Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đinh Thị Vũ Trinh MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC TRONG TRI NHẬN NGƯỜI VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 66 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS – TS. TRỊNH SÂM Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CẢM ƠN Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Trịnh Sâm – giảng viên chuyên ngành Ngôn ngữ học của trường đã tận tình hướng dẫn người viết hoàn thành đề tài trong suốt hơn một năm qua.

pdf166 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2042 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xin cảm ơn thầy Lý Toàn Thắng, thầy Hoàng Dũng đã cho người viết những kiến thức bổ ích từ bài dạy chính khóa tại trường đến các ý kiến phụ trợ ngoài bài giảng giúp người viết hiểu sâu hơn về Ngôn ngữ học tri nhận. Cảm ơn chị Nguyễn Thị Thanh Phượng hiện làm việc tại Văn phòng Quỹ Giáo dục Việt Nam - Vietnam Education Foundation (VEF) tại Hà Nội đã trao công trình nghiên cứu thạc sĩ “Tìm hiểu từ ngữ sông nước trong đời sống văn hóa Việt” thực hiện tại Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 1997 giúp người viết định hướng và phát triển đề tài của mình. Xin gửi lời tri ân đến cô Đỗ Hương – giảng viên trường Đại học Sân Khấu Điện Ảnh Thành phố Hồ Chí Minh đã khuyến khích động viên và nhiệt tình giới thiệu người viết với GS. TS Trần Ngọc Thêm – giảng viên khoa Văn hóa học, Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh, để người viết tìm hiểu sâu hơn về văn hóa Nam bộ trong vùng ảnh hưởng của sông nước. Cảm ơn gia đình – chỗ dựa bền vững cho người viết hoàn thành tốt quá trình học tập. Cảm ơn những người bạn phụ trợ người viết sưu tầm, lưu chép phụ lục và chỉnh sửa lỗi trình bày cho luận văn được hoàn thiện. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn! Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2010 Đinh Thị Vũ Trinh CÁC CHỮ VIẾT TẮT MYN : Miền ý niệm. MYNSN : Miền ý niệm sông nước. NNHTN : Ngôn ngữ học tri nhận. DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Bề mặt trái đất có gần ¾ là nước với đại dương thế giới nối kết năm châu với vô số biển hồ, sông suối; riêng về sông thì trung bình của mười con sông dài nhất thế giới đã gần 6000km tạo nền văn hóa nước phủ rộng khắp toàn cầu. Nếu G. Lakoff và M. Johnsen đặt tiêu đề cho quyển sách về tri nhận của mình là “Chúng ta sống bởi ẩn dụ” (Metaphor we live by – cách dịch của người viết) để khẳng định vai trò của ẩn dụ trong đời sống ngôn ngữ, thì cũng có thể nói “chúng ta sống bởi nước” để thấy rõ tầm quan trọng to lớn bậc nhất của nước với đời sống con người và những tác động khác nhau mang tính vùng miền từ nó. “Nước” vẫn là chính nó, nhưng khi đi qua lãnh thổ mỗi quốc gia thì lại lưu những dấu vết địa lý khu biệt và những dấu ấn khác nhau – thậm chí rất khác biệt – trong tri nhận của cư dân từng địa phương. Và, dĩ nhiên, không phải mọi nền văn hóa gắn với nước đều tương đương nhau, đó là điều thú vị khiến chúng ta bị thu hút vào thế giới nước. Sở hữu hơn 3000 cây số đường bờ biển (gấp gần ba lần chiều dài đất nước) người Việt mang trong mình cách nhìn, cách nghĩ rất riêng, là sự dung hợp, hài hòa giữa môi trường sống sông nước bản chất duy cảm. Khảo sát 30.415 đơn vị thành ngữ, tục ngữ, ca dao tiếng Việt có 16,02% chứa các từ ngữ sông nước [39]. Trong 64 tên tỉnh thành Việt Nam hiện nay thì ít nhất 25% địa danh có yếu tố sông nước, chưa kể đến các tên huyện, thị. Đặc biệt, điều này vẫn diễn ra ở những địa phương mà đa phần là đất núi như Sông Bé, Hà Bắc xưa hay Đắk Lắk, KonTum, Hà Giang ngày nay. Trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày của người Việt, dễ dàng bắt gặp những hình ảnh sông nước như “chìm”, “trôi”, “nổi”, “ướt át”, “lênh đênh”…hay ngay cả lời ca cũng giàu những ẩn dụ tri nhận mang tính sông nước như “sông quê”, “suối mơ”, “sóng tình”, “có một dòng sông đã qua đời”… Kì thực, sông nước đã thấm vào đáy tâm thức người Việt. Từ tri nhận, tư duy đến dấu ấn trong ngôn ngữ hay phản chiếu song hướng giữa “sông nước” với ngôn ngữ là một hệ quả tất yếu xảy ra. Dấu ấn ấy đã diễn biến ra sao và như thế nào? Đây là vấn đề thú vị chẳng những về mặt văn hóa mà còn rất đặc biệt đứng từ góc nhìn ngôn ngữ. Với những lý do vừa trình bày trên, chúng tôi bắt tay tìm hiểu đề tài “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt” nhằm phân tích, lý giải một nét độc đáo của tư duy ngôn ngữ dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề “Sông nước” từ lâu không còn là vấn đề xa lạ trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như địa lí, kỹ thuật, kinh tế,văn hóa…với tri thức nền lẫn phương tiện hữu ích là ngôn ngữ. Ở chính địa hạt ngôn ngữ, sông nước cũng đã là một hiện tượng được quan tâm xứng đáng. Ở góc độ văn hóa, tìm hiểu về sông nước đã được đề cập rộng rãi trong những bài nghiên cứu như “Suy nghĩ về yếu tố sông nước trong văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Việt (Dân tộc học,1981, Số 4); “Sông nước trong tâm thức người Việt” của Nguyễn Thị Thu Trang (Văn hóa dân gian, 2006, Số 3); gần đây là luận văn thạc sĩ Văn hóa ứng xử với môi trường sông nước của người Việt miền Tây Nam Bộ của Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền (2006). Ở địa hạt ngôn ngữ, trước đây, tìm hiểu về các từ chỉ sông nước đã được sự khảo sát bởi Trần Thị Ngọc Lang (1982, 1995) với việc tìm hiểu nhóm từ có liên quan đến sông nước trong phương ngữ Nam bộ, Nguyễn Thị Thanh Phượng (1997) với đề tài Tìm hiểu từ ngữ sông nước trong đời sống văn hóa Việt Nam (luận văn thạc sĩ); đặc biệt, với phần phụ lục quy mô Nguyễn Thị Thanh Phượng đã chứng tỏ được một cách xuất sắc sông nước là một miền rộng lớn và ưu thế trong tiếng Việt từ xưa đến nay. Với xu hướng lấy “tri nhận” tiếp cận Ngôn ngữ học, chúng tôi muốn áp dụng nó cho lĩnh vực “sông nước”. Nguyễn Đức Dương từng dẫn trong quyển Tìm về linh hồn tiếng Việt rằng “Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc”[15]; điều đó càng khẳng định vai trò của NNHTN (Ngôn ngữ học tri nhận) – tìm hiểu xem con người đã hiểu thế giới khách quan ra sao và ý niệm hóa nó như thế nào trong ngôn ngữ. NNHTN là một hướng nghiên cứu mới, xuất hiện và tạo nên được nhiều “cú hích” cho việc đào sâu khai phá trong ngôn ngữ. Cũng có thể nói, với NNHTN, ngôn ngữ chính là cứ liệu cho việc xem xét đường hướng tư duy con người. Từ nó sẽ cấu trúc nên được dựa vào cơ sở nào người ta nói như thế này hay thế khác chứ không hẳn chỉ dựa trên những quy ước võ đoán mà chúng ta từng quan niệm về hai mặt của ngôn ngữ. Ở lĩnh vực tri nhận, trong Metaphors We live by George Lakoff and Mark Johnson [70] đã bắt đầu quyển sách của mình bằng quan niệm khác truyền thống về ẩn dụ: Ẩn dụ không chỉ xuất hiện trong thơ ca, trong văn học hay ngôn ngữ mà trong cả hành động và suy nghĩ của chúng ta. Và đó chính là một trong những cách nhìn mở đầu theo hướng tri nhận về Ngôn ngữ học trên thế giới. Việt Nam đã biết đến tri nhận ở những năm cuối thế kỷ XX, tuy nhiên, đây là hướng nghiên cứu chỉ rộ lên trong những năm gần đây, nổi bật và tiên phong có thể kể đến Lý Toàn Thắng với NNHTN – Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt (2005), Trần Văn Cơ năm với Khảo luận ẩn dụ tri nhận (2007) và NNHTN – Ghi chép và suy nghĩ (2009), đây là những cuốn sách tiếng Việt cần thiết cho những ai muốn bước đầu đi vào tri nhận luận. Song song đó là những công trình đi sâu chi tiết vấn đề tri nhận như Võ Thị Dung với Tìm hiểu tiếng Việt từ góc độ NNHTN (luận văn thạc sĩ, 2003); Nguyễn Thị Tâm với Sự tri nhận không gian biểu hiện qua nhóm từ chỉ quan hệ vị trí trong tiếng Việt so sánh với tiếng Anh (luận văn thạc sĩ, 2004); Hà Thanh Hải với “Hiện tượng ẩn dụ: nhìn từ các quan điểm truyền thống và quan điểm tri nhận luận” (bài báo, 2007), Phan Thế Hưng với Ẩn dụ dưới góc độ NNHTN (luận án tiến sĩ, 2008), Nguyễn Ngọc Vũ với Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của NNHTN (luận án tiến sĩ, 2008); gần đây nhất có thể kể đến Nguyễn Thị Thanh Huyền với Ẩn dụ tri nhận mô hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn (luận văn thạc sĩ, 2009) và Lê Thị Ánh Hiền với Ẩn dụ trong thi pháp dưới góc nhìn của G.Lakoff và M.Turner (luận văn thạc sĩ, 2009)… Những nghiên cứu về tri nhận ngày càng phát triển cho thấy: NNHTN không còn là vấn đề thách đố các nhà ngôn ngữ mà ngược lại, nó mở rất nhiều cánh cửa để đi vào tri thức về tiếng với đa chiều đa dạng kiểu chuyên sâu khác nhau. Thế nhưng, cũng có thể nhận ra chưa có công trình tỉ mỉ nào như một nghiên cứu chính thức cho sự kết hợp “sông nước” và “tri nhận”. Chẳng hạn bài báo của Nguyễn Đức Dân – “Nước – một từ đặc Việt” [85] cũng đã khơi gợi những ý tưởng về “lối tư duy nước” nhưng không nói đến tri nhận luận hay một hướng đi khoa học nào để đào sâu về vấn đề này. Trên cơ sở kế thừa thành quả của những công trình nghiên cứu của những người trước đó, với luận văn “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận người Việt”, chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề “sông nước” trên cơ sở của NNHTN như những bước khai phá đầu tiên đầy tính thử thách. 3. Đóng góp của đề tài Như đã biện giải, nghiên cứu vấn đề sông nước Việt Nam dưới ánh sáng của NNHTN là một việc làm ý nghĩa. Chúng tôi bắt đầu việc nghiên cứu này thông qua “miền” và trên cơ sở “miền” đi vào thế giới tư duy của người Việt ở lĩnh vực “sông nước”. Đây là phương cách tiếp cận hiệu quả cho những phạm vi rộng lớn: Quy vào các lĩnh vực cụ thể để đào sâu tìm tòi vấn đề. Từ đó, luận văn này đóng góp vốn ngữ liệu từ ngữ (từ định danh, thành ngữ và tục ngữ) thuộc Miền ý niệm sông nước (MYNSN) trên cơ sở chính là khái quát hóa hiện tượng Ẩn dụ – Hoán dụ ý niệm trong tiếng Việt. Chính vì vậy, tuy khoanh vùng ở phạm vi sông nước nhưng những cứ liệu của chúng tôi khác lạ so với những nguồn cứ liệu đã có rải rác trong từ điển hoặc các công trình về “sông nước” trước đó. Luận văn cũng thống kê các bài hát có ca từ hàm chứa MYNSN trong âm nhạc Việt, hiển nhiên, chúng tôi chỉ sưu tầm cứ liệu ca từ mang tính minh họa mà không đi quá sâu để tránh sự bất lượng sức. 4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp sưu tập ngữ liệu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung vào đối tượng là từ vựng, thành ngữ, tục ngữ và một số ca dao, ca khúc Việt Nam phần lớn xoay quanh 121 ý niệm thuộc MYNSN được nêu trong mục 5.3 (chương một luận văn). Khảo sát của chúng tôi hướng đến MYNSN và MYN có liên quan đến sông nước; nhưng để tiện cho việc diễn đạt và trình bày, trong đa số trường hợp liên quan, chúng tôi tạm gọi ngắn gọn là MYNSN. 4.2. Phương pháp sưu tập ngữ liệu Đối với từ ngữ thuộc MYNSN Ngữ liệu từ định danh: Chúng tôi sử dụng hai cuốn từ điển chính là Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên [38], Từ điển đồng âm tiếng Việt của Hoàng Văn Hành – Nguyễn Văn Khang – Nguyễn Thị Trung Thành [21] . Bên cạnh đó, chúng tôi dùng Từ điển Anh – Việt của viện ngôn ngữ học [52], Từ điển Việt Anh của Đặng Chấn Liêu – Lê Khả Kế [32] khi chú thích, đối chiếu nghĩa tiếng Anh 121 ý niệm nói trên. Ngữ liệu thành – tục ngữ: Chúng tôi kế thừa có chọn lọc phần phụ lục của đề tài Tìm hiểu từ ngữ sông nước trong đời sống văn hóa Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Phương [39] song song với khảo sát các ngữ liệu qua từ điển thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt và tiếng Anh [28, 51]. Đối với ca từ hàm chứa MYNSN Chúng tôi chọn 20 ca khúc tại trang web mp3.baamboo [82] theo tiêu chí từ nhạc dân ca (ba miền) đến nhạc âm hưởng dân ca và nhạc hiện đại. Để đảm bảo tính khách quan của ngữ liệu, chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên: tra tên bài hát và giữ lại đúng 20 ca khúc có chứa (không phân biệt ít nhiều) các từ ngữ thuộc MYNSN trong đó. 5. Phương pháp nghiên cứu Kế thừa và phát triển: chúng tôi kế thừa các công trình nghiên cứu trước về sông nước và về NNHTN, từ đó định ra hướng phát triển mới cho đề tài. Phân tích – miêu tả: chúng tôi tập trung phân tích, miêu tả về ý niệm và ý niệm sông nước với 7 miền ý niệm cụ thể. So sánh – đối chiếu: khi phân tích các ý niệm chúng tôi có đối chiếu với tiếng Anh và cách tri nhận của các dân tộc khác thông qua ngôn ngữ để làm sáng tỏ vấn đề. Thu thập – thống kê: thông qua các từ điển khác nhau và kế thừa phần phụ lục của Nguyễn Thị Thanh Phượng [39] chúng tôi đã tổng hợp nên 7 MYN cơ bản với 121 ý niệm cơ bản thuộc MYNSN. Dựa vào đây chúng tôi sắp xếp ngữ liệu phụ lục. 6. Ý nghĩa khoa học của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý thuyết Đề tài của chúng tôi đi vào khái chung cách tiếp cận ngôn ngữ dưới lăng kính NNHTN, từ đó góp phần làm phong phú những nghiên cứu về ngôn ngữ thuộc “sông nước” trong tiếng Việt từ góc độ MYN (Miền ý niệm). Để rồi, MYN được lưu ý thành một thuật ngữ quan trọng trong NNHTN và, luận văn còn hướng đến việc xây dựng các thống kê chuyên ngành mà cao hơn là các từ điển chuyên ngành đi sâu vào miền ý niệm sông nước (MYNSN). 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn nhấn mạnh đến kinh nghiệm sông nước nổi bật trong tư duy ngôn ngữ của người Việt so với các dân tộc khác và ngay trong chính hệ thống ngôn ngữ mà người Việt đang sử dụng. Thông qua đó, chúng tôi khẳng định MYNSN là một miền ưu thế, rộng khắp vượt ra khỏi lãnh vực của cư dân vùng sông nước. Luận văn cũng góp phần nhỏ khơi vào việc nghiên cứu ca từ dưới góc độ tri nhận luận với hy vọng tạo một cầu nối giữa Ngôn ngữ học và Âm nhạc học Việt Nam. Từ đấy, chúng ta chung sức tạo nên nền Âm nhạc Việt có những tác phẩm không những đẹp đẽ về làn điệu mà còn có thẩm mỹ trong ca từ. 7. Bố cục luận văn Luận văn (ngoài phần dẫn nhập, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục) sẽ gồm 2 chương: CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1. Ngôn ngữ học tri nhận – một khuynh hướng hiện đại 2. Quá trình tri nhận cơ bản trong não người 3. Bức tranh ngôn ngữ về sông nước của người Việt 3.1. Bức tranh ngôn ngữ về ý niệm nước 3.2. Bức tranh ngôn ngữ về ý niệm sông 3.3 Bức tranh ngôn ngữ với ý niệm sông nước 4. Miền ý niệm sông nước trong tiếng Việt 5. Tiểu kết CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI – MÔ TẢ MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC VÀ MIỀN Ý NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN SÔNG NƯỚC 1. Định danh thuộc miền ý niệm sông nước trong từ vựng tiếng Việt 2. Ẩn dụ và hoán dụ tri nhận về miền ý niệm sông nước trong hoạt động ngôn ngữ của người Việt 3. Miền ý niệm sông nước trong ca từ tiếng Việt 4. Tiểu kết CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1. Ngôn ngữ học tri nhận – một khuynh hướng hiện đại Ngôn ngữ học thế giới tính đến khi NNHTN ra đời có thể kể đến ba thời kỳ cơ bản: Thời kỳ cấu trúc luận, Thời kỳ Ngữ pháp tạo sinh và Thời kỳ chức năng luận. Thời kỳ cấu trúc luận bắt đầu vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX với nhà ngôn ngữ học người Pháp gốc Thụy Sĩ F. D. Saussure. Ông đặt nền móng cho Ngôn ngữ học phổ thông hiện đại (bên cạnh đó là công ghi chép, phổ biến của hai học trò ông là Charler Bally và Albert Sechehaye) sau một thời gian rất dài xuất hiện chữ viết từ thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên. Trước khi có những bài giảng đại cương của Saussure về Ngôn ngữ học, khái niệm “ngôn ngữ là gì” chưa từng được định nghĩa thỏa đáng. Và, các trường phái ngôn ngữ tiền cấu trúc chưa thực chính thức xem ngôn ngữ như một khoa học riêng biệt đúng nghĩa: đã có khuynh hướng đánh đồng nghiên cứu ngôn ngữ với Logic học, xem trọng quy tắc đúng sai trong ngữ pháp; hoặc ngôn ngữ được đưa vào làm đối tượng duy nhất của ngành Ngữ văn – lấy việc giải thuyết, phân tích văn bản làm chủ điểm và có khi còn nhập cả vào Lịch sử văn học... Ở thời kỳ này, ngôn ngữ được xem là một hệ thống cấu trúc với cơ sở là các yếu tố và mối quan hệ – nghiên cứu chỉ bản thân ngôn ngữ trong sự phân chia rạch ròi ngôn ngữ với lời nói (Tuy chính Saussure cũng đề cập đến sự ảnh hưởng của ngôn ngữ từ những yếu tố “ngoài ngôn ngữ” như phong tục, thiết chế trường học, nhà thờ, lịch sử dân tộc…). Phương pháp của cấu trúc luận là miêu tả, đại loại là thu thập, thống kê sự xuất hiện của từ và sau đó là khái quát hóa quy tắc của nó trong các quan hệ. Tuy nhiên, có nhiều hiện tượng không thể giải thích bằng mối quan hệ. Chẳng hạn từ “lên” trong tiếng Việt trong hai trường hợp: Thầy tôi lên núi/Cô tôi lên trường, chúng ta không thể dùng cách khái quát để phân tích cấu trúc của từ “lên”, đó là một trong những mặt hạn chế của thời kỳ cấu trúc luận và tồn tại mãi đến những năm 1960. Ngữ pháp tạo sinh của N. Chomky ra đời được gọi là “cuộc cách mạng tri nhận” của những năm 1950; tạo một sự thay đổi quan trọng: từ nghiên cứu hành vi sang nghiên cứu các sản phẩm, từ những cơ chế bên trong thâm nhập vào tư duy và hành động. Ngữ pháp tạo sinh là trường phái có ảnh hưởng to lớn đối với ngôn ngữ học thế giới, chiếm vị trí chủ đạo trong suốt ba thập niên (1960 – 1980). N. Chomsky đã nhận ra có rất nhiều hiện tượng mà Ngôn ngữ cấu trúc không thể giải thích được. Một ví dụ hay được đề cập đến là hiện tượng một đứa trẻ có thể nắm vững tiếng mẹ đẻ, nó có thể nói ra những câu chưa bao giờ nói và có thể hiểu những câu chưa bao giờ nghe. Chomsky lưu ý đến khả năng tạo sinh ngôn ngữ của con người: Con người có thể thông hiểu, cảm thụ được vô vàn lời nói vô hạn trong đời sống bằng các thông số hữu hạn trong bộ não. Mặt khác, nếu quan niệm ngôn ngữ là tập hợp tất cả các phát ngôn của một ngôn ngữ bất kỳ – tức theo nguyên tắc cấp số cộng – thì về lý thuyết, có thể có một lượng vô hạn các phát ngôn mà trí nhớ của con người không thể lưu giữ hết được (nếu như vậy thì muốn nói thuần thục một ngôn ngữ, người có kinh nghiệm sống 60 năm cần bộ nhớ gấp 1000 lần hiện có để lưu giữ thông tin ngôn ngữ)… Chức năng luận hay Ngữ pháp chức năng là một lý thuyết với hệ thống phương pháp xem ngôn ngữ như một công cụ của sự tương tác xã hội, được sử dụng chủ yếu để thiết lập mối quan hệ giữa người nói với người nghe. Và ngôn ngữ chính là phương tiện thực hiện giao tiếp giữa người với người. Ngữ pháp chức năng ra đời vào khoảng cuối thập niên 1970 (mà S.C.Dik, M.A.K.Halliday là những nhà nghiên cứu tiêu biểu) không nằm ngoài việc tìm kiếm cách nghiên cứu mới hơn để khắc phục những hạn chế của các lý thuyết truyền thống trước đó. Nếu hai chức năng chủ yếu của ngôn ngữ là tư duy và giao tiếp thì chức năng giao tiếp được Ngữ pháp chức năng đặc biệt nhấn mạnh, bổ túc cho quan niệm quá xem trọng hình thức – tức trọng nghiên cứu văn bản – đã tồn tại khá bền vững lâu nay. Về cơ bản, Ngữ pháp chức năng là ngữ pháp tự nhiên với nét nghĩa là mọi hiện tượng ngôn ngữ đều có thể giải thích được trong mối quan hệ với việc ngôn ngữ được sử dụng như thế nào với ba bình diện cơ bản: Cú pháp – Ngữ nghĩa – Ngữ dụng. “NNHTN (Cognitive linguistics) là một trường phái mới của Ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật và sự tình của thế giới khách quan”[43]. NNHTN ra đời vào cuối những năm 1980 – 1990, là khuynh hướng mới nhất xuất hiện trên ngôn đàn thế giới tính đến thời điểm hiện tại (bắt đầu ở Việt Nam từ năm 1994). Ngôn ngữ học truyền thống cho rằng các dân tộc tư duy giống nhau và chỉ có ngôn ngữ là khác nhau – tức xem tư duy mang tính phổ quát và ngôn ngữ mang tính đặc thù. Nhìn xuyên suốt, quan niệm này chưa hoàn toàn chuẩn xác dù thực chất thế giới loài người có “phổ niệm”, có sự tương đồng trong tư duy, tuy nhiên, sự giống nhau trong cách nghĩ không là 100%. NNHTN xem quan niệm về sự giống nhau tuyệt đối ấy là “phi tri nhận”, vì rõ ràng cùng một sự vật hiện tượng như nhau trong thế giới khách quan nhưng con người – mà tập trung nhất là ở cấp độ văn hóa dân tộc, việc tri nhận vô cùng khác biệt nhau. Những khác biệt đó thể hiện rõ trong ngôn ngữ – bức tranh ngôn ngữ, và từ ngôn ngữ chúng ta có thể biết được những tri nhận khác nhau đó. Vậy, hiểu “tri nhận” như thế nào? Tri nhận là khái niệm chứa đựng nghĩa của hai từ kết hợp: cognition (nhận thức) và cogitation (tư duy – suy nghĩ). Tri nhận còn là nhận thức và đánh giá của con người về bản thân trong thế giới xung quanh và xây dựng bức tranh thế giới đặc biệt – tất cả những cái tạo thành cơ sở cho hành vi của con người. Tri nhận là tất cả những quá trình trong đó những dữ liệu cảm tính được cải biến khi truyền vào trong não dưới dạng những biểu hiện tinh thần (hình ảnh, mệnh đề, khung, cảnh,…) để có thể lưu lại trong trí nhớ con người. Đôi khi tri nhận còn được định nghĩa như là sự tính toán, nghĩa là xử lí thông tin dưới dạng những kí hiệu, cải biến nó từ dạng này sang dạng khác – thành mật mã khác, thành cấu trúc khác. Khoa học tri nhận (cognitive science) được hình thành như một khoa học vào những thập kỉ 60 – 70 của thế kỉ XX, có nhiệm vụ nghiên cứu và mô hình hóa các quá trình trí tuệ của con người. Tri nhận là một cách nhìn, theo đó con người cần phải được nghiên cứu như một hệ thống chế biến thông tin, còn hành vi của con người cần phải được miêu tả và thuyết giải bằng những thuật ngữ về những trạng thái nội tại của con người. Những trạng thái này về mặt vật lí học, được thể hiện, được quan sát và được thuyết giải như là sự tiếp nhận, chế biến và lưu trữ, sau đó là vận dụng thông tin để giải quyết một cách hợp lí những nhiệm vụ đặt ra. Do việc giải quyết những nhiệm vụ này trực tiếp cần đến việc sử dụng ngôn ngữ nên tất nhiên ngôn ngữ phải nằm ở trung tâm chú ý của các nhà tri nhận luận. Liên quan đến khoa học tri nhận, các bộ môn khác nhau nghiên cứu những bình diện khác nhau của sự tri nhận. Trong đó, Ngôn ngữ học nghiên cứu những đặc điểm ngôn ngữ của hệ thống tri thức. Nếu tri nhận luận có đối tượng nghiên cứu là trí tuệ, tư duy và các quá trình tinh thần của con người, thì NNHTN thiết lập mối quan hệ giữa đối tượng ấy với ngôn ngữ tự nhiên mà con người sử dụng trong giao tiếp thường nhật. F. de Saussure từng so sánh “ Ngôn ngữ còn có thể so sánh với một tờ giấy: mặt phải là tư duy, mặt trái là âm thanh; không thể cắt mặt phải mà không đồng thời cắt lên cả mặt trái...”. Thế nhưng, Ngôn ngữ học mà ông đi nghiên cứu lại trừu xuất khỏi lời nói, phân tách nó và tạo nên tính “tự trị”. Tính tự trị của ngôn ngữ đã tồn tại từ lâu, cho rằng hệ thống ngôn ngữ có thể được miêu tả và thuyết giải trong phạm vi chính bản thân mình, mà không cần quan tâm đến những hiện tượng khác như tâm lí, tư duy, bộ não, giải phẫu và sinh lí học con người, xã hội, tộc người…và xem bất cứ luận thuyết nào giải thích các hiện tượng ngôn ngữ mà dựa vào những hiện tượng ngoài ngôn ngữ đều không phải là ngôn ngữ học – Mặc dù vẫn có sự chú ý đến mối liên hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. Khác với quan niệm về tính tự trị của ngôn ngữ, đối tượng nghiên cứu của NNHTN là ngôn ngữ thường nhật của con người ở dạng tự nhiên nhất với những dữ kiện ngôn ngữ có thể quan sát trực tiếp được như vốn từ vựng, ca từ và cả những dữ kiện không thể quan sát trực tiếp được như trí tuệ, tri thức, ý niệm, ý thức,… 2. Quá trình tri nhận cơ bản trong não người Trải nghiệm tinh thần (mental experience) của mỗi người là một tập hợp vô số những dữ kiện tri nhận (dữ kiện: “điều coi như đã biết trước, được dựa vào để tìm những cái chưa biết trong bài toán”[38]) để hệ thống hóa các trải nghiệm tinh thần này, các dữ kiện cần được sắp xếp, điều chỉnh – tức củng cố lẫn kết nối với nhau… Trong những tiểu cấu trúc được kết nối đó của toàn bộ hệ thống; sự so sánh, đối chiếu các dữ kiện tri nhận tạo nên được khả năng phân chia hiện thực khách quan của con người. Quá trình củng cố, kết nối và so sánh dữ kiện giúp con người tạo nên biểu trưng tinh thần (mental symbol) – Biểu trưng tinh thần là khái niệm chìa khóa của khoa học tri nhận liên quan đến quá trình biểu tượng thế giới trong đầu óc con người, đồng thời nó cũng liên quan đến đơn vị của biểu tượng đó tồn tại thay cho một cái gì nằm trong thế giới hiện thực hay tưởng tượng [10:143] (cách hiểu này khiến “biểu tượng” mang tính kí hiệu – thay cho cái gì đó – của kí hiệu học). Tập hợp các biểu tượng tạo ra cái gọi là bộ nhớ, bao gồm cả trí nhớ ngôn từ và trí nhớ hình ảnh. Tổng hòa những biểu tượng bằng ngôn từ (mà phần phụ lục của chúng tôi chính là bao gồm những biểu tượng ngôn từ sông nước đã được phân loại) được gọi là từ vựng tinh thần – được xem là giai đọan hoàn bị cuối cùng của biểu tượng. Còn tập hợp các biểu tượng thì được gọi là hệ thống ý niệm hay còn gọi là mô hình (bức tranh) ý niệm về thế giới. Song song với biểu tượng tinh thần, quá trình trừu tượng hóa cho phép con người cảm nhận được các biểu tượng tinh thần ấy ở nhiều cấp độ khác nhau. Việc tri nhận từng phần về bức tranh thế giới cho chúng ta những biểu tượng rời rạc, sự củng cố, tương tác và so sánh tạo nên những cấu trúc tinh thần – tri nhận các dữ kiện rời rạc thành một chỉnh thể có nghĩa. R.W.Langacker đã đưa ra ba hình ảnh rời rạc về các góc không tiếp nhau, tạo một chuỗi sự kiện có liên quan đến hình tam giác. Trong nhận thức của chúng tôi, có thể trong giao tiếp các sự kiện ngôn từ rời rạc nhưng khi tư duy, chúng nằm trong một hệ hình nhất định. Sự liên kết để tạo nên những cấu trúc không hoàn toàn mạch lạc và logic, nhưng chắc chắn sự liên kết này có tồn tại trong tư duy con người. Lấy ví dụ về tri nhận về sông nước, những “bờ”, “ao”, “hồ”, những “dụng cụ đánh bắt” hay “các họat động trên sông nước” thực chất là các sự kiện riêng lẻ, nhưng bộ não của cư dân người Việt đã “tổ chức lại” thành những cấu trúc hoàn chỉnh trong não mình thành những miền cố định (chúng tôi định thành 7 miền cơ bản) mà chúng ta sẽ phân tích cặn kẽ ở những phần tiếp sau. Cấu trúc tinh thần được tạo trên cơ sở sự củng cố, liên kết các dữ kiện tạo nên những mô hình nhất định được gọi là tiêu chí, tiêu chí dùng để đánh giá kinh nghiệm. Trong MYNSN chúng ta đang xét, Miền các dạng nước là một tiêu chí với nhiều dạng riêng lẻ: nước đá, nước hoa, nước vôi… Một quá trình nữa trong hoạt động tri nhận là quá trình phóng chiếu – quá trình tổng hợp trong đó một tiêu chí đã được củng cố S (entrenched standard) chiếu lên một đích tri nhận T (cognitive target). Ví dụ trong câu ca: Ta về ta tắm ao ta/Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn, “ao” thuộc tiêu chí đã được củng cố – thuộc Miền vật chứa nước và các yếu tố bộ phận liên quan tới vật chứa (Trường ý niệm 2 trong phân loại MYNSN) và đích tri nhận lúc này sẽ là vùng miền sinh sống. Quá trình phóng chiếu chỉ diễn ra khi tiêu chí S được kích hoạt dựa trên cơ sở các tiểu hệ thống gắn liền với S và T; các tiểu hệ thống trong trường hợp này chính là sự tri nhận về những tương đồng giữa “ao” với “làng quê”: với người Việt, ao là vật chứa quen thuộc và dường như không thể thiếu ở mỗi vùng quê; như vậy đã có những tiểu hệ thống phóng chiếu giữa hai miền mà cụ thể trong ví dụ này là ý niệm “ao” và “làng quê”. Việc phóng chiếu các lược đồ để phân nhóm các đích tri nhận chính là một phần quan trọng của quá trình phạm trù hóa. Thông qua quá trình phạm trù hóa, dữ kiện được tổ chức thành những nhóm có các điểm giống nhau bằng cách loại bớt các dị biệt riêng lẻ. Ví dụ chúng ta thường lấy “sông” để nói đến sự chia cách, cách trở, chia lìa…như “sang sông”, “đưa người qua sông”…dù giữa “sông” và “khoảng cách” có những khác biệt cơ bản như đây là hai khái niệm giữa vật thể (sông) và đo lường (khoảng cách) nhưng đã bị che khuất, bị giản đơn hóa trong quá trình phóng chiếu và phạm trù hóa. Tóm lại, theo quan điểm của NNHTN, trong bộ não của con người cùng lúc diễn ra nhiều hoạt động tri nhận phức tạp. Việc hình thành tri thức của con người là một quá trình tổng hợp nhiều giai đọan nối tiếp: củng cố – kết nối – so sánh – trừu tượng và phóng chiếu đi đến phạm trù hóa. Thông qua các quá trình này mà dữ kiện từ môi trường xung quanh được chuyển thành tri thức của con người. Một khi các dữ kiện này đi vào ngôn ngữ, chúng được cô lập hóa qua các hoạt động tư duy bằng các MYN và như vậy, các MYN thực chất là những yếu tố nằm trong một chỉnh thể tri nhận từ vựng. 3. Bức tranh ngôn ngữ về sông nước của người Việt 3.1. Bức tranh ngôn ngữ về ý niệm nước Bức tranh thế giới là hạt nhân cơ sở của thế giới quan con người. Bức tranh thế giới là cách nhìn của con người về thế giới khách quan chứ không đồng nhất với thế giới khách quan. Thế giới khách quan thì vô hạn nhưng tri thức mà con người có được luôn luôn có hạn dù đặc tính của tư duy loài người là muốn biết đến tận cùng. Do đó, điều đương nhiên là Bức tranh thế giới của con người sẽ hẹp hơn hiện thực thế giới khách quan về chiều rộng; nhưng về chiều sâu bức tranh thế giới dường như chi tiết hơn và đặc biệt mang tính tinh thần. Trong bức tranh về thế giới, ở mỗi cá thể con người lại là một bức tranh riêng lẻ khác nhau, tuy nhiên, trong tính cá nhân ấy vẫn có nhiều những giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau ở mỗi cá thể cùng thế hệ hoặc thế hệ sau ảnh hưởng bởi thế hệ trước đó. Có nhiều quan niệm khác nhau về bức tranh – cách nhìn thế giới của con người, nhưng cơ bản nhất có thể chia ra hai bức tranh thế giới (dù không phải luôn phân tách rõ ràng): i. Bức tranh khoa học về thế giới, ii. Bức tranh thơ ngộ về thế giới (bức tranh ngôn ngữ). Hai bức tranh này tương tạo nên cái nhìn phong phú của con người về thế giới nó đang chinh phục. Bức tranh ý niệm (hình ảnh, biểu tượng về thế giới trong ý thức) tạo nên bức tranh ngôn ngữ về thế giới – gọi là bức tranh thứ hai về thế giới. Do đó, qua đặc trưng ngôn ngữ mẹ đẻ của một dân tộc nhất định, chúng ta có thể hiểu được “bức tranh thế giới thứ hai”, hiểu được cách nhìn thế giới phổ biến và đặc trưng của cả một dân tộc. Cũng có thể nói, có bao nhiêu ngôn từ được phản ảnh trong ngôn ngữ một dân tộc thì có bấy nhiêu bức tranh ý niệm thông qua nó tồn tại. Tuy nhiên, chúng ta không xét chi tiết mọi ngôn từ được xác lập trong hệ thống một ngôn ngữ được nghiên cứu mà chỉ tập trung vào những từ ngữ có tính biểu trưng trong ý thức dân tộc ấy. Giả sử đối với người Việt, những ý niệm như “số phận”, “trời”, “cây tre”, “mặt”, “sông”, “con đò”,…sẽ được nghiên cứu chi tiết vì tính biểu trưng cô đọng của nó. Trong luận văn này, ý niệm về “nước”, về “sông”, về “sông nước” sẽ được khai thác tỉ mỉ từ góc độ bức tranh ý niệm trong tư duy ngôn ngữ người Việt. Đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu ý niệm “nước” (ý niệm là gì sẽ được làm rõ ở 4.1 chương này) với nghĩa gần gũi nhất trong tri nhận con người: Chất lỏng không màu, không mùi và trong suốt khi là nguyên chất, tồn tại trong tự nhiên ở sông hồ, biển…[38]. “Nước là thành phần rất cần thiết cho sự sống, chưa từng phát hiện sự tồn tại của nó trên bề mặt của bất kì hành tinh nào khác…” [89]. Không dừng ._.ở cách hiểu mang tính khoa học thường thức ấy, chúng ta còn nghiên cứu nước dưới góc độ là một biểu tượng tinh thần đặc biệt mang tính nhân loại. Nước với hầu hết các nền văn hóa trên thế giới được biết đến với ba ý nghĩa chủ đề: 1. Mầm sống, nguồn sống, 2. Phương tiện thanh tẩy, 3. Tâm điểm của sự tái sinh [5, 6]. Trong tiếng Việt cũng có những biểu hiện đó. Cụ thể với thành ngữ, ca dao tiếng Việt chúng có vô thủy nghỉ ăn, bắc nước chờ gạo người, chờ hết nước hết cái, lạ nước lạ cái (Mầm sống, nguồn sống)…Dù ai xấu xí như ma/Tắm nước đồng Lẫm cũng ra con người (Phương tiện thanh tẩy); Của bàn tay làm ra như nước nguồn/Của cha mẹ để cho như nước lũ (Tâm điểm của sự tái sinh). Với cư dân vùng lúa nước Việt, “nước” không chỉ là điều kiện tiên quyết của kinh tế nông nghiệp (“nước – phân – cần – giống”) mà còn là yêu cầu đầu tiên cho mọi sự lựa chọn từ nơi sinh sống đến vị trí quan trọng nhất là kinh đô của một quốc gia. Có thể thấy rằng, hình ảnh nước được lưu giữ, củng cố trong ngôn ngữ tiếng Việt như một nét đặc thù mà trong các từ điển tiếng Việt chỉ phản ảnh được phần nào. Chẳng hạn từ “nước da” (complexion) thì từ “nước” ngoài nghĩa lớp bên ngoài như nét nghĩa là lớp phủ bên ngoài cho bền đẹp và vẻ ánh bóng tự nhiên ở một số vật thì nó còn có nghĩa chỉ màu sắc (the color) – một nét nghĩa khá bất ngờ trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ “nước” mà chưa ngôn ngữ nào có. Những biểu hiện đặc trưng và phong phú tương tự thế này sẽ tiếp tục được làm rõ hơn trong những chương mục tiếp theo. Ở chuyên mục này, chúng tôi cố gắng chứng tỏ rằng “nước” với nghĩa nguyên gốc cũng đã là một ý niệm giàu hình ảnh trong trí nghĩ người Việt. Từ xưa, dân tộc Việt Nam đã quan niệm lưỡng phân nhị nguyên Đất – Nước, nên mới có sử thi “Đẻ đất, đẻ nước” (Te tấc te đác) của người Mường; rồi cách ẩn dụ (tri nhận) của người Việt “Mặt trời mọc/ lặn” như cây mọc từ đất và hoạt động của con người dưới nước: lặn. Theo Nguyễn Đức Dân [85]: “Chuyển từ ngày sang đêm, mặt trời buông xuống rồi biến mất, giống như khi ta lặn xuống nước không ai thấy nữa. Vậy là người Việt nói mặt trời lặn…”. Ông còn viết thêm: “Bắt đầu một ngày, mặt trời nhô lên khỏi biển được người Việt gọi là “mặt trời mọc” giống như cây mọc từ đất, hoa sen, hoa súng mọc từ nước, trong khi các dân tộc Anh, Nga, Pháp nói là “mặt trời đi lên” (Cứ liệu sau làm nổi rõ vai trò của “nước”, nhưng theo chúng tôi, hoa súng, hoa sen thật chất cũng mọc từ đất! Và thân cây mới thật trong nước – Chỉ những cây ký sinh như lan, tầm gửi, tơ hồng… là không bắt đầu từ đất; khi nói mặt trời mọc, người Việt dường như không nghĩ đến nước, mà chỉ nghĩ đến cây lớn lên). Trong ca dao Việt Nam, người phụ nữ được ví “lênh đênh mười hai bến nước” hay “ba chìm bảy nổi…” cũng là từ tri nhận những hoạt động của người trong nước. Hay nhạc sĩ Văn Cao vẫn “ngụp lặn” giữa hồn sông nước trong “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Buồn tàn thu”, “Sông Lô”, “Trương Chi”…và nước đã trở thành cái nền chính cho âm nhạc của ông. Với những đặc trưng nổi bậc của nước, chúng tôi đã dành nhiều phần phân tích trọng tâm và không ngần ngại xem nước là một hiện tượng cần khai phá riêng biệt bên cạnh ý niệm thuộc “sông nước”. 3.2 Bức tranh ngôn ngữ về ý niệm sông “Sông là dòng nước lưu lượng lớn thường xuyên chảy, có nguồn cung chủ yếu là từ hồ nước, từ các con suối hay từ các con sông nhỏ hơn nơi có độ cao hơn. Các dòng sông hầu hết đều đổ ra biển…” [86]. Với tri nhận bản thể là trung tâm, con người quan niệm mình như ở vị trí gốc tọa độ, nhìn lên (trục tung) là nguồn nước chảy xuống dưới là biển cả (Lên trời xuống biển), trục hoành là hai bên tả – hữu của con người. Biểu tượng sông (hay dòng nước chảy) là biểu tượng về khả năng của vạn vật, của tính lưu chuyển của mọi dạng thể, của sự phong nhiêu, của cái chết và sự đổi mới. Dòng chảy là dòng của sự sống và cái chết với sự xuôi chảy hòa vào đại dương hay ngược dòng hoặc vượt bờ. Sự xuôi chảy là sự tụ họp nước, là sự trở về với trạng thái bất phân, là lối vào Nirvana (Niết Bàn). Sự ngược dòng là sự trở về với thần thánh – cội nguồn, bản thể. Sự vượt bờ là sự vượt qua chướng ngại vật, vượt qua chướng ngại ngăn cách hai lĩnh vực, hai trạng thái, hai thế giới: cảm tính và siêu thoát – hiện thực và phi hiện thực [5:829]. Với người Ấn, sông Hằng là một dòng sông đổ từ trên cao – từ ân huệ trên cao vời, từ mái tóc của thần Siva, dòng sông của tắm gội, tẩy uế và giải thoát. Ở người Hy Lạp là sự tôn kính lẫn kinh sợ, người ta cúng tế cho thần sông lễ vật bằng cách nhấn chìm những con bò hoặc ngựa còn sống, và, người ta chỉ qua sông khi đã tuân thử những nghi lễ tẩy uế và nguyện cầu. Chảy từ trên cao xuống, quanh co qua núi vào thung lũng và biến mất trong những lòng hồ và đại dương, dòng sông trở thành biểu trưng cho đời người vô thường với những chuỗi liên tiếp những dự tính, ước ao, những suối nguồn tình cảm và thiên hình vạn trạng những bước ngoặt của chúng đúng với thành ngữ triết lý của người Việt: “sông có khúc, người có lúc.” Việt Nam là nước có hệ thống sông ngòi dày đặc đổ ra biển từ bắc chí nam – miền Bắc có 10 cửa biển lớn, miền Trung có 8 và miền Nam có 13 [86]. Chúng ta có tới 2.360 con sông, kênh lớn nhỏ với tổng chiều dài khoảng 41.900 km. Mật độ sông và kênh trung bình ở Việt Nam 0,6 km/km², khu vực sông Hồng 0,45 km/km² và khu vực đồng bằng sông Cửu Long là 0,68 km/km². Các sông lớn thường bắt nguồn từ nước ngoài chỉ có phần trung du và hạ lưu chảy trên địa phận Việt Nam [86]. Lưu lượng nước của các sông và kênh là 26.600 m³/s, trong tổng lượng nước này phần được sinh ra trên đất Việt Nam chiếm 38,5%. Lượng nước không đồng đều giữa các hệ thống sông: hệ thống sông Mê Kông chiếm đến 60,4%, hệ thống sông Hồng là 15,1% và các con sông còn lại chiếm 24,5% [86]. Điều này làm Nam bộ trở thành miệt vùng mà khi nói đến văn hóa sông nước người ta nghĩ ngay về nó. Tuy nhiên, với hơn 20 con sông lớn trải khắp lãnh thổ đã tạo nên hình ảnh một Việt Nam gắn chặt với dòng sông – con đò. Nói đến núi – sông là nói về “Nam quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt) tức nói về tổ quốc Việt Nam. Với thơ văn, hình ảnh sông đã dọc theo chiều dài thi ca nước nhà, có thể nói, từ khi có thơ ca thì cũng là lúc sông bắt đầu tồn tại trong ngôn từ tiếng Việt: Yêu nhau mấy núi cũng trèo Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Sông với dân gian đã là biểu trưng cho gian khó, thử thách; vì vậy mà không có ít những câu ca dao như: Sông dài cá lội biệt tăm Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ Sông sâu cá lội vô bờ Phải duyên thì lấy, đợi chờ chi nhau. Hay: Cách sông mới phải lụy đò Vì chưng trời tối lụy cô bán hàng. Sông còn được xem là cội nguồn trong văn tịch cổ: Trăm năm tính cuộc vuông tròn Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông (Kiều – Nguyễn Du) Không người Việt nào xa lạ với những biểu trưng phong phú: sông là dòng chảy bất tận của thời gian (Sông cạn đá mòn), sông là sự xác định giới hạn về không gian (Đôi ta cách một con sông); sông nước là nguồn cội thiêng liêng (Uống nước nhớ nguồn); sông là chỗ dựa của niềm tin trong cuộc sống (Sông có khúc, người có lúc)… Đến văn học hiện đại, sông lại ngồn ngộn với biểu trưng về quê hương đất nước: Em ơi buồn làm chi, Anh đưa em về bên kia sông Đuống… (Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm) Và: Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi bóng những hàng me Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Tỏa nắng xuống dòng sông lấp lánh… (Nhớ con sông quê hương – Tế Hanh) Trong “Quê hương”, Tế Hanh cũng mở đầu: “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới/ Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”… Một điều thơ mộng không chỉ trong ca dao, văn thơ xưa mà ngay chính trong âm nhạc Việt đương đại cũng thấm đẫm hình ảnh sông. Hát về núi sông tức cũng là ca bài ca về đất nước Việt. Này là con sông Tương trong bài ca Ai về sông Tương (Thông Đạt), con sông Lô trong bài hát cùng tên của Văn Cao, con sông Vàm Cỏ trong Vàm Cỏ Đông (Trương Quang Lục), sông Hậu trong Chiếc áo bà ba (Trần Thiện Thanh)…Sông là biểu trưng gắn với tình cảm quê hương trong Sông Quê (Nguyễn Trọng Tạo): “Sông quê nước chảy đôi bờ/ Để anh chín dại mười khờ thương em. Ơi con sông quê, bao năm đã lở đã lở bồi”… Người Việt xa xưa còn coi sông như một hình nhân sống nên có cách đặt tên phổ biến: sông Cái, sông Con, sông Cả… và cũng cho thấy mối thân tình ruột rà với tự nhiên. Lưu vào tiếng Việt, người Êđê cũng bắt đầu tên địa danh của mình là sông (Krông) nên một số địa danh Tây Nguyên, vùng không hề biết đến biển cả thì yếu tố sông nước đặc biệt nổi biệt: (huyện) Krông Bông, Krông Buk , Krông Pak, Krông Ana, Krông Năng… Như vậy, đến đây có thể khẳng định: vai trò to lớn của sông trong tri nhận, trong bức tranh thế giới thứ 2 của tư duy người Việt chúng ta là điều có thật và có nhiều cơ sở xác đáng. 3.3 Bức tranh ngôn ngữ với ý niệm sông nước Sông nước là sông, về mặt là cảnh vật thiên nhiên, hoặc điều kiện sinh sống của con người (nói khái quát). Ví dụ: Thạo nghề sông nước, cảnh sông nước nên thơ. [38:867] “Nước sông” hay “sông nước” đều có nghĩa, nhưng ý nghĩa thì không như nhau. “Nước sông” chỉ là một dạng của nước nói chung theo nghĩa gốc trong khi thuật ngữ “sông nước” khái quát hơn đã định nghĩa trên, hiểu một cách dân dã là vùng đất quanh sông suối, kênh rạch... Cũng theo nghĩa này, cảnh “gạo chợ nước sông” được xem là cảnh buôn bán tấp nập của dân miền sông nước, trong một số ngữ cảnh khác, có thể còn có nghĩa là bấp bênh (Nậu rớ ăn gạo chợ, uống nước sông), “thạo nghề sông nước” tức người dân đã quen với điều kiện sinh sống đánh bắt vùng (miền) sông nước. Ở “Sông nước nên thơ” thì “sông nước” được khái quát để chỉ cảnh thiên nhiên xinh đẹp gắn với sông nước. Về mặt văn hóa, “sông nước” là từ ngữ biểu trưng Văn hóa nước khoanh lại ở vùng đất liền, liên quan đến kênh rạch, sông suối; bên cạnh đó là biển cả – chỉ vùng ngoài đại dương. Sẽ có những khoảng giao thoa giữa sông nước và biển cả trong việc dùng ngôn từ; và sự phân biệt này, trên lĩnh vực ngôn ngữ có thể nói chỉ là tương đối. Để bao quát, chúng tôi cũng xem “ý niệm sông nước” là biểu tượng tinh thần về vùng đất liền liên quan chủ yếu đến kênh rạch sông suối bên cạnh đó là biển cả xuyên suốt luận văn. Với nước, sông là một vật thể đi liền, dường như sông mật thiết với cư dân Việt và “sông nước” từ lâu vẫn là hình ảnh quen thuộc, dung dị về quê hương, bản quán bên cạnh cây đa, rặng dừa, đình làng trong lòng mỗi người dân Việt hơn là biển cả. Và điều này cũng có nguyên nhân lịch sử của nó. Nền văn minh cổ xưa nhất từng tỏa sáng ở lãnh thổ Việt Nam, theo cách hiểu phổ biến đó là nền văn minh sông Hồng – là nền văn minh bản địa đầu tiên của văn hóa Việt Nam, đánh dấu một mốc quan trọng cho sự ra đời của dân tộc Việt gắn với sông nước nói chung và của một ngôn ngữ giàu hình ảnh sông nước nói riêng. Tuy nhiên, tập trung chủ yếu vào “sông nước” ở nét nghĩa vùng sinh sống quanh sông ở một quốc gia mà trải dài hơn ngàn cây số biển suốt chiều dài đất nước, phải chăng đó là một sự thiếu sót? Có thể nói, thoạt nhìn, tưởng chừng đấy là một sự “thiên vị”, thế nhưng cũng có nguyên nhân sâu xa và thuyết phục về điều này từ dấu ấn lịch sử. Từ thời đại đá mới đến sơ kỳ đại đồng thau (khoảng 6000 năm trước Công nguyên) người Việt đã có nền văn hóa ven biển rực rỡ (Văn hóa Soi Nhụ – Quảng Ninh; nhóm di tích Cái Bèo ở Cát Bà – Hải Phòng; văn hóa Đa Bút – Thanh Hóa…) [55]. Đặc biệt nhất là thời kỳ Đông Sơn, người ta đã nhận thấy vai trò to lớn của biển trong nền văn minh này. Tuy nhiên, sau đó, con cháu của Đông Sơn – người Việt, lại không còn mặn mà với biển vì bị thôn tính, và hơn thế nữa, người Hán đã “bao bọc” lấy biển, làm mất đi nguồn sức mạnh, mất đi sự giao lưu và mất đi cấu trúc văn hóa mang tính biển cả, điều này còn gắn liền với các truyền thuyết “Âu Cơ – Lạc Long Quân”, “An Dương Vương Cổ Loa”, “Sơn tinh – Thủy Tinh”…Theo bản năng tự vệ, người Việt co cụm lại thành những làng xã quanh lũy tre, thôn xóm, con đò của sông nước. Và làng – với sông nước, trở thành thành trì bảo vệ văn hóa Việt trước nguy cơ bị đồng hóa của ngoại xâm, từ đó, “sông nước” cũng là nơi có thể áp dụng những bài học về đánh bắt, về sinh sống của cư dân Việt. Cũng từ đây, sự xa vời biển lập nên một hình thái kinh tế mới – nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp. Dù sau này người Việt đã có những hành trình lớn để về với biển, nhất là sự trỗi dậy mạnh mẽ của các triều đại Lý – Trần thời trung cổ chóng ngoại xâm, nhưng, thực tế sau hàng trăm năm cách biển, thói quen và tập tục đã đổi thay; người Việt đã không còn nghĩ nhiều đến những thương thuyền lớn giong buồm ra biển lớn, và, làm cho văn hóa Việt cũng không thực mặn mà với những hùng vĩ và dữ dội của biển cả. Một khi văn hóa khoanh lại trong một vùng cố định, thì ngôn ngữ cũng sẽ trở nên chi tiết ở những lĩnh vực mà con người cọ sát. Dù sông nước không phải luôn hiền hòa với con người, nhưng người Việt chấp nhận như một lẽ tự nhiên, truyền thuyết “Sơn Tinh – Thủy Tinh” phần nào nói lên được điều đó, hay Đam San (nhân vật trong sử thi Đam San của người Êđê) là biểu tượng cho khao khát chiếm lĩnh tự nhiên bằng cách “bắt nữ thần mặt trời về làm vợ” nhưng khao khát làm chủ của Đam San thật chất đã bất thành trong khu rừng Sáp Đen cho thấy, thực tế, trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, người Việt Nam nói chung phụ thuộc, nương tựa hơn là độc lập, làm chủ. Người Việt Nam thể hiện rõ ý thức tôn sùng bái tự nhiên, gọi thiên nhiên là “thần” (nữ thần mặt trời, thần sông, thần núi…) và thể hiện thành lối sống hòa hợp, thích nghi, hòa mình và gắn bó với môi trường tự nhiên. Từ ngữ “sông nước”, vì vậy mà trở nên dồi dào, phong phú trong vốn từ vựng dân tộc. Con người – mà trong trường hợp chúng ta đang xét là người Việt (người Kinh) – với tư cách là chủ thể tiếp xúc và tri nhận về thực tại với ba phạm vi cơ bản: thế giới tự nhiên quanh mình, xã hội mà con người tổ chức và chính con người trong hai mối liên hệ ấy có hai khuynh hướng hành xử: chấp nhận hoặc cải tạo. Hai khuynh hướng này không phân tách rạch ròi mà bổ trợ, đan xen nhau. Ở lĩnh vực ngôn ngữ, xuất phát từ ba phạm vi đó, vốn từ vựng được hình thành với ba lớp từ cơ bản: Lớp từ biểu thị sự vật, hiện tượng, khái niệm thuộc về thế giới tự nhiên; về xã hội loài người và về nhận thức bản thể. Từ ngữ “sông nước”, lĩnh vực sông nước về nguyên gốc, có thể thuộc lớp từ thứ nhất – biểu thị sự vật, hiện tượng – khái niệm thuộc về thế giới tự nhiên; nhưng, qua quá trình lịch sử lâu dài, nó đi vào vốn từ vựng, đi vào tâm khảm người Việt bằng con đường “ẩn dụ” – chính xác là “Ẩn dụ tri nhận” thành chính những khái niệm thuộc xã hội loài người và cả về nhận thức bản thể con người. Chẳng hạn, chúng ta vẫn nghe ẩn dụ “lòng dậy sóng” chỉ những biến động đột ngột trong lòng con người vốn có nguồn gốc từ hiện tượng tự nhiên. Từ ngữ ấy nguồn gốc rõ ràng mang dấu ấn sông nước và đi vào tâm thức người Việt – nếu không “phục chế” dựa trên dấu vết ngôn ngữ thì có lẽ khó có thể hiểu nguồn tích “sông nước” của nó. Cũng như hiển nhiên có thể thấy, người Việt xưa nay nói đến chia ly, cách trở vẫn dùng những hình ảnh dòng sông, con đò, bến nước. Trong “Tống biệt hành”, Thâm Tâm đã nằm lòng cái tâm thức sông nước ấy của người Việt nên mới có chuyện “Đưa người ta không đưa qua sông/ Sao có tiếng sóng ở trong lòng…” Nói tới “sông nước” trong tâm thức của người Việt là đề cập đến khá nhiều khía cạnh: điều kiện địa lý, môi trường sống, tiến trình lịch sử, đặc điểm dân tộc và phong tục, tập quán…Ý niệm về sông nước, với cách xem ý niệm là “cái chứa đựng” sự hiểu biết của con người về thế giới được hình thành trong ý thức trong quá trình tri nhận và hiện thân trong ngôn ngữ được truy nguyên lại, trong ý niệm có khái niệm là trung tâm (là cái phổ quát, có thể gọi là mang tính khoa học) và thứ hai là đặc thù văn hóa. Phân tích theo cấu trúc của ý niệm [9:140], ý niệm “sông nước” đều có thể nhận thấy ở các khía cạnh cấu trúc sau: Khái niệm sông nước theo từ điển. Sông nước trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Sông nước trong văn hóa người Việt. Sông nước trong nhóm xã hội. Sông nước trong văn hóa vùng. Sông nước trong mỗi cá thể người Việt. “Sông nước” liên quan đến nhận thức, tư duy, văn hóa cũng như nét tâm hồn của người Việt từ xưa đến nay, vì vậy, năm thành tố làm nên ý niệm sông nước rõ ràng chúng ta đều cảm nhận rất đầy đủ. Sông nước đã được khái niệm trong từ điển và là một nét đặc trưng văn hóa của cả mọi dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam nói chung và dân tộc Việt nói riêng. Sông nước có ý nghĩa riêng với từng nhóm xã hội, từng cá thể người Việt Nam và có những đặc trưng riêng tùy theo vùng miền. Sông nước vừa là hình ảnh chung của dân tộc, vừa “cá tính”, vừa tự nhiên khách quan vừa mang đặc trưng địa phương – vùng miền. Khu vực văn hóa đặc trưng nhất từ dấu ấn sông nước có thể nói đến là Tây Nam bộ với hàng ngàn đường kênh rạch, sông ngòi. Cuộc sống người dân nơi này gắn bó mật thiết với nước: ruộng ngập nước, trồng lúa nước, thức ăn có sẵn dưới nước, nhà trên nước, chợ nổi, di chuyển trên nước (ghe, xuồng), văn nghệ, thể thao trên nước (hát nhạc tài tử, đua ghe), người chết vào mùa nước nổi thì dìm xác vào nước…Cả tên của thành phố được mệnh danh là thủ đô của lục tỉnh Nam kì (Tây Đô) cũng có một giả thuyết lý thú liên quan đến sông nước: Vùng đất này xưa kia của người Khmer có nhiều tôm cá, đặc biệt là cá sặc rằn (loại cá to bằng bàn tay, làm khô ăn với cơm nguội) và người Khmer gọi cá này là Krantho. Người Việt đọc lệch "Kr" nên thành Cần Thơ. (Xét riêng về mặt ngữ âm, đây là xu hướng rụng tổ hợp phụ âm đầu kiểu Kr thành K). Từ môi trường sống “bồng bềnh sông nước” đến ngữ điệu phát âm “bằng phẳng” của người dân vùng Tây Nam bộ dường như có mối quan hệ; rồi tất nhiên là đi vào lời ăn tiếng nói, như ca dao chẳng hạn: Thân em như cá trong lờ Hết phương vùng vẫy không biết nhờ nơi đâu. Hay: Anh than một tiếng nát miễu xiêu đình Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao huỳnh vội xếp vi. Rồi: Bên dưới có sông, bên trên có chợ Hai đứa mình kết vợ chồng nghen Và: Trời mưa cóc nhái chết sầu Ễnh ương đi cưới nhái bầu không ưng Chàng hiu đứng dựa sau lưng Khều khều móc móc cứ ưng cho rồi. Không thể chối cãi “cá tính sông nước” đặc thù của vùng Tây Nam bộ, nhưng cũng có thể thấy: toàn Việt Nam có nhiều sông lớn nhỏ khác nhau, phân bố dày thưa khác nhau nhưng đặc biệt là hầu như vùng nào cũng có. Và vì vậy, ảnh hưởng từ sông nước đến tiếng Việt là rộng khắp và dễ thích nghi, lan tỏa. Ngôn ngữ sông nước dễ dàng “lên bờ”, “lên miền ngược” và gặp gỡ, hòa trộn dòng chảy ngôn ngữ dân tộc mà ít gặp rào cản văn hóa vùng miền; dễ dàng bắt nhịp vào vốn ngữ toàn dân dù thuộc phương ngữ hay thổ ngữ. Phần trình bày trên chỉ mang tính giới thiệu sơ lược dẫn dắt vào bức tranh sông nước Việt Nam. Để miêu tả chi tiết về bức tranh ngôn ngữ sông nước tiếng Việt chúng tôi sẽ khảo sát từng miền cụ thể, từ đó nhận diện rõ bức tranh ngôn ngữ với ý niệm “sông nước” trong đời sống tinh thần người Việt. Những điều chi tiết hơn sẽ là phần tiếp theo của luận văn. 4. Miền ý niệm sông nước trong tiếng Việt 4.1. Miền ý niệm Để nghiên thế giới qua ngôn ngữ, chúng ta không lẻ tẻ gom nhặt từng sự kiện theo cấp số cộng để khái quát, mà, phân chúng thành những cấp bậc khác nhau, những lĩnh vực khác nhau để nghiên cứu. Đó là cách phổ biến nhất để con người khám phá và cải tạo thế giới: Phân chia từng mảng – lĩnh vực và chuyên sâu vào từng lĩnh vực. Chúng tôi bắt đầu việc đề cập đến MYN bằng cách này để bước đầu xác định: MYN chính là sự phân chia các lĩnh vực để đi sâu nghiên cứu. MYNSN đến lượt nó cũng vậy, để tìm hiểu từ ngữ sông nước dưới góc độ tri nhận – để hiểu con người, người Việt hiểu và cảm nhận thế giới gắn liền với đời sống nước như thế nào, chúng ta lại phân tách chúng thành các nhóm nhỏ hơn. MYN không phải là thuật ngữ định sẵn trong tư duy người Việt, nhưng, bằng quy luật lôgic ảnh hưởng từ đời sống, từ môi trường, từ cách tư duy vốn bản chất tìm mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng ngôn ngữ con người (mà ở đây là ngôn ngữ sông nước của người Việt) tự tạo cho nó tính hệ thống và tính cấu trúc (dù tính hệ thống hay cấu trúc ở đây không phải luôn xác định hay nhất định, bất biến). Nói khác, với tư cách là chủ thể của tri nhận, trước một hiện tượng sông nước trải đều khắp lãnh thổ, con người đã phóng chiếu bóng dáng mình lên đó bằng cách ẩn dụ hóa.Và với cách tư duy về sông nước phản ảnh trong tiếng người Việt, chúng ta vẫn có thể phân tách thành các vùng – miền trong nó. MYN được hiểu là “khung” theo thuật ngữ của Fillmore – là "hệ thống ý niệm liên quan với nhau theo cái cách mà để hiểu bất kì một ý niệm nào trong số đó chúng ta phải hiểu cái cấu trúc toàn thể mà ý niệm đó ăn khớp với" [43:26]. MYN là thuật ngữ dùng để gọi tên những ý niệm gắn kết với nhau, cung cấp chu cảnh (background context) để hiểu bất cứ ý niệm nào trong “miền” (domain) của nó. Khi nói MYNSN có nghĩa “sông nước” là ý niệm nền – phông cho các khái niệm khác. Trong khi đó, chính “sông nước” cũng là một ý niệm thuộc miền địa hình, tuy nhiên, có thể thấy miền sông nước bao quát rộng lớn các khái niệm trong nó và là một miền ổn định. MYN được xem là những kinh nghiệm khác nhau hoàn toàn của con người về những lĩnh vực khác nhau như không gian, màu sắc, tình cảm, nhiệt độ… Chẳng hạn, khi nói đến MYN sông nước là ta có nói đến các loại nước, đến vật chứa nước và các yếu tố bộ phận liên quan tới vật chứa, đến loài vật đặc trưng ở sông nước… hiểu theo ý nghĩa này thì MYN có thể là phần kinh nghiệm rất cụ thể được quy định riêng bởi từng nền văn hóa và giống như một “cảnh huống” (scenario), “khung” (frame) hay là “mã” (code). Nói một cách dễ hiểu, MYN bao gồm các ý niệm có liên quan đến nhau ở cùng một lĩnh vực nào đó, với cách hiểu này MYN gần với khái niệm “trường nghĩa” khi xét đến khái niệm đa nghĩa, trái nghĩa nên còn có thể gọi là “trường ý niệm”. Hạt nhân cơ bản của MYN là ý niệm. Ý niệm (concept) là sự hiểu, nhận thức bước đầu về một loại sự vật, sự việc, quan hệ, quá trình nào đó [38:1167]. Hình dung ý niệm một cách dễ hiểu, nói đến “sông” khi trước mặt chúng ta chẳng có con sông nào thì chúng ta vẫn có thể hình dung ra được một con sông như thế nào với hình dạng, kích thước, bờ bãi, lưu lượng nước chảy…khá cụ thể trong đầu – tức “hình ảnh” về vật thể “sông”. Như vậy, ý niệm “sông” đã thực sự có trong não chúng ta. Tuy ý niệm về “sông” ở mỗi người, mỗi chủ thể sẽ là khác nhau (có người nghĩ đến sông nước ồ ạt chảy, có người nghĩ đến sông êm đềm chẳng hạn) nhưng nói chung, sẽ có những nét tương đồng ở cấp độ cao nhất là cái toàn thể, làm người ta có thể hiểu nhau – hiểu về một biểu vật nhất định mà người sử dụng ngôn ngữ đang nói đến ấy. Đóng vai trò là chủ thể của thế giới – con người, với ý thức, tổ chức đời sống của chính mình, và trong cuộc sống đó, con người đồng thời cũng sống, suy nghĩ, giao tiếp trong thế giới ý niệm. Theo Trần Văn Cơ [9:128], mỗi ngôn ngữ sẽ chứa đựng trong nó “tính tinh thần”(mentality) tức sẽ bộc lộ trong nó những đặc điểm sắc tộc của người bản ngữ. Thông qua ngũ giác (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác) cùng với hoạt động thực tiễn và tư duy – mà phần nhiều là duy cảm, con người tri giác các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan rồi lại tạo riêng cho mình “thế giới thứ hai” – bức tranh ngôn ngữ về thế giới: Một cách cảm về thế giới phần nhiều không được phân tích một cách chính xác khoa học, mà đôi khi mang tính “thơ ngộ” nhưng lại đi vào lời ăn tiếng nói và đi vào ngôn ngữ một cách chính thống nhất. Tỷ dụ như người Việt khen ai đó có phẩm chất tốt thì gọi là “tốt bụng” vì trong cảm thức của họ, “bụng” biểu trưng cho phẩm chất con người mà không hề có một cơ nguyên khoa học nào; cũng với cách như vậy, người Anh lại cho rằng người có phẩm chất tốt là “tim tốt” (good – hearted)… Và có thể, người Hà Lan, người Đức lại có một cách nghĩ khác nữa xoay quanh ý niệm “phẩm chất tốt”. Có thể thấy con người đã “cụ thể hóa” hay “vật thể hóa” những hiện tượng không thể “tai nghe mắt thấy” – những phạm trù siêu hình (không nhìn thấy) bằng những ngôn từ liên quan trực tiếp đến kinh nghiệm thực tiễn của họ (ở trường hợp trên là qua tri giác về bộ phận cơ thể người – bụng, tim). Quay lại “tính tinh thần” của hoạt động ngôn ngữ, có thể thấy rằng, sở dĩ tính tinh thần được mang lại trong ngôn ngữ là do con người đã miêu tả phỏng theo bức tranh thế giới khách quan bằng cách tri giác rất riêng theo từng vùng miền – quốc gia. Và những miêu tả mà gọi một cách “tri nhận học” là cách “ý niệm hóa” thế giới ấy, dĩ nhiên, cũng mang trong nó bản sắc riêng. Chính ý niệm – không gì khác hơn – là đơn vị cơ bản của tính tinh thần ấy. Trong một phạm vi nhất định, “ý niệm được đồng nhất với khái niệm (ý nghĩa phản ánh ở dạng khái quát các sự vật và hiện tượng của hiện thực và những mối liên hệ giữa chúng)” [38: 491], ví dụ người ta thường gọi Ẩn dụ ý niệm thay vì Ẩn dụ khái niệm, hoặc thuật ngữ concept trong tiếng Anh vẫn thường được dịch sang cả hai nghĩa song song là khái niệm và ý niệm (bên cạnh đó, theo chúng tôi thì nên phân biệt thành notion và concept). Tuy nhiên, nói “ý niệm hóa” thì nhất định, không thể thay bằng “khái niệm hóa”, vì thực chất, ý niệm bao hàm chứ không trùng khít với khái niệm về nghĩa. Nếu phân tích ngôn từ bằng việc phân tích thành tố – phân tích thuộc tính và mối quan hệ hay cơ cấu và chức năng, chúng ta sẽ có “khái niệm”, Trần Văn Cơ đưa ra khái niệm “nhà” trong từ điển: Nhà là công trình xây dựng có mái, có tường vách và để ở hay để dùng vào một việc nào đó[38:699], tuy nhiên, có những từ như “trạm”, “chuồng”…mang cả hai nét nghĩa đó nhưng lại không phải là “nhà”. Như vậy, phân tích từ góc độ khái niệm chưa làm rõ của những cung bậc khác nhau của từ. Và, phân tích ý niệm sẽ là sự phân tích toàn diện hơn, bởi nó bao gồm cả ba thành tố: khái niệm, cảm thức và văn hóa [9]. Nếu nói ý niệm “nhà”, một người có thể không định nghĩa chính xác “nhà là gì” – không nêu được khái niệm, nhưng ý niệm về nhà thì chắc chắn có – vì trong não chúng ta đã lưu giữ hình ảnh về “nhà”. Biểu vật (vật thật trong cuộc sống) và biểu niệm (vật trong não người) khắc dấu không như nhau. Và, với ngôn ngữ, trung tâm là nghĩa với khái niệm – cái biểu niệm. Trong khi với NNHTN lại là ý niệm. Ý niệm có thể biểu thị nhiều nghĩa khác nhau, ý niệm có thể là ngôn từ hoặc phi ngôn từ – tức khoảng trống ngôn ngữ. Ví dụ tiêu biểu là hiện tượng trái nghĩa – sẽ có những từ không tìm được cặp trái nghĩa chuẩn, như tính từ “chung chung” chúng ta không thể dùng từ “riêng riêng” – không thể gọi đúng từ trái nghĩa của khái niệm “riêng riêng” nhưng ý niệm thì rõ ràng có. Không ít những tình huống người ta chỉ có ý niệm mà không diễn đạt được thành lời, chỉ có “tiếng nói bên trong” mà không thể biểu đạt dưới dạng ngôn ngữ. Nếu gọi ý niệm là “đơn vị” – thành tố nhỏ nhất thuộc ý thức con người của toàn bộ bức tranh thế giới được phản ánh trong tâm lý thì tổng thể ý niệm sẽ chính là “hệ thống ý niệm”. Trong hệ thống ấy, sẽ có thể được phân xuất ra thành các mảng lớn – mà thành tố chính là các ý niệm cơ sở, ý niệm cơ sở như: Đối tượng và các bộ phận của đối tượng (Chẳng hạn ý niệm về con người và các bộ phận cơ thể con người). Vận động (chẳng hạn: đi, đứng, chạy, nhảy…) Hành động (chẳng hạn: quyết định, ra lệnh, cấm…) Thuộc tính (chẳng hạn: rắn, lỏng, mềm, cứng…) Không gian – thời gian (chẳng hạn: đó, đây, kia, nọ, bây giờ, sau này, mãi mãi…) Các mảng lớn trên, có khi còn bao gộp trong nó nhiều ý niệm có cùng gốc. Như đã nói trên, các ý niệm không tồn tại rời rạc trong tri nhận con người mà có mối liên hệ lẫn nhau. Giả dụ, khi nói đến ý niệm hành động “câu” thì chúng ta sẽ liên tưởng đến các ý niệm “cá”, “cần” (câu), “ao”, “sông”, ”suối”...theo hành động đó. Hoặc cũng có thể chúng ta sẽ liên tưởng đến những hoạt động cùng loại gần gũi với nó là “chài”, “đơm”, “lưới”…và các ý niệm này có thứ tự, thang bậc. Ở mỗi tầng bậc, chúng sẽ có một ý niệm đóng vai trò bao quát – cơ sở cho các ý niệm còn lại. Trong trường hợp đang xét, ý niệm bao quát sẽ là ý niệm “hoạt động đánh bắt đặc trưng của người ở nước”, và ý niệm này là “con” ý niệm lớn hơn: Miền đặc tính của nước và hoạt động đặc trưng ở nước (được chia thuộc trường ý niệm 6 trong mục 5.3 chương này gồm các hoạt động như: bơi, câu, chài, chèo,… ). Như vậy, một ý niệm sẽ trở thành MYN khi ý niệm đó bao quát hơn, chứa những ý niệm con (ít nhất là 2 ý niệm) trong nó. Dù có những khác biệt trong cách hiểu, khái niệm MYN có vai trò quan trọng đối với các tổ hợp từ đa nghĩa và ngữ cố định. Một từ có thể có nhiều nghĩa nhưng khi được phóng chiếu lên nhiều phạm trù khác nhau, chẳng hạn như: từ “thấp” trong tổ hợp từ “một ngôi nhà thấp”, “nhiệt độ thấp” và “cảm thấy thấp kém” có nghĩa nhưng do những từ này được phóng chiếu lên những MYN khác nhau lần lượt là: MYN không gian, MYN nhiệt độ và MYN tình cảm. Trong đó, MYN bao giờ cũng gắn liền với một chủ thể tri nhận và trong một ngôn ngữ nhất định. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, MYN không bất di ở các ý niệm, có nghĩa là, đôi khi sự phân chia các miền khác nhau chỉ mang tính tương đối chứ không là những lát cắt hiện thực rạch ròi. Tóm lại, có thể hiểu MYN là thuật ngữ dùng để gọi tên những ý niệm gắn kết với nhau, cung cấp chu cảnh để hiểu bất cứ ý niệm nào trong “miền” của nó. Theo chúng tôi, có thể hiểu MYN đơn giản bằng khái niệm sau: Miền ý niệm là một trường (field) tập hợp bao gồm các cách tri nhận liên quan với nhau về một hiện tượng hay lĩnh vực nhất định. Với tư cách là một hệ thống định danh, “sông nước” (waterways) là một MYN rộng lớn, bao hàm trong nó những “miền._.óc chết ba năm quay đầu về núi. 363. Cóc có gan cóc kiến có gan kiến. 364. Cóc cũng phải mở miệng. 365. Cóc đi guốc khỉ đeo hoa. 366. Cóc kiếm nhái xơi. 367. Cóc làm tội nhái nhái làm tội ễnh ương. 368. Cóc mò cò ăn. 369. Cóc ngồi đáy giếng, 370. Con cóc lắt lẻo lại đòi trèo thang. 371. Đánh ruồi không đủ miệng cóc. 372. Dơ dáng như cóc ôi vôi. 373. Gan cóc tía. 374. Già cóc đế. 375. Phình bụng cóc. 376. Trèo cây bắt cóc. 377. Xù xì da cóc. 378. Ỳ ạch như cóc leo thang. 379. Ăn cua bỏ vỏ, ăn cá bỏ vây. 380. Bắt cua bỏ giỏ. 381. Bắt cua được ếch. 382. Chạch bỏ giỏ cua. 383. Đầu cua tai đỉa. 384. Đếm cua trong lỗ. 385. Ngang như cua. 386. Công dã tràng. 387. Dai như đỉa. 388. Quần áo tổ đỉa. 389. Còn ao hồ còn ếch nhái. 390. Con ếch tha con nhái. 391. Ếch đổ cho nheo. 392. Ếch lại đòi cắn cổ rắn. 393. Ếch mọc lông nách. 394. Ếch ngồi đáy giếng. 395. Ếch ngồi trong hang mà còn lo chết. 396. Ếch thấy hoa thì vồ. 397. Nheo đổ cho ếch. 398. Bán bò đi tậu ễnh ương. 399. Cóc làm tội nhái nhái làm tội ễnh ương. 400. Cóc nhái ễnh ương chấp chi nhặt nhạnh. 401. Câm miệng hến. 402. Câm như hến. 403. Hến phải mở miệng. 404. Ăn mắm hút dòi. 405. Chĩnh mắm treo đầu giàn. 406. Chó nhà quê đòi ăn mắm mực. 407. Gầy như cá mắm. 408. Có gan ăn muống có gan lội hồ. 409. Lênh đênh bè muống trôi sông. 410. Bắt nhái bỏ đệp. 411. Oai oái như nhái phải rắn. 412. Đứt đuôi nòng nọc. 413. Ăn kĩ no lâu cày sâu tốt lúa. 414. Cỏ úa thì lúa cũng vàng. 415. Mỏng manh lá lúa. 416. Muốn ăn lúa phải tìm giống. 417. Mặt cú da lươn. 418. Lươn bò để tanh cho rổ. 419. Cá nhảy ốc cũng nhảy. 420. Chó nào chẳng ăn cứt, ốc nào chẳng ăn bùn. 421. Kẻ ăn ốc người đổ vỏ. 422. Ốc bò bằng mồm. 423. Ốc làm chẳng nên thì sên phải chịu. 424. Quân sên tướng ốc. 425. Chậm như rùa, 426. Rụt như cổ rùa 427. Ăn cắp như rươi. 428. Cắp như rươi. 429. Cứt cũng như rươi ba bốn mươi cũng như hai tiền. 430. Cứt lộn với rươi. 431. Đông như rươi. 432. Kẻ ăn rươi người chịu bão. 433. Đeo như sam 434. Cao như sếu. 435. Mặt sứa gan lim. 436. Miệng hùm gan sứa. 437. Sứa không nhảy qua đăng. 438. Sứa nhảy qua đăng. 439. Ăn như thuồng luồng. 440. Thuồng luồng mắc cạn. 441. Thuồng luồng ở cạn. 442. Con tép lộn rong. 443. Giết một con cò cứu trăm con tép. 444. Hộ Pháp ăn tép. 445. Nói như tép nhảy 446. Mồm tép nhảy. 447. Thả tép bắt tôm. 448. Cái tôm chật gì bể. 449. Cái tôm đút mồm con bống. 450. Con tôm nhảy bờ là con tôm lớn. 451. Con tôm nhử con cá. 452. Đắt như tôm tươi. 453. Đầu rồng đuôi tôm. 454. Lưng tôm tít đít tôm càng. 455. Mắt bánh rán, trán bánh chưng, lưng tôm càng. 456. Mấy đời rồng đến nhà tôm. 457. Họ nhà vạc. 458. Kêu như vạc. 459. Ngơ ngác như vạc đui. Trường ý niệm 4 Miền công cụ đánh bắt TỪ ĐỊNH DANH Câu dầm Câu kéo Câu lim Bòn chài Chài lưới Ghe chài Mỡ chài Thuyền chài Mồi chài Đăng đó Cái hom giỏ Đặt lờ Mồi chài Nơm cá Kéo Vó THÀNH – TỤC NGỮ Cá cắn câu. Cần câu cơm. Một con cá lội mấy người buông câu. Vắng câu gặp đó vắng ó gặp quạ khoang. Mất cả chì lẫn chài. Được cá quên chài. Buông dầm cầm chèo. Tham đó bỏ đăng. Vào trong mắc đó ra ngoài mắc đăng. Đơm đó ngọn tre. Tham đăng bỏ đó. Chớ nghe lời phỉnh thò tay vào lờ mắc kẹt cái hom. Ăn cá bỏ lờ. Tránh nơi lưới thả mắc đường bẫy treo. Được chim bỏ ná được cá quên nơm. Sẵn vó thì tốn cá ao. Cuốn vó bỏ đi. Trường ý niệm 5 Miền phương tiện di chuyển và các bộ phận của phương tiện TỪ ĐỊNH DANH 1. Cầu ao 2. Cầu chì 3. Cầu cống 4. Cầu đường 5. Cầu hàng không 6. Cầu khỉ 7. Cầu lăn 8. Cầu máng 9. Cầu nối 10. Cầu phao 11. Cầu phong 12. Cầu quay 13. Cầu tàu 14. Cầu thang 15. Cầu thang máy 16. Cầu thăng bằng 17. Cầu tiêu 18. Cầu treo 19. Cầu trục 20. Cầu vai 21. Cầu vòng 22. Chèo chống 23. Chèo kéo 24. Mái chèo 25. Dầm dề 26. Cầm dầm 27. Lái dầm 28. Làm dầm 29. Ướt dầm 30. Ghe bản lồng 31. Ghe bầu 32. Ghe chài 33. Ghe cộ 34. Ghe cửa 35. Ghe lườn 36. Mỏ neo 37. Nhảy sào 38. Nhổ sào 39. Bến tàu 40. Cầu tàu 41. Đầu tàu 42. Tàu bay 43. Tàu bè 44. Tàu biển 45. Tàu bò 46. Tàu cánh ngầm 47. Tàu chậm 48. Tàu chiến 49. Tàu chợ 50. Tàu chở máy bay 51. Tàu cuốc 52. Tàu điện 53. Tàu điện ngầm 54. Tàu đổ bộ 55. Tàu há mồm 56. Tàu hỏa 57. Tàu khu trục 58. Tàu lặn 59. Tàu ngầm 60. Tàu nhanh 61. Tàu sân bay 62. Tàu suốt 63. Tàu thủy 64. Tàu thuyền 65. Tàu tốc hành 66. Tàu tuần dương 67. Tàu tuần tiễu 68. Tàu vét 69. Tàu vũ trụ 70. Vũng tàu 71. Chiến thuyền 72. Giang thuyền 73. Hải thuyền 74. Lâu thuyền 75. Pháo thuyền 76. Phi thuyền 77. Thương thuyền THÀNH – TỤC NGỮ 77. Chiếc bách giữa dòng. 78. Chiếc bách sóng đào. 79. Thả bè trôi sông. 80. Bè chuối trôi sông. 81. Ba bè bảy bối. 82. Lênh đênh như bè nứa trôi sông. 83. Nước chảy xuôi bè kéo ngược. 84. Bỏ buồm xem gió. 85. Coi gió bỏ buồm. 86. Như buồm gặp gió 87. Kéo buồm ngược gió. 88. Thuận buồm xuôi gió. 89. Giong buồm ra biển lớn. 90. Bắc cầu chỉ bến. 91. Đi cầu nào biết cầu nấy. 92. Cầu gãy còn đò giếng cạn còn sông. 93. Cát lâu cũng đắp nên cầu. 94. Đi trước bắt cầu đi sau theo dõi. 95. Qua cầu cất nhịp. 96. Qua cầu rút ván. 97. Qua cầu thoát nạn. 98. Buông dầm cầm chèo. 99. Cả sóng ngã tay chèo. 100. Chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo. 101. Có cứng mới vững tay chèo. 102. Êm chèo mát mái. 103. Qua đò khinh sóng. 104. Qua sông đốt đò. 105. Bến cũ đò xưa. 106. Cách sông nên phải lụy đò. 107. Cầu gãy còn đò giếng cạn còn sông. 108. Đò đưa bến khác. 109. Bỏ lái buông sào. 110. Bốc mũi bỏ lái. 111. Cắm sào đợi nước. 112. Nước sâu sào ngắn. 113. Sông sâu sào ngắn. 114. Bán cá mũi thuyền. 115. Buôn thuyền gánh vã. 116. Cả thuyền to sóng. 117. Cắm thuyền đợi khách. 118. Còn thuyền còn chèo còn nước còn tát. 119. Cùng hội cùng thuyền. 120. Chẳng ăn được thì đẩy bè ra sông. 121. Chóng thuyền ngược nước. 122. Chưa thăm ván đã bán thuyền. 123. Thuyền nát đụng nhau. 124. Đóng thuyền đợi bến. 125. Đứng mũi chịu sào. 126. Thuyền nan chở đá thuyền lá chở sắt. 127. Trên bến dưới thuyền. Trường ý niệm 6 Miền đặc tính của nước và vận động liên quan đến nước TỪ ĐỊNH DANH 1. Bão bùng 2. Bão cát 3. Bão rớt 4. Bão táp 5. Bão tố 6. Bão tuyết 7. Đèn bão 8. Gió bão 9. Mắt bão 10. Vũ bão 11. Đục ngầu 12. Lắng đọng 13. Sâu lắng 14. Lai láng 15. Lềnh phềnh 16. Lũ lụt 17. Củi lụt 18. Lụt lội 19. Ngập mặn 20. Ngập ngụa 21. Nông cạn 22. Rất nông 23. Nông choèn choẹt 24. Nông nổi 25. Róc rách 26. Ròng ròng 27. Ròng rã 28. Nước ròng 29. Bước sóng 30. Sóng âm 31. Sóng điện từ 32. Sóng gió 33. Sóng lừng 34. Sóng ngầm 35. Sóng ra đi ô 36. Sóng sánh 37. Sóng thần 38. Sóng vô tuyến 39. Biệt tăm 40. Mất tăm 41. Tăm dạng 42. Tăm hơi 43. Tăm tích 44. Tăm tiếng 45. Tối tăm 46. Lan tràn 47. Tràn đầy 48. Tràn lan 49. Tràn ngập 50. Tràn trề 51. Tràn trụa 52. Trong lành 53. Trong mát 54. Trong sạch 55. Trong sáng 56. Trong suốt 57. Trong vắng 58. Trong vắt 59. Trong veo 60. Trong xanh THÀNH – TỤC NGỮ 61. Ăn như tráng, làm như bão. 62. Bão bể mưa rừng. 63. Bão táp phong ba. 64. Cấy gió chịu bão. 65. Góp gió thành bão, (góp cây nên rừng). 66. Kẻ ăn rươi, người chịu bão. 67. Lò dò như cò phải bão. 68. Mưa bom, bão đạn. 69. Phong ba bão táp. 70. Bồi ở lở đi. 71. Khúc sông khi lở khi bồi. 72. Sông lở cát bồi. 73. Bắn bùn sang ao. 74. Bùn đánh ao đắp lên bờ. 75. Bùn trong miệng ốc đùn ra. 76. Chân lấm, tay bùn. 77. Chó nào chẳng ăn cứt, ốc nào chẳng ăn bùn. 78. Có hổ mới có lốt, có ốc mới có bùn. 79. (Để lâu) cứt trâu hóa thành bùn. 80. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. 81. Hay không lây hèn, sen không lây bùn. 82. Lâu cứt trâu hóa bùn. 83. Lội bùn lấm chân, vộc sơn phù mặt. 84. Nát như (đất) bùn. 85. Nắn bùn thành khuôn. 86. Rẻ như bùn. 87. Thượng rạ, hạ bùn. 88. Tiếc thay hòn ngọc mà rơi xuống bùn. 89. Cạn ao bèo đến. 90. Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh. 91. Cạn đầm thì uống nước khe. 92. Cạn tàu ráo máng. 93. Cạn thì vén áo xăn quần. 94. Chết đuối trên cạn. 95. Đàn bà cạn lòng như đĩa, (đàn ông bạc nghĩa như vôi). 96. Lên cạn, xuống nước. 97. Lời đã cạn lời. 98. Mặt lầm lầm tát nước đầm không cạn. 99. Mèo uống nước biển chẳng bao giờ cạn. 100. Non mòn biển cạn. 101. Sông cạn đá mòn. 102. Tát cạn bắt lấy. 103. Tát cạn biển Đông. 104. Thuận bè thuận bạn tát cạn biển Đông. 105. Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. 106. Thuồng luồng ở (sao được) cạn. 107. Chảy như thác. 108. Con sông có khúc chảy khúc vắt. 109. Ép quả thì chảy ra nước. 110. Hoa trôi, nước chảy. 111. Máu chảy đến đâu ruồi bâu đến đấy. 112. Một sông chảy hai dòng. 113. Nước chảy, bèo trôi. 114. Thèm chảy (nước) rãi. 115. Thuộc như cháo chảy. 116. Trơn như cháo chảy. 117. Tiền ròng, bạc chảy. 118. Ao tù nước đọng. 119. Chết trong còn hơn sống đục. 120. Dò trong lắng đục. 121. Dở đục dở trong. 122. Đánh cá nước đục. 123. Đục nước béo cò. 124. Đục từ đầu sông đục xuống. 125. Gạn đục, khơi trong. 126. (Lỡ làng) nước đục, bụi trong. 127. Nguồn đục thì dòng cũng đục. 128. Sống đục sao bằng thác trong. 129. Trâu chậm uống nước đục. 130. Lềnh bà lềnh bềnh. 131. Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh. 132. Bèo nước lênh đênh. 133. Lênh đa lênh đênh. 134. Lênh đênh như bè muống trôi sông. 135. Bồi ở lở đi. 136. Của bàn tay làm ra như nước nguồn, của cha mẹ để cho như nước lũ. 137. Gặp nước lụt chó leo bàn độc. 138. Góp gió thành bão, mưa lâu thành lụt. 139. Lụt thì lút cả làng. 140. Nhờ lụt đẩy rều. 141. Ướt như chuộc lụt. 142. Ăn gió nằm mưa 143. Bão bể mưa rừng. 144. Bắt ếch mưa rào. 145. Chải gió gội mưa. 146. Chớp bể mưa nguồn. 147. Cò bợ phải trời mưa. 148. Dãi gió dầm mưa. 149. Dạn dày gió mưa. 150. Gió bể mưa ngàn. 151. Gió táp mưa sa. 152. (Ăn) ngập mặt ngập mũi. 153. Cá rô róc rách đường cày. 154. Nước lên rồi nước lại ròng. 155. Tiền ròng, bạc chảy. 156. Ăn gió nói sóng. 157. Ăn nói sóng gió. 158. Ăn sóng nói gió. 159. Bể lặng sóng im. 160. Bể sâu sóng cả. 161. Biến đi như cá chui sóng. 162. Buôn đáng sóng, nói đàng gió. 163. Cả sóng ngã tay chèo. 164. Cả thuyền to sóng. 165. Cái sóng khuynh thành. 166. Cát dập sóng vùi. 167. Chân sóng, ngọn nguồn. 168. Chiếc bách sóng đào. 169. Đất bằng dậy sóng. 170. Đầu gió, ngọn sóng. 171. Đầu sóng ngọn gió. 172. Gió đập, sóng vùi. 173. Gió to, sóng cả. 174. Qua đò khinh sóng. 175. Sóng cả chớ rã tay chèo. 176. Sóng cả gió to. 177. Sông lở sóng cồn. 178. Sông rộng, sóng cả. 179. Thuyền to sóng lớn. 180. Vén mây nhảy sóng. 181. Ăn nắng nằm sương. 182. Da mồi tóc sương. 183. Dạn dày sương gió. 184. Gối đất nằm sương. 185. Tuyết chở sương che. 186. Biệt tăm biệt tích. 187. Bóng chim, tăm cá. 188. Mọc mũi, sủi tăm. 189. Ném tiền xuống ao không được xem tăm. 190. Tăm cá bóng chim. 191. Tịt mù tăm cá bóng chim. 192. Vứt tiền xuống giếng (còn được) xem tăm. 193. Giọt nước làm tràn cốc. 194. Nói tràn cung mây. 195. Chết trong còn hơn sống đục. 196. Nhờ phèn nước mới trong. 197. Ao tù nước đọng. 198. Rồng vàng tắm nước ao tù. 199. Ướt như chuột lội. Trường ý niệm 7 Miền hoạt động đặc trưng của người (vật) ở nước TỪ ĐỊNH DANH Bơi lội Câu dầm Câu kéo Câu lim Chài lưới Ghe chài Mỡ chài Thuyền chài Bòn chài Mồi chài Chèo chống Chèo kéo Mái chèo Dầm dề Cầm dầm Lái dầm Làm dầm Ướt dầm Lặn lội Lặn ngụp Áo lặn Tàu lặn Bến lội Bơi lội Lặn lội Lóng nước muối Ngâm mạ Ngâm tôm Chìm nổi Nông nổi THÀNH – TỤC NGỮ 31. Đua bơi với giải. 32. Câu chuôm bỏ ao. 33. Câu hào thả rãnh. 34. Cha chài chú bủa. 35. Cha chài mẹ lưới con câu. 36. Ăn như chèo thuyền. 37. Còn thuyền còn chèo, còn nước còn tát. 38. Chậm chèo tới trước nhanh bước tới sau. 39. Chèo cho mạnh ngọn, chèo cùng tát cạn. 40. Chèo cùng tát cạn. 41. Chèo xuôi mát mái. 42. Một mình vừa chống vừa chèo. 43. Vụng chèo khéo chống. 44. Ba chìm bảy nổi. 45. Bể trần chìm nổi. 46. Bèo nổi mây chìm. 47. Chết chìm chết đắm. 48. Chết chìm vớ được phao. 49. Chìm cá rơi chim. 50. Của chìm của nổi. 51. Đá nổi lông chìm. 52. Đắm ngọc chìm châu. 53. Có trâu trâu đầm, không trâu bò lội. 54. Đơm đó ngọn tre. 55. Cá lặn nhạn sa. 56. Chim sa cá lặn. 57. Lặn ngòi ngoi nước. 58. Lặn suối trèo non. 59. Ăn cổ đi trước lội nước theo sau. 60. Có gan ăn muống có gan lội hồ. 61. Có phúc đẻ con biết lội, có tội đẻ con hay trèo. 62. Dẫu vội chẳng lội qua sông. 63. Lội bùn lắm chân vộc sơn phù mặt. 64. Lội dòng nước ngược. 65. Lội nước còn sợ ướt chân. 66. Lội sông đã đến bờ. 67. Lội suối băng ngàn. 68. Sâu khó lội, cao khó trèo. 69. Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi. 70. Có của thì rửa trăm dơ. 71. Còn nước còn tát. 72. Đan gàu tát biển. 73. Tắm khi nào vuốt mặt khi ấy. 74. Ăn cho thủng nồi trôi rế. 75. Bè chuối trôi sông. 76. Bè nứa trôi sông. 77. Bèo giạt hoa trôi. 78. Có đắt hàng tôi mới trôi hàng bà. 79. Gỗ trôi không gãy cũng mục, người lang thang không vụng cũng tồi. 80. Mo nan trôi sấp biết ngày nào khôn. 81. Nói buông trôi. 82. Tham nhiều nuốt không trôi. 83. Thằng chết trôi lôi thằng chết đuối. PHỤ LỤC 2 CA TỪ HÀM CHỨA MIỀN Ý NIỆM SÔNG NƯỚC TRONG ÂM NHẠC VIỆT Để phục vụ cho mục 3 của chương 2 (Thử tìm hiểu MYNSN trong ca từ tiếng Việt), chúng tôi đã chọn 20 ca khúc Việt một cách khá ngẫu nhiên, sự ngẫu nhiên này nhằm chứng minh rằng MYNSN thật sự thâm nhập vào hơi thở của âm nhạc nước nhà từ xưa đến nay. Chúng tôi sắp xếp các ca khúc theo ba mảng: Nhạc dân ca, nhạc âm hưởng dân ca và nhạc đương đại. Ở từng mảng sẽ trình bày theo thứ tự alphabet. Trong 20 ca khúc này, người viết cố ý in nghiêng những câu hát chứa MYNSN, và ý niệm thuộc MYNSN sẽ được in nghiêng đậm trong câu hát đó. Việc lưu ý này cho phép người đọc dễ dàng nhận ra MYNSN trải dài trong ca từ Việt. Dân Ca BÈO DẠT MÂY TRÔI (Dân ca Bắc bộ) Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi, anh ơi, em vẫn đợi... í i ì... Bèo dạt, mây í i ì... trôi, chim sa, tang tính tình... í i ì..., cao vời, ngậm một tin trông, hai tin đợi, ba bốn tin chờ…sao chẳng thấy anh...Một mảnh trăng treo, suốt năm canh, anh ơi, trăng đã ngã... a á à... ngang đầu. Thương nhớ... ờ ơ... ai, sao rơi... đêm sắp tàn... í i ì…trăng tà. Người ra đi có nhớ, là nhớ ai ngồi trông cánh chim trời, sao chẳng thấy anh... Mòn mỏi thâu đêm, suốt năm canh. Anh ơi, em vẫn đợi... í i ì... mỏi mòn. Thương nhớ... ờ ơ... ai. Sao rơi, trăng sắp tàn .. í i ì... trăng tà. Cành tre đu trước ngõ. Là gió la đà em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh... Thương nhớ... ờ ơ... ai. Sao rơi, trăng sắp tàn... í i ì... trăng tà. Cành tre đu trước ngõ. Là gió la đà em vẫn mong chờ, sao chẳng thấy anh... GIÓ ĐÁNH ĐÒ ĐƯA (Dân ca Bắc bộ) Gió đánh cành tre, gió đập cành tre. Chiếc thuyền anh vắng le the đợi nàng. Gió đánh cành bàng, gió đập cành bàng. Dừng chèo anh hát cô nàng ấy nghe. Gió đánh cành dừa, gió đập cành dừa. Em còn hờ hững nên chưa có chồng. Gió đánh cành hồng, gió đập cành hồng. Chỉ mình em biết muốn chồng hay chưa? Gió đánh cành tre, gió đập cành tre. Chiếc thuyền anh vắng le the đợi nàng. Gió đánh cành bàng, gió đập cành bàng. Dừng chèo em hát anh chàng ấy nghe. Gió đánh đò đưa, gió đập đò đưa. Mưa chiều ướt áo anh đưa em về thuyền. Gió đánh mạn thuyền gió đập mạn thuyền. Nhịp nhàng ta hát nơi miền trăm năm. HÒ HỤI (Dân ca Trung bộ) (Hù là khoan là hù là khoan a la khoan hò khoan là hù là khoan) Tìm em (hù là khoan) như thể tìm chim (hù là khoan). Chim ăn bể bắc (là hù là khoan), anh tìm bể đông (Bớ hò bớ hụi. Bớ hụi hát hụi hò khoan). (Hù là khoan là hù là khoan a la khoan hò khoan là hù là khoan). Tình em (hù là khoan) như nước dòng sông (hù là khoan). Thương anh áo rách (là hù là khoan), phòng không mà buồn (Bớ hò bớ hụi. Bớ hụi hát hụi hò khoan). LÝ BẰNG RẰNG (Dân ca Nam bộ) Câu dân ca thoảng nhẹ tiếng ru (ý) lý bằng răng (à). Tiếng ru (i a ) tình bằng ngọt lịm (ờ). Thiết tha tiếng mẹ ngân dài gợi nước non (ý) lý bằng răng (à) Nước non (i a) ngàn đời thật đẹp (ờ).Câu dân ca nở rộ cánh sen (ý) lý bằng răng (à). Cánh sen (i a) gần bùn càng đẹp (ờ). Cánh sen ngát nhụy bên hồ rọi ánh trăng (ý) lý bằng răng (à). Cánh sen (i a) tình bằng ngào ngạt (ờ). Ơi con chim sẻ ngậm lúa thơm (ý) lý bằng răng (à). Lúa reo (i a) đàn cò lội ruộng (ờ) Gió đưa tiếng gọi con đò đậu bến sông (ý) lý bằng răng (à) Thoáng xa (i a) tình bằng chờ đợi (ờ). Mênh mông êm ả giọng cất lên (ý) lý bằng răng (à). Tiếng ca (i a) tình bằng dào dạt (ờ). Xóm xa phố chợ êm đềm giọng hát em (ý) lý bằng răng (à). Tiếng ca (i a) tình bằng ngọt lịm (ơ). LÝ CON CÓC (Dân ca Nam bộ) Hò...........ơi.......... Cóc chết, nàng Nhái mồ côi. Chàng Hiêu tới hỏi, Nhái lắc đầu hổng ưng. Cóc chết nàng Nhái mồ côi bấy lâu. Chàng Hiêu nó bèn đi hỏi. Nhái lắc đầu lắc đầu hổng ưng.Con Ếch ngồi ở sau lưng nó kêu là kêu cái "Wợt". Biểu ưng, biểu ưng cho rồi, biểu ưng cho rồi. Bậu chờ ai, chớ ai chờ Bậu. Chớ Bậu chờ ai, lấy chồng sướng hơn! LÝ CON SÁO SANG SÔNG (Dân ca Nam bộ) Ai đem mà con sáo (i) sang sông? Ai đem con sáo sang sông tình bằng mà sang sông í i tình bằng mà sang sông (í i i)? Cho nên mà con sáo mà í sổ sổ sổ lồng, cho nên chim sáo sổ lồng tình bằng mà bay xa í i, tình bằng mà bay xa í i. LÝ KÉO CHÀI (Dân ca Nam bộ) Gió lên rồi căng buồm cho khoái. Gác chèo lên ta nướng ngô khoai. Gió lên rồi căng buồm theo gió. Kéo chài cho tôm cá vô khoang. Cánh tay này sức dài vóc lớn. Chí làm trai vượt gió ra khơi. Dẫu xa bờ không sờn lòng sóng lớn. Vững bàn tay sương gió khơi xa. Dù cho mưa nắng mấy ai khoan hơi khoan hò. Nhậu cho tiêu hết mấy chai khoan hơi khoan hò. Bỏ ghe màng nghiêng ngả ơi … là hò. (Không ai chống chèo, không ai chống chèo ơi hò ơi hò là hò ơi). Dù cho mưa nắng mấy ai khoan hơi khoan hò. Ngại chi mưa nắng thấu vai khoan hơi khoan hò. Chắc tay mà kéo lưới ơi … là hò (cho khoang cá đầy, cho tôm cá đầy ơi hò ơi hò là hò ơi). Nhạc âm hưởng dân ca BÀI CA ĐẤT PHƯƠNG NAM (Lê Nhất Vũ – Lê Giang) Nhắn ai đi về miền đất phương Nam. Trời xanh mây trắng, soi dòng Cửu Long giang. Mênh mông rừng tràm, bạt ngàn dừa xanh. Tiếng chang đước đong đưa, nhớ người xưa từng ở nơi này. Cho ta thêm yêu dấu chân ngàn năm đi mở đất. Cho ta thêm yêu bầy chim sáo sổ lồng. Ơi, ơi hò, ơi ơi ơi ơi hò. Ơi ơi ơi hò, ơi ơi ơi hò ơi. Còn đâu đây tiếng vó ngựa phi, mà ngỡ con tàu vỗ sóng bờ xa. Nỉ non sao tiếng nhạn kêu chiều. Buồm xuôi vô phương Nam phiêu bạt theo thủy triều. Dẫu trải qua thăng trầm giông tố, qua bao cuộc bể dâu, mãi dâng cho đời, bài tình ca đất phương Nam. Ơi ơi hò, ơi ơi ơi ơi hò. Cánh chim tung trời về đất phương Nam, người xưa lưu dấu in hình thuở mang gươm. Bao la tình đời, màu lục bình trôi. Hoàng hôn tím ven sông, tiếng hò khoan còn tỏa đôi bờ Lênh đênh mây trôi, khói sương chiều miên man nỗi nhớ. Nghe trong âm ba từng con sóng vỗ về. Ơi ơi hò, ơi ơi ơi ơi hò Ơi ơi ơi hò, ơi ơi ơi hò ơi. Chờ trăng lên cất tiếng gọi nhau, đờn khảy tang tình đượm thắm hồn ai. Biển xôn xao gió lộng tứ bề, thuyền ai xuôi phương Nam khoan nhặt trôi lững lờ. Đã trải qua bao muà mưa nắng, qua bao cuộc đổi thay, mãi dâng cho đời, bài tình ca đất phương Nam. CÁNH CÒ TRONG CÂU HÁT MẸ RU (Phạm Tuyên – Chế Lan Viên) Con còn bế trên tay, con chưa biết con cò. Nhưng trong lời mẹ ru, có cánh cò đang bay. Con cò bay la, con cò bay lả con cò ... con cò Đồng Đăng. Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn. Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ. Con cò ăn đêm con cò xa tổ. Cò gặp cành mềm cò sợ xáo măng. Ngủ đi con cò ơi chớ sợ.Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng. Con chưa biết con cò, con vạc. Con chưa biết cành mềm, mẹ hát... Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân. Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân. Dù gần con, dù ở xa con. Lên rừng xuống bể, cò vẫn tìm con , cò vẫn tìm con, cò vẫn yêu con. Con dù lớn vẫn là con của mẹ. Đi suốt cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con. Đi suốt cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con…À ru hời à hời ru. Một con cò thôi, con cò mẹ hát cũng là cuộc đời vỗ cánh qua nôi. Hà hời ru, hà hời ru. Cho cánh cò, cánh vạc, cho cả sắc trời đến hát quanh nôi. ĐÊM TÀN BẾN NGỰ (Dương Thiệu Tước) Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng. Nhớ chăng non nước Hương Bình! Có những ngày xanh, lưu luyến bao tình, vương mối tơ mành! Hàng cây soi bóng nước Hương, thuyền xa đậu bến Tiêu Tương. Lưu luyến thay phút say hương dịu buồn. Nhưng thoảng nghe khúc ca Nam Bình sầu than! Như nức nở khóc duyên bẽ bàng! Thấp thoáng trăng mờ, ai than ai thở đời vui chi trong sương gió. Ai nhớ thương ai! Đây lúc đêm tàn, tình đã lạt phai. Thuyền ơi đưa ta tới đâu? Tìm trăng, trăng khuất đã lâu. Sương xuống trên bến cô liêu,thêm sầu. Bèo nước gió mây đêm ngắn tình dài, có ai nhớ, ai nơi giang đầu. Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng. Bến xưa non nước Hương Bình, những phút tàn canh vương vấn bao tình. Ai rứt sao đành. Thuyền mơ trong khúc Nam Ai, đàn khuya trên sông ngân dài. Ai luyến ai tiếc khúc ca Tần Hoài! Ôi vẳng nghe tiếng ai âm thầm trầm ngân như nhắn nhủ mối duyên thờ ơ. Sông nước lững lờ, ai mong ai chờ đời vui chi trong sương gió. Đây phút cô đơn ai oán cung đàn sầu vọng trần gian. Thuyền ơi, đưa ta tới đâu! Hồn thơ vương vấn canh thâu, thương tiếc chi phút bên nhau thêm sầu. Bao kiếp giang hồ ly biệt thường tình, có ai nhớ ai nơi Hương Bình. MƯA TRÊN PHỐ HUẾ (Minh Kỳ) Chiều nay mưa trên phố Huế, kiếp giang hồ không bến đợi. Mà mưa sao vẫn rơi rơi hoài, cho lòng nhớ ai. Ngày chia tay hôm nao còn đây, nước trên sông Hương còn đầy. Tình đã xa gió mưa u hoài, mắt lệ ngắn dài. Chiều mưa trên Kinh Đô Huế,tiếng mưa còn vương kỷ niệm. Ngày quen nhau dưới chân Thiên Mụ, anh còn nhớ không? Chợ Đông Ba khi mình qua, lá me bay bay là đà. Chiều thiết tha có anh bên mình, mà ngỡ hôm qua. Hò...ơi...!!! Ơi...hò...!!! Chiều mưa phố buồn. Chiều mưa phố xưa u buồn, có ai mong đợi. Một người biền biệt nơi mô, để nhớ với thương một người. Chiều nay mưa trên phố Huế, biết ai đã quên ai rồi. Hạt mưa rơi vẫn rơi rơi đều, cho lòng u hoài. Ngày xưa mưa rơi thì sao, bây chừ nghe mưa lại buồn. Vì tiếng mưa, tiếng mưa trong lòng, làm mình cô đơn. NGẪU HỨNG LÝ QUA CẦU (Trần Tiến) Bằng lòng đi em về với quê anh, một cù lao xanh một giòng nước xanh. Bằng lòng đi em về với quê anh, mình ngồi bên nhau tình tự quê hương. Bằng lòng đi em về với quê anh, mùa mưa, cầu tre dẫu khó đưa dâu. Bằng lòng bên anh dưới mái tranh nghèo, về đây người quê chỉ có tấm lòng, có chiếc xuồng ba lá để yêu em. Ôi đóa hoa tím trôi liu riu, dòng sông nước chảy liu riu, anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu anh thương. Ôi những đêm ngắm sông, nhớ em buồn muốn khóc. Mình anh ca điệu lý qua cầu. Bằng lòng đi em, bằng lòng, bằng lòng đi em ... Bằng lòng đi em. Bằng lòng đi em. Bằng lòng đi dù muôn trùng xa, khúc dân ca bắc cầu em tới. Bằng lòng đi người yêu nhỏ bé, khúc dân ca điệu lý qua cầu. TIẾNG CÒI TRONG SƯƠNG ĐÊM (Hoàng Việt) Bến nước gió rét đò thưa khách sang. Lau xanh ven sông mờ run bóng trăng. Đêm nay không gian chìm trong giá băng. Con đò sang ngang...Kể lúc vắng bóng người chinh chiến xưa. Đã cắm giữa gió mùa thu thổi đưa. Đêm nay đông sang mà tin vẫn chưa. Đưa đò ...về ... xưa. Mà đoàn hùng binh âm thầm xông lướt trong sương. Hồi còi còn vang như hòa lẫn theo người lái đò ru: Tiếng còi trong sương đêm. Tiếng còi trong sương đêm theo gió đưa ôi buồn, nghe vi vu oán than. Thôi toán quân đi rồi, thôi toán quân đi rồi ...Hơ hờ hơ ...hơ hơ hơ đi rồi ...Con ơi lòng mẹ ủ ê thương cho chồng mấy dặm sơn khê. Khi ra đi có hứa thu nay về. Mà hôm nay lá thu đã rơi tràn. Rồi mùa đông sang qua luôn mòn mỏi trong đau buồn. Hò hơ hớ ... Hò hơ hớ ...Tiếng còi trong sương đêm. Tiếng còi trong sương đêm theo gió đưa ôi buồn. Nghe vi vu oán than. Thôi khóc chi đau lòng, con cứ an giấc nồng. Hơ hờ hơ ...hơ hơ hơ bên lòng...Hơ hờ hơ ...hò hơ… Nhạc hiện đại BIỂN NHỚ (Trịnh Công Sơn) Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về. Gọi hồn liễu rủ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya. Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ. Sỏi đá trông em từng giờ, nghe buồn nhịp chân bơ vơ. Ngày mai em đi, biển nhớ em quay về nguồn, gọi trùng dương gió ngập hồn, bàn tay chắn gió mưa sang. Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đêm mờ. Hồn lẻ nghiêng vai gọi buồn, nghe ngoài biển động buồn hơn. Hôm nào em về, bàn tay buông lối ngõ. Đàn lên cung phím chờ sầu lên dây hoang vu. Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về chiều sương ướt đẫm cơn mê, trời cao níu bước sơn khê. Ngày mai em đi, cồn đá rêu phong rũ buồn. Đèn phố nghe mưa tủi hồn. Nghe ngoài trời giăng mây luôn. Ngày mai em đi, biển có bâng khuâng gọi thầm, ngày mưa tháng nắng còn buồn, bàn tay nghe ngóng tin sang. Ngày mai em đi, thành phố mắt đêm đèn vàng, nửa bóng xuân qua ngập ngừng, nghe trời gió lộng mà thương. BỜ BẾN LẠ (Nhất Huy) Em bước đi mãi trên con phố dài. Nghe tiếng chim hót cô đơn cuối trời, từng chiều mưa mà sao ta đã mất nhau người ơi. Bờ bến lạ, bờ bến lạ người yêu đã sang bên kia đại dương. Bờ bến lạ, bờ bến lạ để anh bước đi quên hết yêu thương. Trong đêm tối không còn tiếng cười. Đôi chân mỏi không còn lối về. Nhìn mưa bay giọt sầu rơi, rơi trong tiếc nuối. Bờ bến lạ, bờ bến lạ để con sóng xưa quên đi đại dương. Đường phố lạ đường phố lạ để anh bước chân qua những yêu thương. Như sương khói tan vào cuối trời, quanh ta đã không còn tiếng cười. Từng đêm mưa rơi từ khi anh bước chân về bên người. Bờ bến lạ, bờ bến lạ người yêu đã sang bên kia đại dương. Bờ bến lạ, bờ bến lạ để anh bước đi quên hết yêu thương. Trong đêm tối không còn tiếng cười. Đôi chân mỏi không còn lối về. Nhìn mưa bay giọt sầu rơi, rơi trong tiếc nuối... CA DAO ĐÊM GIÁNG SINH (Dương Thụ) Lũy tre làng lao xao bờ sông. Bài ca dao mùa đông, có tiếng mưa thì thầm trên mái rạ. Bài ca dao thềm hoang, vẩn vơ viên gạch vỡ. Bài ca dao xiêu xiêu, cánh cò bay bạt gió. Bài ca dao ta không còn nhớ và nụ cười năm xưa đã quên. Tiếng chuông nhà thờ ngân nga mùa đông. Bài ca dao vào đêm có tiếng kêu miệt mài con dế nhỏ. Bài ca dao ngả nghiêng chập chờn ngôi nhà cũ. Bài ca dao rêu phong xanh mờ trên tường ngõ. Bài ca dao ta không còn nhớ và nụ cười năm xưa đã quên. Lũy tre làng và tiếng chuông nhà thờ. Bài ca dao bâng quơ nụ cười ai bơ vơ một thuở. CHIỀU NGHE BIỂN KHÓC (Jimmy Nguyễn) Một chiều nào bơ vơ trên cát, nhìn em đang ngây ngơ xõa tóc hững hờ. Ngày lại ngày tôi hay ra đó, tìm kiếm chỉ có mỗi riêng người. Những dốc đá em hay đi qua, thì tôi đây đi ra chờ sẵn lâu rồi. Bóng dáng đó tôi hay theo sau, chiều nay sao bỗng bỏ đi rồi. Giờ một mình lang thang trên cát, lòng tôi như đang nghe biển khóc âm thầm. Rồi tình này như bao cơn sóng, ngày tháng sóng đến khóc bên bờ. Những phiến đá trăm năm yêu ai, chờ ai cho hôm nay trời đất hao mòn. Đến những dấu chân hôm nào em đi, chiều nay dấu đã phai rồi. Cho tôi xin cơn sóng chỉ xô bờ, đừng quay ra khơi cho tình phải bơ vơ. Cho tôi xin cơn gió hãy ru hời, đại dương trong tim tôi đừng khóc. Cho tôi xin em vẫn đứng bên đời, để cho con tim tôi còn mãi chơi vơi. Cho tôi xin em tóc xõa trong chiều, biển xanh muôn đời đẹp mãi. ĐÊM THẤY TA LÀ THÁC ĐỔ (Trịnh Công Sơn) Một đêm bước chân về gác nhỏ, chợt nhớ đóa hoa Tường Vi. Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ, giờ đây đã quên vườn xưa. Một hôm bước qua thành phố lạ, thành phố đã đi ngủ trưa. Đời ta có khi tựa lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do. Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà, từ những phố xưa tôi về. Ngày xuân bước chân người rất nhẹ, mùa xuân đã qua bao giờ. Nhiều đêm thấy ta là thác đổ, tỉnh ra có khi còn nghe. Một hôm bước chân về giữa chợ, chợt thấy vui như trẻ thơ. Đời ta có khi là đóm lửa, một hôm nhóm trong vườn khuya. Vườn khuya đóa hoa nào mới nở, đời tôi có ai vừa qua. Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ, tôi nghĩ quanh đây hồ như. Đời ta hết mang điều mới lạ, tôi đã sống rất ơ hờ. Lòng tôi có đôi lần khép cửa, rồi bên vết thương tôi quỳ. Vì em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia. NHƯ CÁNH VẠC BAY (Trịnh Công Sơn) Nắng có hồng bằng đôi môi em. Mưa có buồn bằng đôi mắt em. Tóc em từng sợi nhỏ, rớt xuống đời làm sóng lênh đênh. Gió sẽ mừng vì tóc em bay, cho mây hờn ngủ trên trên vai. Vai em gầy guộc nhỏ, như cánh vạc về chốn xa xôi. Nắng có còn hờn ghen môi em. Mưa có còn buồn trong mắt trong. Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng. Suối đón từng bàn chân em qua. Lá hát từ bàn tay thơm tho. Lá khô vì đợi chờ, cũng như đời người mãi âm u. Nơi em về ngày vui không em? Nơi em về trời xanh không em? Ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh. VỀ ĐÂY NGHE EM (Trần Quang Lộc – Anh Khuê) Về đây nghe em, về đây nghe em.Về đây mặc áo the, đi guốc mộc. Kể chuyện tình bằng lời ca dao, kể chuyện tình bằng hạt lúa mới, kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai.Và về đây nghe lại tiếng xưa, để nhớ trong tiếng vỡ bờ. Về đây nghe em, về đây nghe em. Về đây thỏa ước mơ đi hát dạo, để chào đời bằng hạt sương mai, để bằng lòng ngọt ngào hấp hối. Và hận thù người người lắng xuống, và tìm nhau như tìm xót xa trong lúc lệ đã đầy vơi. Này hồn ơi lên cao lên cao, đem ánh sáng hân hoan trên trời, rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương. Này thịt xương ta chưa mang theo, khi ngã xuống mê man tủi hờn. Này về đây nghe nhau thở dài trong đêm. Về đây nghe em, về đây nghe em. Về đây cùng khóc trên sông nước buồn. Chở lòng người trở về quê hương. Chở hồn người vào dòng suối mát. Chở thật thà vào lòng dối trá. Và nhạc hoa xin tạ chút ơn hạnh phúc khi đã gặp nhau. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5505.pdf
Tài liệu liên quan