Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở VN

MỤC LỤC A. Giới thiệu vấn đề: Như chúng ta đã biết, Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ và lao động thủ công, lại lựa chọn con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên đã vấp phải rất nhiều khó khăn và thử thách lớn. Trong sự nghiệp đổi mới đó, Đảng và Nhà nước ta đả chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách : chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kin

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng trong đó cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Điều này đòi hỏi phải được giải quyết khẩn trương, mau lẹ, có như vậy mới có thể phát triển nhanh chóng nền kinh tế, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo kịp những cường quốc kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Là một cử nhân kinh tế trong tương lai, em mong muốn được tìm hiểu rõ hơn những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế, những mâu thuẫn trong con đường cải cách, những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lí các vấn đề chính trị - xã hội có liên quan. Em đã chọn đề tài “ Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam “ để nghiên cứu. Đây là một nội dung rất rộng và phức tạp, do trình độ có hạn nên không tránh được những khiếm khuyết trong việc nghiên cứu, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! B. Nội dung chính B. 1. Cơ sở lí luận của mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam 1. 1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất. _ Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm măt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. . Các mặt đối lập vừa tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hóa lẫn nhau. _Sự thống nhất giữa các mặt đối lập : Là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Sự thống nhất là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại của bất kì sự vật, hiện tượng nào. Ví dụ: + Do có sự thống nhất cân bằng, tác động ngang nhau của sức hút và sức đẩy trong phân tử nước làm cho các phân tử này liên kết với nhau, tạo thành trạng thái lỏng của nước. + trong chế độ phong kiến: hai giai cấp đối kháng là địa chủ và nông dân tuy có lúc đấu tranh rất quyết liệ nhưng vẫn ở trạng thái “ tác dụng ngang nhau” nên vẫn tạo ra sự ổn định tạm thời. + trong chế độ tư bản : tồn tại hai mặt đối lập cơ bản là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Sự thống nhất giữa hai giai cấp này là điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tương đối. Bản than nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập. Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hóa giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hóa lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản than sự vật. Sự đấu tranh chuyển hóa, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ: + trong nước có nhưng phân tử được nhận mức năng lượng lớn hơn, sức đẩy thắng sức hút, thoát ra ngoài mặt thoáng biến thành hơi nước. Sự thống nhất cũ, giữa “hút” và “đẩy” bị phá vỡ, chuyển hóa thành sự thống nhất mới. Trong suốt quá trình tồn tại của nước lỏng cũng như khi có hiện tượng bốc hơi luôn luôn diễn ra sự tác động, đấu tranh giữa”hút” và “đẩy”. +trong chế độ phong kiến : đến một thời kì nhất định giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ dân chủ lôi kéo được nông dân theo mình làm cách mạng tư sản, lật đổ chế đọ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản thì thể thống nhất cũ của chế độ phong kiến mất đi, thể thống nhất mới của chế độ tư bản hình thành. +trong chế độ tư bản, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản đã diễn ra ngay từ đầu. Cuộc đấu tranh này ngày càng ác liệt và toàn diện hơn, mà đỉnh cao là cách mạng vô sản, đã phá vỡ thể thống nhất cũ, thiết lập chế độ mới: xã hội chủ nghĩa. _ Như vậy sự thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự thống nhất lẫn đấu tranh của các mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết và sự vật mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy, Lênin đã khẳng định “ sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập “. Lênin cũng chỉ ra rằng “Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó- nhưng nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như có sự chuyển hóa nhảy vọt về chất. 1. 2. Chuyển hóa của các mặt đối lập Khong phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hóa, bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hóa giữa các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hóa của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua ý thức của con người. Do đó không nên hiểu sự chuyển hóa giữa hai mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi một cách đơn giản, máy móc. Thông thường mâu thuẫn chuyển hóa theo hai phương thức: _ Thứ nhất:Mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật VD: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đẩu tranh chuyển hóa lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn. _Thứ hai: cả hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau để thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn VD: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạc hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa Như vậy thông qua quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển ta thấy được mâu thuấn chính là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển, là hiện tượng khách quan, phổ biến của thế giới. Do đó khi vận dụng phép biện chứng duy vật vào cải tạo xã hội, chúng ta phải phân tích những mâu thuãn vốn có của xã hội đó, thúc đẩy sự chín muồi của các mâu thuẫn, tìm ra những lực lượng, biện pháp giải quyết chúng để thúc đẩy xã hội phát triển B. 2. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam 2. 1. Tính tất yếu xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng Xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Nó nhằm dẫn tới những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó đổi mới hàng loạt vấn đề về lí luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chính trị xã hội, nó bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mac- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hoàn cảnh mới. Từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước đi theo con đường này đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản lí kinh tế này được duy trì trong một thời gian dài và được xem như là một đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội đối lập với cơ chế thị trường của Chủ nghĩa tư bản. Sự thực thì nền kinh tế tập trung không chỉ là sản phẩm của riêng CNXH cũng như kinh tế thị trường không chỉ duy nhất được thiết lập trong CNTB. Trong thời kì quá độ lên CHXH, nhiều nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam đã nhận thấy phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Thật vậy, kinh tế nước ta khi bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội còn ở trình độ kém phát triển, lực lượng sản xuất còn tồn tại ở nhiều bậc khác nhau. Do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có nhiều hình thức, dẫn đến nền kinh tế tất yếu có nhiều thành phần. Ngoài ra, một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại vẫn còn quan trọng để phát triển kinh tế và một số thành phần kinh tế mới xuất hiện như kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một tất yếu khách quan. 2. 2. Mục đích xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam: Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hóa ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của Nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối …khá nặng nề, chế độ hạch toán trên thực tế còn nặng về hình thức. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường dưới sự quản lí của Nhà nước XHCN là phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, nó sẽ thúc đẩy tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân, phát triển mọi mặt của xã hội. Bên cạnh đó nó còn tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ trong đó có hình thức tư bản Nhà nước, khắc phục tình trạng độc quyền, tạo quan hệ cạnh tranh - động lực thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, khoa học và công nghệ mới trên thế giới. Đưa nước ta hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu trở thành một quốc gia có nền kinh tế mạnh trong khu vực và trên thế giới. 2. 3. Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay _ Kinh tế Nhà nước : là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu Nhà nước). Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế _ Kinh tế tập thể : là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lí theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng cùng có lợi. _ Kinh tế tư nhân :bao gồm kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ, phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài trong nhiều ngành nghề ở nông thôn và thành thị + kinh tế cá thể ; là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình + kinh tế tiểu chủ :là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình + kinh tế tư bản tư nhân :là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê _ Kinh tế tư bản Nhà nước: là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh _ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài, có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta. Thành phần kinh tế này hiện đang chiếm vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế nước ta. B. 3. Thực trạng xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam 3. 1. Những thành công mà Việt Nam đã đạt được Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 11/01/2007 3. 1. 1. Kinh tế phát triển khá nhanh, có sự thay đổi rõ rệt về cơ cấu các thành phần kinh tế Cho đến năm 2007, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế từng bước được nâng lên thể hiện trên các chỉ số tăng trưởng cao, duy trì tốc độ ổn định trên mọi lĩnh vực kinh tế. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng dịch vụ và giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp (khu vực nông nghiệp chiếm 20%; công nghiệp và xây dựng chiếm 41, 5%, dịch vụ 38, 1%. _ Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 ước đạt 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17, 1% so với năm 2006; trong đó, khu vực ngoài quốc doanh tăng 20, 9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18, 2% và khu. vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10, 3%. Kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Khung pháp lí ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường. _Khu vực dịch vụ phát triển khá. Thương mại nội địa phát triển mạnh. Nhiều hình thức kinh doanh góp phần cải thiện cơ cấu thị trường dần theo hướng đa dạng, văn minh kết hợp với hiện đại hóa. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 2007 đạt 4, 171 triệu lượt khách, tăng 16, 4% so với năm 2006. Lượng khách du lịch nội địa năm 2007 ước đạt 18, 5 triệu lượt khách, tăng 8, 82% so với năm 2006. Số lượng khách du lịch Việt Nam đi du lịch nước ngoài khá lớn, đặc biệt là ở các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và một số địa phương có mức sống của dân cư cao. Các ngành vận tải hàng hóa, mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông, internet trong nước và quốc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…đều phát triển khá. _ Sản xuất nông nghiệp vượt qua nhiều khó khăn thách thức về thiên tai, tiếp tục phát triển. Thành tựu nổi bật nhất là giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Việt Nam từ nước thiếu lương thực triền miên thành nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 2 trên thế giới liên tục từ nǎm 1989 đến nay. Mỗi nǎm lương thực tǎng 1, 3 triệu tấn, khoảng 5%, cao hơn tốc độ tǎng dân số, bình quân lương thực đầu người tǎng từ 280 kg nǎm 1987 và ước tính tǎng lên khoảng 455 kg trong nǎm nay. Sản xuất cây công nghiệp, cây ǎn quả có bước phát triển khá cao. Chǎn nuôi tǎng trưởng cao và ổn định. 3. 1. 2. Sử dụng thành công một cách có hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục tiêu phát triển xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. _ Phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích của đổi mới cho đại đa số dân chúng, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục, nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI). Đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể ở nhiều mặt. Đến nǎm 2000, 98% số hộ ở thành thị và 70% số hộ ở nông thôn đã có điện lưới quốc gia. Hệ thống đường giao thông được xây dựng mới, nâng cấp tới mọi miền đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ hơn 50% những nǎm 80, xuống 4, 61% ở khu vực thành thị và 15, 96% ở nông thôn. 100% số xã, phường có trạm y tế và trường học, 90% số người biết chữ so với 9% trước nǎm 1945. Tỷ lệ tǎng tự nhiên dân số giảm dần, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm bình quân 2%/nǎm, tuổi thọ bình quân của người dân tǎng dần và hiện nay đạt hơn 70 tuổi _Trình độ của lực lượng sản xuất cao hơn, con người có trình độ lí luận, nhận thức cao hơn, năng động, sáng tạo hơn, đặc biệt là thế hệ sinh viên. _Vấn đề về việc làm cũng được giải quyết khá tốt, tạo sự chuyển biến, cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận nhân dân. Ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ vào nông, lâm, ngư nghiệp, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, làm năng suất lao động tăng nhanh, sản lượng lương thực phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu ngày càng có chiều hướng tăng mạnh, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Công nghệ cao, công nghệ phần mềm…ngày càng phát triển mạnh, cũng tạo điều kiện thu hút nhiều lao động và phát triển một số đặc khu kinh tế. Đến năm 2005 chúng ta đã tạo được việc làm cho 7, 5 triệu lao động. Công cuộc xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo tiêu chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005. Còn theo tiêu chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28, 9% năm 2002; nếu tính theo chuẩn mới (2 đô la/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27, 5%. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015” 3. 1. 3. Tự tin hội nhập kinh tế quốc tế _Nước ta đã tự đổi mới theo yêu cầu của hội nhập, từng bước chủ động, tích cực chuẩn bị và tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả vào tiến trình toàn cầu hóa thông qua việc thiết lập quan hệ kinh tế - thương mại với 170 quốc gia, nền kinh tế, kí kết gần 60 hiệp định kinh tế -thương mại song phương, trong đó có toàn bộ các nước, nền kinh tế phát triển, thị trường lớn. _ Tăng cường mạnh mẽ hiệu quả của kinh tế đối ngoại, góp phần tăng cường tiềm lực của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng phát triển. Chúng ta đã đạt được những thành công to lớn trong lĩnh vực thu hút đầu tư và tranh thủ nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) của nước ngoài. Với khoảng 7000 dự án, tổng số vốn đăng kí trên 60 tỉ USD, Việt Nam hiện đang được đánh giá là một trong những nước có sức hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cao trong khu vực, với một làn sóng đầu tư nước ngoài lớn. Trong năm 2007 đã có 20, 3 tỷ USD FDI đăng ký vào Việt Nam, tăng xấp xỉ 70% so với năm 2006, cao nhất từ trước đến nay. Vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam cũng đã lên trên 5, 4 tỷ USD, tăng hơn 20% so với năm 2006. Năm 2007 cũng là năm đầu tiên việc giải ngân ODA vượt kế hoạch với gần 2 tỷ USD, tăng 10% so với năm trước. _ Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 ước đạt 48. 387 tỷ USD, vượt 3, 4% kế hoạch và tăng 21, 5% so trước. _ Không chỉ có nguồn vốn ngân sách nhà nước tăng lên mà nguồn vốn huy động từ xã hội cho đầu tư phát triển cũng rất khả quan. Năm 2007 khoảng 462, 2 nghìn tỷ đồng, bằng 40, 5% GDP, tăng 15, 9% so với năm 2006; trong đó nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân chiếm 34, 4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng 19, 5% so với năm 2006. _ Đẩy mạnh sự cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam với hàng hóa của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển _ Năm 2007, Việt Nam được bầu vào vị trí Ủy Viên không thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc nhiệm kì 2008 - 2009 với số phiếu rất cao. 3. 2. Mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam Thông qua những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được kể từ khi thực hiện đổi mới, có thể thấy phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lí của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa thực sự là đường lối, sách lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến bộ vượt bậc, vượt xa rất nhiều so với những năm trước đây. Tuy nhiên, sự phát triển đó cũng gắn liền với rất nhiều những mâu thuẫn mới nảy sinh, kìm hãm nó. Nhận thức được đúng đắn những mâu thuẫn đó là một yêu cầu bức thiết, đặt ra thường xuyên không chỉ đối với riêng Đảng và Nhà nước ta mà còn đối với những người đã, đang và sẽ tham gia vào những hoạt động kinh tế. Những mâu thuẫn đó là: 3. 2. 1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ổn định phát triển nền kinh tế với tình trạng trì trệ của nền kinh tế Kinh tế nước ta đang tụt hậu khá xa so với nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực. Nước ta đang ở giai đoạn đầu của việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nền kinh tế chưa phát triển, xuất phát điểm còn thấp: là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề…sản xuất hàng hóa còn mang năng tính tự cung tự cấp. Trừ một số cơ sở công nghiệp mới xây dựng, cơ sở vật chất kĩ thuật còn ở trình độ thấp, ở nhiều ngành kinh tế máy móc còn cũ kĩ, công nghệ lạc hậu. Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2 – 3 thế hệ. Sự thiếu đồng bộ giữa các ngành và trong từng ngành còn phổ biến. Sự phân bố cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền kinh tế chưa đồng đều giữa các vùng. Các cơ sở kinh tế lớn tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và phụ cận, ở Đông Nam Bộ, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh. Ở các vùng này, kết cấu hạ tầng phát triển hơn hẳn các vùng còn lại của đất nước. Trong lúc đó, cả một vùng rộng lớn của Tây Bắc, Tây Nguyên, cơ sở vật chất – kỹ thuật và kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội còn rất hạn chế. Kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp. Hơn nữa phân công lao động còn kém phát triển, lao động nông nghiệp vẫn là chủ yếu, lao động thủ công chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội, trong khi đó lao động ở các ngành dịch vụ và công nghệ cao còn ít, trình độ của người lao động chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Do đó năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Kết cấu hạ tầng như đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống điện…còn lạc hậu, kém phát triển. Tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông VN có qui mô nhỏ bé, hầu hết chưa đạt cấp kỹ thuật, chưa tạo được sự kết nối liên hoàn. Mạng đường đô thị ở các thành phố lớn chưa được qui hoạch kết nối với mạng giao thông chung của quốc gia, còn thiếu cảng nước sâu và đường cao tốc đủ tiêu chuẩn. So với các nước tiên tiến trong khu vực, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của VN còn ở mức dưới trung bình. Mật độ đường giao thông / km bằng 1% với mức trung bình của thế giới. Đặc biệt ở nông thôn, kết cấu cơ sở hạ tầng đã được hình thành và phát triển từ rất lâu như: hệ thống đê điều, giao thông đường thủy, đường bộ, hệ thống cảng, chợ, các trung tâm thương mại, kho tàng. . . . có tốc độ phát triển rất chậm, khó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn và hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Hệ thống kết cấu hạ tầng chuyên dùng cho thương mại kém phát triển, vẫn còn trên 4000 xã chưa có chợ, chưa hình thành được các trung tâm thương mại, dịch vụ nông thôn, thiếu hệ thống kho lạnh, xe lạnh, cầu, cảng. . . Đầu tư mới chú ý ở khâu sản xuất, chưa chú ý đến đầu tư ra sản phẩm (như đầu tư cho lưu thông hàng hoá, tìm kiếm, mở rộng thị trường. . . . )Hệ thống kho bãi xuống cấp nghiêm trọng do một thời gian dài không sử dụng hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao sau thu hoạch. Từ khi hệ thống hợp tác xã tan rã, mạng lưới bán lẻ được hình thành một cách tự phát và trên thực tế để cho tư thương khống chế. Chính vì vậy, hệ thống cửa hàng bán lẻ, các dịch vụ phân phối đều manh mún và lạc hậu, không được đầu tư hiện đại hoá một cách thích đáng làm cho văn minh thương mại nông thôn chậm tiến bộ. Sự phát triển thiếu đồng bộ của hệ thống hạ tầng thương mại nông thôn làm cản trở quá trình phát triển kinh tế hàng hoá và quá trình tự do hoá thị trường nội địa. 3. 2. 2 Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường * Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu khác nhau :sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu toàn dân. Còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên mà phải kiên trì thuyết phục, giáo dục tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hóa hai hình thức sở hữu. Qua những năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ta đã thấy được tính đúng đắn của chính sách đa dạng hóa các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tế đã chứng minh một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm nhiều hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể và sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức này khái quát lại chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hịnh thức khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. Ở đây, mỗi hình thức lại có nhiều phương thức biểu hiện về trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tùy theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lí. Về sở hữu toàn dân :trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu Nhà nước. Nền kinh tế nhiều thành phần thì đương nhiên nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho Nhà nước và nhân dân. Nhà nước quản lí kinh tế với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu của toàn dân. Ở nước ta hiện nay, như hiến pháp và luật đất đai đã quy định rõ :” đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng khi xét trên cả hai phương diện, có thể nói đất đai không thuộc quyền sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng đất đai là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất, bởi thế dù là trong nền kinh tế hàng hóa nó vẫn phải vận động theo quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của quy luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng. Về sở hữu Nhà nước : trong thời kì bao cấp trước đây không chỉ có nước ta mà còn có những nước khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà trong thời gian khá lâu, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt đến sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh mà chúng ta ra sức quốc doanh nó với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành sở hữu không phải của một chủ thể cụ thể nào cả. Về sở hữu tập thể: ở nước ta hiện nay chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (HTX), gồm cả HTX nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp với nội dung là cả giá trị sử dụng và giá trị đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy với hình thức sở hữu này, quyền mua bán, hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông hàng hóa ở nước ta diễn ra rất phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất còn rất hạn chế, xong đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự nhập nhằng với quyền sở hữu Nhà nước và quyền sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. * Về các thành phần kinh tế hiện nay :Thành phần kinh tế quốc doanh đã nhiều năm tồn tại trong chế độ bao cấp, chưa kịp chuyển sang cơ chế mới, độ nhạy cảm với thị trường còn thấp. Không ít các xí nghiệp quốc doanh trì trệ, bế tắc, không đứng vững trong cơ chế mới, đây cũng là mảnh đất cho các hiện tượng tiêu cực nảy sinh và phát triển. Thành phần kinh tế tập thể giảm đi nhanh chóng cả trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp, lĩnh vực lưu thông. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy có phát triển nhưng mới chỉ tập trung vào các ngành không cần vốn lớn, thu lợi nhanh như dịch vụ ăn uống, khách sạn, thương nghiệp. Các thành phần kinh tế này chưa thực sự bình đẳng trong cạnh tranh. Do còn có sự can thiệp về hành chính của cơ quan nhà nước, nhất là các thủ tục hành chính nên họ thường chú trọng đến việc tranh thủ các cơ quan, viên chức nhà nước để có những lợi thế trong cạnh tranh và thu nguồn lợi không từ sản xuất, kinh doanh. 3. 2. 3 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với giái quyết các vấn đề xã hội * Mâu thuẫn với mục tiêu phát triển con người xã hội chủ nghĩa Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, vậy nên yếu tố con người giữ vai trò cực kì quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Mục tiêu của CNXH là xây dựng con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức. Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa và tiền tệ trên thị trường. Trong kiểu kinh tế này, các quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà nền kinh tế nước ta đã tụt hậu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc27435.doc
Tài liệu liên quan