Mâu thuẫn biện chứng và việc phân tích mâu thuẫn trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN

Lời nói đầu Vật chất - sự tồn tại khách quan luôn vận động và không ngừng phát triển. Chúng ta đã đánh chứng kiến những bước phát triển vượt bậc của con người trong việc hiểu thế giới và trinh phục thế giới trong hai thiên niên kỷ qua. Những thành tựu trong khoa học - kỹ thuật và trong mọi mặt của đời sống xã hội đã làm thay đổi dần bộ mặt thế giới. Mặc dù ở mức độ phát triển tương đối thấp Việt nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi, vận động. Trong giai đoạn hiện nay, một trong những cải cách

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng và việc phân tích mâu thuẫn trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có tính chiến lược nhất của chúng ta trong lĩnh vực kinh tế là việc xoá bỏ nền kinh tế bao cấp kế hoạch hoá tập trung bằng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự đổi mới đó không những giải quyết được những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế mà còn đẩy nhanh phát triển lực lượng sản xuất . Cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp những đặc trưng của nó trở nên khong còn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới đòi hỏi phải được thay thế bằng một cơ chế kinh tế mới phù hợp hơn. Chính vì thế việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp điều kiện hoàn cảnh đât nước, phù hợp thời đại, khu vực và thế giới là hết sức cần thiết. Do vậy, phải vận dụng lý luận về phủ định biện chứng, một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật triết học Mác - Lênin vào quá trình chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Sự thay thế kinh tế bao cấp bằng kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là một quá trình phủ định biện chứng bởi nó đã tạo ra những điều kiện, những tiền đề và khả năng thực hiện phát triển kinh tế đất nước. I. Giải quyết vấn đề 1. Lý luận về phủ định biện chứng 1.1 Khái niệm về phủ định biện chứng Thứ nhất: Phủ định biện chứng (PĐBC) là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó đề cập tới hình thức của sự phát triển PĐBC là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định. Vấn đề cơ bản cần xem xét là : Sự phát triển diễn ra theo chiều hướng nào?. Trong triết học trước Mác đã tồn tại quan điểm vận động tròn. Vận dụng quan điểm đó vào đời sống xã hội, thì khi xã hội đạt tới một trình độ nào đó, xã hội sẽ trở lại điểm xuất phát ban đầu. Pitago cho rằng chu kì phát triển như vậy của nhân loại kéo dài 78 vạn năm. Tương tự với quan điểm đó, trong đạo Phật có quan niệm về sự luân hồi của kiếp người. Tuy nhiên, quan điểm duy vật biện chứng đã mang lại lời giải đáp khác về cơ bản cho vấn đề được nêu trên. Xem xét vấn đề trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mác - Lênin thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới giải quyết mâu thuẫn, sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế ấy làm thành một mắt xích trong chuỗi dây phát triển của hiện thực và của tư duy. Sự ra đời của cái mới là kết quả của sự phủ định cái cũ, cái lỗi thời. Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình hiểu phủ định như là sự can thiệp của những lực lượng bên ngoài làm phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó. Đương nhiên, trong cả tự nhiên và xã hội có những hiện tượng như vậy. Song, tính phổ biến của các quá trình phủ định diễn ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội là sự phủ định làm mất đi cái cũ và xuất hiện cái mới tiến bộ hơn. Sự phủ định như vậy là hình thức giải quyết những mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định. Do vậy, phủ định là một khâu tất yếu của bất kì sự phát triển nào. Trong ý thức thông thường, khái niệm “phủ định” thường được thể hiện bằng từ “không”. Trong phép biện chứng phủ định được xem là nhân tố của sự phát triển. Khái niệm về phủ định biện chức được đưa ra làm sâu sắc hơn ý nghĩa của khái niệm phủ định trong cách sự dụng thông thường đó. Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra những điều kiện, những tiền đề, khả năng để thực hiện một sự phát triển. Thứ hai: Phân biệt phủ định biện chứng với phủ định siêu hình. Trái với phủ định biện chứng, phủ định siêu hình là sự phủ định chấm dứt sự phát triển. Những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định là sự loại bỏ hoàn toàn cái cũ, phủ định sạch trơn, chấm dứt sự vận động và phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng. Nhưng khi cần thì họ lại tiếp thu một cách nguyên xi, không phê phán, không cải tạo, họ lắp ghép một cách máy móc cái cũ vào cái mới. Đó là những hạn chế của phủ định siêu hình. 1.2 Những đặc trưng của phủ định biện chứng Phủ định biện chứngcó hai đặc trưng cơ bản. Thứ nhất là tính khách quan - điều kiện của sự phát triển. Thứ hai là tính kế thừa - nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới. PĐBC là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản thân sự vật quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định của sự vật cũng không tuỳ thuộc ý muốn con người, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng do đó mà có sự phát triển. PĐBC không phải là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. PĐBC do vậy là sự phủ định mag tính kế thừa. Với ý nghĩa như vậy, phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Diễn đạt tư tưởng đó, Lênin viết: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng…mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”. {V.I. Lênin toàn tập, t.29, tr.245}. Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời của cái mới. Không có cái mới nào ra đời từ hư vô. Nhờ việc giữ lại nhân tố tích cực của cái bị phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự phát triển của mình. Cái quá khứ không biến đi mà không để lại một dấu vết nào trong dòng chảy vô tận của thời gian. Thực ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái đựơc kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo nên cái mới. Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ lại, nó vẫn được duy trì dưới dạng lọc bỏ. Với những đặc điểm như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái cũ mà còn gắn liền với cái mới, cái khẳng định với cái quy định. Phủ định biện chứng trở thành khâu then chốt tất yếu của sự liên hệ và phát triển. 2. Vận dụng lý luận về phủ định biện chứng trong phân tích quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: 2.1 Vì sao phải chuyển từ KTkế hoạch hoá sang KTTT định hướng XHCN? Thứ nhất: Đó là một quá trình tất yếu khách quan. Chuyển đổi cơ chế kinh tế không phải là nhu cầu xuất phát từ bên ngoài, không phải theo xu hướng chung của khu vực, thế giới hay học đòi các nước khác mà xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế đất nước. Trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam việc chuyển cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường là một tất yếu khách quan. Bởi vì, trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất phát triển còn rất thấp, muốn cải tạo và nâng cao trình độ lực lượng sản xuất cần phải có quan hệ sản xuất phù hợp. Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành chính quyền tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất . Thực tế có hai loại tư hữu là tư hữu lớn và tư hữu nhỏ. Tư hữu lớn bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp của các tư bản trong nước và nước ngoài. Đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tư hữu nhỏ gồm những người buôn bán nhỏ, nông dân. Đó là sản xuất cá thể. Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới, Nhà nước ta xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế mới. Đối với tư hữu lớn, kinh tế tư bản tư nhân chỉ có phương pháp duy nhất là quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khằng định không nên quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng giai đoạn và bằng hình thức, phương pháp nào tuỳ điều kiện cụ thể có nên doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại như một tất yếu kinh tế đồng thời hướng chủ nghĩa còn tư bản vào con đường nhà nước hình thành nên thành phần kinh tế tư bàn nhà nước. Đối với tư hữu nhỏ chỉ có con đường hợp tác hoá theo các nguyên tắc mà Lênin đã vạch ra là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi đồng thời tuân theo các quy luật khách quan. Do đó, trong thời kì quá độ còn tồn tại thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ. Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai trò đối với sản xuất và đời sống bởi vậy không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay được. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các nguồn lực từ bên ngoài. Nhà nước XHCN có thể liên doanh hợp tác với tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài hình thành kinh tế tư bản nhà nước Mặt khác sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp. Chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất , trước hết hình thức, quy mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó cũng là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau. Trên đây là những cơ sở khách quan tạo tiền đề cho quá trình chuyển đỏi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước XHCN (KTTT định hướng XHCN). kinh tế tập trung, bao cấp đã huy động sức người sức của đóng góp rất lớn trong những chiến thắng của thời kỳ chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Nhưng trong điều kiện đất nước hoà bình kinh tế bao cấp trở nên không còn phù hợp, mặt khác nó còn thể hiện nhiều mặt hạn chế làm kìm hãm phát triển kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế chậm phát trtriển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đại hội VII khắng định “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” {Văn kiện đại hội VII. NXB sự thật, tr23}. Sự chuyển đổi đó được xem như một quá trình phủ định biện chứng, nó đã tạo ra những tiền đề, những điều kiện đẩy nhanh phát triển kinh tế. Từ thực tiễn hơn 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đang đã khẳng định rằng cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường không phải là một quá trình phủ định hoàn toàn, những nhân tố của kinh tế bao cấp còn cần thiết cho kinh tế TT vẫn được kế thừa và phát triể trong điều kiện mới. Đó là nhân tốc kế hoạch hoá và định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch hoá là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị trường để xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội. Kế hoạch hoá là một trong những công cụ trọng yếu thực hiện chính sách kinh tế của Nhà nước hướng đến sự phát triển sản xuất để thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân. Nhờ kế hoạch hóa, Nhà nước quản lý sản xuất xã hội, điều chỉnh sản xuất , phân phối và trao đổi của cải vật chất. Kế hoạch hoá rất cần thiết cho quản lý kinh tế của Nhà nước, đặc biệt trong thời kỳ qúa độ như ở nước ta hiện nay. Chất lượng của kế hoạch hoá phụ thuộc voà mức độ xã hội hoá sản xuất , vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan trong quá trình kế hoạch hoá. Nhân tố kế hoạch hoá được kế thừa từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường bởi kế hoạch có ưu điểm là tập trung được tiềm năng cho những mục tiêu phát triển kinh tế với mụctiêu phát triển xã hội ngay từ đầu. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần kế họach phải bao quát tất cả các thành phần kinh tế, tất cả các quan hệ thị trường, không chỉ thị trường trong nước mà cả với thị trường ngoài nước. Kế hoạch của nhà nước bao gồm kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn. Thông qua kế hoạch dài hạn, nhà nước cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, từ đó vạch ra các chương trình kinh tế có mục tiêu để định hướng đầu tư, điều tiết các hoạt động kinh tế, đề ra các chính sách kinh tế phù hợp. Thông qua kế hoạch ngắn hạn mà nhà nước tổ chức thực hiện những nhiệm vụ kinh tế của từng lĩnh vực, từng bước đi cụ thể, gắn liền với diễn biến phức tạp của thị trường, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội theo định hướng mong muốn. Do nước ta là nước XHCN nên khi đổi mới nền kinh tế thì cơ cấu kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất XHCN, nhằm phục vụ CNXH. Để hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường ở nước ta phải nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước cũng đồng nghĩa với phát huy định hướng XHCN. Nền kinh tế hàng hoá được điều tiết bở cả “bàn tay vô hình” của thị trường và “hữu hình” của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, Nhà nước XHCN sẽ can thiệp vào nền kinh tế nhằm bảo về quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Sự thành công của nền kinh tế thị trường theo định hướng XNCH không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giầu - nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vệ. Nhà nước XHCH có chính sách phân phối cả về tư liệu sản xuất lẫn tư liệu tiêu dùng, nhờ đó mà đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều có cơ hội được tham gia vào quá trình sản xuất và phân phố sản phẩm theo nguyên tắc công bằng và hiệu quả. Đồng thời Nhà nước còn có chính sách thoả đáng đối với những đối tượng đặc biệt như các gia định liệt sĩ, các gia đình có công với cách mạng, thương binh, người già yếu, tàn tật. Trong khi khuyến khích mọi người làm giầu hợp pháp, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc xoá đói giảm nghèo thông qua nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp. Như vậy, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường ở nước ta rất cần có sự quản lý của Nhà nước để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân tố quyết định nhất đảm bảo giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường là vai trò quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. 2.2 Kinh tế Kế hoạch hoá tập trung và kinh tế thị trường định hướng XHCN Những đặc trưng của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu. Điều đó được thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sơ, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. Kinh tế bao cấp bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả. Phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. Từ đó đã dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, theo đó làm cho một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá tiền tệ và quan hệ cung - cầu. Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá như là mộ khâu trung gian. Cơ chế thị trường là hệ thống tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, uyển chuyển. Nó tác dụng kích thích mạnh mẽ đổi mới kỹ thuật, công nghệ, quản lý nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nó có tác dụng lớn trong tuyển chọn, đào thải, kích thích sản xuất phát triển. Bên cạnh những ưu điểm đó, kinh tế thị trường lại mang những khuyết tật có tính tự phát, hơn nữa quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh tiêu cực và tệ nạn xã hội. Trong kinh tế thị trường vì chạy theo lợi nhuận đơn thuần, các nhà sản xuất , kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu, như môi trường bị huỷ hoại, cạnh tranh không lãnh mạnh, lừa đảo, hối lộ, coi nhẹ lợi ích công cộng, phân hoá xã hội. Để khắc phục được những khuyết điểm của kinh tế thị trường cần nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Định hướng XHCN là đi đến mục tiêu không còn áp bức, bóc lột, đi tới chế độ công hữu tư liệu sản xuất , thực hiện được một xã hội công bằng với mức sống cao. Một vấn đề được đặt ra trong việc phát triển nền kinh tế TT định hướng XHCN là làm thế nào để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo, giảm bớt thất nghiệp. Điều đó có nghĩa là vừa phải phát triển kinh tế thị trường vừa phải phát huy định hướng XHCN. Vì vậy, trong điều kiện công hữu XHCN cũng có thể phát triển được chế độ kinh tế thị trường. Sự khác nhau giữa kinh tế bao cấp và KT thị trường không phải ở chỗ nền KT này có kế hoạch còn nền kinh tế kia thì không. Thực ra yếu tố kế hoạch vẫn được kinh tế thị trường kế thừa từ kinh tế bao cấp nhưng khác nhau ở hình thức kế hoạch hoá. Khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong nền kinh tế thị trường, kế họch không chỉ do trung ương mà còn do từng xí nghiệp, từng cơ sở sản xuất kinh doanh chủ động xác định. Đó là một sự kế thừa có phê phán, sáng tạo và cũng là một trong những điểm phân biệt giữa kinh tế TT và kinh tế thị trường định hướng XHCN. 2.3 Thực trạng kinh tế Việt Nam hiện nay Sau hơn thập kỉ đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể: Trước hết phải kể đến tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990, GDP tăng trung bình 3,9%, giai đoạn từ 1990 đến nay, GDP tăng bình quân trên 7%, cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực xã hội ra đời. Dịch vụ thương mại phát triển tương đối mạnh đã tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá, làm phong phú chủng loại và cải tiến chất lượng hàng hoá. Giao thông vận tải được chú trọng nên kinh tế hàng hoá được phát triển đến những vùng sâu, vùng xa và miền núi. Trước xu thế chủ đạo của thế giới là hợp tác để phát triển, Việt Nam đã bước đầu hội nhập với nền KT thế giới thông qua việc gia nhập các tổ chức kinh tế của khu vực cũng như quốc tế. Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền KT thị trường trên thế giới với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giầu nghèo mạnh mẽ với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng kịp thời rút kinh nghiệm và đã có những đường lối, chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN, hướng thị trường hàng hoá vào sự cạnh tranh lành mạnh cùng có lợi, cùng giầu có. Chính vì thế nền kinh tế thị trường của ta chẳng những không xẩy ra khủng hoảng mà còn tránh được ảnh hưởng tiêu cực của những cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới mà cụ thể là khủng hoảng tiền tệ năm 1997. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển, cần có nhiều biện pháp có thể theo kịp các quốc gia phát triển. 2.4 Những nhân tố và giải pháp đảm bảo phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH mà thực chất là thời kì Nhà nước và nhân dân tự đảm đương nhiệm vụ lịch sử phát triển lực lượng sản xuất , tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội làm cơ sở hiện thực cho CNXH. Nhưng kinh tế thị trường có thể phát triển theo hướng TBCN hoặc XHCN. Như thế xu hướng khách quan chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN mà có đòi hỏi các nhân tố chủ quan, đó là: Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng xác định mục tiêu chính trị cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cương lĩnh đường lối chiến lược phát triển, bằng những nguyên tắc và chính sách trong đối nội và đối ngoại. Xây dựng Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh quản lý kinh tế có hiệu quả. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khơi dậy tiềm năng sáng tạo của cả cộng đồng dân tộc. Đặc biệt đối với nước ta có nhiều ngành nghề cổ truyền bị cơ chế cũ làm mai một nay lại có điều kiện phát huy. Hơn nữa nước ta có dân số động, nguồn nhân công dồi dào đủ khả năng đáp ứng cho một nền kinh tế phát triển. Những giải phép để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN: Một là: Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Hai là: Mở rộng phân công lao động, phát triển nền kinh tế vùng, lãnh thổ, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường. Ba là: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bốn là: Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, triệt để xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính bao cấp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả. Năm là: Xây dựng và kiện toàn hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sáu là: Thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế hàng hoá, phát huy nội lực, giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. III. Kết luận Chủ trương đổi mới của Đảng chuyền từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN là hoàn toàn đúng đắn. Nếu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng sản xuất , khơi dậy năng lực sáng tạo chủ động củ các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó nền kinh tế nước ta thực sự được đổi mớ và đạt được những thành tựu to lớn: Từ một nước đói kém, cơ sở vật chất nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu nay trở thành một nước không những chỉ đủ ăn mà còn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Nhịp độ tăng bình quân tổng sản phẩm quốc nội trong 5 năm 1991 - 1995 là 8,5%, sản xuất công nghiệp tăng 13,3%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm 1995. Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,1% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu lực lượng sản xuất . Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định. Hiện nay, để vượt qua khó khăn nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu do Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra, chúng ta phải kiên quyết tiếp tục đổi mới theo định hướng XHCN. Để thực hiện được điều đó ta phỉ xem sự nghiệp đổi mới như là một quá trình phủ định biện chứng, tránh những sai lầm cực đoan: hoặc là không kiên quyết từ bỏ cái cũ lỗi thời, hoặc ngược lại, phủ nhận mọi thành tựu đã đạt được trong thời kì trước đổi mớ, Hồ Chí Minh. Khi đó đổi mới sẽ là cho đất nước Việt Nam ngày càng lớn mạnh, phát triển trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, sánh vai cùng các quốc gia phát triển bậc nhất trên thế giới. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB chính trị quốc gia. 2. Giá trình kinh tế chính trị Mác - Lênin, NXB Giáo dục 3. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin, NXB chính trị quốc gia 4. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin, NXB Giáo dục 5. Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VI; VII;VIII;IX. 6. Một số vấn đề cơ bản về phát triển nhận thức kinh tế học chính trị Mác - Lênin trong quá trình đổi mới ở nước ta, tác giả: Nguyễn Đình Kháng, NXB chính trị quốc gia 7. Tạp chí triết học số 4, tháng 8/1999 8. Tạp chí Cộng sản số 4, tháng 2/2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35295.doc
Tài liệu liên quan