Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tài liệu Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: LỜI MỞ ĐẦU Từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và Nhà nước ta quyết định chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nền kinh tế thị trườ... Ebook Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng là một nền kinh tế phát triển với nhiều ưu điểm xong trong quá trình chuyển đổi nước ta gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt nước ta xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ,tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn và phức tạp. Trong các lĩnh vực đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Trước hết đó là mâu thuẫn của sự ra đời cơ chế mới và sự tồn tại của cơ chế cũ, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị , pháp lý , quan điểm, tư tưởng. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường ( theo Chủ nghĩa tư bản ) với định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa các mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường… Để giải quyết các mâu thuẫn này trước hết cần nhận biết được chúng . Vì vậy,em đã nghiên cứu đề tài : “Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một trong những đề tài phản ánh rõ tình hình chung của nền kinh tế nước ta . Nghiên cứu và làm rõ vấn đề này có vai trò rất quan trọng , giải quyết các mâu thuẫn sẽ thúc đẩy nền kinh tế nước ta, kịp thời hội nhập và phát triển cùng với xu thế phát triển chung của thế giới . Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với Đảng và Nhà nước. Do còn nhiều hạn chế về thời gian, trình độ nên bài viết của em sẽ không tránh khỏi những khó khăn thiếu sót . Kính mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. - 1 - PHẦN I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VỀ MÂU THUẪN 1.Khái quát về lịch sử các tư tưởng triết học về mâu thuẫn và các mặt đối lập Trải qua các quá trình phát triển của những hình thái khác nhau và các quá trình phát triển cao của các tư tưởng triết học nhân loại các quan niệm khác nhau về mâu thuẫn cũng thay đổi. Mỗi thời đại, mỗi trường phái lại có những lý giải khác nhau về mâu thuẫn , về những mặt đối lập ,vì triết học luôn xuất phát từ những bối cảnh lịch sử nhất định. Có 3 nền triết học lớn đó là Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp . Triết học Trung Hoa xuất hiện khá sớm vào cuối thế kỷ thứ II trước công nguyên ,những quan điểm thời kỳ này đã xuất hiện tuy nhiên còn rất sơ khai .Ví dụ như trường phái Âm – Dương, phái Âm – Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Quy luật này thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong cái mặt đối lập kia – ít nhất cũng ở trạng thái tiềm năng sinh thành .Sang đến phái Đạo Gia mà người sáng lập là Lão Tử, ông cũng có những tư tưởng biện chứng độc đáo về sự thống nhất biện chứng của mặt đối lập này bao hàm khả năng của mặt đối lập. Ông nói “ Có và không tương sinh lẫn nhau, dễ và khó tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và sau theo nhau”. Tất cả trong đó, mỗi mặt đều trong quan hệ với mặt đối lập, không có mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng cũng chỉ là tương đối. Triết học Ấn Độ thì đưa ra phạm trù “vô ngả” “vô thường” (của trường phái Phật Quốc). “Một tồn tại” nào đó chẳng phải là nó mà là “tổng hợp” hội hợp của những cái không phải là nó mà nhờ hội đủ nhân – duyên. Không có cái nào là biệt lập tuyệt đối so với cái khác.Có thể nói cùng với sự phát triển của các hình thức kinh tế - xã hội các tư tưởng triết học về mâu thuẫn cũng ngày càng rõ nét . - 2 - Heraclit – nhà triết học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ đầu của nó thì phỏng đoán rằng mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật của thế giới. Theo ông, các mặt đối lập gắn bó, quy định ràng buộc với nhau: “Cái ác làm cho cái thiện cao hơn cả”. Heraclit còn khẳng định vũ trụ là một thể thống nhất nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các lực lượng đối lập, nhờ vậy mà vũ trụ tồn tại và vận động. Trải qua hơn một ngàn năm đêm dài trung cổ, nền triết học thời kỳ này chủ yếu là triết học linh viện tập trung vào cái chung và cái riêng. Sang đến triết học cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư tưởng triết học tiến bộ, cách mạng và khoa học. Đại biểu đặc trưng của triết học cổ điển Đức là Heghen. Mặc dù là nhà triết học duy tâm nhưng học thuyết về bản chất và tư tưởng của Heghen về mâu thuẫn lại hết sức biện chứng. Ông coi mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động, là nguyên lý của sự phát triển. Song mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn của “ý niệm tuyệt đối” chứ không phải của thế giới vật chất. Heghen cũng đưa ra tư tưởng cho rằng hiện tượng và bản chất thống nhất với nhau, bản chất thể hiện trong hiện tượng và hiện tượng là thể hiện của bản chất , ông coi hiện thực là thống nhất giữa bản chất và tồn tại,.. Song song với quan điểm biện chứng về mâu thuẫn, trong lịch sử triết học cũng xuất hiện sự đấu tranh gay gắt giữa các quan điểm siêu hình của những nhà siêu hình học, họ phủ nhận mâu thuẫn bên trong của các sự vật và hiện tượng. Những người theo quan điểm siêu hình chỉ thừa nhận có những sự đối kháng, sự xung đột giữa các sự vật và hiện tượng với nhau, nhưng không cho đó là quy luật, 2.Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật và hiện tượng đều là thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập nhau nhưng lại liên hệ ràng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn. - 3 - Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tượng khách quan mà còn là một hiện tượng phổ biến. Không có một sự vật nào, hiện tượng nào lại không có mâu thuẫn và không có giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Để hiểu được nội dung quy luật, trước hết cần nắm được khái niệm “mặt đối lập”. Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Cũng không nên nhầm lẫn mặt đối lập với mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập, nhưng không phải bất kỳ mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ những mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó mặt đối lập vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Ví dụ: Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách bán sức lao động cho nhà tư bản, thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự “đồng nhất” của các mặt đó. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau. - 4 - Ví dụ: Sự đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản được diễn ra dưới dạng xung đột với nhau về mọi mặt rất gay gắt và quyết liệt chỉ có thể thông qua cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết được mâu thuẫn một cách cơ bản. Chính vì vậy mà mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, thì mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũng bị phá huỷ, sự thống nhất của hai mặt đối lập được hình thành cùng mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn mới này lại triển khai phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện, và sự vật mới thay thế sự vật cũ. Vì thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc là động lực bên trong của sự phát triển. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập Về sự chuyển hoá của các mặt đối lập, Lê Nin viết “không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập mà còn là những chuyển hoá của mỗi quy định, chất, đặc trưng, mặt, thuộc tính sang mỗi cái khác (sang cái đối lập với nó)”. Sự vật và hiện tượng trong thế giới là muôn hình muôn vẻ, nên sự chuyển hoá của các mặt đối lập là rất khác nhau. Như vậy, phải căn cứ vào từng sự vật mà phân tích sự chuyển hoá của các mặt đối lập. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau và chuyển hoá lẫn nhau làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ. - 5 - PHẦN II MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM. Thực chất của bước chuyển đổi cơ chế trong nền kinh tế ở Việt Nam. Trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã giúp chúng ta huy động được sức người, sức của tập trung cho kháng chiến. Sau năm 1975 thống nhất đát nước, Việt Nam vẫn duy trì nền kinh tế chỉ huy trước đó. Tuy nhiên hoàn cảnh kinh tế xã hội lúc này đã thay đổi nhiều,việc áp dụng cơ chế quản lý cũ đã làm xuất hiện nhiều tiêu cực. Những hậu quả xấu như tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả do quản lý không có hiệu quả. Đến đầu những năm 80 thì những mâu thuẫn trong nền kinh tế này đã đi đến đỉnh điểm như: sản xuất bị đình đốn, lạm phát tăng cao làm cho đời sống nhân dân giảm sút. Đó là do những đặc điểm cơ bản sau: Một là: thực hiện chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: Công hữu và tập thể. Hai là: Nền kinh tế theo kế hoạch hoá tập trung từ trên xuống theo pháp lệnh không gắn chặt với người lao động, với tư liệu sản xuất và sản phẩm mà họ làm ra. Việc sản xuất tốt hay xấu không ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động, nên không kích thích họ sản xuất, không kích thích tinh thần sáng tạo của họ, do vậy họ hoàn toàn không có động lực để phát triển. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế kỹ thuật đã lạc hâu lại càng lac hậu hơn. Ba là: Không đề cao quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả quản lý kinh tế, mà kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm theo hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. - 6 - Bốn là: Bộ máy quản lý cồng kềnh có nhiều cấp trung gian và kém năng động, do đó đội ngũ cán bộ hầu như không có năng lực quản lý, không có đạo đức kinh doanh và trình độ chuyên môn cao tạo ra sự tham ô, tham nhũng, hống hách, cửa quyền, càng làm kìm hãm sự phát triển của kinh tế nước ta. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng và cùng với xu thế phát triển của thế giới, không còn sự viện trợ của các nước Đông Âu và Liên Xô đã dẫn đến sự bức bách phải thay đổi nền kinh tế của nước ta. Lần lượt qua các đại hội Đảng VI và VII đã xác định dưới góc độ khoa học, việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn. * Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường: Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể được tự do liên doanh, liên kêt, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Các chủ thể có thể tự do mua bán hàng hoá theo pháp luật quy định. Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh tranh, quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. Đối với ngưới bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp chi phí và có lãi. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp với thu nhập và đáp ứng được nhu cầu của họ. Giá cả thị trường dung hoà được cả lợi ích của người mua và lợi ích của ngưới bán. Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất kinh doanh phải cải tiến kỹ thuật mới vào sản xuất, để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động cá nhân tăng lợi nhuận siêu ngạch. - 7 - Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Trong nền kinh tế thị trường nhà nước tác động vào nền kinh tế không bằng hệ thống pháp lệnh mà bằng một hệ thống công cụ và luật pháp như: Kế hoạch hoá định hướng là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan; Kế hoạch hoá không phải chỉ là giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án; Quản lý kinh tế vĩ mô bằng pháp luật góp phần thúc đẩy sản xuất, khắc phục mọi tình trạng lừa đảo, trốn thuế, chiếm dụng vốn, lạm dụng chức quyền,…; Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế giúp nhà nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp. Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới. Nền kinh tế của nước ta đang trong giai đoạn mới hình thành nên còn rất sơ khai, trình độ quản lý tiếp cận đối với nền kinh tế thị trường còn yếu, do vậy khó có thể tránh khỏi những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, thể hiện ở một số mâu thuẫn đặc trưng sau: Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới. Trải qua một thời gian dài nền kinh tế được điều khiển bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế hoạt động theo mệnh lệnh bắt buộc, theo số lượng và chỉ tiêu định sẵn từ trên xuống, dẫn tới nền kinh tế trì trệ, sản xuất đình đốn.Chính vì vậy khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã khiến nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn. Các hoạt động kinh tế vẫn còn mang tính tập trung quan liêu bao cấp. Các thủ tục hành chính còn rất rườm rà, nhiều thủ tục gây phiền hà mất thời gian, vô ích, cán bộ quản lý thì tham ô,cửa quyền dẫn tới hạn chế sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất của các cơ quan nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường hầu hết đều không bắt kịp nhịp độ sản xuất, do máy móc và công nghệ áp dụng cũ kỹ, lạc hậu, cán bộ quản lý kém quen với cơ chế giao nộp, họ không quan tâm đến chất lượng sản phẩm, các sản phẩm sản xuất ra có chất lượng kém nên không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập và các xí nghiệp liên doanh nên dẫn tới sự sụp đổ là không thể tránh - 8 - khỏi. Mặt khác, nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tạo nên cho con người thói quen rề rà trong công việc, không linh hoạt, dẫn tới khi chuyển sang nền kinh tế thị trường con người vẫn giữ phong cách cũ nên cản trở sản xuất, đồng thời các chính sách của nhà nước còn chưa phù hợp với cơ chế mới nên đã kéo theo những cản trở lớn trong nền kinh tế. Chúng ta đang ở những bước đầu của quá trình quá độ lên nền kinh tế thị trường đây chính là lúc đấu tranh giữa các mặt đối lập để tạo sự phát triển vững mạnh cho nền kinh tế. b. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị, pháp lý quan điểm, tư tưởng. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ quan hệ sản xuất lập thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Khi chuyển đổi nền kinh tế có nghĩa là đã thay đổi cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, nhưng kiến trúc thượng tầng chưa thay đổi kịp. Kinh tế thị trường với đầy sự khó khăn đặt ra phải đổi mới về chính trị, tìm ra đường lối mới, chính sách mới và ngay cả đối với các tổ chức chính trị, các quan điểm thường ngày. Trong các quan hệ kinh tế các chính sách vẫn còn cứng nhắc, sự cạnh tranh trên thị trường cũng chưa đảm bảo tự do hoàn toàn. Mâu thuẫn này đòi hỏi được giải quyết một cách ổn thoả mới tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh và vững chắc. c. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường là cái nôi để nảy sinh ra chủ nghĩa tư bản. Việc chạy theo lợi nhuận của các công ty và sự cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới sự thôn tính của các công ty lớn với những công ty nhỏ hơn, sự độc quyền trên thị trường. Nó làm thay đổi mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế. Quyền lực của nhà nước rất dễ bị lấn át, lũng đoạn bởi các tập đoàn tài chính, những công ty lớn hùng mạnh. Để giữ vững được việc kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa tức là xã hội không còn sự bóc lột, không còn sự phân hoá giàu nghèo, cuộc sống bình đẳng dân chủ văn minh…đòi hỏi phải có sự - 9 - lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý tích cực của nhà nước, tính tự giác của các chủ thể trong nền kinh tế, khắc phục sự chênh lệch quá lớn giữa các tầng lớp dân cư. d. Mâu thuẫn giữa mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Mặt tích cực:Cơ chế thị trường có khả năng tự điều tiết sản xuất xã hội, tức là tự động phân bố các nguồn tài nguyên sản xuất vào các khu vực, các ngành kinh tế mà không có bất cứ sự điều tiết trung tâm nào. Cơ chế thị trường kích thích sản xuất, tăng trưởng kinh tế theo cả chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Người tiêu dùng quyết định sản xuất loại hàng hoá gì, khối lượng bao nhiêu. Sản xuất bằng phương thức nào được quyết định bởi sự cạnh tranh giữa những người sản xuất. Mặt tiêu cực: Bên cạnh những ưu điểm nền kinh tế thị trường cũng chứa rất nhiều khuyết điểm, nó không phải hiện thân của sự hoàn hảo. Mục đích của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, do đó có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, có thể gây ra ô nhiễm không khí và nguồn nước mà xã hội phải gánh chịu.Nền kinh tế thị trường cũng gây ra sự bất bình đẳng lớn của xã hội, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng . Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó có thể tránh khỏi những thăng trầm, sự khủng hoảng kinh tế, gây nên mất ổn định thường xuyên phá vỡ các mức cân đối trong nền sản xuất xã hội. Thực tế cho thấy hậu quả tiêu cực của sự vận động và phát triển của cơ chế thị trường, vấn đề lạm phát, thất nghiệp là những căn bệnh kinh niên khó khắc phục nổi nếu không có sự can thiệp của Nhà nước. Do mâu thuẫn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước. Nhà nước ta sẽ cố gắng thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội Nhưng cần hiểu đây chỉ là công bằng tương đối có nghĩa là người dân sẽ được làm những gì mà luật pháp không cấm, được tự do kinh doanh, được hưởng thành quả lao động của mình, được quyền thừa kế theo luật pháp và đặc biệt quan trọng là được tạo điều kiện như nhau để mưu cầu hạnh phúc. - 10 - KẾT LUẬN Nền kinh tế thị trường tuy mới hình thành ở nước ta nhưng đã vượt qua những khó khăn tưởng như không thể vượt qua do nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp để thu được những thành tựu đáng phấn khích cho nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế bước đầu đã phát triển, tạo niềm tin trong nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì chúng ta cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì mới bước đầu hội nhập kinh tế thị trường do vậy việc nhận thức về những mặt đối lập, những quy luật kinh tế thị trường là hết sức cần thiết.Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng , điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như vậy mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt, phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Có giải quyết được các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường mới góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và đưa đất nước phát triển hội nhập với các quốc gia phát triển trên thế giới và trong khu vực. Ổn định kinh tế, chính trị, xã hội tiến lên chủ nghĩa xã hội. - 11 - TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2006- NXB sự thật Hà Nội . Tạp chí triết học, số 1 (101), tháng 2- 1998. Giáo trình triết học Mác – Lênin ( NXB chính trị quốc gia Hà Nội 2007) - 12 - MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 Phần I: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật về mâu thuẫn. 2 1. Khái quát về lịch sử các tư tưởng triết học về mâu thuẫn và các mặt đối lập. 2 2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn. 3 Phần II: Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 6 1. Thực chất của bước chuyển đổi cơ chế trong nền kinh tế ở Việt Nam. 6 2. Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới. 8 KẾT LUẬN 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO 12 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12686.doc
Tài liệu liên quan