Mâu thuẫn biện chứng với việc tìm hiểu những cơ hội & thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO

MỤC LỤC Lời nói đầu Hội nhập kinh tế quốc tế mà đỉnh cao là gia nhập WTO, đang trở thành yêu cầu bức xúc, tất yếu đốI với mỗi quốc gia và Việt Nam cũng không nằm ngoài “vòng hội nhập” đó.Việt Nam đàm phán thành công việc gia nhập vào tổ chức WTO là một bước ngoặt mang tính lịch sử không chỉ đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, mà còn tác động mạnh mẽ tới toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội của nước ta. Có thể nói hội nhập kinh tế đã rút ngắn lại con đường tiến ra thếgiới của Việt

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng với việc tìm hiểu những cơ hội & thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam, mở ra cho các doanh nghiệp trong nước những cơ hội phát triển mới đa dạng, phong phú và rộng lớn hơn.Việc đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao chất lượng cũng như số lượng các mặt hàng xuất khẩu của các công ty, xí nghiệp nước ta là một trong những ưu điểm của hội nhập quốc tế.Hơn nữa, nó còn đem đến cho Việt Nam một luồng sóng đầu tư mạnh mẽ cả về vốn và khoa học công nghệ từ nước ngoài, giúp cho sự phát triển của ViệtNam ngày một nhanh hơn,bền vững hơn và điều quan trọng là đưa nước ta tiến ngang hàng với các quốc gia khác trên diễn đàn kinh tế quốc tế. Không chỉ có vậy, từ đây nền văn hoá nước ta cũng sẽ được thế giới biết đến với những tinh hoa mang đầy bản sắc dân tộc Việt Nam.Và một điều quan trọng là tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế cũng sẽ được nâng cao. Bên cạnh những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại thì toàn bộ dân tộc Việt Nam cũng đang phải đứng trước những rủi ro và thách thức mới trên con đường tiến ra thế giới. Do mức thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu ngày càng giảm nên hàng hoá từ nước ngoài nhập khẩu vào nứơc ta ngày càng nhiều.Vì vậy các công ty trong nước gặp phải sự cạnh tranh lớn từ các công ty nước ngoài có mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam. Ngoài ra, để tham gia vào tổ chức thương mại quốc tế WTO, Quốc hội nước ta đã phải đưa ra các bộ luật mới, sửa đổi một số văn bản luật cũ sao cho phù hợp với điều kiện mới của đất nước. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân cũng như tình hình chính trị trong nước.Và còn rất nhiều những vấn đề khác đang đặt ra khi Việt Nam gia nhập WTO. Trước những cơ hội và thách thức mới của Việt Nam, yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần phải chỉ ra những mâu thuẫn biện chứng của vấn đề này.Vì vậy, sau đây em xin trình bày vấn đề trên dưới góc nhìn của triết học duy vật biện chứng với đề tài nghiên cứu là: “Mâu thuẫn biện chứng với việc tìm hiểu những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.” Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài sự nghiên cứu và tìm hiểu của cá nhân, em còn nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của cô Nguyễn Thị Ngọc Anh - Giảng viên bộ môn Triết học trường đại học Kinh tế Quốc dân.Tuy nhiên do thời gian có hạn và vốn hiểu biết còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu của em còn nhiều thiếu xót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn quan tâm đến đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn. Chương I Mâu thuẫn biện chứng ( Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ) Khái quát chung về mâu thuẫn biện chứng. Quan điểm về các mặt đối lập Tất cả sự vật hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt đối lập nhau. Theo phép biện chứng duy vật thì những mặt trái ngược nhau đó gọi là mặt đối lập. Nó tồn tại khách quan và phổ biến trong thế giới sự vật. Ví dụ như trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân, trong sinh vật có đồng hóa dị hóa, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, có hàng hóa và tiền v.v… Mặt đối lập là những mặt có đặc điểm những thuộc tính những tính quy định có khuynh hướng biến đổi một cách trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên xã hội và tư duy.Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mỗi một mâu thuẫn do hai mặt đối lập tạo thành. Trong đó chúng vừa ràng buộc nhau, quy định lẫn nhau, làm tiền đề cho sự tồn tại của nhau, vừa đấu tranh bài xích, gạt bỏ, phủ định nhau. Ví dụ như trong quá trình phát triển của xã hội tư bản thì luôn tồn tại các mặt đối lập là lợi ích của giai cấp tư sản và lợi ích của giai cấp công nhân. Các mặt đối lập này luôn tồn tại song song với nhau trong quá trình xã hội tư bản phát triển. Giai cấp tư sản tìm mọi các để bóc lột tư lợi íchệu sản xuất và sức lao động của người công nhân trong khi người công nhân cũng không ngừng đấu tranh để giải phóng cho giai cấp của mình. Lợi ích của hai giai cấp này là luôn đấu tranh phủ định lẫn nhau. Tuy nhiên chúng luôn có mối quan hệ ràng buộc, quy định lẫn nhau bởi giai cấp tư sản không thể thiếu sức lao động của người công nhân trong khi người công nhân không có tư liệu sản xuất nên chỉ có thể sản xuất dựa vào tư lợi íchệu sản xuất của tư sản. Tác động qua lại của các mặt đối lập này là liên tục diễn ra trong quá trình tồn tại của xã hội tư bản và làm cho xã hội không ngừng phát triển. 1.1.2 Lý luận về mâu thuẫn biện chứng. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất của các mặt đối lập. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự đồng nhất của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, sự đồng nhất của các mặt đối lập còn bao hàm cả sự đồng nhất của các mặt đó. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn mà còn luôn luôn đấu tranh với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ địng lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập là hết sức phong phú đa dạng, tùy thuộc vào tính chất vào mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng và điều kiện cụ thể khi diễn ra đấu tranh. Như vậy sự thống nhất và đấu tranh là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập. Hai xu hướng này luôn tồn tại không tách rời nhau trong quá trình vận động phát triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, sự ổn định tạm thời, trong khi sự đấu tranh gắn liền với sự vận động và phát triển của sự vật. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất giữa các mặt đối lập là tương đối còn đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, vĩnh viễn. Khi một thể thống nhất trong sự vật hiện tượng được hình thành thì những khuynh hướng phát triển của các mặt đối lập ngày càng mâu thuẫn gay gắt và khi đã đủ điều kiện sẽ phá vỡ thể thống nhất ban đầu và xác lập một thể thống nhất mới. Một sự vật hiện tượng mới sẽ ra đời thay thế cho sự vật hiện tượng cũ. Còn quá trình đấu tranh thì vẫn không ngừng diễn ra ngay cả khi sự thống nhất mới được hình thành. Bản thân sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng mâu thuẫn bên trong nó và mâu thuẫn này tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật hiện tượng đó. Cho đến khi mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn mới lại được hình thành trong sự vật hiện tượng mới. Quá trình đấu tranh lại tiếp tục diễn ra để giải quyết mâu thuẫn đó làm cho sự vật hiện tượng không ngừng biến đổi. Nguồn gốc của sự vận động và phát triển là mâu thuẫn. Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện tượng bao giờ cũng trải qua nhiều giai đoạn giống nhau. Từ chỗ hai mặt đối lập trong mâu thuẫn chỉ ở mức độ khác nhau dần dần phát triển thành xung đột và cuối cùng dẫn đến sự chuyển hóa các mặt đối lập. Hai mặt đối lập trong mâu thuẫn thay đổi căn bản về chất để tạo thành những mặt đối lập trong mâu thuẫn mới. Khi đó mâu thuẫn đã được giải quyết. Và nếu đó là mâu thuẫn cơ bản sẽ dẫn đến thể thống nhất cũ bị phá vỡ, sự vật hiện tượng cũ mất đi, thể thống nhất mới được xác lập và sự vật hiện tượng mới được hình thành. Trong nó lại bao hàm những mâu thuẫn mới và quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn lại tiếp tục diễn ra trong bản thân nó để rồi thể thống nhất mới lại xuất hiện. Quá trình đó tiếp diễn không ngừng tạo thành sự vận động phát triển của thế giới vật chất. Như vậy đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong là nguyên nhân quy định sự vận động phát triển của mọi sự vật hiện tượng. Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt những khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản than nó, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời thay thế. Phân loại mâu thuẫn. Mâu thuẫn hết sức phong phú và đa dạng. Tính phong phú và đa dạng đó được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại giữa chúng. Các loại mâu thuẫn tồn tại bên trong sự vật hiện tượng dựa vào các căn cứ khác nhau có thể được phân chia thành các loại như sau. Nếu căn cứ vào phạm vi xem xét ta có thể phân chia mâu thuẫn ra thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác. Việc phân chia mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ mang tính tương đối bởi cùng một mâu thuẫn nhưng nếu nhìn nhận trong các mối quan hệ khác nhau lại vừa có thể là mâu thuẫn bên trong lẫn mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình phát triển và vận động của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài, đồng thời giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. Trong thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh mối quan hệ này, bởi khi giải quyết mâu thuẫn trong nước luôn phải song song với giải quyết mâu thuẫn với các nước khác. Nếu căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật người ta phân chia ra thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất. Nếu căn cứ vào các giai đoạn phát triển của sự vật người ta phân chia ra thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của một sự vật, nó chi phối mâu thuẫn khác trong giai đoạn phát triển đó. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu góp phần vào từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Nếu căn cứ vào tính chất các quan hệ lợi ích mâu thuẫn bao gồm có mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau còn mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích về cơ bản là thống nhất với nhau chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ tạm thời. Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng bằng phương pháp đối kháng, giải quyết mâu thuẫn không đối kháng bằng phương pháp trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa và phương pháp luận rút ra. Việc ngiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm trong thể thống nhất những mặt những khuynh hướng trái ngược nhau tức là tìm ra những mặt đối lập và tìm ra mối liên hệ tác động qua lại giữa các mặt đối lập đó. Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh phát triển của từng mâu thuẫn xem xét vai trò vị trí, mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh phát triển và vị trí của từng mặt đối lập mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Chỉ có thế mới có thể hiểu đúng quy luật mâu thuẫn của sự vật hiểu đúng xu hướng vận động phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt phải chống thái độ chủ quan nóng vội, mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn trở nên chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có cách giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn vừa phù hợp với điều kiện cụ thể. Chương II Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO dưới góc nhìn của mâu thuẫn biện chứng. 2.1 Kinh tế Việt Nam thời kỳ hội nhập WTO 2.1.1 Quá trình Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO WTO là tên viết tắt của Tổ chức thương mại quốc tế ( World Trace Oganization ). Tổ chức thương mại quốc tế WTO là một định chế mang tính toàn cầu về kinh tế và thương mại. WTO được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1995 trên cơ sở kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT. GATT ra đời từ sau Thế chiến thứ II, với mục tiêu đẩy mạnh quá trình tự do hóa thương mại, loại bỏ các biện pháp bảo hộ được duy trì trước đó. Hiệu lực của các vòng đàm phán thương mại GATT đã bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1 năm 1948. Kể từ năm 1970 việc đàm phán không chỉ xoay quanh vấn đề thuế mà còn về việc hình thành các chuẩn mực và các quy định pháp luật về hàng rào phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, thương mại hàng nông sản, hàng dệt may và cơ chế giải quyết tranh chấp.Ngày 15 tháng 4 năm 1994 tại Marrakesh (Maroc) các thành viên của GATT ký kết Hiệp định thành lập WTO. Như vậy với các mục tiêu kế thừa của GATT, WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Cũng vào tháng 1 năm 1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban công tác với nhiều thành viên WTO quan tâm đến thị trường Việt Nam đã được thành lập. Thàng 8 năm 1998 Việt Nam đã hoàn thành và luân chuyển tới các thành viên của Ban công tác bản “Bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam” – với mục đích giới thiệu tổng quan về nền kinh tế Việt Nam, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách cũng như thông tin chi tiết về chính sách liên quan đến thương mại hàng hóa dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều câu trả lời và các thông tin khác nhau có liên quan đến các vấn đề như hỗ trợ nông nghiệp, trợ cấp trong công nghiệp, các doanh nghiệp có đặc quyền, thủ tục hải quan, hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh…Sau khi trải qua nhiều phiên họp, nhiều cuộc đàm phán song phương, đa phương và tổng hợp các cam kết, đến ngày 7 tháng 11 năm 2006 tại Geneve (Thụy Sĩ) đã diễn ra Lễ ký Nghị định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế WTO. 2.1.2 Một số hoạt động kinh tế đối ngoại tiêu biểu thời kỳ hội nhập. Nét nổi bật trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian vừa qua có 3 sự kiện lớn: Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam và xuất khẩu đạt 39,6 tỉ USD vượt xa kế hoạch đầu năm, tăng 22,1% so với năm trước. Ba sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu vào kinh tế thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là điểm sáng nổi bật nhất trong bức tranh kinh tế Việt Nam. Trong năm vừa qua, tổng số vốn FDI đăng ký mới và đầu tư bổ sung đạt trên 10,2 tỉ USD. Vốn bình quân 1 dự án 8,4 triệu USD. Địa phương thu hút nhiều dự án và vốn đầu tư là Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh; Bình Dương. Có những dự án đầu tư mới khá lớn như Công ty thép Posco 1126 triệu USD; Công ty TNHH Intel products VN 605 triệu USD; công ty TNHH phát triển THT 314 triệu USD; Công ty TNHH thép Tycoon Steel VN 556 triệu USD. Một số công ty tăng vốn nhiều như: Công ty Intel Produce VN tăng 395 triệu USD; Công ty Bạch Mã tăng 10 triệu USD; Công ty giày Linh Luh tăng 98 triệu USD; Công ty Canon tăng 70 triệu USD. Một số tập đoàn kinh tế lớn đã chuyển dự án từ Trung Quốc sang Việt Nam. Tập đoàn Nike lo ngại rủi ro kinh doanh ở Trung Quốc đã tuyển dụng 50.000 lao động tại Việt Nam để mở rộng sản xuất. Tập đoàn Intel gia tăng vốn đầu tư lên trên 1 tỉ USD tại Việt Nam là minh chứng rõ ràng. Các đối tác đầu tư vốn lớn trong thời gian qua là: Hàn Quốc; Hồng Công, Hoa Kỳ, Nhật Bản, quần đảo Caymen Island, quần đảo Vigines thuộc Anh, Xin-ga-po. Sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, nhất là Hoa Kỳ và Nhật Bản qua Hội nghị APEC 14 đã báo hiệu dòng đầu tư nước ngoài mới đang dồn về Việt Nam. Cuối năm tỉnh Hà Tây đã trao giấy phép đầu tư cho Công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam - Nhật Bản với số vốn lên tới 300 triệu USD. 2.2 Cơ hội và thách thức cho Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO Trong thời đại ngày nay, trong bối cảnh cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ lần thứ 3, tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra như vũ bão, bất kỳ một quốc gia nào không hòa chung vào dòng chảy của thời đại thì sẽ ngày càng lạc hậu, chậm phát triển. Nhận thức được tình hình đó, nhiều nước kể cả các nước trước đây thực hiên chính sách bảo hộ mậu dịch nghiêm ngặt đã tiến hành cải cách kinh tế, mở cửa với bên ngoài. Nhờ đó, kinh tế các nước này đã liên tục phát triển với tốc độ cao. Tiêu biểu phải kể đến ở đây là các quốc gia như Ấn Độ hay Trung Quốc đang nổi lên thành những trung tâm kinh tế lớn cùng với EU, Hoa kỳ, Nhật Bản. Không nằm ngoài tiến trình đó, Việt Nam cũng từng bước vững chắc trên con đường hội nhập với kinh tế thế giới. Bắt đầu từ Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), rồi đến Diễn đàn hợp tác Á-ÂU (ASEM), hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA). Và cuối cùng chúng ta cũng đã gia nhập sân chơi lớn nhất, trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại quốc tế WTO Thực tế nước ta và môt số nước trên thế giới trong những năm qua đã chỉ rõ, khi mở cửa thị trường, hội nhập với kinh tế thế giới sẽ có rất nhiều cơ hội, động lực để phát triển kinh tế. Thứ nhất : được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các nghị định thư gia nhập của các nước này không bị phân biệt đối xử. Điều đó tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nèn kinh tế nước ta mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này đặc biệt quan trọng, là yếu tố đảm bảo tăng trưởng. Thứ hai : với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút vấn đàu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, đảm bảo tốc độ tăng trưởng và và rút ngắn khoảng cách phát triển. Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội : năm 2006 đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ ba : gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tùy thuộc vào thế và lực cũng như khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quy luật điều hành của ta. Thứ tư : mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới cải cách thể chế kinh tế trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, đảm bảo quá trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. Thứ năm : cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới việc gia nhập WTO sẽ nghiên cứu vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm : Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hòa bình hợp tác và phát triển. Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại cũng cần phải thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tang của quá trình hội nhập. Những thách thức này gồm: Thứ nhất : Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện rộng hơn và sâu hơn. Đây là những cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp của ta với doanh nghiệp các nước. Ngoài ra còn có cạnh tranh giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư bân ngoài. Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia. Thứ hai : Trên thế giới sự phân phối lợi ích của toàn cầu hóa là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia sự phân phối lợi ích cũng không đồng đều, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn chịu tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Nguy cơ phá sản của một bộ phận doanh nghiệp nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, sự phân hóa giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Thứ ba : Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa tính tùy thuộc lẫn nhau của các nước tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực phân tích và dự báo tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên trường quốc tế. Thứ tư : Hội nhập kinh tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền 2.3 Các cơ hội và thách thức cho kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn mâu thuẫn biện chứng. Theo lý luận của mâu thuẫn biện chứng thì bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tôn tại bên trong sự vật hiện tượng. Trong suốt quá trình tồn tại của sự vật hiện tượng các mặt đối lập không ngừng tương tác đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau nhằm giải quyết mâu thuẫn và làm cho sự vật hiện tượng không ngừng phát triển. Chính vì thế, trong quá trình Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và hội nhập kinh tế quốc tế thì song song với các cơ hội to lớn để phát triển kinh tế chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thách thức. Rõ ràng cơ hội và thách thức là hai mặt đối lập của một vấn đề, việc nghiên cứu tìm hiểu sự tương tác giữa chúng bằng phương pháp luận của mâu thuẫn biện chứng sẽ cho ta nhiều phương hướng tối ưu để phát triển kinh tế. Việt Nam gia nhập vào WTO và hội nhập kinh tế quốc tế cơ hội to lớn nhất mở ra cho chúng ta đó là được tiếp cận với một thị trường rộng lớn của tất cả các nước thành viên với mức thuế được cắt giảm. Điều đó vô cùng thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam có thể đến được tận tay người tiêu dùng quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội, lĩnh vực để hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô của các doanh nghiệp cũng vì thế mà ngày càng được mở rộng, có thể vươn ra trường quốc tế. Thuận lợi là thế, nhưng thị trường được mở rộng, thuế được cắt giảm không chỉ cho riêng các doanh nghiệp Việt Nam mà còn cho cả các doanh nghiệp của nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên gay gắt hơn bao giờ hết, trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, trên tất cả các loại hàng hóa. Như vậy để có được cơ hội rộng mở thị trường thì chúng ta không thể tránh khỏi vấn đề bị cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài, điều đó là hoàn toàn khách quan, không thể tránh khỏi. Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này. Theo lý luận của mâu thuẫn biện chứng thì chúng ta cần phải từng bước tìm các tách động để các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, cụ thể ở đây là phải biết tùy theo các điều kiện cụ thể, tùy theo trình độ phát triển của kinh tế đất nước mà biến thách thức trở thành cơ hội cho chúng ta. Cạnh tranh ngày càng gay gắt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng mở rộng sản xuất, cải tiến khoa học kỹ thuật, ứng dụng những thành tựu công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới, nâng cao trình độ người lao động, tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng và hạ giá thành v v …có như thế hàng hóa Việt Nam mới có chỗ đứng trên trường quốc tế. Tuy nhiên tùy theo trình độ phát triển và khả năng của doanh nghiệp mà việc thực hiện các yêu cầu trên có thể theo các mức độ khác nhau, doanh nghiệp lớn, có thế và lực mạnh có thể kinh doanh trên các lĩnh vực công nghệ cao, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể tạo ra sức cạnh tranh bằng cách lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp. Như vậy thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam lại cũng chính là động lực to lớn cho các doanh nghiệp phát triển, doanh nghiệp nào có khả năng thích ứng đươc với nhu cầu mới sẽ đứng vững, còn các doanh nghiệp không có khả năng tất yếu sẽ dẫn đế phá sản. Một ví dụ khác cho cơ hội và thách thức cho Việt Nam khi gia nhập WTO là vấn đề giáo dục và đào tạo. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ kéo theo hội nhập về văn hóa, xã hội, giáo dục v v…Cơ hội và thách thức cho giáo dục Việt Nam là gì. Các học sinh, sinh viên nước ta có nhiều cơ hội để học tập tại các trường có uy tín trên quốc tế, có thể được tiếp cận với những kiến thức tiên tiến nhất của văn minh nhân loại. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho Việt Nam có được một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao, là nền tảng cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên song song với cơ hội ấy là vấn đề chảy máu chất xám, là sự xâm nhập của các luồng văn hóa không lành mạnh, là lối sống thực dụng theo kiểu tư bản mà quên đi các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Để giải quyết mâu thuẫn này, các trường học tại Việt Nam phải không ngừng nâng cao chât lượng dạy và học, từng bước bắt kịp với nền giáo dục trên thế giới, tiếp thu trên cơ sở có chọn lọc các văn hóa mới, không ngừng trau dồi cho học sinh, sinh viên ý thức tự hào dân tộc. Giải quyết được mâu thuẫn giữa cơ hội và thách thức trong vấn đề giáo dục đào tạo chúng ta sẽ có một đội ngũ lực lượng lao động và cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao, sánh ngang với các cường quốc trên trường quốc tế. Đây sẽ là nòng cốt cho sự phát triển kinh tế Việt Nam trong thời đại ngày nay – thời đại kinh tế tri thức. 2.4 Một số giải pháp cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, nhằm hình thành nhanh chóng và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết. Thực hiện cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính, bãi bỏ các thủ tục giấy tờ không thực sự cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp và tham gia thị trường, đưa nhanh hàng hóa dịch vụ vào kinh doanh. - Sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước theo yêu cầu đa ngành đa lĩnh vực nhằm tạo tiền đề cho sự đồng bộ, tầm nhìn liên ngành khắc phục sự chồng chéo kém hiệu quả trong xây dựng và thực thi các thiết chế quản lý. Đổi mới để phát triển mạnh nguồn nhân lực. Chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, lao động trẻ chiếm hơn 70% lực lượng lao động. Người Việt Nam cần cù chịu khó học tập, nhận thức nhanh. Đó là một lợi thế cạnh tranh của ta. - Tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng. Cạnh tranh về cơ sở hạ tầng sẽ là cạnh tranh về dài hạn, chúng ta phải huy động mọi nguồn lực kể cả nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông năng lượng. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nong thôn, từng bước chuyển lao động trong nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn. Đầu tư mạnh vào việc phát triển cải tạo các giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân. - Phát triển đồng đều các loại hình dịch vụ. Dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nền kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa tạo ra khả năng phát triển dịch vụ đồng thời phát triển dịch vụ sẽ làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. - Phát triển những lĩnh vực sản phẩm có lợi thế cạnh tranh có khả năng mở rộng thị trường. Song song với các phát triển các lĩnh vực thế mạnh cũng phải coi trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và công._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0148.doc
Tài liệu liên quan