Mô hình pháp luật kinh doanh bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế thị trường

Đề tài: Mô hình pháp luật kinh doanh bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế thị trường. chương i hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. I. hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường. 1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thế giới và ở Việt nam. 1.1. Trên thế giới. Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mô hình pháp luật kinh doanh bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mà thậm chí cho đến bây giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất hiện từ khi nào. Chúng ta có thể dễ dàng tìm được phế tích của những ngôi nhà tác phẩm nghệ thuật hoặc những dấu tích còn sót lại của những nền văn minh xưa kia. Tuy nhiên việc tái lập một cách chính xác cách thức mà các thị dân đầu tiên đã sử dụng để tổ chức các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế lại là một điều khó khăn hơn nhiều. Trong một số những dấu tích vật chất gây ấn tượng của văn minh thời Tiền sử, thời Cổ đại, thời Trung cổ và thời Cận đại có các kho lúa nơi mọi người dự trữ lương thực để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Câu chuyện trong kinh thánh Joeph giải thích giấc mơ của vua Ai Cập là một ví dụ minh hoạ nguyên tắc mà người ta đã áp dụng để tổ chức dịch vụ nói trên. Kinh nghiệm cho thấy rằng đôi khi cũng xảy ra mất mùa hoặc quân xâm lược ngăn cản người dân của một thành phố thu hoạch ở vùng nông thôn xung quanh. Mặc dù mỗi hộ gia đình có thể tự dự phòng cho những trường hợp xấu nói trên nhưng các thị dân đã sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo từng cộng đồng có hiệu quả hơn. Mỗi người có khả năng sẽ phải đóng góp vào một khoản thuế nhỏ trong những năm được mùa, khi giá lương thực xuống thấp. Người ta thực hiện việc mua lương thực có thể dự trữ được chủ yếu là lúa mỳ. Nông dân thấy hài lòng do họ có thể bán được nhiều hơn( với giá cao hơn) so với khi cơ quan thuế không thực hiện việc mua lương thực trên thị trường. Gặp khi mất mùa hoặc khi thành phố bị vây hãm, cơ quan thuế sẽ xuất ra lương thực dự trữ để nuôi sống cư dân thành phố. Vì vậy, ý tưởng về việc lập một quỹ chung (trong trường hợp này là quỹ lương thực) đã xuất hiện trong tiềm thức con người. ý tưởng này tỏ ra rất phù hợp với yêu cầu khách quan của đời sống của con người vốn thường xuyên bị rủi ro đe doạ. Vào cuối thế kỷ XV, khi Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai phá tới Châu á và Châu Mĩ, mở đường cho cái gọi là “cuộc cách mạng thương mại” xảy ra trước “cuộc cách mạng công nghiệp” nổi tiêng, ý tưởng về rủi ro và thành lập một quỹ chung đã xuất hiện cùng một lúc. Nếu một đội tàu nhỏ tìm cách đi từ Châu Âu tới Inđônêxia để mua bán hàng hoá và trở về với nhiều loại hàng hoá hấp dẫn, song lại có một số tàu không hoàn thành chuyến trở về. Một số tàu có thể bị chìm do bão tố, cạn kiệt nguồn cung cấp (hoặc đội thuỷ thủ bị chết vì bệnh tật), lạc đường, bị chìm do quá tải. Những người tham gia vào chuyến đi mạo hiểm đó đã cảm thấy sự cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng một số nhà đàu tư bị mất trắng khoản đầu tư của mình do hoàn cảnh ngẫu nhiên đã khiến cho con tàu của họ bị mất tích. Vì thế họ đã tìm ra hai cách nhằm đáp ứng nhu cầu này: Cách thứ nhất, là thành lập một liên doanh có góp vốn cổ phần theo đó một nhóm đầu tư cùng đầu tư vào một đội thuyền chở hàng chung, cùng chia sẻ rủi ro khi xảy ra tổn thất và phân chia lợi nhuận mà liên doanh thu được. Cách thứ hai, là bảo hiểm một hệ thống mà theo đó chủ tàu hay chủ hàng (có thể là một cá nhân hay một công ty) đề nghị trả một số tiền mặt cho người khác nếu những người này đồng ý sẽ bồi thường cho các chủ hàng thuộc con tàu khi con tàu đã nêu tên không hoàn thành một chuyến đi cụ thể nào đó. Theo cách này, thay cho việc phát triển trong cạnh tranh, việc chung vốn và bảo hiểm đã bổ xung cho nhau. Một số cá nhân hay công ty thu phí bảo hiểm bằng tiền mặt để đổi lấy một cam kết sẽ bồi thường cho chủ tàu trong trường hợp tàu bị mất tích. Những bảo hiểm này đã tạo lập một quỹ chung mà họ cam kết sử dụng để thanh toán cho người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất. Một số nhà kinh doanh bảo hiểm nhanh chóng nhận ra rằng rất nhiều thành viên cộng đồng không muốn mình nhận bảo hiểm cho những rủi ro lớn như vậy theo như kiểu khai thác bảo hiểm của Lioyds’. Vì vậy, khái niệm góp vốn chung đã được đè cập đến song trong một bối cảnh khác, người ta kêu gọi mọi người mua cổ phần của các công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ thuê các chuyên gia để lựa chọn các rủi ro có thể bảo hiểm và bồi thường cho người được bảo hiểm bằng số tiền trích ra từ quỹ chung mà công ty đã đem ra đầu tư khi rủi ro xảy ra. Quỹ này được xây dựng trên cơ sở tiền mà công ty thu được sau khi bán các cổ phần cho các cổ đông cộng với thu nhập nhờ đầu tư quỹ và phí bảo hiểm do người được bảo hiểm nộp. Chỉ cần khai thác viên chuyên nghiệp tính toán một cách đầy đủ và chính xác trong việc lựa chọn rủi ro và số phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi loại rủi ro, cụ thể thì quỹ này luôn luôn có khả năng để bồi thường tổn thất cho người được bảo hiểm nếu xảy ra rủi ro và trả lãi cho các cổ đông ở mức đủ để họ hài lòng với việc đầu tư của mình. Vào thời gian đầu, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty bảo hiểm là bảo hiểm hoả hoạn. Tại những thành phố đông đúc của thế kỷ XVII, hầu hết nhà cửa đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lửa để sưởi, đun nấu và dùng để chiếu sáng. Vì vậy rủi ro nhà bắt lửa là rất cao. Trong cộng đồng làng xã trước khi diễn ra quá trình đô thị hoá, khi một nhà bị cháy rụi, tất cả những nhà hàng xóm sẽ hợp sức với nhau để giúp xây dựng lại ngôi nhà. Ngược lại ở thành phố, do hàng xóm của gia đình có nhà bị cháy đều có những nghề nghiệp chuyên môn riêng( như thợ dệt, thợ may, thư ký...) họ không có khả năng cũng như thời gian để giúp hàng xóm xây lại ngôi nhà trong trường hợp xảy ra hoả hoạn. Thay vào đó, họ đóng phí bảo hiểm cho một công ty bảo hiểm để nhận được hai cam kết: cung cấp dịch vụ cứu hoả (như dập lửa, ngăn không cho lan sang nhà khác, và hạn chế mức thấp nhất do vụ cháy gây ra) và bồi thường bằng tiền mặt cho người được bảo hiểm để tạo điều kiện cho họ thuê mướn những thợ chuyên môn cần thiết (như thợ xây, thợ mộc...), sửa chữa lại hư hỏng (hoặc xây lại ngôi nhà trong trường hợp xảy ra hoả hoạn nghiêm trọng). Cùng với bảo hiểm hoả hoạn, các quỹ bảo hiểm nhân thọ cũng xuất hiện. Một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phải là một hợp đồng bồi thường. Mục đích của nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những trường hợp được nêu trong hợp đồng bảo hiểm. Không ai có thể biết chắc chắn tuổi thọ của một người sẽ là bao nhiêu. Chỉ một phần cư dân trên thế giớ qua đời mỗi năm. Vào giữa thế kỷ XVII, người ta đã thành lập các công ty, tổ chức tương hỗ để cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ cho công chúng. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phải lúc nào cũng dựa trên nguyên tắc bồi thường, bởi vì xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống con người là vô giá và rõ ràng không phải một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một ‘giá trị’ tương đương với việc mất đi sinh mạng. Chính vì lý do này mà các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đều dựa trên một số tiền cụ thể. Một người sau khi được bảo hiểm nhân thọ (hoặc người có lợi ích hợp pháp như vợ, chồng) phải nộp một phần thu nhập của mình cho một công ty bảo hiểm để sau này người thừa kế của họ sẽ nhận được một khoản tiền khi người được bảo hiểm qua đời. Hoặc khi hợp đồng bảo hiểm đến hạn sau một số năm đã định (với điều kiện người được bảo hiểm vẫn còn sống). Bảo hiểm nhân thọ là một hình thức tiết kiệm có lợi cho người được bảo hiểm, người phụ thuộc vào họ và các tổ chức kinh doanh của họ. Từ những loại bảo hiểm ban đầu như bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hảo hoạn và bảo hiểm nhân thọ giờ đây trên thế giới đã có thêm rất nhiều loại bảo hiểm khác nữa. Những công ty bảo hiểm xuất hiện đầu tiên trên thế giới đó là: Năm 1424, Công ty bảo hiểm đầu tiên của vận tải biển và đường bộ được thành lập ở GiênOa. Năm 1667, Công ty bảo hiểm hoả hoạn ra đời ở Anh. Năm 1762, Công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên tại Luân Đôn. 1.2. ở Việt nam. 1.2.1.Dưới thời phong kiến đến năm 1945. Các triều đại phong kiến tập quyền Việt Nam đều giành cho mình những quyền sở hữu tối cao về tư liệu sản xuất. Chính vì vậy bảo hiểm hoàn toàn mang tính chất xã hội và phục vụ cho mục đích thống trị của triều đình vua chúa phong kiến. Nó tồn tại dưới các hình thức phát chẩn, cứu tế mang tính bình quân. Bảo hiểm không tồn tại khái niệm “đóng góp” và “bồi thường” mà chỉ có khái niệm “Cho” và “Nhận”. Phạm vi hoạt động bảo hiểm diễn ra ở phạm vi cục bộ, tức là chỉ ở địa phương hay xảy ra thiên tai, địch hoạ. Tuy nhiên hầu hết các địa phương đều tồn tại quĩ dự phòng do các quan lại và các phú gia hảo tâm đóng góp. Thực chất của quỹ này chỉ là “Lấy của người giàu chia cho người nghèo”. Bảo hiểm chưa đủ khả năng duy trì đời sống và hoạt động bình thường. Dưới thời Pháp thuộc, do kinh tế chưa phát triển nên bảo hiểm cũng chưa thực sự đáng kể. Hầu hết hoạt động bảo hiểm chỉ dừng lại ở chế độ bảo hiểm xã hội cho công, viên chức bảo hiểm thương mại có ít nhưng hoàn toàn do người Pháp nắm giữ. 1.2.2. Từ năm 1945 đến năm 1994. Khi giành được độc lập năm 1945, nhà nước ta đã phát triển tài chính Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm với tư cách là một dịch vụ tài chính mới phát triển được 30 năm nay. Ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt nam (gọi tắt là (BAOVIET) ra đời theo Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng Chính phủ. Sự ra đời của BAOVIET đánh dấu một bước phát triển trong lịch sử của ngành tài chính Việt Nam. Tuy nhiên bảo hiểm Việt Nam lúc này cũng hoàn toàn mang tính bao cấp, không hề tồn tại khái niêm “Hạch toán kinh doanh” như ở các nước Tư bản chủ nghĩa. Ban đầu chỉ có 5 nghiệp vụ: bảo hiểm hàng Xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu và tái bảo hiểm. Sự có mặt của một công ty duy nhất với cơ chế độc quyền trong Kinh doanh bảo hiểm đã duy trì trong một thời gian dài. Cho đến tháng 12 năm 1993, việc ban hành Nghị định 100/CP về Kinh doanh Bảo hiểm của Chính phủ đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh Bảo hiểmở nước ta. Độc quyền về cơ bản đã chấm dứt với sự ra đời của hàng loạt các Doanh nghiệp bảo hiểm, đó là: - Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh ( Bảo Minh). - Công ty bảo hiểm Nhà Rồng ( Bảo Long). - Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex ( PJICO). - Công ty bảo hiểm Dầu khí Việt nam ( PVIC). - Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm – Inchcape ( INCHIBROK). - Công ty liên doanh bảo hiểm - Việt nam Internationnal asurance Company ( VIA). - Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện ( FTI). - Công ty liên doanh bảo hiểm – United Inurace của Việt Nam (UIC). Nhiều tổ chức bảo hiểm nước ngoài đã thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam. Mạng lưới bảo hiểm, cộng tác viên đã hình thành rộng khắp cả nước. Nhiều nghiệp vụ mới của bảo hiểm đã được triển khai như là bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm nhân thọ... Hệ thống văn bản pháp lý về bảo hiểm đang được chú ý và hoàn thiện. Mọi nỗ lực đã mang lại sự tăng trưởng không ngừng của thị trường bảo hiểm. Sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam là một xu thế tất yếu trong điều kiện kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Sự phong phú về các nguồn hành hoá, dịch vụ, tốc độ tăng trưởng cao về kinh tế, mức thu nhập dồi dào của nhiều tầng lớp dân cư. Tính phức tạp, đa dạng của các loại hình rủi ro là yếu tố khách quan tác động đến việc hình thành và tăng nhanh các nhu cầu về bảo hiểm trong xã hội. Gắn liền với các loại thị trường khác, đặc biệt là thị trường tài chính (mà trước hết là thị trường vốn), thị trường bảo hiểm hình thành như một mắt xích không thể thiếu trong cơ chế thị trường. Thị trường bảo hiểm là nơi diễn ra các giao dịch mua bán các loại sản phẩm bảo hiểm, nơi người bảo hiểm và khách hàng tác động qua lại để xác định giá cả cũng như số lượng sản phẩm bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm tất yếu chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế thị trường. Môi trường cạnh tranh đã tạo lên một thị trường linh hoạt có khả năng đáp ứng được sự đa dạng của nhu cầu bảo hiểm, thúc đẩy sự tăng nhanh khối lượng chủng loại và chất lượng sẩn phẩm bảo hiểm. Mặt khác, cơ chế cạnh tranh cũng làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề phức tạp. Thị trường nếu không được tổ chức, quản lý, giám sát đúng đắn có thể dẫn tới tình trạng hỗn loạn, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế – xã hội. Vậy nên các tổ chức kinh doanh bảo hiểm cần có chiến lược phát triển, phải tổ chức quản lý như thế nào? Nhà nước cần thực hiện vai trò quản lý đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm ra sao? Thị trường bảo hiểm mở cửa một quốc gia cần những gì để đứng vững trong cạnh tranh trên trường Quốc tế? Những vấn đề này sẽ được giải trình ở phần tiếp theo. 2. Khái niệm, vai trò, đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. 2.1. Khái niệm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện thuộc trách nhiệm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm cả hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm và hoạt động trung gian bảo hiểm. 2.2. Vai trò của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên Thế giới, bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh thu hút sự tham gia đông đảo của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa cả về mặt xã hội. Những lợi ích kinh tế và công dụng xã hội của hoạt động kinh doanh bảo hiểm thể hiện trên các mặt chủ yêu sau: 2.2.1. Bảo hiểm góp phần bảo vệ tài sản, ổn định cuộc sống con người mang lại sự an toàn trong xã hội. Hoạt động bảo hiểm trước hết là nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro. Hậu quả của rủi ro có nhiều dạng và nói chung đều liện quan đến khía cạnh tài chính – phát sinh các khoản chi phí, chi tiêu bất thường mà thông thường người mua bảo hiểm phải tự gánh chịu. Sự có mặt của các tổ chức bảo hiểm là để cung cấp dịch vụ đặc biệt cho khách hàng đáp ứng nhu cầu đảm bảo về mặt vật chất, tài chính trước rủi ro đối với họ. Thực tế việc bồi thường, trả tiền bảo hiểm của bên bảo hiểm đã giúp các tổ chức bảo toàn vốn liếng tài sản, các cá nhân, các gia đình khắc phục khói khăn không rơi vào tình trạng kiệt quệ về vật chất và tinh thần. Hơn nữa, nghề bảo hiểm còn đòi hỏi các tổ chức bảo hiểm có trách nhiệm nghiên cứu rủi ro , thống kê những tai nạn, những tổn thất, xác định nguyên nhân và đề ra các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và giảm thiểu các rủi ro. Thực tế khi xây dựng các quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm cũng như trong quá trình triển khai nghiệp vụ( kể từ khi đánh giá rủi ro, kí kết hợp đồng, quản lý hợp đồng cho đến lúc giám định tổn thất, giải quyết bồi thường), các tổ chức bảo hiểm luôn chú ý đến việc tăng cường áp dụng các biện pháp phòng tránh cần thiết để bảo vệ đối tượng bảo hiểm, góp phần đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức khoẻ con người, của cải vật chất của xã hội và đặc biệt là để giảm chi phí do phải bồi thường bảo hiểm cho khách hàng. 2.2.2. Bảo hiểm thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tập chung vốn, góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn trong xã hội. Sự tồn tại của thị trường bảo hiểm với nhiều loại hình bảo hiểm (đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ) đã tạo một hình thức tiết kiệm linh hoạt, tác động đến tư duy của mỗi cá nhân, chủ hộ gia đình, chủ doanh nghiệp. Họ phải suy nghĩ tính toán và dần dà sẽ có một ý thức, thói quen về việc giành ra một khoản thu nhập để có một tương lai an toàn hơn cho chính mình. Tiết kiệm của những người tham gia bảo hiểm liên quan chặt chẽ đến việc tập chung vốn của các tổ chức bảo hiểm. Với những đặc điểm về phạm vi hoạt động, sự phong phú trong các loại hình nghiệp vụ, khả năng tập chung vốn của các tổ chức bảo hiểm rất dồi dào. Qua hoạt động bảo hiểm mà một lượng tiền lớn nằm phân tán, dải dác trong dân cư đã được tập chung về một tụ điểm tài chính, đặc biệt đó là hình thành quỹ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Với đặc điểm trong kinh doanh bảo hiểm “ Phí nộp trước, việc bồi thường, trả tiền bảo hiểm chỉ được thực hiện sau đó một thời gian”, cho nên lượng vốn mà các tổ chức bảo hiểm đã gom góp được phần lớn là có thời gian tạm thời nhàn rỗi. Vì thế, mọi tổ chức bảo hiểm phải tính toán, đầu tư linh hoạt số vốn đó để sinh lời đóng góp phần giá trị thặng dư cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Dù rằng những tổ chức bảo hiểm được sinh ra không phải nhằm mục đích kinh doanh tiền tệ, nhưng trong nền kinh tế thị trường tổ chức bảo hiểm chỉ có thể “ Kinh doanh rủi ro” trên cơ sở thực hiện song song công việc đầu tư tài chính. Thức tế ở nhiều quốc gia phát triển, các tổ chức bảo hiểm hoạt động rất mạnh trên thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán đặc biệt là thị trường vốn. Như một loại hình trung gian tài chính, các tổ chức bảo hiểm thu hút vốn, cung ứng vốn, góp phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự tăng nhanh sự luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Bên cạnh những vấn đề đã nêu ở trên, vai trò của bảo hiểm còn thể hiện ở nhiều mặt khác như : Tác động đến sự phát triển các ngành kinh tế, khu vực kinh tế đặc biệt( lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, khu vực kinh tế đối ngoại); góp phần vào sự đảm bảo xã hội, tăng thu nhập ngân sách Nhà nước, tăng tích luỹ tiền tệ cho nền kinh tế quốc dân. 2.3. Đặc trưng củA ngành hoạt động Kinh doanh bảo hiểm. Đặc trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm với các rủi ro được bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm: Chỉ là sự cố dự tính, nếu xảy ra gây thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến đối tượng bảo hiểm sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm. Những rủi ro được bảo hiểm thường được nêu trong phạm vi bảo hiểm của qui tắc bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm: Là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo đó thoả thuận nếu những rủi ro đó xảy ra người bảo hiểm sẽ chiụ trách nhiệm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp thực hiện với tư cách là người bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm lập quỹ bảo hiểm trên cơ sở đóng góp phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm: Là người có thân thể, tài sản trách nhiệm dân sự cần được bảo hiểm hoặc là người có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Người tham gia bảo hiểm có thể là pháp nhân hoặc là thế nhân, họ tham gia bảo hiểm vì lợi ích của bản thân hoặc vì lợi ích của người khác. Để được hưởng quyền lợi bảo hiểm người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm theo mức thoả thuận cho bên bảo hiểm. Phí bảo hiểm: Là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ nộp cho doanh nghiệp bảo hiểm theo sự thoả thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm( nếu đồng thời là người được bảo hiểm) sẽ được đền bù khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm: Là sự kiện khách quan, do các bên dự liệu trong hoạt động bảo hiểm hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra trên thực tế thì bên bảo hiểm “Doanh nghiệp bảo hiểm” phải trả tiền bảo hiểm cho người có quyền hưởng quyền lợi bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm có thể là các rủi ro và cũng có thể là sự kiện khác do các bên thoả thuận Quỹ bảo hiểm: Được doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để bồi thường, bù đắp cho những trường hợp thuộc diện được bảo hiểm. Chính nhờ phương thức thu phí bảo hiểm của số đông và chỉ chi trả khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra trên thực tế mà tạo ra thu nhập (lợi tức) cho doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm thuộc loại hình kinh doanh dịch vụ. Người bảo hiểm không bán một sản phẩm hữu hình mà sản phẩm của công ty bảo hiểm được quan niệm là một sản phẩm “ vô hình” Người sở hữu đơn bảo hiểm được cấp một văn bản, đơn bảo hiểm làm bằng chứng cho việc xác lập một hợp đồng giữa người tham gia bảo hiểm và công ty bảo hiểm cam kết trong hợp đồng là cam kết thanh toán bằng tiền (hoặc hàng hoá trong một số trường hợp) theo giá trị tương đương với một tổn thất (trong bảo hiểm phi nhân thọ) hoặc một số tiền cụ thể nào đó (trong bảo hiểm nhân thọ). Trong quỹ dự trữ hoặc tài sản của công ty bảo hiểm khônng có một khoản dặc biệt nào mà chỉ được dùng để thực hiện trách nhiệm bảo hiểm cho một người được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm đã cấp. 3. Các hình thức hoạt động Kinh doanh bảo hiểm. 3.1. Kinh doanh bảo hiểm gốc. Đây là một loại hình kinh doanh truyền thống của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp ký hợp đồng bảo hiểm với khách hàng là các tổ chức, cá nhân( không phải là một doanh nghiệp bảo hiểm) và cam kết trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. 3.2. Kinh doanh tái bảo hiểm. Kinh doanh Tái bảo hiểm là một loại hình kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp tái bảo hiểm chuyên nghiệp thực hiện đối với khách hàng là các doanh nghiệp bảo hiểm gốc trên cơ sở ký kết và thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Có hai hình thức tái bảo hiểm chính: - Tái bảo hiểm tạm thời. - Tái bảo hiểm cố định. Mọi hoạt động tái bảo hiểm là tạm thời. Điều này có nghĩa là mỗi rủi ro mà công ty bảo hiểm gốc mời chào cho công ty tái bảo hiểm thì công ty tái bảo hiểm đều có thể quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận. Điều này liên quan rất nhiều đến việc quản lý như chúng ta có thể hình dung và do vậy rất tốn kém. Hình thức tái bảo hiểm cố định ngày càng trở nên phổ biến. Một thoả thuận sẽ được lập giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty tái bảo hiểm cam kết rằng, tất cả những rủi ro đáp ứng một số tiêu chuẩn đã thoả thuận sẽ được chào (tái) cho công ty tái bảo hiểm. Có hai dạng tái bảo hiểm cố định. 3.2.1. Tái bảo hiểm cố định theo tỉ lệ. Theo phương pháp tái bảo hiểm này, công ty bảo hiểm gốc quyết định tỷ lệ rủi ro giữ lại là bao nhiêu và thảo thuận chuyển nhượng phần còn lại cho các công ty tái bảo hiểm theo một hợp đồng cố định. Có hai loại hợp đồng tái bảo hiểm theo tỷ lệ. a. Tái bảo hiểm cố định số thành: Theo hợp đồng tái bảo hiểm số thành, một tỷ lệ cố định của bất cứ tổn thất nào đã xác định trong hợp đồng được tái bảo hiểm. Ví dụ: Một công ty bảo hiểm gốc có thể đồng ý tái bảo hiểm 80%. Do vậy, nếu số tiền bảo hiểm cho một rủi ro là 1.000.000 VND thì công ty bảo hiểm gốc giữ lại 200.000 và tái bảo hiểm 800.000 VND. b. Hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi. Một cách thức khác để tái bảo hiểm tỷ lệ cố định của mọi tổn thất là công ty bảo hiểm gốc quyết định mỗi rủi ro công ty giữ lại là bao nhiêu. Số này được gọi là mức giữ lại và được tính toán trên tổn thất tài chính dự kiến. Đa số các trường hợp công ty bảo hiểm phải tính toán khả năng tổn thất tối đa có thể xảy ra và điều này sẽ được thực hiện bằng cách xem xét tất cả những nguy cơ có liên quan đến rủi ro. Công ty bảo hiểm gốc sau đó có thể thu xếp việc tái bảo hiểm theo các lớp. Mỗi một lớp tương đương với mức giữ lại của công ty bảo hiểm gốc. 3.2.2 Tái bảo hiểm cố định phi tỷ lệ. Các phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ liên quan dến các tỷ lệ của giá trị chịu rủi ro. Các phương pháp tái bảo hiểm phi tỷ lệ nhìn nhận theo cách khác và được dựa trên các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm. Công ty nhận tái bảo hiểm đồng ý thanh toán một số tiền vượt mức hay quá số tiền mà công ty bảo hiểm gốc đồng ý thanh toán hoặc giữ lại. Hợp đồng tái bảo hiểm phi tỷ lệ có hai loại. a. Vượt mức bồi thường. Theo phương pháp này, các bên thảo thuận là công ty nhượng tái bảo hiểm thanh toán số tiền cố định đầu tiên của các tổn thất phát sinh từ một sự cố và công ty nhận tái bảo hiểm thanh toán số tiền cố định vượt quá mức giữ lại. b. Vượt tỷ lệ bồi thường. Phương pháp tái bảo hiểm này thực hiện việc bảo vệ cho toàn bộ cho các rủi ro chứ không phải bảo vệ cho các tổn thất đơn lẻ. Khi tỷ lệ tổn thất cho một loại nghiệp vụ bảo hiểm vượt quá con số cụ thể thì công ty tái bảo hiểm đồng ý thanh toán. Tỷ lệ tổn thất là tỷ lệ khiếu nại theo phần trăm của phí bảo hiểm. Do vậy phí bảo hiểm là 100.000VND một khiếu nại thanh toán là 50.000VND. tỷ lệ tổn thất là 50%. Khi tỷ lệ này vượt quá một con số nhất định, công ty tái bảo hiểm sẽ không sẵn sàng bồi thường toàn bộ tổn thất vượt quá tỷ lệ đã được thoả thuận vì điều này sẽ không khuyến khích công ty bảo hiểm gốc thận trọng trong việc đánh giá rủi ro giải quyết khiếu nại của họ. 3.3. Kinh doanh môi giới bảo hiểm. Hoạt động môi giới bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, tư vấn cho bên mua bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các công việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm. Người môi giới bảo hiểm có thể là một cá nhân hoặc một công ty bảo hiểm mà toàn bộ thời gian làm việc của họ là thu xếp để khách mua bảo hiểm ký kết hợp đồng với các công ty bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể nhận được sự tư vấn độc lập từ một người môi giới về một loạt vấn đề bảo hiểm mà không phải trả phí trực tiếp cho người môi giới. Ví dụ: Một người môi giới bảo hiểm sẽ tư vấn về các nhu cầu bảo hiểm, các hoạt động bảo hiểm tốt nhất và những hạn chế chúng, về thị trường bảo hiểm tốt nhất, các thủ tục khiếu nại, nghĩa vụ của người được bảo hiểm theo các điều kiện của đơn bảo hiểm và người môi giới sẽ cập nhật các thông tin theo thời gian bao gồm cả những thay đổi của thị trường. Theo quan điểm của các công ty bảo hiểm, những cuộc đàm phán với người môi giới thường dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn so với việc tiếp xúc trực tiếp với người mua bảo hiểm. ở Việt Nam hiên nay mới có một công ty liên doanh môi giới bảo hiểm, đó là công ty Aon – Inchinbrok thành lập năm 1993( vốn điều lệ 250.000 USD). Đây là công ty liên doanh giữa một bên là Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) và bên nước ngoài là tập đoàn Môi giới bảo hiểm Aon của Mĩ. II. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp đối với hoạt động Kinh doanh bảo hiểm. 1.Những ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm đối với nhà nước, nền kinh tế – xã hội. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, bảo hiểm được coi là giải pháp bồi thường vật chất cho những thiệt hại rủi ro cho con người, đồng thời là phương pháp tích tụ vốn để phân phối lại cho các nhu cầu đầu tư vào nền kinh tế đang cần vốn. ở các nước phát triển, ngành kinh doanh bảo hiểm đóng góp từ 5% đến 10% GDP của các nước đó, đồnh thời là một cônh cụ điều hoà và phân phối vốn khá hiệu quả của nền kinh tế. Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng có bước phát triển vượt bậc. Mức tăng trưởng của ngành kinh doanh bảo hiểm đã đạt bình quân 40%/ năm trong những năm 1990 - 1995 và từ 1996 - 1999 đạt mức độ tăng trưởng 25%/ năm. Bảo hiểm là một hoạt động kinh tế quan trọng trên cơ sở xây dựng quỹ bảo hiểm để bồi thường và trả tiền bảo hiểm cho những tổn thất vì tai nạn, rủi ro về tài sản hoặc con người. Bảo hiểm có nhiều chức năng như đề phòng, hạn chế tổn thất, bồi thường thiệt hại, hỗ trợ cho sản xuất xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tập chung vốn để xây dựng kinh tế. Bảo hiểm là sản phẩm của sự phát triển kinh tế hàng hoá, đồng thời cũng là biện phát thúc đẩy và đảm bảo cho nền kinh tế hàng hoá phát triển. Tất cả những nước và khu vực có nền kinh tế phát triển đều coi trọng hoạt động kinh doanh bảo hiểm và coi hoạt động kinh doanh bảo hiểm như “ một cỗ máy ổn định xã hội tinh xảo”. Trong giai đoạn này, đi đôi với việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nhà nước cũng cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm để xây dựng quỹ dự trữ bồi thường tổn thất bất ngờ nhằm đảm bảo cho việc thực hiện kế hoạch xây dựng kinh tế đất nước và ổn định cuộc sống nhân dân. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một loại hình kinh doanh không thể thiếu trong một nền kinh tế đang phát triển và đang rất cần rất nhiều vốn cũng như cần có sự an toàn cao, rủi ro ít như nước ta. 1.1. Bảo hiểm có tác dụng đảm bảo sự an toàn và ổn định cho đời sống kinh tế – xã hội ở nước ta trong giai đoạn chuyển đổi. ở nước ta, hàng năm có một số vùng thường xuyên bị thiên tai đe doạ nhưng nhờ có bảo hiểm mà các Doanh nghiệp , các tổ chức kinh tế xã hội và dân cư đã được bồi thường kịp thời, tránh được tình trạng gián đoạn trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm việc xây dựng kinh tế nước nhà. Trong năm 1996 Tổng Công ty bảo hiểm Việt nam ( BAOVIET) đã giải quyết bồi thường hơn 400.00 vụ tổn thất trong đó có một số vụ tổn thất lớn đã được BAOVIET bồi thường như : Vụ việc. Số tiền bồi thường. - Vụ tổn thất về khống chế giếng dầu 9.000.000 USD. của hãng AEDC - Vụ tổn thất toàn bộ một máy bay lên 1.600.000 USD. .thẳng. - Vụ tổn thất hàng Xuất khẩu bột mỳ do 1.500.000 USD. chở trên tàu bị mất tích. - Vụ tổn thất cháy nhà máy giầy An Đỉnh 1.000.000 USD. Hải Phòng - Bồi thường về trách nhiệm dân sự chủ tàu 16,5 tỷ đồng VN. Trường Sa đối với hu hỏng đường ống dẫn khí. Nhằm mục đích chủ động và tích cực đề phòng và hạn chế tổn thất, BAOVIET đã cùng ngành giao thông vận tải tài trợ cho việc xây dựng một nhánh đường lánh nạn. Cho đến nay, đã có gần 20 nhánh đường lánh nạn được xây dựng với sự đóng góp tài trợ của BAOVIET với số vốn đầu tư tới hàng trăm triệu đồng. Nhờ những con đường lánh nạn đó mà hàng chục xe chở khách đã được cứu thoát khỏi tai nạn, nhiều sinh mạng đã được cứu thoát khởi lưỡi hái của tử thần. 1.2. Hoạt động Kinh doanh bảo hiểm là giải pháp đảm bảo sự an toàn cho các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp trở thành nhân tố chủ yếu thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự an toàn trong kinh doanh của các doanh nghiệp phải do chính doanh nghiệp phải lo liệu và Nhà nước không thể bao cấp cho những tổn thất và rủi ro xảy ra cho doanh nghiệp. Vì vậy, chỉ có thể tham gia bảo hiểm thì doanh nghiệp mới đảm bảo cho những hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình được thực hiện thuận lợi. 1.3. Bảo hiểm có lợi cho việc thực hiện bảo toàn vốn vay của Ngân hàng thương mại một cách thuận lợi, bảo toàn cho việc luân chuyển vốn vay. Trong thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta, một phần vốn cần dùng cho doanh nghiệp được cung cấp từ khoản tiền vay của ngân hàng. Nhưng khi doanh nghiệp bị tai nạn rủi ro, việc đó chẳng những ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả khoản tiền vay đã hết hạn mà còn yêu cầu ngân hàng tiếp tục cho vay, nhằm đáp ứng đầy đủ số vốn cần dùng ngay để doanh nghiệp khôi phục sản xuất. Nếu doanh nghiệp bị tai nạn rủi ro đã kịp t._.hời nhận được tiền bồi thường bảo hiểm, đã nhanh chóng khôi phục sản xuất và kinh doanh và cũng có thể hoàn trả vốn vay ngân hàng. 2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động Kinh doanh bảo hiểm. Hiện nay do hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống nên sự can thiệp của Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh này là cần thiết. Để đáp ứng yêu cầu khách quan của việc phát triển thị trường bảo hiểm, Nhà nước đã ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm (Luật này được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000 ). chương ii mô hình pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. I. những qui định pháp lý đối với chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường bảo hiểm. 1. Qui chế pháp lý của Doanh nghiệp bảo hiểm. 1.1.Khái niệm Doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân được thành lập theo những điều kiện và trình tự do luật định, chuyên hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích tạo ra thu nhập và lợi nhuận. 1.2. Các đặc điểm của Doanh nghiệp bảo hiểm. 1.2.1. Doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập theo những điều kiện và trình tự do luật định. Doanh nghiệp bảo hiểm gắn bó chặt chẽ với quốc kế dân sinh, được coi là một tổ chức kinh doanh ngành nghề đặc biệt, giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế và phải được thành lập theo đúng pháp luật. Điều 63 Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã được Quốc hội nươc Cộng Hoà XHCN Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/200 quy định “ Điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm; Các điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm: 1, Có số vốn điều lệ đã góp không được thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định của Chính phủ. Mức vốn pháp định của Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức môi giới bảo hiểm được quy định như sau: “Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, Công ty liên doanh bảo hiểm: 20 tỷ đồng Việt nam hoặc 2 triệu đô la Mĩ”(Khoản 1 Điều 22 Nghị định 100/CP, ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm) 2, Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều 64 Luật Kinh doanh Bảo hiểm. 3, Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật. 4, Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý chuyên môn nghiệp vụ về bảo hiểm. 1.2.2. Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động nhằm mục đích kinh doanh có lãi. Việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm thu được lợi ích kinh tế. Mục đích của người bỏ tiền vốn ra hoặc những người góp vốn cổ phần để thành lập doanh nghiệp bảo hiểm nhằm thông qua con đường hoạt động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp để thu lợi nhuận. Việc kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm cũng được tự chủ trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm những nghiệp vụ cần bảo hiểm nhằm nâng cao hiệu quả và thực hiện tăng thêm giá trị tài sản, dưới sự kiểm soát vĩ mô của Nhà nước, theo sự đòi hỏi của thị trường. Đây cũng là sự khác nhau cơ bản giữa hình thức doanh nghiệp bảo hiểm với các hình thức tổ chức khác về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế của nhà nước. 1.2.3. Nôi dung kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm là những nghiệp vụ bảo hiểm. Nghiệp vụ bảo hiểm là một loại hoạt động kinh doanh có tính chất giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức công ty sử dụng quỹ bảo hiểm được lập ra bằng cách thu phí bảo hiểm, để bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra thiên tai hoặc tai nạn bất ngờ. 1.2.4. Doanh nghiệp bảo hiểm là một pháp nhân có tính chất xã hội và có tính chất liên hiệp. Doanh nghiệp bảo hiểm tiếp nhận rủi ro trách nhiệm với khách hàng rất lớn vì vậy trên thế giới không có loại doanh nghiệp bảo hiểm tư nhân, cá nhân. Bởi vì nếu cá nhân đó gặp tai nạn rủi ro, thì không có người giải quyết tiếp các trách hiệm đã nhận, vì vậy ít nhất doanh nghiệp bảo hiểm phải là một pháp nhân liên hiệp một số cá nhân để luôn luôn có người gánh vác trách nhiệm của doanh nghiệp với khách hàng của họ. 1.2.5. Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân có tính cách riêng biệt. Doanh nghiệp bảo hiểm là tổ chức kinh tế có tài sản, bộ máy tổ chức riêng và tự chịu trách nhiệm về tài sản, có tư cáh là chủ thể dân sự độc lập, được hưởng quyền lợi dân sự và có nghĩa vụ dân sự riêng biệt theo pháp luật. Hình thức tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm quyết định điều kiện và trình tự thành lập, phương thức tập chung vốn và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp này. Nghị định 100/CP Kinh doanh bảo hiểm quy định: “ Doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm Doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tương hỗ, Công ty liên doanh bảo hiểm, chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nước ngoài, Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt đọng trên lãnh thổ Việt Nam”. 1.3. Thành lập và đăng ký kinh doanh đối với Doanh nghiệp bảo hiểm. 1.3.1. Thành lập Doanh nghiệp bảo hiểm. Việc thành lập doanh nghiệp bảo hiểm phải được thực hiện theo đúng điều kiện và trình tự do luật định và phải có đủ một số vốn nhất định. ở nước ta, Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy khi thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, trước hết phải xin phép Bộ Tài chính xét duyệt về việc này. Các điều kiện cần thiết để Bộ Tài chính xét duyệt cấp giấy Chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm( gọi tắt là giấy chứng nhận) đã được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua ngày 09/12/200 tại Điều 63. Còn Điều 64 quy định cụ thể về “ Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động” và Điều 60 quy định “ Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm”. Quản lý chặt chẽ doanh nghiệp bảo hiểm, không cho phép những doanh nghiệp chưa được phép đăng ký mà đã kinh doanh bảo hiểm là nguyên tắc chung trong Luật Kinh doanh bảo hiểm ở nhiều nước trên thế giới. Khi thành lập doanh nghiệp bảo hiểm phải có đủ số vốn theo luật định. Điều 22 Nghị định 100/CP quy định mức vốn pháp định của Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức môi giới bảo hiểm như sau: Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam , công ty liên doanh bảo hiểm: 20tỷ đồng Việt Nam hoặc 2 triệu đô la Mĩ. Chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nước ngoài, công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài: 5 triệu đô la Mĩ. Tổ chức môi giới bảo hiểm Việt nam, công ty liên doanh môi giới bảo hiểm: 1 tỷ đồng Việt nam hoặc 100 ngàn đô la Mĩ. Chi nhánh của tổ chức môi giới bảo hiểm nước ngoài, công ty môi giới bảo hiểm 100% vốn nước ngoài: 300 đô la Mĩ. Vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là vốn mà doanh nghiệp đã ghi vào điều lệ tổ chức hoạt động của doanh nghiệp đăng ký. Nguồn vốn này là cơ sở vật chất để doanh nghiệp kinh doanh, đồng thời cũng là sự bảo lãnh bằng tài sản của người chủ nợ và còn là hạn mức về trách nhiệm đóng góp của người góp cổ phần vào doanh nghiệp. Tính chất kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm đã quyết định số vốn của doanh nghiệp bảo hiểm phải cao hơn doanh nghiệp cùng loại, mới có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm tài chính đối với khách hàng. Hơn nữa, vốn của doanh nghiệp bảo hiểm còn khác với các doanh nghiệp ngành nghề khác ở chỗ vốn này phải là vốn thực nộp bằng tiền. Các cổ đông của các doanh nghiệp ngành nghề khác có thể góp vốn bằng tiền cũng có thể góp vốn bằng hiện vật, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu đất đai... Còn đối với những người góp vốn hoặc người góp cổ phần vào doanh nghiệp bảo hiểm, phần vốn góp thực nộp bằng tiền mặt trong đó phải đạt đủ mức vốn pháp định. 1.3.2. Đăng ký kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm. Về nguyên tắc, sau khi được cấp giấy phép thành lập, Doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định. 1.3. Cơ cấu tổ chức, quản trị và điều hành Doanh nghiệp bảo hiểm. 1.4.1. Cơ cấu tổ chức. Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên sự góp vốn của nhiều người cùng làm việc với nhau, vì vậy để hoạt động đạt được mục tiêu chung, cần phải phân cho mỗi người một vai trò nhất định. Tổ chức là sự liên kết những cá nhân, những quá trình, những hoạt động trong hệ thống nhằm thực hiện mục tiêu đề ra trên các nguyên tắc và quy tắc quản trị quy định. Cơ cấu tổ chức là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu thị việc sắp xếp các bộ phận được chuyên môn hoá với những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, có mối liên hệ mật thiết với nhau và được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm thực hiện các chức năng quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả và đối phó với mọi biến động của thị trường. Nguyên tắc hình thành cơ cấu tổ chức: cơ cấu tổ chức phải đi theo và đáp ứng nhu cầu của chiến lược kinh doanh, tính tối ưu, tính linh hoạt, tính tin cậy và tính kinh tế. Các nhân tố tác động đến cơ cấu tổ chức là chiến lược của doanh nghiệp bảo hiểm, nhiệm vụ của doanh nghiệp, công nghệ, môi trường kinh doanh và mối quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị quản lý và khả năng kiểm tra của người lãnh đạo. Để thiết kế cơ cấu tổ chức một cách hoàn chỉnh và có hiệu quả, thì phải xem xét kĩ lưỡng các điều kiện liên quan môi trường, chiến lược công nghệ... của doanh nghiệp. Vì vậy cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm không có tính cứng nhắc, mà có thể thay đổi tuỳ thuộc vào các điều kiện ảnh hưởng. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm được tổ chức theo: Văn phòng chính: có trách nhiệm xác định chính sách tổng thể và điều hành các hoạt động của doanh nghiệp. Các văn phòng chi nhánh: có trách nhiệm kinh doanh dịch vụ đối với khách hàng và thanh toán dàn xếp các khoản bồi thường. Do tính phân bố rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nên rất khó miêu tả mẫu chuẩn cơ cấu tổ chức. Nhưng nhìn chung, các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc: a. Văn phòng chính. Văn phòng chính thường đặt tại Thủ đô hoặc một trong các thành phố chính (còn gọi là tổng công ty). ban giám đốc TổNG GIáM ĐốC Nhân thọ Hàng hải Tai nạn và cháy Đầu tư Tổ chức Tổng hợp Kế toán Chi nhánh Cao nhất là Ban giám đốc, những người không nhất thiết phải được đào tạo chuyên môn bảo hiểm, nhưng phải là những người giỏi trong công nghiệp hoặc thương mại. Họ sử dụng kiến thức chuyên môn của mình để đưa ra các quyết định chung nhất có liên quan đến các vấn đề trong hoạt động của công ty và quyết định về đầu tư các quỹ theo quy định kinh doanh bảo hiểm. Trưởng ban điều hành công ty bảo hiểm thường gọi là Tổng giám đốc và có trách nhiệm đối với hoạt động của công ty. Thường có một vài Phó Tổng giám đốc giúp việc cho Tổng giám đốc. Trong một công ty bảo hiểm nói chung thường có Giám đốc(hoặc trưởng phòng) phụ trách bảo hiểm hoả hoạn, Giám đốc( trưởng phòng) phụ trách bảo hiểm tai nạn và bộ phận khai thác hàng hải chịu trách nhiệm trong phạm vi khai thác thuộc công việc của mỗi bộ phận khai thác và quản lý bồi thường. b. Văn phòng chi nhánh( còn gọi là công ty hay chi nhánh công ty) Tổ chức tại văn phòng chi nhánh thường khác với văn phòng chính: Đây là đơn vị trực tiếp giao dịch với bên ngoài thông qua các nhân viên và các đại diện. giám đốc chi nhánh Nhân viên đại lý và quản lý viên Nhân viên hành chính Nhân viên đầu tư Nhân sự Thanh tra viên ... Giám đốc văn phòng chi nhánh có trách nhiệm đối với hoạt động của công ty trong phạm vi địa lý mà chi nhánh kiểm soát. Giúp việc cho Giám đốc có thể là một vài Phó giám đốc. Công việc tại văn phòng chi nhánh được chia thành các phòng dưới sự kiểm soát của các giám sát( hoặc trưởng phòng). Mặt khác, do đặc trưng của ngành bảo hiểm nên các nhà bảo hiểm mở rất nhiều chi nhánh và các cấp bên dưới các chi nhánh, có thể gọi là văn phòng khu vực( hoặc văn phòng đại diện) dù cho việc phát triển các chi nhánh thỉnh thoảng bị chỉ trích là lãng phí. Như vậy một công ty bảo hiểm có thể khái quát mô hình cơ cấu tổ chức như sau: Văn phòng chính Văn phòng chi nhánh C Văn phòng chi nhánh B Văn phòng chi nhánh A ... Văn phòng khu vực B Văn phòng khu vực A ... ... Tuy nhiên, như ta đã biết, cơ cấu tổ chức của một công ty bảo hiểm phụ thuộc rất nhiều yếu tố và có thể thay đổi. Vì vậy, thông thường các công ty bảo hiểm thường có các cơ cấu tổ chức được phân chia theo 3 nhóm theo chức năng, theo sản phẩm và theo lãnh thổ. Công ty bảo hiểm có thể sử dụng một trong ba cách tổ chức này hoặc kết hợp các cách cho phù hợp với công ty mình. Cách thứ 1 : Tổ chức theo chức năng. Nếu một công ty được tổ chức theo chức năng, thì các phòng, ban chính của công ty sẽ được tổ chức theo công việc mà bộ phận đó tiến hành thực hiện. Tên phòng, ban nhìn chung được sử dụng để miêu tả một loạt công việc rõ rệt, một bước thiết yếu của một quả trình hoặc một khía cạnh nào đó của công việc quản lý, điều hành với một trình độ kỹ thuật đặc biệt mà nó đòi hỏi. Các chức năng chính của công ty bảo hiểm nhân thọ là marketing, thẩm định và phân loại rủi ro, dịch vụ khách hàng, giải quyết khiếu nại, đầu tư, kế toán, hệ thống thông tin, luật và nhân lực. Giám đốc điều hành sơ đồ tổ chức theo chức năng. Ban kế toán Hệ thống thông tin Phòng chuyên giá bảo hiểm Phòng cán bộ Định giá bảo hiểm Actuarial Giải quyết khiếu nại Dịch vụ khách hàng Đầu tư Thẩm định và đánh giá rủi ro Marketing tiếp thị Cách thứ 2 : Tổ chức theo sản phẩm. Nếu một công ty được tổ chức theo sản phẩm, thì công việc của nó được tổ chức theo loại hình bảo hiểm của công ty. Mỗi loại hình bảo hiểm được quản lý bởi một phòng của công ty. Kết quả là phòng bảo hiểm nhân thọ chịu trách nhiệm marketing, khai thác và các hoạt động dịch vụ của mình. Tuy nhiên, chức năng đầu tư và các chức năng khác do bộ phận quản lý trung tâm đảm nhiệm. Tổ chức theo sản phẩm có xu hướng dẫn tới việc phân cấp mạnh mẽ hơn, và các nhân viên được phép ra nhiều quyết định hơn, nhưng nhân viên này chính là những người có quan hệ trực tiếp và sâu sắc đối với một loại sản phẩm đặc biệt nào đó. sơ đồ tổ chức theo sản phẩm Giám đốc điều hành Hệ thống thông tin Ban kế toán Phòng chuyên môn định giá bảo hiểm Phòng nhân lực Bảo hiểm cá nhân Đầu tư Bảo hiểm theo nhóm Giải quyết khiếu nại Định giá bảo hiểm Thẩm định và đánh giá rủi ro Dịch vụ khách hàng Marketing tiếp thị Marketing Dịch vụ khách hàng Khai thác Định giá bảo hiểm Giải quyết khiếu nại Cách thứ 3: Tổ chức theo lãnh thổ. Nếu một công ty được tổ chức theo lãnh thổ, thì các bộ phận chủ yếu của nó được xác định theo khu vực địa lý, mà tại đó nó hoạt động. Một công ty kinh doanh tại Việt Nam, có thể có các bộ phận Bắc, bộ phân Nam, tức là hoạt động của nó là trong phạm vi các tỉnh của đất nước. Trong mỗi bộ phận hoạt động theo lãnh thổ, thì hoạt động của nó có thể chia nhỏ theo loại sản phẩm hoặc chức năng. Giám đốc điều hành của mỗi văn phòng khu vực sẽ báo cáo lên Tổng Giám đốc của công ty. Hoạt động của văn phòng khu vực bao gồm khai thác phát hành đơn bảo hiểm, thu phí bảo hiểm, giải quyết khiếu nại, dịch vụ cho khách hàng, giám sát và hỗ trợ cho các hoạt động marketing của vùng. sơ đồ tổ chức theo lãnh thổ. Giám đốc điều hành Trụ sở chính của Tập đoàn Các văn phòng khu vực Phòng kế toán Hệ thống thông tin Phòng nhân lực Định giá bảo hiểm Luật Định giá bảo hiểm Hệ thống thông tin Ban kế toán Phòng nhân lực Đầu tư Bảo hiểm theo nhóm Bảo hiểm cá nhân Giải quyết khiếu nại Định giá bảo hiểm Thẩm dịnh và định giá rủi ro Dịch vụ khách hàng Marketing Giải quyết khiếu nại Định giá bảo hiểm Thẩm định và định giá rủi ro Dịch vụ khách hàng Marketing tiếp thị 1.4.2. Quản trị và điều hành Doanh nghiệp bảo hiểm. Công việc điều hành doanh nghiệp bảo hiểm có thể chia thành hai mảng lớn đối nội và đối ngoại: Điều hành đối nội: là điều hành các hoạt động nội bộ doanh nghiệp bao gồm: Tổ chức cơ cấu bộ máy, quản trị các bộ mặt hoạt động nhân sự, quản lý tài sản, quản lý vốn và chi phí. Điều hành nội bộ tốt thì mới điều hành đối ngoại tốt, “ tề gia rồi mới trị quốc” được. Điều hành đối ngoại: Là điều hành các hoạt động thu hút khách hàng, đền bù tổn thất, tiến hành kinh doanh, phụ từ vốn nhàn rỗi, quan hệ với các đối tác và các cấp chính quyền. Các hoạt động đối ngoại là nguồn của doanh thu và lợi nhuận, cần được điều hành với chất lượng cao và cũng là kết quả của các hoạt động điều hành đối nội. 1.5. Hoạt động chủ yếu của Doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động bảo hiểm đã có từ rất lâu. Đến nay cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, các rủi ro đã có nhiều thay đổi về nguyên nhân, chủng loại, mức độ... và vì vậy hoạt động bảo hiểm, một hoạt động kinh doanh rủi ro cũng thay đổi cho phù hợp. Cùng với mức độ tổn thất của rủi ro ngày càng lớn, xuất hiện những rủi ro mới mà người tham gia bảo hiểm có những nhu cầu được bảo hiểm khác trước. Vì vậy, hoạt động bảo hiểm một hoạt động dịch vụ phải đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú của khách hàng với các dịch vụ khác nhau. Cho nên hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp bảo hiểm là kinh doanh các loại hình bảo hiểm. Các loại hình bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh là: 1.5.1. Các hình thức hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm. a. Bảo hiểm con người. Con người là thành phần cơ bản của đời sống xã hội. Chính vì vậy, con người là đối tượng của nhiều loại bảo hiểm và bảo đảm xã hội. Bảo hiểm con người là một loại bảo hiểm trong các chế độ kinh doanh bảo hiểm, có đối tượng bảo hiểm là sinh mạng, sức khẻo, khả năng hoạt động của con người, thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Bảo hiểm con người được phân làm hai loại là bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ: Bảo hiểm nhân thọ gồm có: - Bảo hiểm trọn đời; - Bảo hiểm sinh kỳ - Bảo hiểm tử kỳ; - Bảo hiểm trả tiền định kỳ; - Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.; Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm có: - Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người; - Bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm thiệt hại; - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường không; - Bảo hiểm hàng không; - Bảo hiểm xe cơ giới; - Bảo hiểm cháy nổ; - Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu; - Bảo hiểm trách nhiệm chung; - Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; - Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh; - Bảo hiểm nông nghiệp; - Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác do Chính phủ quy định. b. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Trong quá trình sinh sống, hoạt động của các cá nhân, các tổ chức ngoài sự xâm hại của rủi ro thiên tai còn có thể bị sự xâm hại từ phía các tổ tổ chức và cá nhân khác bởi hành vi trái pháp luật hay sự cố gây thiệt hại. Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước ta đều ghi nhận vốn và tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức được nhà nước bảo hộ. Do đó, các tổ chức và cá nhân gây thiệt hại cho người khác có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại – trách nhiệm dân sự. Khi người gây thiệt hại cho người khác thực hiện trách nhiệm bồi thường thì có thể ảnh hưởng đến đời sống hoặc hoạt động bình thường hoặc việc bồi thường vượt quá khả năng tài chính của họ. Bởi vậy, xã hội cần có biện pháp xử lý rủi ro cho người có trách nhiệm dân sự khi họ thực hiên hành vi bôì thường cho người bị thiệt hại. Đây chính là cơ sở của sự tồn tại chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Pháp luật Việt Nam quy định: Trách nhiệm dân sự là đối tượng của bảo hiểm gồm hai loại: Trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba và trách nhiệm dân sự trong hợp đồng phát sinh do rủi ro khách quan. Các chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu thuyền. - Bảo hiểm trách nhiệm quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Phạm vi bảo hiểm: - Khi quỹ tín dụng bị phá sản. - Khi quỹ tín dụng bị giải thể. - Khi quỹ tín dụng phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc bị phá sản hay mất khả năng thanh toán. - Khi quỹ tín dụng bị giải thể tự nguyện do quỹ đang đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản. - Khi quỹ tín dụng không thực hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì lệnh của toà án. c. Bảo hiểm tài sản. Bảo hiểm tài sản là loại bảo hiểm có đối tượng là tài sản. Tuy vậy, không phải tất cả các loại tài sản đều có thể là đối tượng được bên bảo hiểm nhận bảo hiểm. Bởi vì, trong đời sống xã hội, trong nền kinh tế có nhiều loại tài sản. Đó có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình. Tài sản hữu hình: Là tài sản có hình thái vật chất cụ thể, có thể xác định được giá trị theo các hình thức thông thường. Tài sản vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể được biểu hiện dưới hình thức như bản quyền, nhãn hiệu hàng hoá, các quyền lợi tài chính... Các hình thức bảo hiểm chủ yếu đối với tài sản: - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong lãnh thổ Việt Nam . - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. - Bảo hiểm thân máy bay. - Bảo hiểm tàu, thuyền. - Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. - Bảo hiểm công trình xây dựng. - Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. - Bảo hiểm trộm cướp. - Bảo hiểm vật nuôi. 1.5.2. Các nguyên tắc kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm. Loại doanh nghiệp thông thường cần phải có nhiều vốn tự có để kinh doanh. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm ngoài phải có đủ số vốn theo luật định ra, chủ yếu phải huy động vốn từ những người tham gia bảo hiểm( tức là thu phí bảo hiểm) để hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Số vốn huy động được của những người tham gia bảo hiểm phải được sử dụng để phục vụ cho người tham gia bảo hiểm. Đồng thời, xét về mặt kỹ thuật kinh doanh thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng khác với các doanh nghiệp thông thường khác. Các doanh nghiệp thông thường đều hạch toán giá thành sản phẩm dựa theo các khoản chi phí thực tế, căn cứ vào đó để xác định giá cả của sản phẩm. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, phí bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm có thể ví như giá cả của nghiệp vụ bảo hiểm và việc tính giá cả này phát sinh trước khi có giá thành. Điều đó nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải dự báo trước giá cả này trên cơ sở vận dụng quy luật số đông và dựa vào kinh nghiệm về những vụ tổn thất xảy ra trước đây. Tỉ lệ tổn thất trước đây chắc chắn sẽ xảy ra sau này, thậm chí có mức độ sai lệch rất lớn. Vì vậy, chỉ có thể xác định được khoản thu nhập của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng lại có rất nhiều khả năng không xác định được trách nhiệm bồi thường sẽ xảy ra sau này vì sự thay đổi về các yếu tố rủi ro. Do đó trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm phải căn cứ vào những đặc điểm đó để xác định nguyên tắc kinh doanh, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Có thể liệt kê những nguyên tắc chủ yếu sau: a. Nguyên tắc tích cực triển khai nghiệp vụ, bảo đảm số lượng rất nhiều người tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nhất định. Chỉ có kí được nhiều hợp đồng bảo hiểm mới thực hiện được quy luật số đông, sao cho tỷ lệ phát sinh rủi ro dự báo gần sát với tỷ lệ phát sinh rủi ro thực tế xảy ra, nhằm đảm bảo cho sự ổn định kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời, số lượng hợp đồng bảo hiểm ký được càng nhiều thì những chi phí bất biến của doanh nghiệp bảo hiểm cũng giảm đi một cách tương xứng, tỷ lệ phí bảo hiểm có thể hạ xuống một cách tương xứng, từ đó có thể thu được số đơn vị và người tham gia bảo hiểm càng nhiều hơn. b. Nguyên tăc chú ý lựa chọn rủi ro. Sự kiện đáng được doanh nghiệp bảo hiểm đảm nhận đóng góp đó là trách nhiệm bồi thường tổn thất của tai nạn rủi ro. Đối với những rủi ro muốn tham gia bảo hiểm, đâu phải doanh nghiệp bảo hiểm từ chối rủi ro nào và sẽ chấp nhận bảo hiểm tất cả những rủi ro đó, mà phải có sự lựa chọn thật nghiêm chỉnh. Về nguyên tắc, tai nạn rủi ro được chấp nhận bảo hiểm phải là sự kiện ngẫu nhiên. Nếu những rủi ro đã được chấp nhận bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản đều là những rủi ro tất nhiện phải xảy ra, thì doanh nghiệp bảo hiểm chắc chắn bị phá sản. Về phía người tham gia bảo hiểm, thông thường đều mong muốn rằng chỉ bỏ ra khoản phí bảo hiểm thấp nhất, để đánh đổi lấy khoản tiền bồi thường bảo hiểm nhiều nhất, nên cũng phải lựa chọn ngược chiều với phía doanh nghiệp bảo hiểm. c. Nguyên tắc phân tái rủi ro. Muốn giảm nhẹ bớt trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cần phải tìm cách chia sẻ các rủi ro mà mình đã nhận cho các nhà bảo hiểm khác, tránh tập trung rủi ro quá mức. Nếu không sẽ làm cho khả năng đảm nhận của mình bị vượt quá, dẫn đến tình trạng không thể nào thức hiện được trách nhiệm bồi thường, gây thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm. Vì vậy, Nhà nước đã hạn chế trách nhiệm tự gánh vác (tức là mức giữ lại) của từng doanh nghiệp bảo hiểm. Điều 6 Nghị định 100/CP quy định “ Doanh nghiệp bảo hiểm có thể tái bảo hiểm cho các Doanh nghiệp khác...”. d. Nguyên tắc tính phí bảo hiểm một cách hợp lý. Việc tính và thu phí bảo hiểm có hợp lý hay không, có khoa học hay không đó là một vấn đề rất quan trọng trong kinh doanh bảo hiểm . Để cho phí bảo hiểm thu được từ người tham gia bảo hiểm đảm bảo cho sự chi trả tương xứng với quyền lợi kinh tế của họ, cần phải thống kê và tính toán một cách khoa học tỷ lệ tổn thất vì thiệt hại đã xảy ra trước đây, đồng thời xây dựng tỷ lệ phí bảo hiểm trên cơ sở đó Cơ quan quản lý bảo hiểm nhà nước phải xét duyệt các điều khoản bảo hiểm cơ bản và tỷ lệ phí bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, đảm bảo sự đóng góp hợp lý về phí bảo hiểm. 1.5.3. Quản lý vốn. a.Doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo khả năng thanh toán, khả năng bồi thường cần thiết. Điều 10 Nghị định 100/CP quy định “ Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn đảm bảo; Vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định quy định tại Điều 22 Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ. Các yêu cầu về tài chính theo hướng dẫn cụ thể của Bộ tài chính để thực hiện các cam kết với ngươì được bảo hiểm”. b. Doanh nghiệp bảo hiểm phải có đủ quĩ dự trữ. Do đặc điểm của kinh doanh bảo hiểm, không thể coi chênh lệch giữa số thu được trong năm và số chi bồi thường của doanh nghiệp trong năm là số lãi của doanh nghiệp. Ngoài các khoản chi phí kinh doanh như chi bồi thường hay trả tiền bảo hiểm, hoa hồng khai thác, chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất, chi phí quản lý doanh nghiệp, doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập các quỹ dự trữ nghiệp vụ. Trước hết là đối với các trách nhiệm chưa hoàn thành trong năm của mình. Để giải quyết trả tiền bảo hiểm cho những tổn thất đã xảy ra trong năm nhưng chưa làm xong các thủ tục, thì việc bồi thường sẽ được thực hiện vào năm sau, Doanh nghiệp bảo hiểm phải lập “ quỹ dự phòng bồi thường” Đối với những hoạt động bảo hiểm chưa kết thúc hiệu lực vào cuối năm mà còn kéo dài hiệu lực sang một số tháng của năm sau hoặc nhiều năm sau( đối với bảo hiểm nhân thọ trên một năm) thì trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểmvới những hợp đồng bảo hiểm đó còn kéo dài sang năm sau( hoặc nhiều năm sau). Trong trường hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm còn có những trách nhiệm chưa hoàn thành. Để đảm bảo khả năng tài chính thực hiện những trách nhiệm đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập “ quỹ dự phòng” từ số phí bảo hiểm thu được trong năm. Ngoài ra theo thông kê có tính hệ thống, cứ 7 - 10 năm lại có những thiên tai có tính thảm hoạ, khi đó doanh nghiệp bảo hiểm lại phải chi trả bảo hiểm vượt quá mức trung bình, vì đó là những tổn thất lớn. Để chuẩn bị khả năng tồn tại cả trong những trường hợp đó các doanh nghiệp bảo hiểm phải lập “quỹ dự phòng bồi thường tổn thất lớn” (được gọi tắt là “dự phòng dao động lớn”). Việc lập các qũy dự trữ nghiệp vụ kiểu như các quỹ kể trên là một đặc thù quan trọng của doanh nghiệp bảo hiểm cũng được quy định trong các văn bản pháp luật về bảo hiểm. 1.6. Giải thể, phá sản, thanh lý Doanh nghiệp bảo hiểm. 1.6.1. Giải thể Doanh nghiệp bảo hiểm. Điều 82 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định việc giải thể Doanh nghiệp bảo hiểm. 1- Doanh nghiệp bảo hiểm giải thể trong các trường hợp sau đây: a, Tự nguyện xin giải thể nếu có khả năng thanh toán các khoản nợ. b, Khi hết thời hạn quy định trong giấy phếp thành lập và hoạt động mà không có quyết định gia hạn. c, Bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điểm a, b, đ và e Khoản 1 Điều 68 Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Khoản 1 Điều 68 Luật Kinh doanh Bảo hiểm quy định: “ Doanh nghiệp bảo hiểm có thể bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây: \ Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt đọng có thông tin cố ý làm sai sự thật. \ Sau 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phếp thành lập và hoạt động mà không bắt đầu hoạt động. \ Hoạt động sai mục đích hoặc không đúng với nội dung quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động. \ Không đảm bảo các yêu cầu về tài chính để thực hiện các cam kết với bên mua bảo hiểm” ”. d, Các trường hợp khác theo quy đinh của pháp luật. 2- Việc giải thể Doanh nghiệp bảo hiểm phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản. Thủ tục giải thể Doanh nghiệp quy định tại Điều 112 Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước Công hoà XHCN Việt Nam khoá X thông qua ngày 12/6/1999. Việc giải thể Doanh nghiệp thực hiện theo quy định sau đây: 1- Thông qua quyết định giải thể Doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Quyết định giải thể Doanh nghiệp phải có các nội dung chủ yếu sau đây: a, Tên, trụ sở doanh nghiệp. b, Lý do giải thể. c, Thời hạn, thủ tục thanh lý hợp đồng và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp, thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng không được quá 6 tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể. d, Phương án xử lý các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động. đ, Thành lập tổ thanh lý tài sản, quyền và nhiệm vụ của tổ thanh lý tài sản được quy định trong phụ lục kèm theo quyết định giải thể. e, Chữ ký của người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp. 2-Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ lợi ích liên quan, người lao động trong doanh nghiệp; quyết định này phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính của doanh nghiệp và đăng báo địa phương và báo hàng ngày trung ương trong 3 số liên tiếp. Quyết định giải thể phải được gửi cho các chủ nợ kèm theo thông báo về phương án giải quyết nợ. Thông báo phải có tê._. phổ biến áp dụng cho mọi loại hợp đồng bảo hiểm thương mại. Các điều khoản này gồm: \ Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng. \ Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, người được bảo hiểm và người hưởng quyền lợi bảo hiểm. \ Đối tượng bảo hiểm (phạm vi bảo hiểm). \ Phí bảo hiểm. \ Số tiền bảo hiểm. 1.3.2. Điều khoản thường lệ. Là những điều khoản thể hiện một số quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng đã được pháp luật quy định. Khi giao kết hợp đồng các bên có thể lựa chọn việc ghi hay không ghi các điều khoản này vào văn bản hợp đồng. Tuy không ghi các điều khoản thường lệ thì các bên vẫn phải tuân theo các quyền và nghĩa vụ đươc ghi nhận trong các văn bản pháp luật. 1.3.3. Điều khoản tuỳ nghi. Là những điều khoản ghi nhận sự thoả thuận của các bên về một số quyền và nghĩa vụ. Các điều khoản tuỳ nghi không ảnh hưởng tới giá trị pháp lý của toàn bộ hợp đồng bảo hiểm thương mại. Tuy vậy, các thoả thuận của các bên trong điều khoản tuỳ nghi không được trái với quy định của pháp luật. 1.4. Hình thức Hợp đồng bảo hiểm thương mại. Điều 574 của Bộ luật dân sự và các quy định của các văn bản pháp luật hiện hành về hợp đồng bảo hiểm thương mại thì hình thức của hợp đồng bảo hiểm thương mại là một văn bản hợp đồng. Đơn bảo hiểm hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm cấp khi thiết lập quan hệ hợp đồng. 1.4.1. Đơn bảo hiểm. Đơn bảo hiểm phải xác định rõ nội dung tương tự như một bản dự thảo hợp đồng, gồm các yếu tố chủ yếu như: Ngày, tháng, năm lập đơn; tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, người được bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm; những rủi ro được bảo hiểm; điều kiện bảo hiểm, số tiền bảo hiểm; phí bảo hiểm; ngày bắt đầu bảo hiểm và thời hạn bảo hiểm... Khi đơn bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận và bên tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm thì cam kết bảo hiểm phát sinh hiệu lực. 1.4.2. Giấy chứng nhận bảo hiểm. Là một loại chứng chỉ pháp lý do doanh nghiệp bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm, xác nhận hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, đơn bảo hiểm đã được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận. 1.5. Cách thức kí kết Hợp đồng bảo hiểm thương mại. Tuỳ vào từng loại hình bảo hiểm, bản chất pháp lý của từng loại quan hệ hợp đồng mà pháp luật quy định các cách thức ký kết hợp đồng bảo hiểm thương mại. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì có mấy cách thức ký kết chủ yếu sau: 1.5.1. Phương pháp ký trực tiếp. Là phương pháp mà theo đó các bên trực tiếp gặp nhau để thoả thuận về các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm thương mại và cùng ký vào văn bản hợp đồng. 1.5.2. Phương pháp ký gián tiếp. Là phương pháp mà theo đó người tham gia bảo hiểm gửi văn bản đề nghị giao kết hợp đồng và các hồ sơ liên quan đến việc ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm nhận được văn bản đề nghị của người tham gia bảo hiểm, phải có quyết định chấp thuận hay không chấp thuận đề nghị bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Nếu quá thời hạn trên mà doanh nghiệp bảo hiểm không có quyết định từ chối bảo hiểm thì coi như đề nghị bảo hiểm được chấp thuận. 1.5.3. Phương pháp ký theo thủ tục đơn giản. Là phương pháp mà theo quy định của pháp luật, Hợp đồng bảo hiểm sẽ đương nhiên phát sinh hiệu lực khi người được bảo hiểm thực hiện theo hành vi giao kết một hợp đồng khác có liên quan. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với các loại hình bảo hiểm mà nội dung hợp đồng bảo hiểm đã được pháp luật quy định. Ví dụ: Bảo hiểm khách du lịch.Đối với trường hợp vé vào cửa khu du lịch có thu phí bảo hiểm thì hành vi mua vé và kiểm soát để vào khu du lịch của khách du lịch được coi là hành vi giao kết hợp đồng bảo hiểm. 2. Giao dịch Hợp đồng Tái bảo hiểm. Hợp đồng tái bảo hiểm là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm khác hoặc với doanh nghiệp bảo hiểm chuyên doanh tái bảo hiểm (bên nhận tái bảo hiểm), theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chuyển một phần rủi ro mà họ chịu trách nhiệm cho bên nhận tái bảo hiểm tương ứng với số phí tái bảo hiểm, còn bên nhận tái bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm trong phạm vi trách nhiệm tương ứng với số phí tái bảo hiểm đã nhận khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. 3. Giao dịch hợp đồng đại lý bảo hiểm và hợp đồng môi giới bảo hiểm. 3.1. Hợp đồng đại lý bảo hiểm. Hợp đồng đại lý bảo hiểm là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với bên đại lý, theo đó bên đại lý theo sự uỷ quyền và nhân danh doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện một số công việc mà doanh nghiệp bảo hiểm giao, còn doanh nghiệp bảo hiểm trả một khoản tiền tương ứng với công việc giao cho bên đại lý. Việc làm đại lý bảo hiểm phải được xác lập bằng hợp đồng. Hợp đồng đại lý bảo hiểm phải có các nội dung chủ yếu sau: Tên, địa chỉ của bên đại lý bảo hiểm; Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm; Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm; Nội dung và phạm vi hoạt động đại lý bảo hiểm; hoa hồng đại lý bảo hiểm; Thời hạn hợp đồng; Nguyên tắc giải quyết tranh chấp. 3.2. Hợp đồng môi giới bảo hiểm. Hợp đồng môi giới bảo hiểm là sự thoả thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với bên môi giới (người đóng vai trò trung gian giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm), theo đó bên môi giới thực hiện một số công việc để nhằm thiết lập quan hệ bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, còn doanh nghiệp bảo hiểm trả một khoản tiền tương ứng với công việc mà bên môi giới thực hiện. Việc môi giới bảo hiểm phải được lập thành hợp đồng. Hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản với các nội dung chủ yếu sau đây: \ Tên địa chỉ của các bên. \ Nội dung cụ thể về việc môi giới. \ Mức thù lao. \ Thời hạn hiệu lực của hợp đồng môi giới. \ Trong hợp đồng môi giới phải ghi rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. III. Những qui định pháp lý về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng cũng như bất kỳ một loại hình kinh doanh khác nói chung, đều cần có sự điều chỉnh và quản lý của Nhà nước. Nhà nước thực hiện việc quản các hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh bảo hiểm nói riêng bằng pháp luật. Hiện nay, nhà nước ta đang phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường nên các quy định pháp luật cũng thay đổi theo cơ chế quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, trong đó kinh doanh bảo hiểm. Đó là sự thay đổi từ sự quản lý ở tầm vĩ mô bằng mệnh lệnh hành chính, bằng hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh sang sự quản lý ở tầm vĩ mô bằng kế hoạch định hướng. Trong cơ chế quản lý mới, các doanh nghiệp được trao quyền tự do kinh doanh, vốn là tiềm năng cơ bản và quan trọng nhất của một chủ thể kinh doanh. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, doanh nghiệp bảo hiểm dù tồn tại dưới bất cứ hình thức sở hữu nào cũng có quyền tự do kinh doanh. Đặc điểm này đã chi phối các quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Đó là phải đảm bảo được sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời vẫn duy trì quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm tạo điều kiện phát triển thị trường bảo hiểm nói riêng và các nền kinh tế Việt Nam nói chung. Thông thường, ở các nước cũng như ở Việt Nam các vi phạm về quản lý bảo hiểm, chủ yếu được áp dụng đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Trước hết, vì doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh trên cơ sở quỹ bảo hiểm do các bên tham gia bảo hiểm đóng góp, cho nên nhà nước cần tăng cường quản lý đối với doanh nghiệp bảo hiểm. 1. Cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm được quy định tại Điều 121 Luật Kinh doanh Bảo hiểm bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước sau đây: 1,Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Kinh doanh bảo hiểm. 2,Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. 3,Các Bộ, cơ quan ngang bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm theo quy định của Pháp luật. 4,Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại địa phương theo quy định của pháp luật. 2. Thẩm quyền quản lý nhà nước về Kinh doanh bảo hiểm. Các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm có những quyền và nghĩa vụ sau: - Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy định pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam. - Cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam. - ááp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm. - Tổ chức thông tin và dự báo tình hình thị trường bảo hiểm. - Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm. - Chấp thuận việc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động ở nước ngoài. - Quản lý hoạt động của văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt nam. - Tổ chức việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm. - Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Các quy định hiện hành về cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm cũng như thẩm quyền của các cơ quan quản lý này khá toàn diện và cụ thể. 3. Các hành vi vi phạm pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm và chế tài sự vi phạm. Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, vốn dĩ là hoạt động dễ xảy ra gian lận và vi phạm pháp luật nên việc chi tiết hoá các hành vi vi phạm pháp luật sẽ tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước có thể xử lý tốt và kịp thời các vi phạm xảy ra. 3.1. Các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. - Kinh doanh bảo hiểm không có giấy phép thành lập và hoạt động hoặc không đúng với nội dung giấy phép thành lập và hoạt động. - Vi phạm quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động, thanh tra, kiểm tra và giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Cạnh tranh bất hợp pháp. - ép buộc giao kết hợp đồng bảo hiểm. - Vi phạm quy định về bảo hiểm bắt buộc. - Vi phạm nghĩa vụ giữ bí mật về thông tin có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm do bên mua bảo hiểm cung cấp. - Cung cấp thông tin, số liệu, báo cáo sai sự thật. - Kinh doanh trong điều kiện không đảm bảo yêu cầu về tài chính, vi phạm quy định về vốn pháp định, dự trữ, ký quỹ, trích lập, quản lý và sử dụng dự phòng nghiệp vụ. - Vi phạm quy định về đầu tư vốn. - Các hành vi khác vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. - Khi đã xác định được hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì cần phải áp dụng các chế tài để xử lý những hành vi vi phạm đó. 3.2. Chế tài sự vi phạm. Theo luật định các hình thức chế tài áp dụng để xử lý vi phạm pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm bao gồm: - Người nào vi phạm quy định của pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. - Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt nam, quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm thì tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật và bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. chươngiii một số kiến nghị và kết luận. Như tên gọi của nó, Khoá luận này nghiên cứu Mô hình pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi. Qua những nội dung đã được đề cập ở trên ta có thể rút ra một số kết luận sau. Kinh doanh bảo hiểm ra đời trong nền kinh tế hàng hoá trên nhu cầu cơ sở được đảm bảo về mặt tài chính của các tổ chức cá nhân đối với những thiệt hại có thể có do rủi ro gây ra. Trong xã hội hiện đại, bảo hiểm không chỉ góp phần xử lý ngăn chặn rủi ro mà còn là một trung gian tài chính, một công cụ phát triển kinh tế quan trọng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, trước những yêu cầu của việc mở rộng thị trường kinh doanh bảo hiểm cũng như trước những yêu cầu tự hoàn thiện của hện thồng pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nên Quốc hội nước ta đã ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã được ra đời để kịp thời điều chỉnh ngành hoạt động kinh doanh này. Mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay phần nào đã được hoàn thiện khi đã có hẳn một văn bản Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh doanh Bảo hiểm ra đời thay thế cho Nghị định 100/CP trước kia và bổ xung thêm những phần còn thiếu sót mà những văn bản luật trước chưa đáp ứng được. Nên Luật Kinh doanh Bảo hiểm ra đời rất đúng lúc để điều chỉnh cho ngành luật kinh doanh còn mới này ở nước ta. Mặc dù Luật Kinh doanh Bảo hiểm mới ra đời những vẫn còn những điều bất cập cho nên em mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện hơn mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Các quan hệ phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm không chỉ chịu sự tác động của các quy phạm Luật Kinh doanh Bảo hiểm mà còn chịu sự tác động của các văn bản pháp luật khác. Nếu các văn bản trên có những quy định gây cản trở lẫn nhau trong việc thực hiện thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hiệu qủa của văn bản Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Hiện nay, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhà nước ta thực hiên nguyên tắc “Một cửa một dấu” với thủ tục thành lập của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này thể hiện ở qui định Giấy phép đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có giá trị là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Điều 60 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Ngoài ra, trong quá trình xét duyệt dự án đầu tư, bên nước ngoài chỉ tiến hành các thủ tục đối với một cơ quan cấp giấy phép đầu tư là Bộ Kế hoạch và Đầu tư hay UBND cấp tỉnh (Điều 59 Luật Đầu tư nước ngoài). Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên điều kiện tiên quyết cho việc thành lập mọi doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài là Giấy chứng nhận do Bộ Tài Chính cấp. Như vậy quy định trên đã phá vỡ nguyên tác “Một cửa, một dấu” đối với việc thành lập doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, để đảm bảo được tính thống nhất trong hệ thống pháp luật nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cần phải có những quy định để khắc phục tình trạng trên. Đầu năm 1999, Luật thuế giá trị gia tăng( VAT) đã có hiệu lực thi hành. Theo Điều 4 của Luật thuế giá trị gia tăng, các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm cây trồng vật nuôi và các loại hình bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh không thuộc diện chịu thuế VAT. Những dịch vụ bảo hiểm này sẽ không được khấu trừ và hoàn thuế VAT đầu vào. Như vậy đối với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm việc xác định và hạch toán riêng các khoản thu từ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh , bảo hiểm cây trồng vật nuôi và các loại bảo hiểm không nhằm mục kinh doanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng thuế VAT với doanh nghiệp bảo hiểm cũng như việc kiểm tra các chế độ tài chính, hạch toán, báo cáo của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Vì các lý do nêu trên, cần phải có những quy định cụ thể về việc hạch toán, kê khai thuế với các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm bảo đảm sự đồng bộ giữa Luật Kinh doanh Bảo hiểm với các Luật thuế khác. Theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng, đối tượng không thuộc diện chịu thuế VAT phải là những hàng hoá và dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh, và đối tượng nộp thuế VAT là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh. Đồng thời, Luật thuế giá trị gia tăng cũng xếp các loại bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh vào đối tượng không thuộc diện chịu thuế. Quy định như trên đã tạo ra sự mâu thuẫn không đáng có. Các loại bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh (theo nghĩa thông thường) thực chất không phải là hàng hoá và dịch vụ. Vì vậy các loại bảo hiểm này không thuộc diện điều chỉnh của Luật Thuế giá trị gia tăng và không cần quy định trong luật thuế này. Ngược lại nếu có một loại hình “Bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh” là hàng hoá dịch vụ thì sẽ dẫn đến một kết luận vô lý là những có sở sản xuất, kinh doanh những dịch vụ “Bảo hiểm không nhằm mục đích kinh doanh”. Do đó cần phải có những quy định cụ thể hoá các loại bảo hiểm không thuộc diện chịu thuế VAT để khắc phục khiếm khuyết trên. Trong Luật thuế giá trị gia tăng, dịch vụ môi giới bảo hiểm xếp vào nhóm có thuế xuất cao (20%). Đây là quy định làm hạn chế hoạt động của các công ty môi giới bảo hiểm từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, các tố chức, các cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài thường thông qua các công ty môi giới bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm tại Việt Nam. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty môi giới bảo hiểm thì cần phải có những quy định về thuế xuất hợp lý với dịch vụ môi giới bảo hiểm. Trên thực tiễn cho thấy Luật Kinh doanh Bảo hiểm có thể phát huy hiệu lực thì phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện vật chất phục vụ cho việc thực thi văn bản Luật Kinh doanh Bảo hiểm mới ban hành. Nhiệm vụ trước mắt hiên nay là phải củng cố và tăng cường cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm., đảm bảo có đủ cán bộ với trình độ chuyên môn đủ khả năng chỉ đạo và giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường. Trong tương lại có thể chuyển cơ quan quản lý trực tiếp hoạt kinh doanh bảo hiểm từ cấp phòng quản lý bảo hiểm thuộc Vụ Tài chính ngân hàng và các tổ chức tài chính lên cấp Vụ quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu phát triển phong phú và đa dạng của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới. Ngoài ra, để các doanh nghiệp bảo hiểm không bỡ ngỡ trước các quy định của Luật Kinh doanh Bảo hiểm thì nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp thông tin tuyên truyền về nội dung của văn bản luật. Đồng thời tiềp thu những kiến nghị từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm để có được những quy định phù hợp với thực tế. Trên đây là một số kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cho Luật Kinh doanh Bảo hiểm phát huy được vai trò của mình trong đời sống xã hội. Mặc dù đã được sự hướng dẫn chu đáo của thầy giáo nhưng với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian nghiên cứu thực tế chưa dài nên một số kiến nghị còn chưa phù hợp và chưa có tính khả thi. Em rất mong được sự đóng góp và hướng dẫn thêm của các thầy cô và các bạn để được hoàn thiện hơn các giải pháp và kiến nghị của Khoá luận này. lời cám ơn Khoá luận được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Nguyễn Tuyến. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người thầy đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết của mình. Nhân đây em cũng tỏ lòng biết ơn đến Ban giám hiệu, phòng Đào tạo trường Đại Học DL Đông Đô, ngành Tư vấn pháp luật cùng gia đình và bạn bè đã, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và thực hiện khoá luận tốt nghiệp của mình. mở đầu “ Người nông dân ngày xưa gắn bó với trang trại nếu nó bị cháy ông ta sẽ khốn khổ; con người ngày nay gắn bó với chiếc xe hơi và nếu người ta phá huỷ nó, anh ta buồn. Anh ta chỉ buồn vì đã có Bảo hiểm... Anh ta sẽ khốn khổ, nếu không có bảo hiểm!” Cựu Tổng thống Pháp Geoger Pompidou đã phát biểu như vậy, khi nói đến vai trò của bảo hiểm trong xã hội hiện đại. Với những đặc thù riêng vốn có của mình, Bảo hiểm không chỉ là công cụ phát triển kinh tế mà còn mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. ở Việt nam, việc phát triển hoạt động kinh doanh Bảo hiểm đã tạo ra sự phát triển toàn diện của thị trường tài chính, và góp phần thực hiện chủ trương xây dựng nề kinh tế theo định hướng “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Mặc dù hoạt động kinh doanh Bảo hiểm đã xuất hiện, tồn tại và phát triển rất lâu ở trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam thì loại hình kinh doanh này mới được biết đến và phát triển rất lớn mạnh trong những năm gần đây. Hoạt động kinh doanh Bảo hiểm ở nước ta hiện nay đang có bước chuyển biến đáng kể và đã thực sự đi vào hoạt động theo cơ chế thị trường. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại hình Doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và những hoạt động kinh doanh này đã góp một phần đáng kể vào nguồn thu nhập của Nhà nước. Chính nhờ những bước phát triển đó nên để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh Bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển kinh tế- xã hội, ổ định đời sống nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên Quốc hội nước Cộng Hoà XHCN Việt nam khoá X, kì họp thư 8 đã soạn thảo và ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã được thông qua ngày 9/12/2000 và có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2001. Khi em viết luận văn này thì Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã được đưa vào áp dụng. Đây là một văn bản luật hoàn chỉnh về kinh doanh bảo hiểm nhưng với lòng ham mê nghiên cứu em đã chọn đề tài cho luận văn của em có tên là “ Mô hình pháp luật về Kinh doanh Bảo hiểm ở Việt nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường” với mong muốn hiểu biết thêm về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm ở nước ta hiện nay. Khoá luận gồm có 64 trang được chia làm 3 chương: Chương I : nói về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Từ đó giúp cho người đọc hiểu được khái niệm, các đặc trưng và vai trò, hình thức hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam. Những ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với Nhà nước và nền kinh tế xã hội từ đó thấy được sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nội dung chính của luận văn được trình bày ở chương II. Chương II trình bày về, Mô hình pháp luật về Kinh doanh Bảo hiểm ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Phần I chương II đề cập đến Những qui định pháp lý đối với chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường bảo hiểm. Chủ thể tham gia vào giao dịch Kinh doanh Bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo hiểm, nên các doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo những qui chế pháp lý do pháp luật qui định như về thành lập, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động... của doanh nghiệp bảo hiểm. Phần II chương II trình bày về những qui định pháp lý đối với giao dịch trên thị trường bảo hiểm. Mỗi loại hoạt động kinh doanh đều có các loại hình giao dịch và được pháp luật qui định. Vì vậy trong phần này em nêu ra các loại hình giao dịch chủ yếu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đang được áp dụng ở Việt nam. Phần III chương II, nói đến qui định pháp lý về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong phần này nêu rõ ,Cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước về bảo hiểm và thẩm quyền quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Kinh doanh bảo hiểm. Các hành vi vi phạm pháp luật và các chế tài sự vi phạm pháp luật về bảo hiểm. Chương III: là phần cuối cùng của Khoá luận. Qua việc nghiên cứu và phân tích ở trên em đã rút ra kết luận và mạnh dạn đưa ra một số kết luận của mình để hoàn thiện hơn Mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm ở nước ta hiện nay. Mặc dù đã cố gắng song còn hạn chế về trình độ lý luận cũng như thực tiễn nên Khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong có sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để khoá luận được tốt hơn. Mục lục. Chương I: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm............................................3 I. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường ....................3 1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên Thế giới và ở Việt Nam..............................................................................................3 1.1.Trên thế giới..............................................................................................3 1.2.ở Việt Nam...............................................................................................6 2. Khái niệm, vai trò và đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.............9 2.1.Khái niệm.................................................................................................9 2.1.Vai trò.......................................................................................................9 2.3.Các đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm................................11 3. Các hình thức hoạt động kinh doanh bảo hiểm.............................................12 3.1.Kinh doanh bảo hiểm gốc.......................................................................12 3.2. Kinh doanh tái bảo hiểm........................................................................13 3.3.Kinh doanh môi giới bảo hiểm...............................................................14 II. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm..................................................................................................................15 1. Những ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với Nhà nước, nền kinh tế- xã hội .................................................................................................15 2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm..................................................................................................................18 Chương II: Mô hình pháp luật về kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay ..............................................................19 I. Những quy định pháp lý đối với chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường bảo hiểm..................................................................................................................19 1.Quy chế pháp lý của Doanh nghiệp bảo hiểm...............................................19 1.1.Khái niệm Doanh nghiệp bảo hiểm........................................................19 1.2.Các đặc điểm của Doanh nghiệp bảo hiểm.............................................19 1.3.Thành lập và đăng ký kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm.............21 1.4.Cơ cấu tổ chức, quản trị và điều hành Doanh nghiệp bảo hiểm..............22 1.5.Hoạt động chủ yếu của Doanh nghiệp bảo hiểm....................................29 1.6.Giả thể, phá sản, thanh lý Doanh nghiệp bảo hiểm................................35 1.7.Các loại hình Doanh nghiệp bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.........................................................................................................................43 2. Quy chế pháp lý của đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm........................45 2.1.Đại lý bảo hiểm......................................................................................45 2.2.Môi giới bảo hiểm..................................................................................48 II. Những quy định pháp lý đối với các giao dịch trên thị trường bảo hiểm.........................................................................................................................49 1.Giao dịch hợp đồng bảo hiểm gốc.................................................................49 2.Giao dịch hợp đồng tái bảo hiểm...................................................................56 3.Giao dịch hợp đồng đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm...........................56 3.1.Giao dịch hợp đồng đại lý bảo hiểm.......................................................56 3.2.Giao dịch hợp đồng mội giới bảo hiểm..................................................57 III. Những quy định pháp lý về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm......................................................................................................57 1.Cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước về bảo hiểm................................58 2.Thẩm quyền quản lý Nhà nước về bảo hiểm.................................................59 3.Các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm và chế tài sự vi phạm................59 3.1.Các hành vi vi phạm pháp luật ...............................................................59 3.2.Chế tài sự vi phạm...................................................................................60 Chương III: Một số kiến nghị và kết luận........................................61 tài liệu tham khảo. 1. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2001, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 2. Bộ Luật dân sự 9/11/1995, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 3. Luật thương mại 10/5/1997. 4. Giáo trình Luật Tài chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân (1999). 5. Giáo trình Bảo hiểm, Trường Tài chính kế toán, nhà xuất bản Tài chính (1999). 6. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Giáo dục (1998). 7. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ( sửa đổi) 12/11/1996. 8. Một số điều cần biết về pháp lý trong Kinh doanh bảo hiểm, GS.TS. Trương Mộc Lâm, Lưu Nguyên Khánh, Nhà xuất bản Thống Kê (2000). 9. Bảo hiểm Nguyên Tắc và Thực Hành, Biên soạn Tiến sĩ Divid Bland Học viện Bảo hiểm Hoàng Gia Anh, Nhà xuất bản Tài Chính. 10. Tìm hiểu Luật phá sản Doanh nghiệp và Hướng dẫn thi hành, Nhà xuất bản Lao Động (2000). 11. Nghị Định 100/CP của Chính Phủ ngày 18/12/1993, Quy định về Kinh doanh bảo hiểm. 12. Thông tư liên tịch số 119/TTLT ngày 04/6/1997 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án, Nhà xuất bản Lao Động (2000). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34485.doc
Tài liệu liên quan