉ mở rộng khi điều kiện cho phép; mục đích là giảm thiểu khả năng có thể xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai.
Ba là: Giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động tập đoàn
Nhà nước chỉ nên đóng vai trò hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi bằng các cơ chế chính sách chứ không nên can thiệp bằng các biện pháp hành chính vào quá trình hình thành các TĐKT như hiện nay.
Bốn là: Tăng cường sự phối hợp giữa các TĐKT
Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư đan xen với nhau nhằm phát huy thế mạnh, chia sẻ rủi ro và tăng cường khả năng cạnh tranh của các TĐKT trong nước với các TĐKT nước ngoài trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Năm là: Hỗ trợ khu vực kinh tế dân doanh
Mặc dù chính phủ Việt Nam luôn tuyên bố cam kết hỗ trợ khu vực dân doanh, nhưng trên thực tế các TĐKT Nhà nước vẫn tiếp tục nhận được rất nhiều ưu ái, bao gồm khả năng tiếp cận đất đai và vốn trong khi khu vực dân doanh vẫn tiếp tục phải chịu sự nhũng nhiễu của quan chức và đối xử bất công của hệ thống chính quyền, đặc biệt là của hải quan và thuế vụ. Chính phủ Việt Nam cần loại bỏ sự bất bình đẳng này bằng cách đảm bảo rằng nguồn lực sẽ được phân bổ cho những ai có khả năng sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Tất cả các doanh nghiệp bất kể quy mô, loại hình, sở hữu đều phải công bố kết quả kiểm toán do những công ty kiểm toán độc lập và có uy tín thực hiện.
4.3.2. Giải pháp từ phía tập đoàn
Thứ nhất, với những "nhóm công ty" đang hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế thì cần chú trọng đảm bảo các yếu tố cơ bản như "thống nhất trong đa dạng", tập trung các nỗ lực tạo ra nội hàm của tập đoàn kinh tế (hình ảnh chung, thương hiệu chung, chiến lược chung...) và chính những yếu tố đó sẽ tạo ra chỗ đứng bền vững thay cho việc công nhận hay đăng ký trở thành các tập đoàn kinh tế.
Thứ hai, các TĐKT cần ban hành các quy định nội bộ liên quan đến nâng cao hiệu quả của cơ chế thực thi, bảo đảm quyền của các loại thành viên trong tập đoàn, nhất là loại thành viên chiếm thiểu số (loại thành viên có số vốn Nhà nước ít hơn 50%).
Thứ ba, trong TĐKT các công ty con là các doanh nghiệp do tập đoàn đầu tư 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối, có tu cách pháp nhân, có tài sản, tên gọi, con dấu và là pháp nhân hạch toán độc lập. Tuy nhiên vai trò của các công ty con trong tập đoàn quá mờ nhạt và bị can thiệp quá sâu trong các hoạt động. Do đó cần ban hành các quy định về quyền lợi và trách nhiệm cụ thể của công ty con, không chỉ về vốn mà ngay cả về việc xây dựng và chia sẻ thương hiệu, thị trường, công nghệ của tập đoàn. Các quy định này vừa có tính pháp lý ràng buộc công ty con với tập đoàn, vừa khuyến khích công ty con phát triển theo định hướng chung của tập đoàn.
Thứ tư, việc thành lập các TĐKT để nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực cũng như phát huy các lợi thế của doanh nghiệp chứ không phải là tạo ra một vỏ bọc bên ngoài “hào nhoáng”. Việc quản trị TĐKT đối với các nhà quản trị doanh nghiệp đang là một thách thức đòi hỏi họ cần có sự chuẩn bị đầy đủ về kiến thức cũng như bản lĩnh kinh doanh để đảm đương được vai trò của mình.
KẾT LUẬN
Từ thập niên 70 Chaebol đã trở thành đặc sản của nền kinh tế Hàn Quốc. Với vai trò đầu tàu Chaebol đã kéo cả nền kinh tế thành công, góp công lớn trong sự phát triển kỳ diệu của Hàn Quốc mà người ta gọi là “thần kỳ sông Hàn”. Không thể phủ nhận những ưu điểm của mô hình này cộng với những thuận lợi vào thời điểm mô hình áp dụng đã đưa kinh tế Hàn Quốc bước sang một thời kì mới. Nhưng không có mô hình nào là hoàn hảo, Chaebol cũng vậy. Bản thân nó còn tồn tại nhiều nhược điểm đòi hỏi phải có thời gian và biện pháp phù hợp. Người ta đã từng đặt câu hỏi có nên xóa bỏ hẳn Chaebol trong đời sống kinh tế của Hàn Quốc, câu trả lời là không thể vì vai trò và ảnh hưởng quá quan trọng của nó trong nền kinh tế và trong chính nhận thức của người dân Hàn. Người ta chỉ có thể tìm ra những biện pháp khắc phục những điểm yếu của nó và hạn chế những căn bệnh được coi là cố hữu của mô hình này.
Các tập đoàn kinh tế cảu Việt Nam ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu phát triển nền kinh tế quốc gia và cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Qua nghiên cứu phân tích có thể thấy các tập đoàn kinh tế Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với tập đoàn kinh tế của Hàn Quốc. Bài viết này đã tổng kết những kinh nghiệm thành công, rút ra những hạn chế cần khắc phục của mô hình TĐKT ở Hàn Quốc và đưa ra một vài so sánh giữa mô hình TĐKT giữa hai nước nhằm mục đích giúp Việt Nam có định hướng và biện pháp phát triển các TĐKT trong nền kinh tế hiện đại xứng đáng với tầm vóc và kỳ vọng của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Anh
1) Directed Research in Economics, University of Northern Iowa ,“Failure of the Miracle: Why South Korea's Managed Economy Is Dying”.
2) Phil Sang Lee- Dean, school of business administration, Korea University, “Economic Crisis and Chaebol Reform in Korea”.
3) Thayer Watkins, Silicon Valey & Tornado Alley USA, “Chaebol of South Korea”.
Tài liệu tiếng Việt
1) Báo cáo của một nhóm giáo sư và chuyên gia thuộc đại học Harvard về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội VN 2010-2020, “Lựa chọn thành công”.
2) Nguyễn Kim Anh, “Một số vấn đề về các Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam và các ngân hàng do Tập đoàn kinh tế mới thành lập”, tạp chí Quản lý kinh tế số 19 (3+4/2008).
3) PGS.TS Phan Đăng Tuất, “Lựa chọn mô hình hoạt động cho Tập đoàn kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp 8/2007.
4) Vũ Phương Thảo “Khuynh hướng đa dạng hóa trong các Chaebol của Hàn Quốc”, tạp chí nghiên cứu Châu Á- Thái Bình Dương, số 4 năm 2005.
Trang web
*) www.atimes.com/atimes/Korea/II08Dg02.html “ Chaebol justice in South Korea”.
*) www.country-data.com
*) www.experiencefestival.com *)www.haiphongdofa.gov.vn/vn/index.asp?menuid=467&parent_menuid=417&fuseaction=3&articleid=1762, bài “Thành lập Tập đoàn kinh tế tại Việt Nam”.
*) www.hyundaicorp.co.kr
*) www.lge.co.kr
*) www.massogroup.com/cms/content/view/4944/290/lang,en/ bài “Những mô hình tập đoàn kinh tế tiêu biểu ở Châu Á”.
*) www.moi.gov.vn/BForum/detail.asp?Cat=15&id=1623, bài “ Đặc thù của các NIEs Châu Á trong quản lý kinh doanh”.
*) bài “ Sức bật của Samsung, Hyundai và LG trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế”, tác giả Ngọc Thủy.
*) www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=128&article=87209, bài “Thời của Tập đoàn”.
*) www.samsung.kr
*)www.songda.com.vn/forum/getPage.do;jsessionid=7D1036A6383D4DABFC6BD18009AF1537?postId=2677, bài “ Tập đoàn kinh tế - Không có mô hình duy nhất cho tất cả”.
*) bài “Tập đoàn kinh tế tư nhân: đi tìm sự thừa nhận”
*) www.viet-studies.info, bài “Vài suy nghĩ về tập đoàn kinh tế quốc doanh”, tác giả Nguyễn Trung.
PHỤ LỤC
1) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tập đoàn kinh tế
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số: 91/TTg
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----- o0o -----
Hà Nội , Ngày 07 tháng 03 năm 1994
QUYẾT ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Để tạo điều kiện thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương và tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế;
Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ IV, khoá IX;
Căn cứ kết luận của Chính phủ tại phiên họp ngày 6 tháng 1 năm 1994,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh (Sau đây gọi là tập đoàn) ở một số Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và thành phố Hồ Chí Minh. Việc chọn đơn vị làm thí điểm phải dựa vào một số Tổng công ty, công ty lớn có mối quan hệ theo ngành và vùng lãnh thổ, không phân biệt doanh nghiệp do Trung ương hay địa phương quản lý, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những yêu cầu cần thiết cho thị trường trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh doanh ra ngoài nước. Mỗi tập đoàn có tên giao dịch riêng, nên giữ những tên giao dịch có uy tín đã quen thuộc trên thị trường trong nước và thế giới.
Điều 2. Nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của tập đoàn:
1. Tập đoàn là pháp nhân kinh tế do Nhà nước thành lập gồm nhiều doanh nghiệp thành viên có quan hệ với nhau về tài chính và các dịch vụ liên quan và có qui mô tương đối lớn;
2. Việc thành lập tập đoàn phải đảm bảo vừa hạn chế độc quyền vừa hạn chế cạnh tranh bừa bãi. Có thể tổ chức theo 3 loại:
Tập đoàn toàn quốc;
Tập đoàn khu vực;
Tập đoàn vùng (ở những thành phố lớn).
3. Tập đoàn phải có 7 doanh nghiệp thành viên trở lên và có vốn pháp định ít nhất là 1.000 tỷ đồng;
4. Về nguyên tắc, tập đoàn có thể hoạt động kinh doanh đa ngành song nhất thiết phải có định hướng ngành chủ đạo, mỗi tập đoàn được tổ chức công ty tài chính để huy động vốn, điều hoà vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nội bộ tập đoàn hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế khác;
5. Hội đồng quản lý của tập đoàn gồm 7-9 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, có trách nhiệm:
Thực hiện quyền sử dụng và quản lý của các nguồn vốn của Nhà nước, phân giao và điều hoà vốn chung trong nội bộ tập đoàn;
Quyết định chiến lược phát triển và các phương án kinh doanh của tập đoàn;
Quyết định phương án tổ chức bộ máy điều hành tập đoàn và đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc và kế toán trưởng của tập đoàn;
6. Tổng Giám đốc:
Đại diện pháp nhân của tập đoàn trong quan hệ kinh doanh trước bạn hàng và trước pháp luật;
Tổ chức xây dựng kế hoạch và điều hành toàn bộ hoạt động của tập đoàn theo quyết định của Hội đồng quản lý;
7. Ban kiểm soát được thành lập theo qui chế tổ chức của hệ thống kiểm tra, kiểm soát Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ kiểm soát hoạt động của Hội đồng quản lý, bộ máy điều hành tập đoàn và các doanh nghiệp thành viên;
8. Nhiệm vụ và quyền hạn các doanh nghiệp thành viên:
Thực hiện quyền hạn và trách nhiệm theo điều lệ của tập đoàn;
Chấp hành luật pháp, chính sách theo qui định của Nhà nước và chịu sự kiểm tra của các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Điều 3. Tập đoàn hoạt động theo luật pháp và chịu sự kiểm tra và thanh tra của Nhà nước. Các Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và các cơ quan quản lý Nhà nước khác, chính quyền Nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm quản lý tập đoàn theo chức năng được pháp luật quy định.
Điều 4.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước có nhiệm vụ hướng dẫn thí điểm tập đoàn theo quyết định này; xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng quản lý, bộ máy điều hành và Ban kiểm soát tập đoàn;
Bộ Tài chính có nhiệm vụ hướng dẫn việc sử dụng, quản lý, huy động, điều hoà vốn và chế độ hạch toán của tập đoàn;
Điều 5. Tiến độ thực hiện:
Quý I-1994: Mỗi Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật và Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mỗi nơi chọn một Tổng công ty nòng cốt đề nghị được làm thí điểm, gửi danh sách đến Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định;
Quý II-1994:
Đến giữa quý II-1994, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính ban hành xong những văn bản hướng dẫn cần thiết nói tại Điều 4, Quyết định này;
Cuối quý II-1994, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thẩm định xong một số đề án thí điểm tập đoàn trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
Quý III-1994 trở đi đến hết năm 1995: Triển khai thực hiện thí điểm các tập đoàn có đề án được phê duyệt. Cuối năm 1995 tiến hành tổng kết việc làm thí điểm.
Điều 6. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
Điều 7. Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
(Đã ký)
Võ Văn Kiệt
Bản quyền thuộc Bộ Tư PhápÐịa chỉ: 60 Trần Phú- Ba Đình - Hà Nội - Việt NamTel: 04-7336091 - Fax: 04-7336090Email: ttth@moj.gov.vn - Website: www.moj.gov.vn
2) Một số vấn đề về TĐKT ( Trích Nghị quyết TW 3 khóa IX)
Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX nêu rõ:- Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. DNNN (gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế.- Kiên quyết điều chỉnh để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận các DNNN phải có qui mô vừa và lớn; Chuyển DNNN sang hoạt động theo chế độ công ty; đẩy mạnh cổ phần hóa những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn.- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Phân biệt rõ chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu của Nhà nước với chức năng điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn đối với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp.Một trong những giải pháp lớn để thực hiện sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là phải đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước, bằng cách hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, đó là:- Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, trong đó vốn Nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên về sản xuất, tài chính, thị trường...; có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, có năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.- Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con, trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên là những công ty TNHH một thành viên (tổng công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối.- Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân... Thí điểm hình thành tập đoàn kinh doanh trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng...Bên cạnh các tập đoàn kinh tế dựa vào nòng cốt là các tổng công ty nhà nước, cần khuyến khích việc hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong nước, thông qua việc tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, thúc đẩy việc cạnh tranh lành mạnh, hoạt động đúng pháp luật, nhằm cùng tạo ra các đầu tàu kinh tế mới, các động lực mới để thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế. Với Việt Nam, lựa chọn phương thức vừa làm vừa rút kinh nghiệm là phù hợp, không thể tách ra hoàn thiện lý luận rồi mới áp dụng vào thực tiễn, như vậy sẽ là quá muộn khi Việt Nam đã bắt đầu tiến trình hội nhập.Ngành Công nghiệp hiện có 4 tổng công ty đang trong giai đoạn lập dự án thí điểm hoạt động theo mô hình tập đoàn là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Dệt May Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Than Việt Nam. Thực tế cho thấy, đây là những tổng công ty có tiềm lực tài chính mạnh và có bộ máy quản lý hoạt động rất qui củ từ nhiều năm nay. Nhưng đây vẫn chỉ là giai đoạn sơ khởi, để thực sự phát triển thành tập đoàn kinh tế mạnh vẫn cần có thêm thời gian, có khung pháp lý phù hợp kèm theo là cơ chế chính sách cụ thể, đồng thời phải có sự chỉ đạo đúng hướng, kịp thời của các ngành, các cấp cùng sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp trong tập đoàn tương lai. 3) Quy định số 196-QĐ/TW, ngày 24-11-2008 của Ban Bí thư về tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước
- Căn cứ Điều lệ Đảng;
- Căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư (khoá X);
- Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư và Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X),
Ban Bí thư quy định về tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước (sau đây gọi chung là tổ chức đảng tập đoàn kinh tế, tổng công ty) như sau:
I. QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Về tổ chức đảng
1- Tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương; trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ được tổ chức theo 2 mô hình:
- Đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty.
- Đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty.
2- Đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con thì tổ chức đảng bộ cơ quan tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Sau khi doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con thì tổ chức lại theo mô hình đảng bộ công ty mẹ.
II. ĐẢNG BỘ TOÀN TẬP ĐOÀN KINH TẾ, TỔNG CÔNG TY
Điều 2. Điều kiện thành lập đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty
Tổ chức đảng toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty được thành lập ở những doanh nghiệp có đủ các điều kiện sau:
- Là tập đoàn kinh tế, tổng công ty hạng đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc phê duyệt đồng ý cho thành lập; có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng; hoạt động của doanh nghiệp gắn kết chặt chẽ với nhau, phần lớn tài chính, sản phẩm, dịch vụ chính, kỹ thuật, công nghệ của các đơn vị thành viên do tập đoàn kinh tế, tổng công ty chi phối.
- Các đơn vị thành viên của tập đoàn kinh tế, tổng công ty đóng trên nhiều địa bàn khác nhau nhưng chi phối không lớn đến nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Đối với đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc khối doanh nghiệp tỉnh phải có đa số tổ chức đảng trực thuộc đóng trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố.
- Đã lập đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty là đảng bộ mà đảng uỷ là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng (hoặc đảng bộ cơ sở mà đảng uỷ được giao quyền cấp trên cơ sở); đa số tổ chức đảng thuộc đảng bộ là tổ chức đảng trong các đơn vị thành viên chịu sự chi phối hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty.
Điều 3. Thẩm quyền quyết định thành lập đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng cộng ty
- Đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương có đề án được Ban Tổ chức Trung ương thẩm định, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương ra quyết định thành lập.
- Đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ có đề án được ban tổ chức tỉnh uỷ, thành uỷ thẩm định, ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ ra quyết định thành lập.
- Đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty trực thuộc đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ có đề án được ban tổ chức tỉnh uỷ, thành uỷ thẩm định, đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ ra quyết định thành lập.
III. ĐẢNG BỘ CÔNG TY MẸ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ, TỔNG CÔNG TY
Điều 4. Thành lập đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty
Tổ chức đảng tập đoàn kinh tế, tổng công ty mà doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con (nơi không thành lập đảng bộ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty) thì thành lập đảng bộ công ty mẹ.
1- Đảng bộ công ty mẹ bao gồm: Tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp là thành viên của công ty mẹ theo quyết định của cấp có thẩm quyền; tổ chức đảng cơ quan, văn phòng đại diện tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác.
2- Các đảng bộ, chi bộ doanh nghiệp thành viên còn lại đặt trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ, hoặc huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ... do cấp uỷ có thẩm quyền ở địa phương quyết định.
Điều 5. Thẩm quyền quyết định thành lập đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty
- Đảng bộ công ty mẹ trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương do Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương quyết định sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương.
- Đảng bộ công ty mẹ trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ do ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ quyết định.
Đảng bộ công ty mẹ trực thuộc đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ, do đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh uỷ, thành uỷ quyết định sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của ban tổ chức tỉnh uỷ, thành uỷ.
IV. MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG TẬP ĐOÀN KINH TẾ, TỔNG CÔNG TY
Điều 6. Thí điểm giao một số quyền cấp trên cơ sở cho đảng uỷ cơ sở có vị trí quan trọng, có nhiều tổ chức đảng trực thuộc, đông đảng viên
1- Các đảng bộ cơ sở trực thuộc đảng uỷ tập đoàn kinh tế, tổng công ty mà cấp uỷ cấp trên trực tiếp của đảng uỷ tập đoàn kinh tế, tổng công ty là cấp uỷ trực thuộc Trung ương (tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc đảng uỷ trực thuộc Trung ương) có các điều kiện sau đây thì được thí điểm giao một số quyền cấp trên cơ sở:
- Có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng.
- Có quy mô lớn: Có nhiều đơn vị thành viên là tổ chức cơ sở trong một đơn vị chính quyền; đảng bộ có đông đảng viên, hoạt động trên phạm vi rộng (nhiều tỉnh, thành phố).
- Là đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
2- Tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương xét, quyết định giao cho cấp uỷ một số quyền như sau:
- Được lập các cơ quan tham mưu chuyên trách giúp việc (ban tổ chức, ban tuyên giáo, cơ quan uỷ ban kiểm tra, văn phòng đảng uỷ).
- Đảng uỷ được quyết định thành lập tổ chức cơ sở đảng theo quy định của Bộ Chính trị, sau khi được ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản.
- Ban thường vụ đảng uỷ được quyết định kết nạp đảng viên, kỷ luật khai trừ đảng viên, khen thưởng tổ chức đảng và đảng viên; chuyển sinh hoạt cho tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp đến các đảng bộ cấp trên cơ sở.
- Ban thường vụ mỗi tháng sinh hoạt một lần, đảng uỷ họp thường lệ 3 tháng một lần, họp bất thường khi cần.
3. Việc giao một số quyền cấp trên cơ sở cho đảng uỷ cơ sở do tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc đảng uỷ trực thuộc Trung ương quyết định sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương.
Điều 7. Chuyển các tổ chức đảng doanh nghiệp về trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương và cấp uỷ địa phương
1- Các tổ chức đảng doanh nghiệp nhà nước (hiện đang sinh hoạt trong đảng bộ cơ quan bộ, ngành hoặc địa phương) chuyển về trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương khi có đủ các điều kiện sau:
- Doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc phê duyệt đồng ý cho thành lập, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
- Có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hoạt động rộng trên địa bàn toàn quốc.
- Là đảng bộ mà đảng uỷ là cấp trên trực tiếp của tổ chưc cơ sở đảng (hoặc đảng bộ cơ sở mà đảng uỷ được giao quyền cấp trên cơ sở).
2- Các tổ chức đảng doanh nghiệp còn lại (ngoài số chuyển về trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương) có trụ sở chính đóng ở địa phương nào thì chuyển về trực thuộc cấp uỷ địa phương đó (trừ các tổ chức đảng của các doanh nghiệp công ích, đơn vị sự nghiệp nhỏ có nhiệm vụ phục vụ trực tiếp cho chức năng quản lý hành chính nhà nước của bộ, ngành).
Điều 8. Doanh nghiệp chưa (hoặc không) hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con
Thành lập đảng bộ cơ quan hoặc đảng bộ cơ quan mở rộng; các đảng bộ, chi bộ của các đơn vị thành viên đóng ở địa phương nào thì trực thuộc cấp uỷ địa phương đó.
Điều 9. Trách nhiệm, quyền hạn của đảng uỷ các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước với cấp uỷ địa phương trong việc phối hợp công tác
Các đảng uỷ toàn tập đoàn kinh tế, tổng công ty, đảng uỷ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định chung, có nhiệm vụ phối hợp với cấp uỷ địa phương (nơi các đơn vị thành viên đóng trên địa bàn) lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, công tác xây dựng đảng, công tác cán bộ, lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội theo Quy chế phối hợp công tác giữa đảng uỷ tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước với cấp uỷ địa phương do Ban Bí thư ban hành.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 10. Giao Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ và các cơ quan có liên quan:
1- Hướng dẫn triển khai thực hiện Quy định này đối với các tổ chức đảng của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phù hợp với đặc điểm, vị trí của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
2- Xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa đảng uỷ tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước với cấp uỷ địa phương, trình Ban Bí thư xem xét, quyết định.
Điều 11. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương theo thẩm quyền quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, trách nhiệm, quyền hạn của các đảng bộ tập đoàn kinh tế, tổng công ty theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy định này, phù hợp với đặc điểm của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương phối hợp với cấp uỷ địa phương chỉ đạo hướng dẫn các đảng uỷ cơ quan bộ, ngành Trung ương trực thuộc thực hiện việc chuyển giao tổ chức đảng doanh nghiệp về trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương (nếu có) và cấp uỷ địa phương liên quan.
Điều 12. Quy định này có hiệu lực từ ngày ký.
Trong quá trình thực hiện, nếu cần bổ sung, sửa đổi, Ban Tổ chức Trung ương báo cáo Ban Bí thư xem xét, quyết định.
T/M BAN BÍ THƯ
(đã ký)
Trương Tấn Sang
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21364.doc