Mụclục
Phần I: Lời nói đầu
Phần II: Nội dung chính
I. Cơ sở lý luận chung
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến:
2. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
3. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
II. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường.
III. Các biện pháp đề xuất
Phần III: Kết Luận
Phần IV: Danh mục tài liệu tham khảoPhần I: Lời nói đầu
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con ngư
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng với việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời. Trong hoạt động kinh doanh mặt trận cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung – cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền kinh tế hàng hoá… Mâu thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật mâu thuẫn hình thành không phải chỉ một mà còn là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối với mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành…
Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được những thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển từ nền kinh tế cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành công to lớn nhưng trong những thành công đó luôn tồn tại được những vấn đề mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải được giải quyết và những vấn đề ấy nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm vê những vấn đề của nền kinh tế, quan điểm lý luận cũng như vướng mắc trong giải pháp, quy trình sử lý các vấn đề chính trị – xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển đổi nền kinh tế tôi đã chọn đề tài: “Mâu thuẫn biện chứng với việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay” làm đề tài cho tiểu luận môn triết học Mác – Lênin.
Vì thời gian có hạn nên trong tiểu luận ày chỉ xem xét đánh giá một vài mâu thuẫn tiêu biểu:
- Đổi mới kinh tế - Đổi mới chính trị
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường ở Việt Nam
- Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Tiểu luận này được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Lê Ngọc Thông (Khoa triết học Mác – Lênin).
Phần II
I. Lý luận chung
Mọi sự vật và hiện tượng trong thế gới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng lại liên hệ ràng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn.
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến:
Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tượng khách quan, mà còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Chẳng những mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật, hiện tượng mà còn tồn tại phổ biến trong suốt quá trình phát triển của chúng. Không có một sự vật, hiện tượng nào lại không có mâu thuẫn và không có một giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi, thì mâu thuẫn khác lại hình thành.
Để chứng minh tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn, Ăng- ghen chỉ ra rằng, ngay hình thức vận động đơn giản nhất của vật chất - vận động cơ học, đã là một mâu thuẫn. Sở dĩ sự di động một cách máy móc và đơn giản ấy có thể thực hiện được chỉ là vì, một vật trong cùng một lúc vừa là ở chỗ này vừa là ở chỗ khác, vừa ở trong cùng một chỗ duy nhất lại vừa không ở chỗ đó. Tất nhiên sự tồn tại của vật chất ở những hình thức vận động cao hơn lại càng bao hàm mâu thuẫn. Ăng- ghen viết: "nếu bản thân sự di chuyển một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn… "
2. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập`là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng… trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật và hiện tượng. Ví dụ: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của phương thức sản suất, chính trị và kinh tế trong xã hội …
Cũng không nên nhầm lẫn mặt đối lập với mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập, nhưng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ những mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.
Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau. Khai niệm " thống nhất " trong qui luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau và qui định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Ví dụ:Trong sinh vật, hai mặt đối lập đồng hoá và dị hoá thống nhất với nhau, nếu chỉ một quá trình thì sinh vật sẽ chết. Trong xã hội tư bản, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách là một giai cấp bán sức lao động cho nhà tư bản, thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư …
Theo quan điểm của phép biện chứng, sự đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật vừa là bản thân nó, vừa cái khác với bản thân nó. Trong sự thống nhất đã bao sự khác nhau, sự đối lập . Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình. Những người theo quan điểm siêu hình hiểu sự đồng nhất một cách phiến diện, cứng đờ, sự vật là một cái gì đồng nhất thuần tuý, không có đối lập, không có sự chuyển hoá.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh của chúng. Bởi vì, đây là sự thống nhất cuả hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập này không nằm yên bên nhau, mà chúng luôn luôn đấu tranh với nhau. Nghĩa là các mặt đối lập bài trừ nhau, phủ định nhau . Sự bài trừ, phủ định trong thế giới vật chất được thể hiện dưới những dạng rất khác nhau. Ví dụ: Sự đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản được diễn ra dưới dạng xung đột với nhau về mọi mặt rất gay gắt quyết liệt chỉ có thể thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn này một cách căn bản. Sự đấu tranh của hai mặt đồng hoá và dị hoá, sức hút và sức đẩy … thì lại diễn ra dưới dạng tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau …
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra từng giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ, sự thống nhất của hai mặt đối lập mới được hình thành cùng với mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn mới này lại triển khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế sự vật cũ. Sự đấu tranh của các mặt đối lập làm cho các sự vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế , đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của mọi sự vận động và phát triển. Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, là tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sư đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, cũng như sự vận động, sự phát triển là tuyệt đối.
3. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
Về sự chuyển hoá của các mặt đối lập, Lê-nin viết: " không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập, mà còn là những chuyển hoá của mỗi quy định, chất, đặc trưng, mặt, thuộc tính sang mỗi cái khác ". Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoàn đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc . Nhưng không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều chuyển hoá giữa chúng . Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người Chuyển hoá các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết . Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Thông thường thì mâu thuẫn được chuyển hoá theo hai phương thức :
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hỏn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ: lực lượng sản suất và quan hệ sản suất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản suất tư bản chủ nghĩa va lực lượng sản suất ở trình độ cao hơn.
+ Phương thức thứ hai:
Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền KTTTXHCN ở Việt nam.
II. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Thực chất kinh tế thị trường ở Việt Nam và các mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
+ Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng XH mới, là mục tiêu củaCNXH. Vì vậy chúng ta phải bắt đầu từ con người lấy con người làm điểm xuất phát.
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua - bán, trao đổi hàng hoá - tiền tệ, trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá - tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản suất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất,tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát quáng, sự cạnh tranh khốc liệt dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây,chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường.
Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ,…, nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó,kinh tế thị trường là điều kiện rất là quan trọng đưa nước ta phát triển bắt kịp với sự phát triển trong khu vực và trên thếgiới, của thời đại. T rên cơ sở đó đời sống của con người ngày càng được cải thiện và nâng cao những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản ngày càng đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh chóng hơn. Con người không thể có cơ thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các điều kiện y tế hiện đại, để chăm sóc giữ gìn sức khoẻ. Việc xây dựng, củng cố hoàn thiện thị trường có sự quản lý của nhà nước theo đinh hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển con người cho thế kỷ XXI.
Kinh tế thị trường không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây, phát huy nhuồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho sư phát triển toàn diện, toàn diện về thể chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát phân tích để thích nghi và hành động có hiệu qủa, từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người
Tuy nhiên cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thàmh cho con người. Có những lúc, những nơi, kinh tế thị trường không những không làm cho con người năng động, tốt đẹp hơn mà ngược lại, còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành ngã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm,văn hoá,đạo đức, luân lý… bên cạnh những tích, cực kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra những tác động xấu. Chúng làm xói mòn nhân cách hạ thấp phẩm giá con người .Đó là hàng loạt tệ nạn xã hội dễ đưa đến rối loạn cho gia đình - hạt nhân. Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham những… là những căn bệnh trầm kha không dễ bề khắc phục trong nền kinh tế thị trường. Thật không sai khi hình dung kinh tế thị trường như là con dao hai lưỡi .
Những phân tích trên đây cho thấy,kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường
Vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố đầu độc huỷ hoại con người. Việc giải quyết những vấn đề trên đây là một việc làm không đơn giản.
Việc áp dụng cơ chế thị trường trước hết đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản suất kinh doanh. Đồng thời phải tiến hành các hoạt động văn hoá, giáo dục khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các gí trị nhân phẩm, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc . Thực hiện tốt vấn đề này sẽ phát huy được tác động tích cực to lớn như ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Đó chính là nội dung của nghị quyết TƯ5 đã nêu . Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn đã nêu.
Kinh tế thị trường với tốc độ của sự phân hoá giàu nghèo.
Một trong những vấn đề nóng bỏng ở nước ta trong gia đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường là vấn đề về tình trạng nghèo khổ, cả ở nông thôn lẫn thành thị. Trước đây, trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, mặc dù chiến tranh và trình độ thấp kém , nhưng sự phân phối thu nhập và cung cấp các dịch vụ phúc lợi công cộng tập trung trong tay nhà nước và thực hiện theo kiểu bình quân, nên mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo không phải là một vấn đề căng thẳng trong các quan hệ cộng đồng. Việc chuyển đổi các chính sách theo cơ chế thị trường đang làm cho vấn đề nghèo đói trở thành mối quan tâm chung của chính phủ, của cả cộng đồng dân cư và của các tổ chức xã hội.
ơ nông thôn nước ta hiện nay có 2.847 nghìn hộ nghèo, bao gồm 13,8 triệu người, chiếm gần 30%tổng số nông dân. ở đô thị hiện nay có khoảng 8% số hộ nghèo ( "Đói nghèo ở Việt Nam '' Tài liệu của trung tâm nghiên cứu dân số và nguồn lao động , Hà Nội 7.1993) . Tỷ lệ những người nghèo tương đối có độ co giãn lớn hơn bởi vì mức thu nhập trung bình của các địa phương là khác nhau tương đối lớn. Điều đó rõ ràng là tỷ lệ người nghèo ở nông thôn cũng lớn hơn khá nhiều so với ở đô thị
Sự giãn cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo có chiều hướng tăng nhanh. Theo số liệu điều tra mẫu từ 1989 đến nay, các chính sách khuyến khích động lực cá nhân, số người giàu tăng lên 2.4 lần, con số người nghèo cũng tăng lên 1.7 lần.Tuy số người giàu tăng nhanh hơn, nhưng hiện chỉ chiếm khoảng 7 đến 10%. Vì vậy, xã hội vẫn đặc trưng là xã hội của những nhười nghèo. Khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo tăng lên, thời kỳ sau chiến tranh 1976-1980 mức chênh lệch chỉ khoảng 3-4 lần, thời kỳ 1981-1989 tăng tới 6-8 lần, hiện nay đạt vào khoảng 20 lần ở nông thôn và 40 lần ở đô thị.
Những người nghèo đói thường sống trong những căn nhà lợp tranh hoặc lợp lá tồi tàn, đồ dùng sinh hoạt ít ỏi và kén chất lượng, công cụ sản xuất thô sơ, không có vốn đầu tư thâm canh sản xuất, chưa kể tình trạng nợ nần khá phổ biến. Điều đương nhiên là trình độ văn hoá, đào tạo chuyên môn và địa vị chính trị- xã hội của họ thấp hơn nhiều so với các tầng lớp khác.
Điều khác biệt ở nước ta so với các nước khác là phần đông người nghèo vẫn có ruộng để tự mình canh tác, bởi vì chế độ sở hữu và phân phối đất đai trước đây đã chia đất bình quân cho mọi người . Người nghèo vẫn còn tự mình sản xuất một phần lương thực hay thu nhập trên mảnh đất được chia. Song với những điều chỉnh về pháp luật gần đây với nội dung là giao đất lâu dài cho gia đình nông dân kèm theo quyền được chuyển nhượng, kế thừa thì quá trình này chắc chắn sẽ gia tăng nhanh chóng tình trạng những người nghèo khổ chỉ sống dựa vào lao động làm thuê ở nông thôn nước ta cũng như các nước khác.
ở đô thị những người nghèo thường là những nguời không có việc làm hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, người già không nơi nương tựa, người tàn tật. Một số đông trong ho là di cư từ nông thôn ra. Đại bộ phận những người sống lang thang, trộm cắp, gái mại dâm , trẻ em vô gia cư là xuất thân từ nghèo đói. Số lượng người này có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây.
Trước thực trạng đó, thời gian gần đây các cơ quan hoạch định chính sách cũng như các tổ chức nghiên cứu , các đoàn thể xã hội nước ta đã chú trọng điều tra, tìm hiểu và đưa ra những hệ thống chính sách và các giải pháp nhằm giảm bớt đói nghèo. Những chương trình tạo việc làm ,thúc đẩy kinh doanh nhỏ , cho người nghèo vay vốn ,đào tạo nghề và hướng dẫn kinh doanh, chuyển giao công nghệ thích hợp , cải thiện đời sống và tăng cường phúc lợi xã hội cho một số đối tượng kết hợp với xoá đói, giảm nghèo, được chính phủ và các tổ chức quốc tế xúc tiến.
Trong bối cảnh đó, sự phát triển kết hợp một cách hợp lý tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội đang trở thành nhữnh thách thức quan trọng nhất mà đất nước ta dân tộc ta đang phải đối mặt.
+Mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê Nin thì kinh tế quyết định chính tri, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Trong lịch sử phát triển loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề về chinh trị . Từ khi xã hội có giai cấp thì vấn đề chính trị mới xuất hiện Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp . Trung tâm của vấn đề về chính trị là vấn đề đấu tranh giai cấp nhằm giành và giữ chính quyền Nhà nước và sử dụng quyền đó làm cômg cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời là hoàn toàn do vấn đề kinh tế qutết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Đuyrinh cho rằng, bạo lực chính trị quyết định kinh tế, Engen đã khẳng định: " bạo lực chỉ là phương tiện còn lợi ích kinh tế trái lại là mục đích". Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển thì tất yếu kinh tế sẽ mở đường đi. Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế là điêù kiện kiên quyết cho nền kinh tế phát triển. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Việc phát hiện mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị và giải quyết kịp thời trong thực tiễn nước ta hiện nay là một vấn đề cần thiết và quan trọng. Đó cũng chính là bài học rút ra từ thất bại trong công cuộc đổi mới của Liên Xô và các nước ĐôngÂu
Khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy nhất là cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề để đổi mới trong hiện thực. Nhấn mạnh như vậy là hết sức cần thiết đối với thực tiễn nước ta để vượt ra khỏi thói quen tư duy cũ đang trói buộc chúng ta khi đó. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi đổi mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới trong tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn của công cuộc đổi mới
Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề, khi mà chúng ta giành được những thắng lợi bước đầu. ơ nuớc ta đã có những quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do các nước đó đổi mới chính trị trước mới đổi mới kinh tế sau; còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là do đổi mới kinh tế trước đổi mới chính trị sau.Quan điểm này mới xem qua tưởng là chính xác nhưng đi vào phân tích sẽ thấy rằng nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- LêNin thì mỗi khi chính trị không phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện kiên quyết để thay đổi kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên không thể quy nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở LiênXô và các nước xã hội chủ nghĩa ở ĐôngÂu là đổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân thực sự dẫn đến sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước đó là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không được phát hiện và khắc phục sớm đã dẫn đến khủng khoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò của Đảng Cộng Sản.
Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước đổi mới chính trị sau cũng không phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đường lối đổi mới do Đảng đề ra, trên cơ sở hình thành chính sách mới, luật pháp mới … thì mới có thể đổi mới kinh tế.Vấn đề ở chỗ : lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan đến quyền thống tri của giai cấp, nó có ý nghĩa thành bại của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước và hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 06/1991) , Đảng ta đã khẳng định :
" Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghiã xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi trong lĩnh vực chính trị.Đồng thời phải đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội . Vì chính trị đụng chạm đến ccác mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ". Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định rằng phải tập trung sức làm đổi mới tốt kinh tế và đồng thời phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải thận trọng không gây mất ổn định về chính trị.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy ổn định chính tri là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Những thành tựu của 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta cũng đã khẳng định điều đó. Những thành tựu đó khômg thể tách rời việc chúng ta giữ việc ổn định về chính trị .
Tóm lai : ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưmg thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định.Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế trên nền tảng đổi mới kinh tế.
Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm 10 năm đổi mới vừa qua và là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiên cụ thể ở Việt Nam. Khái quát đó là hoàn toàn có khoa học và nó có giá trị định hướng trong giai đoạn tiếp theo- giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Nước ta bước vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm rất thấp. Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, nhân dân ta đã đạt những thành tựu quan trọng trong việc hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển giáo dục, văn hoá, y tế… Tuy vậy, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc. Trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xá hội yếu kém. Cơ cấu kinh tế mất cân đối nặng, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề…
Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả của nhiều năm chiến tranh; song chủ yếu là chúng ta đã vi phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm các qui luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong tiến hành công nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt là qui luật phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đã là quá vội vàng khi chúng ta đề ra chủ trương xây dựng, nói chính xác hơn là áp đặt mối quan hệ sản xuất hoàn toàn không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất của nuớc ta trong thời kỳ đó. Đã là quá chủ quan khi chúng ta đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về qui mô,quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất nhất là lúc ban đầu. Việc quốc hữu hoá Hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương một cách không phù hợp đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây cản trở cho sự phát triển của sản xuất xã hội và tiến bộ xã hội. Chúng ta đã rất sai lầm khi tiến hành xây dựng quan hệ sản xuất tiến rồi mới thúc đẩy, lựa chọn lực lượng sán xuất xã hội phát triển. Chính sự tiên tiến quá mức của quan hệ sản xuất đã tạo đà cho bước lùi của phương thức sản xuất nói riêng và tiến bộ xã hoi nói chung. Và như thế thì không khác gì chúng ta may một chiếc áo quá rộng để chờ đứa bé lớn lên thì mặc vừa, nhưng thực chất là bóp chết đứa bé, không cho nó phát triển cao hơn. Kết quả là đã tạo ra trong chúng ta một nhận thức phổ biến là xây dựng Chủ nghĩa xã hội chỉ là qúa trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển để lực lượng sản xuất phải phù hợp với quan hệ sản xuất chứ không phải là quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất được đề cập ở đây không phải là quan hệ sản xuất được hình thành và hoàn thiện do tính xã hội hoá của lực lượng sản xuất qui định mà thực chất là do ý chí chủ quan của con ngươì tạo ra. Phép biện chứng giữa lực lượng sản suất và quan hệ sản suất trong một chừng mực nào đó đã bị thay thế bằng phép siêu hình. Chúng ta đã mặc nhiên cho rằng bản chất của phép biện chứng giữa lực lượng sản suất và quan hệ sản suất trong phạm vi kinh tế xã hội mới sẽ không chứa đựng sự tác động qsua lại lẫn nhau, không còn tồn tại mâu thuẫn biện chứng giữa chúng mà sự lựa chọn dần dần lực lượng sản suất cho phù hợp với khoảng không gian rộng lớn của quan hệ sản xuất. Cùng với nó là sự tồn tại quá lâu của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sự trì trệ trong công tác tổ chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản suất, triệt tiêu động lực phát triển sản suất và tiến bọ xã hội. Sai lầm chủ yếu nhất của chúng ta trong những năm qua không phải là ở chỗ chúng ta duy trì quan hệ sản suất lạc hậu so với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất mà là do có những mặt của quan hệ sản xuất chúng ta đẩy lên quá cao, tách rời với trạng thái thấp kém của lực lượng sản xuất làm cho hai nhân tố này mâu thuẫn gay gắt với nhau, kìm hãm sự phát triển sản xuất của xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhận ra sai lầm này và cũng đã thấy rằng việc cải tạo xã hội là cần thiết nhưng không thể tiến hành một cách chủ quan, nóng vội như trước đây, nghĩa là cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất nhưng bao giờ cũng phải gắn liền từng bước với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cải tạo và củng cố quan hệ sản suất không phải là mịc đích tự thân mà là nhằm phát triển lực lượng sản xuất và được bảo đảm bằng sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là điều kiện cơ bản cho cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất phát triển vững chắc. Cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất, làm cách mạng về quan hệ sản xuất tất yếu sẽ phải làm cách mạng về quan hệ sở hữu vì đó là nội dung quan trọng nhất trong quan hệ sản xuất, qui định tính chất của quan hệ sản xuất. Yêu cầu đặt ra trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa là một mặt phải bảo tồn và duy trì những lực lượng sản suất hiện có, sử dụng chúng một cách tốt nhất, mặt khác phải tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho sở hữu tập thể, cho lao động hiêp tác tồn tại và phát triển. Với trình độ của mình, lực lượng sản xuất yêu cầu phải có những quan hệ sản xuất phù hợp thì nó mới bộc lộ hết khản năng của mình và mới có khản năng nhanh chóng phát triển. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu xuất hiện nhiều năng lực sản xuất mới với những trình độ kỹ thuật, vốn liếng và qui mô khác nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng về sản xuất và tiêu dùn. Đó là vận dụng qui luật sức mạnh tổng hợp trong lĩnh vực kinh tế . Chỉ có từng ưu thế riêng của từng thành phần kinh tế thông qua phân công lao động xã hội mới là con đường hiệu quả nhất để phát triển lực lượng sản xuất.
Việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta luôn được tiến hành đồng thời với việc không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhằm bảo đảm cho sự phát triển đó không xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa. Đúng là hiện nay các thành phần kinh tế đang vận động theo chế thị trường, nhưng thị trường này không phải là thị trường hoàn toàn tự do mà là thị trường có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29920.doc