Mô hình đánh giá ảnh hưởng của Một số nhân tố đến hiệu quả hoạt động của Công ty sau khi niêm yết

Tài liệu Mô hình đánh giá ảnh hưởng của Một số nhân tố đến hiệu quả hoạt động của Công ty sau khi niêm yết: MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Tám năm đi vào hoạt động không phải là một quãng thời gian dài song thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua khá nhiều thăng trầm.Sau gần 2năm phát triển quá “nóng” thị trường đã chững lại và đang đi xuống khá nhanh dù Nhá nước đã có một vài biện pháp nhằm kéo thị trường đi lên. Để tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán hoạt động và thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ đã có nhiều chỉ thị về việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. ... Ebook Mô hình đánh giá ảnh hưởng của Một số nhân tố đến hiệu quả hoạt động của Công ty sau khi niêm yết

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mô hình đánh giá ảnh hưởng của Một số nhân tố đến hiệu quả hoạt động của Công ty sau khi niêm yết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đồng nghĩa với việc đã có hơn 250 mã cổ phiếu đang được giao dịch trên cả trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM là cũng đã có hơn 250 doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá và niêm yết. Giai đoạn năm 2006 – 2007 là giai đoạn “nóng” nhất của thị trưòng với hàng trăm mã cổ phiếu được niêm yết, hàng loạt các cổ phiếu đã tăng giá rất nhanh ngay trong ngày đầu tiên lên sàn và VN-Index đã vượt khá xa 1000 điểm. Năm 2007, hầu hết các cổ phiếu của thị trường chứng khoán Việt Nam đều tăng giá và có chỉ số P/E rất cao. Phải chăng sau khi cổ phần hoá và niêm yết, các công ty cổ phần của Việt Nam đã hoạt động rất có hiệu quả? Và vậy thì những nhân tố nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của công ty sau khi niêm yết? Xuất phát từ những vấn đề của thực tế, trên cơ sở lý thuyết đã tiếp thu trong nhà trường, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Ngô Văn Thứ và quá trình tìm hiểu tại phòng Đầu tư và tư vấn tài chính – công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, em lựa chọn đề tài: “Mô hình đánh giá ảnh hưởng của một số nhân tố đến hiệu quả hoạt động của công ty sau khi niêm yết” làm nội dung cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu, kết luận, chuyên đề gồm có ba chương: Chương 1: Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam – chương này trình bày các khái niệm cơ bản về thị trường chứng khoán và các phân tích chung về thị trường chứng khoán Việt Nam Chương 2: Thực trạng của các công ty sau khi niêm yết – chương này phân tích tình hình thực hiện IPO và niêm yết của các công ty trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đồng thời đưa ra một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các công ty cùng một vài nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả đó, sau đó là phần lý thuyết mô hình đề xuất để nghiên cứu. Chương 3: Mô hình hoá ảnh hưởng cả các nhân tố đến hiệu quả hoạt động của các công ty sau khi niêm yết – chương này trình bày ứng dụng của mô hình đề xuất ở cuối chương 2 trên số liệu thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS.Ngô Văn Thứ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Đồng thời em xin bày tỏ lòng cảm ơn các anh chị trong nhóm Trading – công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập, bước đầu tiếp cận với các kiến thức thực tế về thị trường chứng khoán cũng như lựa chọn phương hướng nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp. Do hạn chế về thời gian và trình độ nhận thức nên chuyên đề không tránh khỏi những thiết sót nhất định. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ tận tình và góp ý nhận xét của các thầy cô giáo. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Lịch sử hình thành và chức năng của thị trường chứng khoán Việt Nam 1.1. Lịch sử hình thành Trong nền kinh tế phát sinh tình huống: người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, đồng thời người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư, cơ chế này được thự hiên trong khuôn khổ thị trường tài chính. thị trường tài chính là nơi diễn ra sự luân chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi tới những người thiếu vốn. hoạt động trên thị trường tài chính có nhựng hiệ ứng trực tiếp tới sự giàu có của các cá nhân, tới hành vi của các doanh nghiệp và người tiêu dùng và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch buôn bán các loại chứng khoán. việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại cá chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. có thể nói thị trường chứng khoán là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá. Trong đó chứng khoán là những giấy tờ có giá vá có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư (tư bản đầu tư), chứng khoán xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời hạn nào đó. Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và sơ khai, xuất hiện đầu tiên vào giữa thế kỷ XV tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây. Sự phát triển của thị trường ngày càng mạnh về cả lượng và chất, với số thành viên tham gia đông dảo và nhiều nội dung khác nhau vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khoán… . Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Cho đến năm 1921, ở Mỹ khu ngoài trời được chuyển vào nhà, sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến theo tốc độ và khối lượng nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch. Lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán thế giới trải qua nhiều thăng trầm lúc lên lúc xuống. Vào những năm 1875 – 1913, thị trường chứng khoán thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới nhưng rồi lại trải qua ngày 29/10/1928 – ngày “thứ năm đen tối” thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản đã khủng hoảng. Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc các thị trường mới dần phục hồi và phát triển mạnh và cho tới năm 1987, một lần nữa các thị trường thế giới điên đảo với “ ngày thứ 2 đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán mạnh, gây mất lòng tin và phản ứng dây chuyền dẫn đến hậu quả nặng nề. Tuy nhiên cho tới nay thị trường chứng khoán đã chứng tỏ được vai trò hết sức quan trọng đối với hầu hết các nền kinh tế. Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế phù hợp với các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã quyết định thành lập TTCK với những đặc thù riêng biệt trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK thế giới. TTCK Việt Nam ra đời được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/7/2000, thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000(HoSTC). Năm năm sau, ngày 8/3/2005 thị trường giao dịch bảng II - sàn giao dịch Hà Nội (HaSTC) ra đời tạo bước ngoặt cho sự phát triển vượt bậc cho TTCK Việt Nam. Trong những năm qua, TTCK đã từng bước phát triển về nhiều mặt, trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Từ chỗ trong suốt 10 năm trời chỉ có vài chục cổ phiếu, chứng chỉ được đưa lên sàn thì đến 31/12/2007 theo thống kê có 253 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ của các công ty và quỹ đầu tư niêm yết trên SGDCK thành phố HCM và Hà Nội với tổng giá trị vốn hoá đạt 492.900 tỷ đồng bằng 43.7% GDP. Tính đến cuối tháng 12/2006,TTCK Việt Nam tăng 139.84%, được đánh giá là mức tăng cao nhất trên thế giới vượt qua mức tăng của TTCK Thượng Hải và Thâm Quyến – Trung Quốc (111.95%). TTCK Việt Nam đã trở thành một hiện tượng với mức tăng trưởng hàng năm đạt trung bình 19% trong suốt giai đoạn 2002-2005. Việc chính thức đi vào thực thi Luật chứng khoán từ ngày 01/01/2007 đã lành mạnh hoá và minh bạch hơn cho môi trường đầu tư tại thị trường chứng khoán. Nếu tính đến cuối năm 2006 toàn thị trường chỉ có 22 công ty chứng khoán chính thức đi vào hoạt động thì tính đến 31/12/2007 đã có tổng cộng 80 công ty chứng khoán được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động, trong đó có 69 công ty đã chính thức đi vào hoạt động (59 công ty hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần và 10 công ty trách nhiệm hữu hạn trực thuộc các ngân hàng thương mại cổ phần và quốc doanh). Tính đến thời điểm 21/12/2007, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự góp mặt của 253 chứng khoán niêm yết trên cả 2 sàn HOSE và HASTC. Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường cùng với sự ra đời của hàng loạt công ty chứng khoán mang đến những dịch vụ tiện ích đã thu hút một số lượng lớn các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Đến cuối năm 2006, số lượng tài khoản của các nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán chỉ đạt 89.814 tài khoản, nhưng đến cuối năm 2007 toàn thị trường đã có tổng cộng 327.000 tài khoản giao dịch mở tại các công ty chứng khoán (tăng 240.816 tài khoản, tương đương 279% so với cuối năm 2006). Bên cạnh sự tham gia ngày càng đông đảo của các nhà đầu tư cá nhân, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức tài chính lớn trong khu vực và trên thế giới như: JP Morgan, Merrill Lynch, Citigroup… . Tính đến cuối năm 2007, số lượng nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản tại các công ty chứng khoán đã lên đến con số 7.900 tài khoản (cá nhân là 7.400 và tổ chức là 500). Năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam chứng kiến cuộc “chạy đua” niêm yết của các công ty cổ phần tận dụng cơ hội ưu đãi về thuế thu nhập theo Thông tư số 100/2004/TT-BTC ngày 20/10/2004 và Thông tư số 72/2006/TT-BTC. Còn năm 2007 làn sóng lên sàn của các công ty cổ phần đã thay đổi về chất với mục tiêu chính: lên sàn để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh. Mặc dù tốc độ gia tăng số lượng cổ phiếu niêm yết tại thị trường tập trung trong năm 2007 không cao bằng năm 2006, nhưng các công ty niêm yết mới trên sàn năm 2007 phần lớn là những tập đoàn và doanh nghiệp có mức vốn điều lệ lớn và hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, còn rất nhiều công ty đã nộp hồ sơ niêm yết và đang chờ chấp thuận của sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Quy mô thị trường đang tăng lên một cách rõ rệt. Tính đến thời điểm ngày 31/12/2007, tổng khối lượng chứng khoán niêm yết trên thị trường tập trung đạt 5.521.092.015 chứng khoán (không tính trái phiếu). 1.1.1. Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo quyết định 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Giữa năm 2007, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã được chuyển thành Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đồng thời ngày 30/07/2007 Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện giao dịch liên tục và từng bước thực hiện triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng tình hình thị trường đang phát triển. Nếu như ban đầu chỉ có 2 cổ phiếu (REE và SAM) và một vài trái phiếu chính phủ được niêm yết giao dịch thì tính đến thời điểm 31/12/2007, sở giao dịch đã có 141 chứng khoán niêm yết. Tính đến thời điểm21/12/2007, tổng khối lượng niêm yết đạt 4.197.693.526 chứng khoán, trong đó có 4.026.283.996 cổ phiếu của 138 công ty cổ phần và 171.409.530 chứng chỉ quỹ của 3 quỹ đầu tư chứng khoán. Tính đến ngày 28/12/2007, sở giao dịch chứng khoán đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 nghìn tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng. 1.1.2. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội Tháng 6/2004, Bộ Tài chính ra thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Trong đó định hướng xây dựng Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thành một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ. Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam. Chức năng của trung tâm là: - Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp - Tổ chức đấu thầu trái phiếu - Tổ chức giao dịch theo cơ chế đăng kí giao dịch Năm 2007, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã thay đổi thời gian giao dịch tạo điều kiện nhà đầu tư có thêm nhiều thời gian và cơ hội để đầu tư. Với sự đổi mới này, sự “tắc nghẽn” của thị trường trong những phiên giao dịch “nóng” đã được giảm tải. Tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có 25 cổ phiếu đăng ký giao dịch mới, nâng tổng số từ 87 cổ phiếu năm 2006 lên 112 cổ phiếu năm 2007. Tổng khối lượng đăng kí giao dịch của 112 công ty cổ phần là 1.323.398.489 cổ phiếu. Tính đến 28/12/2007, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng /phiên. 1.2. Chức năng của thị trường chứng khoán Việt Nam 1.2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. 1.2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia. 1.2.3 Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. 1.2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ảnh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động , từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. 1.2.5. Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra các nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 2. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán 2.1. Nguyên tắc công khai Chứng khoán là các hàng hoá trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hoá thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Việc công khai thông tin về TTCK phải thoả mãn các yêu cầu: Chính xác: các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin cậy có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên TTCK. Do đó, đòi hỏi thông tin cần phải chính xác. Kịp thời: nếu các thông tin công khai nhưng không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Dễ tiếp cận: nghĩa là công khai thông tin TTCK nhưng phải dễ dàng tiếp cận đối với các nhà đầu tư. Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm ý rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì người đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình. 2.2. Nguyên tắc trung gian Theo nguyên tắc này, trên TTCK các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. 2.3. Nguyên tắc đấu giá Mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung – cầu trên thị trường quyết định. 2.3.1. Căn cứ vào các hình thức đấu giá, có các loại Đấu giá trực tiếp: là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới chứng khoán trực tiếp gặp nhau thông qua người trung gian (một chuyên gia chứng khoán) tại quầy giao dịch để thương lượng giá. Đấu giá gián tiếp: là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới chứng khoán không trực tiếp gặp nhau mà việc thương lượng giá được thực hiện gián tiếp thông qua hệ thống điện thoại và mạng máy tính. Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống mạng máy tính nối giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống máy của các công ty chứng khoán thành viên. Các lệnh mua, bán được truyền đến máy chủ, máy chủ tự động khớp các lệnh mua – bán có giá phù hợp và thông báo kết quả cho những công ty chứng khoán có các lệnh đặt hàng được thực hiện. 2.3.2. Căn cứ vào phương thức đấu giá, có các hình thức Đấu giá định kỳ: là hệ thống trong đó các giao dịch chứng khoán được tiến hành tại một mức giá duy nhất bằng cách tập hợp các đơn đặt hàng mua và bán trong một khoảng thời gian nhất định. Phương thức đấu giá này rất có hiệu quả trong việc hạn chế biến động giá quá mức phát sinh từ việc phối hợp những đơn đặt hàng được chuyển tới thị trường một cách bất thường như trong trường hợp đấu giá liên tục. Tuy nhiên, phương thức này không phản ánh kịp thời những thông tin về thị trường và hạn chế tính cấp thời của các giao dịch. Do vậy, hình thức này chỉ thích hợp với giai đoạn đầu của TTCK khi số lượng khách hàng và các giao dịch nhỏ, không sôi động. Đấu giá liên tục: là hệ thống trong đó việc mua bán chứng khoán được tiến hành liên tục bằng cách phối hợp các đơn đặt hàng của khách hàng ngay khi có các đơn đặt hàng có thể phối hợp được. Đặc điểm của đấu giá liên tục là giá cả được xác định qua sự phản ứng tức thời của thông tin và các nhà đầu tư có thể nhanh chóng phản ứng lại trước những thay đổi trên thị trường. Hình thức đấu giá này thích hợp với những thị trường có khối lượng giao dịch lớn và nhiều đơn đặt hàng. Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân thủ theo các thứ tự ưu tiên về giá (giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất), về thời gian, về khách hàng (ưu tiên các nhà đầu tư cá nhân trước), về quy mô lệnh (cùng một mức giá, ưu tiên các lệnh có khối lượng lớn hơn). 3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 3.1. Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hoá của thị trường chứng khoán. Chính phủ và chính quyền là các nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương. Công ty là nhà phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng … phục vụ cho hoạt động của họ. 3.2. Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những người thực sự mua bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. 3.2.1. Các nhà đầu tư cá nhân Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, khả năng kiếm được lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luông phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình. 3.2.2. Các nhà đầu tư có tổ chức Nhà đầu tư có tổ chức, hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên TTCK là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi. Bên cạnh các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình. 3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán 3.3.1. Công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo được một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền. 3.3.2. Các ngân hàng thương mại Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào các chứng khoán. Tuy nhiên các ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước cho phép ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập để kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. 3.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 3.4.1. Cơ quan quản lý nhà nước Đầu tiên, thị trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động bình thường, ổn định của thị trường chứng khoán, bản thân các nhà kinh doanh chứng khoán và các quốc gia có thị trường chứng khoán hoạt động cho rằng cần phải có cơ quan quản lý và giám sát về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính vì vậy, cơ quan quản lý, giám sát thị trường chứng khoán đã ra đời. Cơ quan quản lý giám sát thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và nhà nước. Nhưng nhìn chung, cơ quan quản lý này do chính phủ (nhà nước) của các nước thành lập, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc. 3.4.2. Sở giao dịch chứng khoán Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên sở giao dịch. Ngoài ra, sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động gioa dịch chứng khoán trên sở phù hợp với các quy định của luật pháp và uỷ ban chứng khoán. 3.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức tự quản thực hiện một số chức năng chính như sau: + Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. + Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán. + Điều tra và giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên. + Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán. + Hợp tác với chính phủ và các cơ quan khác đề giải quyết các vấn đề có tác động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. 3.4.4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. 3.4.5. Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán Là tổ chức phụ trợ, phục vụ cho các giao dịch chứng khoán. Công ty này cung cấp hệ thống máy tính với các chương trình để thông qua đó có thể thực hiện được các lệnh giao dịch một cách chính xác, nhanh chóng. Thông thường. công ty dịch vụ máy tính chứng khoán ra đời khi thị trường chứng khoán đã phát triển đến một trình độ nhất định, bắt đầu đi vào tự động hoá các giao dịch. 3.4.6. Các tổ chức tài trợ chứng khoán Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động cho vay để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức tài trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không có loại hình tổ chức này. 3.4.7. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường được gắn cho một đợt phát hành, chứ không phải cho công ty, vì thế một công ty phát hành có thể mang nhiều hệ số tín nhiệm cho các phát hành nợ của nó. Hệ số tín nhiệm được biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tuỳ theo quy định của từng công ty xếp hạng. Ví dụ, theo hệ thống xếp hàn của Moody’s sẽ có các hệ số tín nhiệm được ký hiệu là Aaa, Aa1, Baa1 hay B1…;theo hệ thống xếp hạng của S&P, có các mức xếp hạng AAA, AA+, AA, AA-, A+, A… . Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình. 4. Cơ cấu thị trường chứng khoán Căn cứ vào sự chu chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc đầu tư mua chứng khoán mới phát hành. Như vậy, thị trường sơ cấp là kênh huy động vốn cho nhà đầu tư hay nói cách khác nó thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khoản tiền nàhn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo cho tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Giá cả trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá cả trên thị trường chứng khoán là do cung - cầu quyết định. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá. Hay nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào người phát hành chứng khoán mà chuyển vận giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường với nhau. Như vậy, thị trường thứ cấp không cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, thì có lợi gì? Không có thị trường thứ cấp thì không có thị trường sơ cấp: nếu chứng khoán phát hành ra mà không lưu chuyển được trên thị trường thứ cấp thì nhà đầu tư cũng không quan tâm đến việc mua, nắm giữ chứng khoán phát hành (nhất là cổ phiếu, một loại chứng khoán vô thời hạn). Cổ phiếu của một tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán khi được mua bán nhiều là phản ánh lòng tin của người đầu tư vào tổ chức đó; do đó khi tổ chức niêm yết muốn tăng vốn, họ có thể tiếp tục phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu đợt mới. Vì vậy, thông thường khi thị trường đang lên (chỉ số giá cổ phiếu đang ở xu hướng tăng), thì các công ty dễ dàng phát hành với khối lượng lớn. Khi thị trường đang xuống, thì các công ty rất khó phát hành chứng khoán. Ngược lại, nếu tổ chức phát hành các cổ phiếu có chất lượng cao ở thị truờng sơ cấp thì việc mua bán trên thị trường thứ cấp mới sôi động, nếu phát hành cổ phiếu không có chất lượng thì cổ phiếu đó không giao dịch được trên thị trường thứ cấp. 5. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán Có nhiều tiêu chí để phân loại chứng khoản trên thị trường nhưng phổ biến nhất là phân loại chứng khoán theo tính chất. Theo tính chất, chứng khoán được phân thành các loại như sau: 5.1. Chứng khoán vốn Chứng khoán vốn là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn góp và các quyền hợp pháp khác với tổ chức phát hành. Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là một tài sản tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn. Khi tham gia mua cổ phiếu, các nhà đầu tư trở thành các cổ đông của các công ty cổ phần. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11778.doc
Tài liệu liên quan