Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam

Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, trong tất cả các lĩnh vực. Như trong hoạt động kinh tế mâu thuẫn giữa cung và cầu, giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, tích luỹ và tiêu dùng… Mâu thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đến lúc nào đó sẽ được giải quyết. Khi đó mâu thuẫn khác lại được hình thành. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) Đảng ta đã có những quyết sách

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đúng đắn đặc biệt trong việc đổi mới nền kinh tế đất nước từ nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đổi mới đó đã đánh dấu bước chuyển minh cả về kinh tế lẫn xã hội kinh tế đã thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm và bước đầu thời kỳ phát triển toàn diẹn và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bình quân 1 năm của thời kỳ 1996 - 2000 đạt 7% so với 3,9% thời kỳ 1986 - 1990. Lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống còn 12,7% năm 1995; 0,1% năm 1999 và 0% năm 2000. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ trên hai con số. Bình quân thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%. Nông nghiệp phát triển toàn diện là một trong ba nước hàng đầu trên thế giới về xuất khẩu gạo. Năm 1995 đứng thứ hai trên thế giới về sản lượng cà phê sau Braxin… Nhưng trong những thành công đó luôn tồn tại mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới đòi hỏi phải được giải quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc tìm hiểu "Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" là vấn đề vừa có ý nghĩa về phương pháp luận lẫn ý nghĩa thực tiễn. 1. Tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm của kinh tế thị trường 1.1.1. Kinh tế thị trường Trước đổi mới, trong quan điểm về CNXH. Người ta hiểu kinh tế thị trường (KTTT) chỉ là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản (CNTB), còn trong chủ nghĩa xã hội (CNXH) thì sẽ không còn kinh tế thị trường. Thời gian đầu đổi mới, tuy chúng ta hiểu ra rằng kinh tế thị trường là điều không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng CNXH. Nhưng vẫn còn thái độ hoài nghi, chưa tin tưởng vào khả năng chung học KTTT với bản chất CNXH. Vậy trước khi đi nghiên cứu KTTT ta hiểu KTT là "Một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó, sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt chẽ với quan hệ hàng hoá - tiền tệ, với quan hệ cung cầu"…. Trong nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá, hay ít nhất cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá như mắt khâu trung gian. 1.1.2. Những đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam Thực tiễn đổi mói kinh tế - xã hội ở một số nước theo hướng phát triển KTTT, đã chứng tỏ rằng, nền KTTT mà chúng ta đang xây dựng không phải là tàn dư của CNTB, cũng không phải là cái mà chúng ta bị bắt buộc, phải miễn cưỡng chất nhận. Nó cũng không phải là "bước quá độ" trong quá trình đi lên CNXH và sẽ được vượt qua khi CNXH đã thắng lợi. Kinh tế thị trường XHCN là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế và nền văn minh nhân loại, là trình độ phát triển cao hơn của nền kinh tế nhân loại sau kinh tế thị trường TBCN. Có quan niệm như vậy mới thấy được rằng, bản chất thời đại quá độ từ CNTB lên XHCN trên phạm vi toàn thế giới không phải là sự xoá bỏ nền KTTT nói chung, mà là sự quá độ từ nền KTTT TBCN sang nền KTTT XHCN. Kinh tế thị trường XHCN, ngoài những nét chung với kinh tế thị trường TBCN như: một nền sản xuất hàng hoá với sự liên kết và trao đổi trên qui mô rộng lớn ở phạm vi quốc gia và quốc tế, với sự phát huy đầy đủ những qui luật, qui luật cung cầu… kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa còn có những đặc trưng viêng của nó: - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất thì trái lại, nền kinh tế thị trường XHCN tuy cùng là một nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng nó dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, tức là sự làm chủ người lao động đối với tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN lấy phân phối theo tư liệu sản xuất và theo vốn làm hình thức phân phối chủ yếu, thì trong nền kinh tế thị trường XHCN qui luật phân phối theo lao động mới có điều kiện phát huy một cách đầy đủ. - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN phát triển theo hướng bắt bình đẳng xã hội ngày càng sâu sắc hơn, thì kinh tế thị trường XHCN phát triển theo hướng ngày càng khắc phục tình trạng phân cực một cách bất hợp lý của xã hội do nền kinh tế thị trường TBCN tạo ra. - Nếu nền kinh tế thị trường TBCN dựa trên sự khai thác của các quốc gia, của các khu vực trong phát triển đối với tài nguyên và lao động của các vùng, các nước kém phát triển, thì nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên sự hợp tác và trao đổi một cách bình đẳng và cùng có lợi giữa các vùng dân cư trong nước và giữa các dân tộc, các quốc gia trên thế giới. Nước ta quá độ lên CNXH trong điều kiện một nền sản xuất nhỏ là phổ biến: do đó, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng chưa phải là nền kinh tế thị trường XHCN mà là một nền kinh tế quá độ: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tức là một nền KTTT tuy chưa thoát khỏi những đặc điểm của kinh tế thị trường TBCN, nhưng bước đầu đã mang yếu tố XHCN và những yếu tố này càng càng lớn mạnh lên thay thế dần những yếu tố TBCN. 1.2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước 1.2.1. Những đổi mới trong nền kinh tế của Việt Nam Từ Đại hội VI tới nay, trên cơ sở tư duy rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và thực tiêu của đất nước. Đảng đã không ngừng đổi mới quan điểm, chính sách về chế độ sở hữu về thành phần kinh tế. Đại hội của Đảng (1986) phân định thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (khu vực quốc doanh, khu vực tập thể và bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó) và các thành phần kinh tế khác. (Phi xã hội chủ nghĩa) chủ trường xây dựng củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sử dụng và cải tạo đúng đắn thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Xác định kinh tế XHCN phải chiếm tỷ trọng lớn trong cả sản xuất và lưu thông. Nhà nước có chính sách ưu đãi về kinh tế với các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa cho phép tư bản nhỏ hoạt động trong số ngành nghề sản xuất dịch vụ ở những nơi cần thiết; xoá bỏ thương nghiệp lưu thông. Từ Hội nghị Trương ương 6, khoá VI (1989) chủ trương phát triển đan xen nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết các hình thức sở hữu. Trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết phải chiếm tỷ trọng trong mọi ngành nghề: tự nhau được kinh doanh không hạn chế về qui mô, địa bàn hoạt động trong những ngành nghề sản xuất xây dựng, vận tải, dịch vụ mà luật pháp không cấm. Đến Đại hội VIII của Đảng (1996) đã xác định những chủ trương chính sách lớn đối với các thành phần kinh tế. Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo; tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế Nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu: triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã: tuân thủ nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Kinh tế tư bản Nhà nước đóng vai trò quan trọng bao gồm hình thức liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài. Giúp đỡ kinh tế cá thể hướng dẫn đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất yên tâm làm ăn lâu dài. - Những đổi mới về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. + Từ chỗ trong nhận thức cũng như trong hành động không thực sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần chia nền kinh tế thành hai bộ phận: xã hội chủ nghĩa (gồm quốc doanh và tập thể) và phi xã hội chủ nghĩa (gồm các thành phần còn lại) đã chuyển sang. Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; từ các hình thức sở hữu cơ bản (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân) hình thành nhiều thành phần kinh tế với hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp và mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh. + Từ chỗ coi quốc doanh là chủ đạo theo nghĩa phải chiếm tỷ trọng lớn trong ngành nghề, lĩnh vực, dường như độc quyền, nắm quyền, nắm hàng chi phối thị trường đã chuyển sang phân biệt rõ sở hữu Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước, phần sở hữu Nhà nước có thể sửdụng ở nhiều thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo với nội dung là; tập trung vào một số ngành lĩnh vực để phát huy vai trò chủ đạo; cơ cấu các nguồn vốn và cơ chế vận hành của xí nghiệp quốc doạnh cũng thay đổi khá căn bản. + Từ chỗ coi hợp tác xã là thuần tuý là kinh tế tập thể, theo nghĩa tập thể hoá tư liệu sản xuất, tỷ trọng sở hữu tập thể càng cao thì hợp tác xã càng gần chủ nghĩa xã hội: gò ép vào hợp tác xã đã chuyển sang xác định HTX là tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở người lao động tự nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ vốn mọi qui mô và mức độ tập thể hoá tư liệu sản xuất. Thực hiện khoán hộ xã viên, HTX chủ yếu làm dịch vụ, hỗ trợ hướng dẫn giúp xã viên đồng thời phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác đa dạng. - Những đổi mới về cơ chế chính sách của Đảng: + Từ chỗ căn bản không sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ, chủ yếu theo cơ chế xin cho, giao nộp cấp phát có tính hiệu vật đã chuyển sang chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khẳng định sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu nền văn minh nhân loại. + Từ chỗ coi kế hoạch là qui luật riêng của CNXH đã chuyển sang coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động tổ chức kinh doanh. + Từ chỗ các doanh nghiệp Nhà nước làm theo mệnh lệnh trên và được bao cấp đã chuyển sang từng bước xoá bỏ bao cấp triệt để đi đôi xác lập quyền tự chủ các doanh nghiệp đồng thời tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước. + Từ chỗ giá cả đại bộ phận hàng hoá và tỷ giá hối đoái do Nhà nước định không tuân thủ qui luật giá trị, tách rời quan hệ cung cầu đã chuyển sang giá cả tỷ giá hối đoái lãi suất tín dụng vận hành theo cơ chế thị trường. Nhà nước dùng các biện pháp kinh tế là chủ yếu để tác động đến cung cầu của thị trường… + Từ chỗ đất đai không được sử dụng có hiệu quả, phát sinh tiêu cực, không rõ ràng quyền sở hữu, sử dụng - đã chuyển sang khẳng định rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Cần quản lý thống nhất chặt chẽ: các hộ nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và được cấp giấy chứng nhận qui định việc thừa là và quyền sử dụng ruộng đất: các cơ sở sản xuất khác nói chung được Nhà nước cho thuê đất hoặc tiền thuê đất tuỳ theo mục đích sử dụng và địa bàn. + Từ chỗ quản lý của Nhà nước chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính thông qua giao kế hoạch pháp lệnh và các chỉ đạo tác nghiệp cụ thể đã chuyển sang tăng cường quản lý của Nhà nước đối với thực hiện quyền tự chủ của doanh nghiệp Nhà nước quản lý bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác: xác định quyền sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, để mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình; đổi mới nâng cao hiệu lực hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước. 1.2.2. Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới của Việt Nam Những thành tựu của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam sẽ chứng minh tất yếu việc chuyển sang kinh tế thị trường tại Việt Nam. Đó là mười lăm năm thực hiện đường lối mới do Đảng ta đề xướng lãnh đạo đất nước ta dân tộc ta đã thu được thành tựu to lớn về kinh tế và xã hội. Kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng triền miên hàng chục năm và bước vào thời kỳ phát triển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bình quân 1 năm của thời kỳ 1996 - 2000 đạt 7% so với 3,9% thời kỳ 1986 - 1990. Lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống còn 67,4% năm 1990, 12,7% năm 1995; 0,1% năm 1999 và o% năm 2000. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ trên hai con số. Bình quân thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996 - 2000 trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng… tăng nhanh trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất, xuất khẩu và đời sống nhân dân. Riêng ngành công nghiệp khai thác dầu khí, xuất hiện trong thời kỳ đổi mới với sản lượng 40 nghìn tấn dầu thô năm 1986 đã tăng 15 triệu tấn năm 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỷ USD. Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỷ XX đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nông nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng và thuỷ sản. Thành tựu nổi bật nhất và giải quyết vững chắc an toàn lương thực quốc gia, biển Việt Nam từ nước thiếu lương thực trước năm 1989 thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Tính chung 12 năm qua nước ta đã xuất khẩu 30,5 triệu tấn gạo, bình quân 2,54 triệu tấn/năm nhưng thị trường giá cả lương thực trong nước vẫn ổn định kể cả những năm thiên tai lớn 1999, 2000. Tốc độ tăng dân số (1,8%) nên lương thực bình quân đầu ngời 280 kg năm 1987 lên 455 kg năm 2000. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam vừa tăng về số lượng vừa nâng cao về chất lượng nên ngày càng có uy tín trên thị trường quốc tế. Năm 2000 sản lượng cà phê xuất khẩu đã đạt 660 nghìn tấn gấp 1,7 lần năm 1995 và đứng thứ hai thế giới sau Braxin. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 1995 hàng thuỷ sản Việt Nam hiện nay được công nhận trong danh sách nhóm I của cả nước xuất khẩu vào EU sau khi đã vượt qua cuộc kiểm tra chất lượng của cơ quan thực phẩm Mỹ. Tổng giá trị xuất khẩu nông sản đã chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Một nền nông nghiệp hàng hoá gắn với thị trường quốc tế. Hợp đồng thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc. Cơ chế cung cấp tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ, thay vào đó lưu thông tự do, thống nhất một giá. Thị trường đầy ắp hàng hoá và dịch vụ gá cả ổn định, chất lượng ngày càng cao. Hoạt động xuất nhập khẩu sôi động, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 570 triệu USD thời kỳ 1981 - 1985 lên 1370 triệu USD thời kỳ 1986 - 1990, 3401 triệu USD thì thời kỳ 1991 - 995 và 5646 triệu USD/năm thời kỳ 1996 - 2000, riêng năm 2000 đạt 14 tỷ USD. Nhập siêugiảm 3,8 tỷ USD năm 1996 xuống 800 triệu USD năm 2000. Đến nay Việt Nam dã có quan hệ buôn bán 150 nước và vùng lãnh thổ. Sự hình thành của 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc, Trung, Nam và 68 KCN, KCX đã là mô hình mới, điểm sáng bức tranh kinh tế thời mở cửa. Bộ mặt đất nước ngày càng văn minh hiện đại. Hàng loạt công trình thế kỷ đã mọc lên tô đẹp thêm bức tranh thuỷ mặt thiên nhiên vốn có của đất nước ta: thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Yaly, đường dây 500 kv Bắc Nam, nhiệt điện Phả Lại, cầu Mỹ Thuận, Quán Hầu một kỳ quan của khu vực. Văn hoá, y tế, giáo dục Nhà nước quan tâm đầu tư thoả đáng. Đến nay, cả nước đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. Năm 2000 - 2001 đã có 25 triêu học sinh các cấp. Cứ 3 người dân có người đi học, 100% có trạm xá có y bác sĩ, 40% số xã có bác sĩ… Những thành tựu về kinh tế 15 năm đổi mới và của năm 2000 là to lớn và có ý nghĩa nhiều mặt. Khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, hợp lòng dân, tăng niềm tin của dân đối với Đảng và Nhà nước, nâng cao vị trí và tầm vóc của Việt Nam trên trường quốc tế và tạo ra thế và lực mới, làm bệ phóng đưa đất nước ta tiến nhanh hơn vào thế kỷ XXI. 2. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2.1. Một số lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị ''chính trị là sự biểu hiện tập tập trung của kinh tế vì trong lịch sử phát triển xã hội loài người không lúc nào cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính trị mọi hình thành vấn đề chính trị là vấn đề thuộc quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Quyền học chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất đã bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của mỗi giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất và đấu tranh vì lợi ích kinh tế được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Và khi thể chế chính trị không phù hợp vốn yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ mở đường đi khi đó việc thay đổi chế độ chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế là điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, và nhận thức công cuộc đổi mới xã hội Việt Nam nói riêng. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991). Đảng đã khẳng định: '' về quan hệ giữa đổi mới kinh tế vằ đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa, coi đó là điều kiện quan trọng để điều hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế , phải tầng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân vào các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định rằng phải tập trung sức tốt để đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải thận trọng không gây mất ổn định về chính trị. Như vậy chúng ta thấy trong quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế. 2.2. Những mâu thuẫn phát sinh khi xây dựng kinh tế thị trường tại Việt Nam và phương hướng giải quyết. 2.2.1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác - Lênin, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn thay đổi khi lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không phù hợp nữa trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? Đó chính là cuộc cách mạng xã hội chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi nền kinh tế nước ta là ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá hiện đại hoá, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là chủ trương, biện pháp vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói đến công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học, đến sự anh minh trí tuệ, là nói đến phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hâu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết CNXH, chuyển sang kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới, đúng đắn của bản thân nó bao gồm cả ý nghĩa phủ định gạt bỏ cả quan niệm sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đây chúng ta thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ; khoa học, đến việc tạo lập cơ sở kinh tế vật chất chủ nghĩa xã hội. Bằng chứng là một thời chúng ta không coi trọng tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan và đội ngũ những người lao động khác. Do thế hậu quả tất yếu xảy ra là khoa học nước ta chậm hoặc ít có điều kiện môi trường phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu và cũng không thể nói đến công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 2.2.2. Nền kinh tế thị trường trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến như nước ta thì chưa thoát khỏi tính tự phát tư bản chủ nghĩa Việc định hướng nền kinh tế nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là việc phát triển tự phát mà là kết quả của sự nhận thức và vận dụng một cách tự giác xu hướng và qui luật khách quan của sự phát triển xã hội trong thời đaị ngày ngay. Như vậy KTTT định hướng XHCN đã bao hàm sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập tính tự phát, và tính tự giác trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ hiện nay tính tự phát vẫn còn là cái cần thiết và không tránh khỏi việc điều chỉnh trong mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, trong việc giải quyết những khó khăn về việc làm trong lưu thông hàng hoá v.v.. Tuy vậy nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu là tự giác thì không thể thực hiện được những mục tiêu CNXH. Còn hoạt động tự giác là hoạt động dựa trên nhận thức đúng đắn xu thế tất yếu và qui luật khách quan của đời soóng xã hội, nhưng nếu có sai lầm trong nhận thức nhất là sai lầm trên bình diện quốc gia, thì hậu quả của nó thật khôn lường. Giải quyết mâu thuẫn giữa tính tự giác và tính tự phát trong phát triển kinh tế - xã hội là hết sức khó khăn và phức tạp không thì một lúc xoá bỏ tính tự phát. Biến mọi hoạt động con người thành hoạt động tự giác mà là phát huy ngày càng cao năng lực nhận thức khoa học cũng như năng lực tổ chức, quản lý phối hợp hoạt động trên bình diện xã hội, hạn chế dần lĩnh vực tự phát của hoạt động con người trong xã hội. 2.2.3. Phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ tức là chấp nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế TBCN Chấp nhận các hình thức sở hữu và kinh doanh có thuê mướn lao động và bóc lột sức lao động; trong khi đó mục tiêu lâu dài của cách mạng XHCN là xoá bỏ bóc lột. ở đây một số mối quan hệ có mâu thuẫn cần được nghiên cứu và giải quyết thoả đáng, đó là mối quan hệ giữa lợi ích của người lao động và lợi ích của người thuê mướn lao động, mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế tư nhân với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước không cơ sở sở để khẳng định rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hình thức kinh doanh có thuê mướn lao động ngày càng giảm đi. Cũng là sai lầm nên cho rằng chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác là phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và sẽ thay thế các thành phần kinh tế còn lại. Tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển theo một định hướng duy nhất, định hướng XHCN, các thành phần kinh tế có thuê mướn lao động sẽ giảm dần mức bóc lột của nó. Tất nhiên điều này chỉ có thể và hoàn toàn có thể thực hiện được trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản sự quản lý của Nhà nước XHCN. Sự chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước, sự lớn mạnh của kinh tế hợp tác. Trong việc giải quyết mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích của người thuê mướn lao động và người làm thuê lao động thì đó phải là sự kết hợp hài hoà các lợi ích: lợi ích của người làm thuê lao động và lợi ích người thuê mướn lao động và lợi ích của Nhà nước. Sự bất công trong mối quan hệ giữa các lợi ích đều có sự tác dụng kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Nhà nước - bằng hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế, xã hội của mình - vừa khuyến khích lợi ích chính đáng và tính tích cực sáng tạo của những nhà kinh tế, vừa hạn chế sự bóc lột và những hiện tượng trong tiêu cực kinh doanh của họ. Nhà nước thông qua nguồn thuế thu được và các khoản đóng góp khác từ cơ sở kinh doanh mà mở rộng phát triển chương trinhf xã hội. Tuy nhiên sự điều tiết thu nhập thông qua các chính sách thuế, nếu không được thực hiện một cách hợp lý sẽ có tác động tiêu cực đến việc khuyến khích đầu tư, kinh nghiệm một số nước Bắc Âu trong những năm 80 cho thấy điều đó. Ngoài ra Nhà nước cần khuyến khích mọi cơ sở kinh doanh tham gia vào bảo hiểm xã hội cho người lao động, tham gia các hoạt động nhân đạo. 2.2.4. Một mặt, phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện xuất phát từ sản xuất nhỏ thì xã hội chưa thể tránh khỏi những yếu tố của kinh tế thị trường TBCN Sự cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không lành mạnh), sự phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các bộ phận dân cư và nhất là không thể tránh khỏi tệ nạn xã hội do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra dẫn đến sự bất bình đẳng và bất công xã hội. Mặt khác định hướng XHCN không cho phép sự bất bình đẳng phát triển thành sự phân cực xã hội, không cho phép đẩy những người lao động vào tình trạng thất nghiệp, không thể chấp nhận tình trạng bất công, tiêu cực ngày càng gia tăng. Một mâu thuẫn nữa xuất hiện đó là mâu thuẫn bình đẳng công bằng xã hội với tính cách là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội với tình trạng bất bình đẳng của công không thể tránh khỏi. Kinh tế thị trường chỉ là phương tiện là con đường để thực hiện mục tiêu XHCN CNXH không chỉ phấn đấu đạt trình độ phát triển cao về đời sống tinh thần, mà vấn đề quan trọng hơn là công bằng xã hội. Hơn nữa không chỉ công bằng xã hội mà bình đẳng xã hội. KTTT tuy có mặt trái không thể tránh khỏi của nó nhưng vấn đề cơ bản là lâu dài, nó là những điều kiện để thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội. Trong điều kiện hiện nay: công bằng xã hội phải được biểu hiện ở hai mặt bình đẳng và mặt bất bình đẳng. Bên cạnh việc đấu tranh cho bình đẳng xã hội. Chúng ta phải chấp nhận những bất bình đẳng hợp lý do yêu cầu khắt khe của KTTT. Chỉ có thể thực hiện sự bình đẳng từng mặt chưa thể thực hiện được sự bình đẳng hoàn toàn. Trong thời kỳ quá độ kể cả CNXH chỉ có thể sự bình đẳng về cơ hội: còn về mặt hưởng thì trước mắt cỉh có thể phấn đấu thực hiện bình đẳng ở tự thoả mãn một số nhu cầu cơ bản nhất rồi dần phát triển lên. 2.2.5. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người trong xã hội chủ nghĩa Trước hết lợi ích là một trong những động lực của tăng trưởng kinh tế: do đó để thực hiện tăng trưởng kinh tế phải coi trọng nhân tố con người trong đó thể hiện các mặt của con người đó là lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Trong thời kỳ quá độ kể cả trong XHCN mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những không mất đi còn diễn biến phức tạp hơn. Điều này có thể chứng minh được dễ dàng. Bởi vì trong CNXH mọi cá nhân đều có điều kiện tốt hơn để phát triển về năng lực và nhu cầu. Sự phát triển nhu cầu và lợi ích cá nhân tất yếu có mặt trái của nó. Mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải quyết đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công xã hội. Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn để phát triển xã hội. Còn ngược lại nếu cá nhân có lợi nhưng lợi ích xã hội vi phạm thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội. Chẳng hạn vì lợi ích cá nhân ích kỷ mà trong sản xuất kinh doanh và trong hoạt động xã hội khác. Người ta có thể phá hoại môi trường sống, có thể làm tất cả việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân tính, miễn là việc đó đem lại thu nhập cao cho họ. Trong trường hợp này, khi một thiểu số cá nhân được hưởng lợi lớn thì cộng đồng xã hội phải gánh chịu những thiệt hại do những cá nhân đó gây ra. Chúng ta cần phân biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỷ của cá nhân. Lợi ích chính đáng của cá nhân là động lực ptcủa xã hội, là cái mà xã hội phải tôn trọng và phát huy còn lợi ích ích kỷ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân thoái hoá, biến chất, ăn cắp, tham nhũng của một số ít cán bộ trong bộ máy Nhà nước. Nếu xã hội không có các biện pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn này chẳng nhưng không giảm mà trái lại sẽ càng gia tăng, vì cùng với sự tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng xã hội, phúc lợi tập thể tăng lên và những vấn đề này được giao cho những cá nhân trực tiếp quản lý. Kinh tế thị trường làm phát triển tâm lý chạy theo đồng tiền của một bộ phận nhân dân: nó mở ra khả năng cho một số người không lao động vẫn cóthể hưởng được thành quả lao động của người khác. Họ làm bất cứ việc gì, kể cả những việc phi nhân đạo để thu lợi bất chấp hậu quả trước mắt và lâu dài của hoạt động đó. ở đây chỉ cần chỉ ra một đặc điểm của thị trường ở nước ta là thị trường chưa phát triển vững chắc, trong nhiều trường hợp, nó chưa đánh giá đúng chất lượng của sản phẩm chất lượng của lao động. Nhiều khi làm hàng giả có lợi cho nhà sản xuất hơn làm hàng thật, kể cả trong lĩnh vực sản xuất văn hoá tinh thần. Chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của lối sống sa hoa, truy lạc làm băng hoại những giá trị đạo đức và truyền thống tốt đẹp. Kết luận Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan… do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo qui luật phá vỡ những cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triể._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35211.doc
Tài liệu liên quan