I. Mô hình kinh tế thị trường của Mỹ
1. Đặc điểm chủ yếu
Mô hình của Mỹ, tức là mô hình kinh tế thị trường chịu sự dẫn dắt của người tiêu ding, hay còn gọi là “kinh tế thị trường tự do”. Mô hình này hết sức nhấn mạnh vai trò của thị trường trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cho rằng nhà nước chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với phát triển kinh tế. Mô hình này đề cao tinh thần của các chủ xí nghiệp, chủ trương thị trường hiệu quả, trong khi phê phán sự can thiệp của nhà nước. Yếu tố sản xuất
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4849 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Mô hình kinh tế Thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có tính lưu động tương đối cao. Trong mô hình này còn mang đặc trưng tố tong luật pháp không hạn chế. Nhà nước có tiến hành điều tiết khống chế hay không thường căn cứ vào mục tiêu là việc đó có lợi cho người tiêu dùng hay không, ít khi xuất phát từ góc độ người sản xuất. Tập quán xã hội và chính ách của nhà nước tập trung nhiều hơn vào việc thúc đẩy tiêu dùng cá nhân, coi nhẹ tích luỹ. Khuynh hướng này không những phản ánh qua hành vi của cá nhân và xí nghiệp, mà còn phản ánh qua sự thâm hụt lớn về tài chính công cộng của nhà nước.
2. Thể chế quản lý kinh tế và sự can thiệp của nhà nước đối với thị trường
Nước Mỹ không có kế hoạch kinh tế của cả nước, thậm chí giới kinh tế và giới học thuật còn có ý kiến khác nhau về chính sách ngành nghề mà nhiều nước trên thế giới tiếp thu rộng rãi. Tuy nhiên có bang, huyện và thị trấn lại đang định ra kế hoạch. Nhà nước thường thông qua chính phủ đặt hàng và mua hàng để tác động đến nền kinh tế. Chính phủ cũng quản lý một số ngành, ví dụ như ngành năng lượng, kỹ thuật mũi nhọn, nông nghiệp, bảo vệ môi trường… Tuy nhiên, các công ty lớn lại có chế độ quản lý kế hoạch của mình, nói chung đều đề ra kế hoạch phát triển và tiêu thụ dài hạn.
Diễn biến và sự phát triển của quá trình Chính phủ Mỹ tiến hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, đại thể chia thành ba giai đoạn như sau:
Giai đoạn một bắt đầu tư khi thành lập nước Mỹ năm 1776 đến trước khi nổ ra chiến tranh Nam – Bắc năm 1860. Ban đầu hình thành cơ chế quản lý kinh tế lấy bang làm đơn vị chính “Hiến pháp nước Mỹ” năm 1789 đã xác lập thể chế chính phủ ba cấp gồm liên bang, bang và địa phương. Hiến pháp quy định chính phủ liên bang có quyền đề ra luật thuế và quản lý việc thu thuế; có quyền in đúc tiền và quản lý việc lưu thông tiền tệ. Những điều khoản trên đã tạo căn cứ pháp lý để Chính phủ liên bang Mỹ tiến hành điều tiết kinh tế. Trong giai đoạn này đã bước đầu thành lập chế độ tài chính và thuế chủ yếu dựa vào thuế quan. Năm 1782, Mỹ thành lập ngân hàng đầu tiên – Ngân hàng Bắc Mỹ. Năm 1791, Quốc hội thông qua pháp lệnh thành lập ngân hàng nhà nước, và lập ra ngân hàng nhà nước đầu tiên của Mỹ. Trong giai đoạn này ngân hàng Mỹ đã tong trải qua thời kỳ phát triển hỗn loạn.Năm 1837, điều lệ Michian đã định ra một chế độ, quy định chỉ cần có đủ một số điều kiện nhất định thì bất kỳ người nào cũng đều có thể được lĩnh thẻ ngân hàng. Sau đó không lâu, đa số các bang đều thông qua đạo luật tương tự. Lúc bấy giờ trong xã hội Mỹ dấy lên cơn sốt lợi dụng luật ngân hàng để kiếm chác. Năm 1834, ở Mỹ tổng cộng có 500 ngân hàng, năm 1840 tăng lên 900 ngân hàng. Năm 1807, Mỹ còn thông qua pháp lệnh cấm vận ngoại thương, cấm nhập hàng công nghiệp của Anh và Pháp vào Mỹ, điều này có tác dụng thúc đẩy công nghiệp nước này phát triển. Từ năm 1785 đến 1832, chính phủ liên bang đã lần lượt ban hành sáu pháp lệnh về khai khẩn vùng đất miền Tây, kích thích nông nghiệp phát triển, đồng thời áp dụng biện pháp khuyến khích công nhân nước ngoài di cư sang Mỹ và khen thưởng phát minh sáng chế để thúc đẩy khoa học – kỹ thuật phát triển.
Giai đoạn từ chiến tranh Nam – Bắc năm 1861 đến năm 1933, trước khi chính phủ mới của Roosevelt lên cầm quyền là giai đoạn thứ hai Chính phủ Mỹ tiến hành quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Trong giai đoạn này, nước Mỹ thành lập chế độ thuế tài chính, chủ yếu dựa trên thuế lợi tức của xí nghiệp và cá nhân, đồng thời tiến hành cải cách chế độ tiền tệ và ngân hàng. Năm 1863 Quốc hội thông qua Điều lệ ngân hàng quốc dân, theo đó quy định muốn lập ngân hàng thì cần có mức vốn tối thiểu, đồng thời còn quy định về việc sử dụng vốn của ngân hàng và việc phát hành tiền mặt. Do mâu thuẫn cố hữu trong chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa và cũng do chế độ tiền tệ thiếu sự quản lý tập trung nên nước Mỹ hầu như cứ 10 năm lại xảy ra một cuộc khủng hoảng tiền tệ. Năm 1873, 1884, 1893 và 1907 đều xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Do vậy, năm 1913 đã thành lập Hội đồng dự trữ liên bang. Quốc hội uỷ quyền cho Hội đồng dự trữ liên bang kiểm soát lưu thông tiền tệ và các khoản vay của nhà nước. Tuy nhiên, điều lệ dự trữ liên bang hoàn toàn không thay đổi nguyên tắc tự do kinh doanh ngân hàng của Mỹ, số lượng ngân hàng tiếp tục tăng. Tính đến năm 1921, trong cả nước đã có hơn 30 nghìn ngân hàng hoạt động. Trong suốt những năm 20 của thế kỷ XX, các ngân hàng liên tiếp phải đóng cửa. Đến cuộc đại khủng hoảng của những năm 30, toàn bộ hệ thống ngân hàng bị sụp đổ.
Năm 1933 sau khi chính quyền mới của Roosevelt lên cầm quyền, mô hình kinh tế thị trường chịu sự dẫn sắt của người tiêu dùng của Mỹ bước vào giai đoạn từng bước được hoàn thiện. ở mức độ khá lớn, chính phủ đã từ bỏ cách làm không can thiệp vào nền kinh tế của phải tự do truyền thống. Trong vòng 100 ngày, bắt đầu từ tháng 3 năm 1933. Roosevelt đã tiến hành một số cải cách quan trọng bằng những biện pháp lập pháp và hành chính. Về lĩnh vực giải quyết thất nghiệp, nhà nước đã lập Hội bảo hộ phi chính phủ, thu hút thanh niên thất nghiệp tham gia trồng cây, gây rừng, xây dung đập, bảo vệ nguồn nước, đất đai và xây dung các công viên cấp nhà nước, cấp bang để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chính phủ đã chi 500 triệu USD (sau đó tăng tới 5 tỷ USD) cho xây dựng các công trình công cộng như sân bay, công viên, đường sá, trường học và cống tiêu nước, tạo cơ hội có việc làm cho người thất nghiệp. Về lĩnh vực nông nghiệp, Quốc hội thông qua luật điều chỉnh nông nghiệp, khống chế số lượng lương thực mà nông dân sản xuất ra, đồng thời lập ra công ty cho vay tiền xây dựng nhà ở nhằm bảo đảm nhà ở cho người dân: đã thông qua luật chứng khoán nhằm đưa phát hành chứng khoán vào nề nếp: lập Cục quản lý lưu vực sống Tennasi nhằm thúc đảy và quy hoạch sự phát triển của các khu vực chưa phát triển: thông qua luật cứu trợ khẩn cấp liên bang… Sau đó, chế độ quản lý vĩ mô nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường lại không ngừng được cải tiến và phát triển.
3. Hệ thống điều tiết vĩ mô
3.1. Hệ thống dự toán tài chính
Trước những năm 20 của thế kỷ này, nước Mỹ thực hiện kinh tế thị trường tự do, họ cho rằng cung tự nó có thể tạo ra cầu. Chỉ cần dựa vào quan hệ cung cầu là có thể tự động điều tiết nền kinh tế. Do vậy, chính sách tài chính lúc bây giờ chủ yếu là duy trì cân bằng thu chi trong ngân sách nhà nước, hoàn toàn không ding chính sách tài chính để điều tiết nền kinh tế. Kể từ sau khi nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933, nhà kinh tế Anh Keynes cho rằng: “nền kinh tế thông thể tự động đạt tới tiềm năng sản xuất của nó. Hoạt động kinh tế sẽ dừng lại ở mức thấp hơn so với tiềm năng sản xuất của nó, nên cần dùng biện pháp tăng cầu để kích thích sản xuất và tạo thêm công ăn việc làm”. Ông chủ trương nhà nước can thiệp, cho rằng với chính sách của chính phủ tạo ra nhiều công ăn việc làm, nền kinh tế sẽ được phục hồi và ra khỏi suy thoái. Rất nhiều nhà kinh tế đã tiếp thu lý luận của Keynes. Sau đó, Mỹ không còn áp dụng chính sách chính sách duy trì ổn định vật giá và tạo ra nhiều công ăn việc làm. Thu và chi trong ngân sách nhà nước, cơ cấu của chế độ thuế đã định và chế độ thuế lợi tức luỹ tiến, bảo hiểm thất nghiệp…. đều trở thành biện pháp quan trọng để Chính phủ Mỹ điều tiết kinh tế vĩ mô, điều chỉnh quan hệ giữa trung ương và địa phương và giúp chính phủ thực hiện các mục tiêu xã hội (những mục tiêu xã hội mà thị trường không thể giải quyết được) Mỹ thi hành chế độ quản lý ngân sách tài chính ba cấp gồm liên bang chiếm khoảng 60% tổng thu nhập. Khoảng 10% chi tiêu của ngân sách chính phủ liên bang được dùng để hỗ trợ cho các bang và địa phương. Một chính phủ liên bang như vậy có thể dựa vào khả năng tài chính của mình để tiến hành can thiệp và gây ảnh hưởng tới sự phát triển của các bang và địa phương, đồng thời ở mức độ nhất định có thể thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển tương đối cân đối. Trước năm 1932, trợ cấp của chính phủ liên bang cho chính phủ bang và địa phương chỉ chiếm 3% tổng thu nhập. Tuy nhiên, từ sau năm 1934, con số này bắt đầu tăng tới 13% và đạt tới mức cao nhất là 21,8% trong những năm 1979-1980. Thu nhập từ ba loại thuế: thuế lợi tức cá nhân, thuế lợi tức công ty và thuế bảo hiểm xã hội chiếm 87% toàn bộ thu thập tài chính của Chính phủ liên bang (năm tài chính 1988-1989). Trong thu nhập của chính phủ bang và địa phương, thu nhập từ các loại thuế chiếm khoảng trên 51% (năm tài chính 1983-1984), trợ cấp của Chính phủ liên bang chiếm khoảng 18%.Chi tiêu của Chính phủ liên bang chủ yếu được dùng cho quốc phòng và quan hệ quốc tế, tiếp đó là bảo hiểm xã hội, trong năm tài chính 1988-1989 chi tiêu cho quốc phòng và quan hệ quốc tế chiếm 27% và cho bảo hiểm xã hội chiếm 25% tổng chi tiêu. Chi tiêu tài chính của Chính phủ bang và địa phương chủ yếu dùng cho giáo dục, đường sá, phúc lợi công cộng và các công trình công cộng….
Mỹ không dựa vào chính sách ngành nghề và kế hoạch nhà nước để can thiệp vào hoạt động kinh tế mà thông qua việc nhà nước đặt mua hàng hoá và dịch vụ lao động để mở rộng thị trường, kích thích đầu tư và sản xuất. Hình thức mua hàng chủ yếu là đơn đặt hàng quân sự, đa phần là do Bộ quốc phòng đảm nhiệm. Bộ Quốc phòng Mỹ còn có khá nhiều tài sản quốc hữu. Còn lại là đặt hàng dân sự. Ví dụ, năm 1985 nhà nước đặt mua 353,9 tỷ USD hàng hoá trong đó đơn đặt hàng quân sự chiếm 74%.
Một trong những nguyên nhân tiềm ẩn bên trong của cuộc đại khủng hoảng kinh tế những năm 1930 là thu nhập của nông dân và công nhân quá thấp, khiến cho hàng tiêu dùng bị ế thừa nghiêm trọng. Qua bài học này, Chính phủ Mỹ hết sức coi trọng việc bảo hộ nông nghiệp và bắt đầu can thiệp vào kế hoạch sản xuất nông nghiệp. Năm 1933 Luật nông nghiệp và thành lập công ty tín dụng hàng hoá được thông qua. Công ty này có thể vay tiền của Bộ tài chính để trợ giá cho nông nghiệp. Can thiệp ban đầu của Chính phủ Mỹ đối với nông nghiệp chủ yếu là biện pháp hạn chế sản xuất nông nghiệp khi cung vượt quá cầu. Kể từ những năm 1970, do thị trường quốc tế xuất hiện tình trạng thiếu nông sản phẩm, nhà nước đã tạm thời ngừng việc hạn chế sản xuất nông nghiệp, chuyển sang chính sách thúc đẩy tăng sản xuất nông nghiệp, giảm bớt “hỗ trợ giá”, thúc đẩy nông nghiệp hướng tới thị trường. Năm 1985 Quốc hội thông qua “Luật về an toàn thực phẩm”, giảm “hỗ trợ giá” đối với một số sản phẩm nông nghiệp, đồng thời thúc đẩy nông nghiệp tiếp tục đi vào cạnh tranh thị trường.
3.2.Hệ thống tiền tệ ngân hàng
Tính đến cuối năm 1990, ở Mỹ có khoảng 12.300 ngân hàng và là nước có số lượng ngân hàng nhiều nhất thế giới, tuy nhiên, số tài sản bình quân của tong ngân hàng lại không lớn. Chính phủ Mỹ quản lý ngân hàng trải qua quá trình thay đổi từ tập quyền – phân quyền – tập quyền. Ngân hàng được thành lập sớm nhất vào năm 1782. ngân hàng nhà nước đầu tiên được thành lập vào năm 1791. Thời kỳ từ năm 1837 đến năm 1863 là thời kỳ ngân hàng Mỹ phát triển tự do, lúc bấy giờ các ngân hàng thương nghiệp Mỹ đều đăng ký tại bang sở tại. Do các bang thiếu sự quản lý nghiêm đối với ngân hàng, một loạt ngân hàng bị đóng cửa. Tiền của ngân hàng bang thường trở thành đống giấy lộn, gây nên tổn thất hết sức to lớn cho dân chúng. Năm 1863, Mỹ thông qua Điều lệ ngân hàng quốc dân, và trong điều lệ được bổ sung sau này đã quy định là hệ thống ngân hàng quốc dân đăng ký tại Chính phủ liên bang. Chính phủ liên bang thiết lập Cục giám sát tiền tệ trong Bộ Tài chính để kiểm soát việc sử dụng vốn và quản lý ngân hàng. Nhằm chấm dứt việc ngân hàng bang in và phát hành tiền sẽ bị đánh thuế10%, khiến cho ngân hàng băng không được lợi gì khi phát hành tiền. Rất nhiều ngân hàng bang lập tức đệ đơn xin được chuyển thành ngân hàng nhà nước, có một số ngân hành vì thuế cao đành phải đóng cửa, một số khác tiếp tục tồn tại do dùng séc thay cho tiền mặt. Như vậy, trong hệ thống ngân hàng Mỹ tồn tại hai chế độ song song gồm ngân hàng do liên bang quản lý và ngân hàng do bang quản lý. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 khiến cho một loạt ngân hàng bị phá sản. Từ năm 1933 đến năm 1935. Roosevelt đã đưa ra Luật ngân hàng nhằm hỗ trợ cho cải cách hệ thống ngân hàng và tập trung quyền lực vào Ngân hàng dự trữ liên bang. Hệ thống luật pháp này xác định rõ hệ thống lãnh đạo và tổ chức của Ngân hàng dự trữ liên bang. Hiện nay, theo quy định của luật pháp, Chính phủ Mỹ tiến hành quản lý ngân hàng theo ba hệ thống điều tiết khống chế như sau:
Một là, cơ quan giám sát tiền tệ của Bộ tài chính liên bang. Chính phủ quản lý ngân hàng thường theo hai cấp – trung ương và bang.
Hai là, hệ thống dự trữ bang do 12 ngân hàng dự trữ liên bang và cơ quan lãnh đạo của nó là Hội đồng dự trữ liên bang hợp thành: đồng thời cũng đề ra một loạt quy định cụ thể đối với thành phần cơ quan lãnh đạo sao cho không chịu ảnh hưởng của những thay đổi chính trị ngắn hạn. Ngân hàng nhà nước cũng phải tham gia vào hệ thống dự trữ liên bang với tư cách là ngân hàng hội viên. Xác định rõ Ngân hàng dự trữ liên bang là Ngân hàng Trung ương của Mỹ, phụ tráchviệc đề ra và thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm bảo đảm mục tiêu kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Ba là, thành lập Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang nhằm hỗ trợ tiền gửi của dân, khiến họ không bị thiệt hại nhiều sau khi ngân hàng đóng cửa.
Căn cứ theo quy định của Luật ngân hàng năm 1933, ngân hàng thương mại không được phép mua bán cổ phiếu và trái phiếu của xí nghiệp.
So với các ngành khác thì can thiệp của Chính phủ Mỹ đối với ngành ngân hàng có phần chặt chẽ hơn. năm 1980, Quốc Hội Mỹ thông qua “Luật về nới lỏng quy chế của quỹ tín dụng và sự kiểm soát đối với tiền tệ”, theo đó bắt đầu nới lỏng quản lý và kiểm soát đối với ngân hàng và giao cho họ nhiều quyền tự chủ hơn. năm 1986 huỷ bỏ quy định về hạn chế lãi suất và cho phép tất cả các quỹ tín dụng đều có thể cấp séc và mở tài khoản… Tháng 8-1989, Quốc hội Mỹ lại thông qua khoản tiền ước chừng 400 tỷ USD để thanh toán các khoản tiền gửi đã được bảo hiểm khi các cơ quan lưu thông tiền tệ nhỏ đóng cửa.
3.3. Tiến triển của kinh tế thị trường Mỹ từ những năm 1980 đến nay
3.3.1. Nền kinh tế thị trường hướng về người tiêu dùng đang ở trong quá trình không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Trong những năm 1980, Chính phủ Mỹ nới lỏng sự can thiệp đối với ngành giao thông vận tải (bao gồm hàng không, vận chuyển hàng bằng ô tô và đường sắt), để ngành này định giá theo phương thức thị trường, đồng thời còn nới lỏng kiểm soát đối với giá dầu mỏ, và coi trọng sử dụng cơ chế kinh tế thị trường để tăng cường bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, một mặt Mỹ nới lỏng sự can thiệp, mặt khác lại chịu sự cạnh tranh của các nước có nền kinh tế do hành chính dẫn dắt ,ví dụ như Nhật Bản ,Hàn Quốc và các nước công nghiệp hoá mới trỗi dậy khác .Điều này làm nảy sinh một số vấn đề mới.
3.3.2.Liệu có cần đề ra chính sách sản nghiệp hay không ? Về tổng thể ,do xuất phát từ quan niệm giá trị của Mỹ là “sống ,tự do ,mưu cầu hạnh phúc ”,cho nên xưa nay Mỹ vẫn đề cao tinh thần tự do của xí nghiệp chứ không chủ trương chính phủ can thiệp.Kể từ năm 1973 trở đi ,năng suất lao động bình quân hàng năm chỉ tăng 0,8%, trong khi đó trong thời gian 25 năm trước năm 1973, năng suất lao động bình quân hàng năm tăng 2,5% . Để có thể duy trì mức tăng năng suất lao động bình quân hàng năm tăng 2,5% thì thu nhập của một gia đình Mỹ loại khá phải đạt 47 nghìn USD,thế nhưng thu nhập này chỉ mới là 35 ngìn USD. Người phụ trách Uỷ ban cố vấn kinh tế do tổng thống Mỹ Clinton chỉ định ,ông Taiser đề xuất Mỹ cũng cần có một chính sách sản nghiệp , dặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật cao ,tuy nhiên ý kiến này bị một số người trong giới kinh tế Mỹ phản đối.
3.3.3. Mặc dù hiện nay chi phí cho bảo hiểm y tế ở Mỹ đã chiếm 14% tổng giá trị sản phẩm trong nước , nhưng vẫn có 35 triệu người Mỹ chưa được bảo hiểm .Do vậy , cải cách bảo hiểm y tế vẫn là một thách thức lớn đối với chính phủ Mỹ hiện nay .
3.3.4. Dân số Mỹ từng đạt mức tăng cao nhất trong thời kỳ từ năm 1945 đến 1965 , sau những năm 1990 số người này sẽ bước vào độ tuổi về hưu . Do số người có độ tuổi về hưu đã vượt quá số người thế hệ sau , nên “ tỷ lệ người phải nuôi dưỡng ”tăng lên , tạo ra sức ép rất lớn cho chế độ tiền dưỡng lão .
II-Mô hình kinh tế thị trường của Đức
1.Đặc điẻm chủ yếu
Mô hình của Đức gọi là mô hình kinh tế thị trường xã hội .Người Đức cho rằng mô hình mà họ áp dụng là kinh tế thị trường xã hội khống chế vĩ mô ,phản đối thả lỏng tự do về kinh tế ,cũng như phản đối quản lý quá chặt về kinh tế ,trong khi đó lại kết hợp giữa sáng tạo tự do của cá nhân với nguyên tắc tiến bộ xã hội .Mô hình này vừa đảm bảo tự do về tài sản của xí nghiệp tư nhân và cá nhân , lại vừa khiến cho việc thực hiện những quyền lợi đó đem lại lợi ích cho công chúng .Về quan hệ giữa nhà nước và thị trường , nguyên tắc của mô hình này là nhà nước cần giảm ở mức có thể sự can thiệp ,chỉ can thiệp khi cần thiết .Trong nền kinh tế thị trường ,nhà nước chủ yếu chỉ có vai trò điều tiết và quy định khuôn khổ chung cho sự vận hành của thị trường .Vì vậy, kinh tế thị trường xã hội mà Đức thực hiện trên thực tế là kinh tế thị trường phần nào do nhà nước điều tiết nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa tự do thị trường và công bằng xã hội .
2.Cơ sở của kinh tế thị trường xã hội
Bất kể nền kinh tế thị trường nào cũng đều có khả năng tự điều tiết ,đều phải để thị trường tự giải quyết .Nhà nước chỉ định ra những quy tắc đảm bảo cho thị trường hoạt động bình thường và chỉ can thiệp vào những nơi thị trường không phát huy được vai trò .Vì vậy ,kinh tế thị trường xã hội của Đức vẫn lấy thị trường làm cơ sở.
ở Đức ,về cơ bản nhà nước không quy định mức lương và giá cả ,cũng không quy định các chỉ tiêu sản xuất cụ thể mà chủ yếu dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường để tự quyết định.Tuy nhiên , giá cả nông sản phẩm của Đức hình thành thông qua thị trường mà do thị trường Cộng đồng châu Âu quy định . Vì vậy ,mỗi năm chính phủ phải trợ cấp mấy trăm triệu Mac, giá cả của ngành đường sắt và bưu điện cũng do chính phủ liên bang quy định ,khi bị thua lỗ thì chính phủ liên bang sẽ trợ cấp .
Do cạnh tranh là điều kiện quyết định sự vận hành bình thường của kinh tế thị trường .Không có cạnh tranh thì sẽ không có thị trường ,vì vậy Đức đã thông qua một loạt luật như “luật chống hạn chế cạnh tranh”,lập nên cơ cấu tương ứng ,tức cục cac-ten(trên thực tế là cục chống cac-ten), nghiêm cấm các xí nghiệp đi đén thoả thuận phân chia nhau độc quyền về sản xuất ,giá cả ,tiêu thụ ,thị trường ,cấm việc xí nghiệp hợp nhất gây phương hại hoặc phá hoại thị trường ,cấm độc quyền ngoại thương ,cấm các tổ chức hoặc tập đoàn độc quyền khác gây tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng ,khuyến khích các xí nghiệp nhỏ và vừa hợp tác ,tích cực tham gia cạnh tranh: bảo đảm cho xí nghiệp tự do sản xuất ,tự do kinh doanh,tự do đầu tư ,tự do thuê người làm ,tự do đàm phán giữa chủ và thợ .Bất kì sự hợp nhất hoặc thoả thuận hợp tác nào giữa các xí nghiệp nếu có lợi cho cạnh tranh đều có thể thực hiện ;tuy nhiên ,vẫn cần được sự phê chuẩn của cục cac-ten,ai vi phạm sẽ chịu phạt nặng .Ngoài ra Đức còn đề ra “luật chống cạnh trạnh không chính đáng ”,nghiêm trị những hành vi không chính đáng như quảng cáo giả ,cân thiếu ,hàng giả ,mác giả, lấy hàng kém chất lượng thay cho hàng tốt …nhằm bảo vệ lợi ích của người cạnh trạnh và người tiêu dùng .Các luật pháp khác gồm :”luật về điều chỉnh các điều kiện giao dịch chung ”,”luật giảm giá ”.”luật khuyến mại”,”luật nhãn mác hàng ”,”luật về độc quyền”…Những luật này đã định ra các nguyên tắc đảm bảo cho thị trường hoạt động bình thường .Đối với một số nghề ,Đức còn quy định những điều kiện tiên quyết để gia nhập thị trường ,ví dụ người làm nghề thủ công nghiệp và bán lẻ trước khi bắt đầu hành nghề phải chứng tỏ được trình độ nghiệp vụ của mình .Đối với một ssố ngành như y tế ,tư vấn luật pháp ,tư vấn kế toán và tư vấn thu thuế …nhà nước yêu cầu người đệ đơn phải qua huấn luyện chuyên ngành và phải ở trong độ tuổi nhất định .
Về cơ bản ,tiền lương ở Đức cũng được tự do hình thành trên thị trường lao động ,do hai bên chủ và thợ tự do đàm phán đi đến ký kết thoả thuận .
ở Đức đàm phán giữa chủ và thợ là do tập thể tiến hành .nói chung do đại biểu của hai bên –Hội liên hiệp công đoàn ngành và Hiệp hội những người làm thuê -tiến hành đàm phán mỗi năm một lần về các vấn đề như mức tăng lương và ký thoả thuận .Đối với các vấn đề như số ngày nghỉ ,kỳ hạn thông báo cho thối việc ,tiền công làm ngoài giờ ,quỹ thưởng ..thông thường vài năm mới ký thoả thuận một lần .Tổng quá trình trên ,chính phủ giữ thái độ trung lập, không can thiệp.
3. Quản lý kinh tế vĩ mô
Trong kinh tế thị trường xã hội, nhà nước không trực tiếp can thiệp vào bản thân quá trình kinh tế, nhưng điều đó không có nghĩa là nhà nước không có bất kỳ kế hoạch kinh tế nào. Chính phủ Đức và chính quyền địa phương các cấp đều có kế hoạch kinh tế nhất định, có kế hoạch trung hạn, kế hoạch từng năm và kế hoạch ngắn hạn. Tuy nhiên, những kế hoạch đó chỉ quy định một số chỉ tiêu có tính tổng hợp, hoàn toàn không ràng buộc các xí nghiệp, tiến hành điều tiết thông qua các biện pháp như tài chính, thu thuế, tín dụng… Ví dụ, trong 4 kế hoạch ngắn hạn từ năm 1974 đến năm 1975. Chính phủ liên bang tổng cộng đã chỉ 100 triệu Mác để kích kinh tế và điều này đã có tác dụng nhất định đối với việc giảm bớt suy thoái kinh tế trong thời gian đó. Lại lấy kế hoạch cải tạo khu vự miền Đông làm ví dụ, kể từ năm 1990, hàng năm chính phủ đã đầu tư hơn 100 triệu Mác cho các bang miền Đông, chủ yếu là dành cho các cơ sở hạ tầng như cải tạo đường sắt, đường cao tốc, điện tín, đồng thời áp dụng các biện pháp ưu đãi vè thuế và thu hút vốn tư nhân vào cải tạo khu vực miền Đông. Năm 1992, đầu tư của các công ty Đức vào các bang miền Đông đạt 44 tỷ Mác.
ở Đức, các ơ quan phụ trách quản lý kinh tế vĩ mô là các tổ chức như Hội đồng phát triển kinh tế, Hội đồng tài chính…Hội đồng phát triển kinh tế do Bộ trưởng Kinh tế liên bang chủ trì, gồm các thành viên là Bộ trưởng tài chính liên bang, Giám đốc ngân hàng liên bang, mỗi bang có một đại diện và đại diện của một số địa phương, mỗi năm ít nhất họp hai lần nhằm điều hoà hoạt động của các ngành tham gia định ra chính sách kinh tế. Hội đồng kế hoạch tài chính do Bộ trưởng Tài chính liên bang chủ trì, gồm các thành viên là Bộ trưởng kinh tế liên bang. Giám đốc ngân hàng liên bang, mỗi bang có một đại diện và đại diện của một số địa phương, phụ trách việc điều hoà kế hoạch chỉ tiêu và đầu tư giữa trung ương, bang và địa phương. ở Đức có một uỷ ban gồm năm nhà kkty nổi tiếng, gọi là “Uỷ ban năm người tài” phụ trách việc vào mùa thu hàng năm đưa ra một cuốn sánh giám định đánh giá toàn diện tình hình phát triển kinh tế vĩ mô của năm đó và cuốn sách này được coi là cơ sở tham khảo của các ngành quyết sách. Vào tháng giêng năm thứ hai. Thủ tướng liên bang phải trình Quốc hội liên bang và Thượng nghị viện liên bang một bản báo cáo kinh tế hàng năm, trả lời cuốn sách giám định của “Uỷ ban năm người tài”, đồng thời đề ra chính sách và biện pháp kinh tế của năm đó. ở Đức còn có một Uỷ ban điều hoà với sự tham gia của đại diện Chính phủ liên bang, Công đoàn và tổ chức các ông chủ xí nghiệp, do Bộ trưởng Kinh tế chủ trì, tiến hành điều hoà ý kiến và hành động trong các lĩnh vực như tiền lương, vật giá… Mặc dù Uỷ ban này hoàn toàn không có quyền quyết định nhưng cũng có vai trò trong việc trao đổi ý kiến giữa các bên, điều hoà các biện pháp thực hiện, từ đó bảo đảm cho nền kinh tế vận hành bình thường.
4. Vai trò đặc biệt của Ngan hàng liên bang Đức
ở Đức, Chính phủ liên bang chủ yếu phụ trách việc vận dụng các biện pháp tài chính và thu thuế để điều tiết kinh tế, trong khi ngân hàng liên bang chủ yếu phụ trách việc cận dụng các chính sách tiền tệ và cho vay. Ngân hàng liên Bang Đức là ngân hàng trung ương của Đức, vốn của ngân hàng này thuộc sở hữu của chính phủ liên bang và chỉ có Ngân hàng liên bang mới có quyền phát hành tiền. Tuy nhiên, ngân hàng liên bang cũng là một pháp nhân trực tiếp của liên bang có tư cách pháp nhân công cộng, độc lập với Chính phủ lien bang khi thực hiện chức năng và quyền hạn của mình, nhưng nó phải ủng hộ chính sách chung của Chính phủ. Kinh phí của Ngân hàng liên bang không nằm trong ngân sách của Chính phủ, được chi tiêu độc lập. Khi giữa Chính phủ và Ngân hàng nảy sinh bất đồng về chính sách thì có thể điều hoà. Tuy nhiên, Ngân hàng liên bang hoạt động căn cứ theo nghị quyết của Hội đồng và đối với quyết định này Liên bang chỉ có quyền tạm thời trì hoãn thực hiện mà thôi. Sở dĩ như vậy là vì sau hai cuộc chiến tranh thế giới ở Đức đều xảy ra lạm phát ác tính mà nguyên nhân đều do Chính phủ thao túng ngân hàng, phát hành tiền và trái phiếu bừa bãi nhằm bù đắp sự thiếu hụt do bồi thường chiến tranh và thâm hụt tài hcính gây nên. Do vậy, năm 1957, Đức đã ban hành Luật Ngân hàng liên bang dành chi Ngân hàng liên bang địa vị và chức năng, quyền hạn đặc biệt, trong đó bảo đảm ổn định của giá trị đồng tiền là chức năng quan trọng hàng đầu của Ngân hang liên bang.
Cơ quan quyền lực cao nhất của Ngân hàng liên bang là Hội đồng đồng ngân hàng trung ương của Ngân hàng liên bang. Hội đồng này bao gồm có các thành viên là giám đốc, phó giám đốc và các thành viên của Hội đồng quản trị thuộc Ngân hàng liên bang và giám đốc ngân hàng các bang. Hội đồng này do Giám đốc ngân hàng liên bang làm chủ tịch. Giám đốc, phó giám đốc, Hội đồng quản trị cùng các thành viên của Hội đồng Ngân hàng liên bang do chính phủ liên bang đề cử, sau đó Thủ tướng liên bang bổ nhiệm với nhiệm kỳ 8 năm, thời hạn này dài gấp đôi nhiệm kỳ của Thủ tướng liên bang. Ngoài lý do các nhân hoặc có ý kiến của Hội đồng ngân hàng trung ương liên bang ra, trong nhiệm kỳ của mình, giám đốc Ngân hàng liên bang không chịu nảh hưởng của sự thay đổi Chính phủ liên bang, không thể bị bãi chức. Hội đồng ngân hàng trung ương của Ngân hàng liên bang hai tuần họp một lần, và ra quyết định theo đa số thông thường. Hội đồng quản trị là coq quan chấp hành trung ương của Ngân hàng liên bang, phụ trách việc thực hiện những nghị quyết của Hội đồng ngân hàng trung ương của Ngân hàng liên bang.
Ngân hàng liên bang căn cứ vào dự đoán tình hình kinh tế và phân tích tình hình vận hành của thị trường để quyết định thắt chặt hoặc nới lỏng lượng tiền phát hành nhằm giữ vững giá trị đồng Mác và ổn định vật giá. Ngân hàng liên bang còn có thẻ tăng hoặc giảm mức tiền gửi tối thiểu của ngân hàng thương mại vào Ngân hàng liên bang đối với ngân hàng thương mại, kích thích hoặc làm nguội nền kinh tế về phương diện lưu thông tiền tệ.
5. Chế độ tổ chức xí nghiệp
Kinh tế thị trường xã hội của Đức bảo đảm cho xí nghiệp tư nhân, nhưng những xí nghiệp tư nhân kiểu cũ của các dòng họ còn lại không nhiều, mà đều là những xí nghiệp nhỏ và vừa. Các xí nghiệp lớn hầu như đều là công ty cổ phần, song số lượng công ty hữu hạn cổ phần ở Đức không nhiều, chỉ chiếm khoảng 5% tổng số công ty. Một số xí nghiệp lớn cũng là công ty trách nhiệm hữu hạn, không bán cổ phần ra thị trường. Năm 1992, khu vực miền Tây nước Đức có khoảng 46.700 xí nghiệp, trong đó chỉ có 2% là những xí nghiệp lớn thuê hơn một nửa tổng số nhân công và kiểm soát hơn một nửa tổng mức kinh doanh.
Trong các công ty cổ phần lớn, quyền cổ phần tương đối phân tán. Ví dụ Công ty Siemen tổng cộng có vài trăm nghìn cổ phần, trong đó 3/4 cổ phần là phân tán. Kể từ những năm 1980, Đức khuyến khích công nhân viên chức tha gia vào cổ phần của xí nghiệp mình và có phần thưởng khuyến khích. Hiệnnay, ở Đức có số lượng tương đối lớn công nhân viên chức có cổ phiếu của công ty mình. Các xí nghiệp của các dòng họ nổi tiếng trước đây của Đức hiện nay nói chung đều trở thành các công ty cổ phần lớn. Ví dụ như công ty Klube, khi dòng họ Klube đến đời thứ 6 thì người thừa kế không làm nên trò trống gì, cha của anh ta dành cho anh ta một khoản tiền tiêu rút ra từ tài sản của mình với điều kiện là từ đó về sau không được có quan hệ gì với xí nghiệp nữa, rồi trao toàn bộ xí nghiệp cho một hiệp hội do một nhà doanh nghiệp nổi tiếng của Đức quản lý.
Chính phủ liên bang và chính quyền địa phương các cấp đều có cổ phần trong nhiều công ty lớn, có lúc cổ phần của chính phủ đủ để có thể kiểm soát được công ty này. Những công ty này trên thực tế là những xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, hoặc là xí nghiệp “vừa công hữu vừa tư hữu”. Ví dụ như Công ty Liên hợp điện lực và mỏ. Công ty gang thép Shagester, công ty than Shall, công ty hàng không Hamsha... đều là các xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Công ty ô tô Volkswagen vốn trước đây cũng thuộc sở hữu nhà nước, sau đó Chính phủ liên bang đã chuyển nhượng một phần cổ phần của mình sang cho tư nhân, do vậy mà trở thành “vừa công hữu vừa tư hữu”. Công ty ô tô Daimler-Benz cũng có khoảng 20% cổ phần thuộc về Chính phủ bang Badenfutenberg. Tuy nhiên, dù chính phủ có bao nhiêu quyền cổ phần của các xí nghiệp thì xí nghiệp và các công ty cổ phần nói chung vẫn vận hành và nộp thuế như nhau. Chính phủ, ngoài thu thuế ra, vẫn có thể được chia lãi cổ phần theo quyền cổ phần của mình. Chính quyền các cấp của Cộng hoà Liên bang Đức trước đây từng có hoặc kiểm soát hơn 6000 xí nghiệp công nghiệp với giá trị sản lượng chiếm 47% tổng giá trị sản phẩm trong nước. Tuy nhiên, do cổ phần thuộc sở hữu của chính phủ có thể chuyển nhượng cho tư nhân, cũng có thể mua quyền cổ phiếu từ tư nhân, vì thế con số này luôn thay đổi. Do ảnh hưởng của trào lưu tư hữu hoá trong những năm 1980, tỷ lệ này đã không ngừng giảm đi.
“Quyền hạn ra quyết định” là một biện pháp đặc biệt áp dụng trong các xí nghiệp của Đức. Biện pháp này không ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ sở hữu mà có một số hạn chế đối với quyền sử dụng vốn, và về mặt pháp luật trao cho công nghiệp. Trong các xí nghiệp ở Đức có hai cơ cấu lãnh đạo: Ban giám sát có chức năng giám sát và Ban giám đốc có chức năng xử lý công việc hàng ngày. Ban giám sát gồm đại biểu của bên chủ và bên công nhân. Trong Ban giám sát có ba loại cơ cấu về số đại biểu của bên chủ và bên công nhân như sau: trong các xí nghiệp khai mỏ và gang thép lớn, đại biểu của mỗi bên chiếm một nửa, cộng thêm một người giám sát trung lập do hai bên cùng lựa chọn ra. Ngoài ngành than, gang thép và giới báo chí ra, Ban giám sát của các xí nghiệp lớn thuê trên 2000 công nhân viên chức cũng gồm đại biểu của bên chủ và b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT45.DOC