Mâu thuẫn biện chứng & sự vận dụng nó trong quá trình chuyển sang Kinh tế thị trường ở Việt Nam

Lời mở đầu Cùng với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào cuối những năm của thập kỷ 70 và đầu những năm của thập kỷ 80 khi mà sự khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam đã lên đến đỉnh điểm. Trước tình hình này Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mà điểm mốc là Đại hội Đảng VI năm 1986. Nền kinh tế thị trường tuy là một nền kinh tế phát tr

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng & sự vận dụng nó trong quá trình chuyển sang Kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển nhất cho đến nay với rất nhiều mặt ưu điểm. Tuy nhiên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nước ta không thể tránh khỏi được những khó khăn. Theo quan điểm Triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của những mặt đối lập. Do vậy, nền kinh tế thị trường Việt Nam cũng phát sinh trong lòng nó những mâu thuẫn. Trước hết đó là mâu thuẫn của sự ra đời có chế mới và sự tồn tại của cơ chế cũ, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị, pháp lý, quan điểm, tư tưởng. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa Tư bản) với định hướng xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa các mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường... Những mâu thuẫn này đang từng ngày, từng giờ xảy ra trong nền kinh tế thị trường. Việc nhận thức rõ những mâu thuẫn này và giải quyết chúng có vai trò vô cùng cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với Đảng và Nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, bằng những kiến thức đã tiếp thu được trong học kỳ vừa qua, em đã chọn đề tài: Mâu thuẫn biện chứng và sự vận dụng nó trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam". Do trình độ, kiến thức còn có nhiều hạn chế chắc chắn bài viết của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong thầy cô và các bạn góp ý để kiến thức của em về vấn đề này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Phần I. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật về mâu thuẫn. 1. Khái quát về lịch sử các tư tưởng triết học về mâu thuẫn và các mặt đối lập. Trải qua các quá trình phát triển của những hình thái khác nhau và các quá trình phát triển cao của các tư tưởng triết học nhân loại các quan niệm khác nhau về mâu thuẫn cũng thay đổi. Mỗi thời đại, mỗi trường phái lại có những lý giải khác nhau về mâu thuẫn, về những mặt đối lập, vì triết học luôn xuất phát từ những bối cảnh lịch sử nhất định.Thứ nhất là triết học thời cổ đại mà điển hình là 3 nền triết học lớn đó là Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp. Triết học Trung Hoa đã xuất hiện rất lâu vào cuối thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên. Tuy nhiên phải đến cuối đời Xuân Thu - Chiến quốc, các hệ thống triết học lớn của Trung Quốc mới xuất hiện. Những quan điểm biện chứng về mâu thuẫn thời kỳ này đã xuất hiện tuy còn sơ khai. Ví dụ như trường phái Âm - Dương, Phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập được gọi là sự thống nhất của Âm - Dương. Âm - Dương là đối lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của nhau. Hơn nữa cái nguyên lý ấy còn được giải thích theo nguyên tắc của luật phi bài trung. Quy luật này thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong cái mặt đối lập kia - ít nhất cũng ở trạng thái tiềm năng sinh thành. Sang đến phái Đạo Gia mà người sáng lập là Lão Tử, ông cũng có những tư tưởng biện chứng độc đáo về sự thống nhất biện chứng của mặt đối lập này bao hàm khả năng của mặt đối lập. Ông nói “ Có và không tương sinh lẫn nhau, dễ và khó tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và sau theo nhau”. Tất cả trong đó, mỗi mặt đều trong quan hệ với mặt đối lập, không có mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng cũng chỉ là tương đối “ ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đó sinh ra quan niệm về cái xấu, ai cũng cho điều thiện là thiện mà sinh ra quan niệm về cái ác. Triết học ấn Độ thì đưa ra phạm trù “vô ngả” “vô thường” (của trường phái Phật Quốc). “Một tồn tại“ nào đó chẳng phải là nó mà là “tổng hợp “hội họp của những cái không phải là nó mà nhờ hội đủ nhân - duyên. Trong cái “Một“ đã bao hàm cái “Đa“, cái nhiều. Không có tồn tại nào là biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác. Tất cả đều duy nhiếp nhau, và hoà đồng với nhau. Nhưng đã như vậy thì tất yếu phải đi tới một khẳng định về lẽ vô thường. Vô thường là chẳng “thường hằng“. Thường hằng là bất biến; Chẳng bất biến tức là biến, biến tức là biến động. Sinh - biến, biến - sinh; có có - không không, nay có - mai không... tất cẩ đều trong quy luật nhất định. Có thể nói cùng với sự phát triển của các hình thức kinh tế - xã hội các tư tưởng Triết học về mâu thuẫn cũng ngày càng ró nét. Heraclit - nhà triết học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ đầu của nó thì phỏng đoán rằng mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật của Thế giới. Theo ông, các mặt đối lập gắn bó, quy định, ràng buộc với nhau: “cái lạnh nóng lên, cái nóng lạnh đi” “Cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn”... Heraclit còn khẳng định vũ trụ là một thể thống nhất nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các lực lượng đối lập, nhờ vậy vũ trụ tồn tại và vận động. ‘Sống là chết, chết là sống, chúng sống là nhờ cái chết và chúng chết là cho cái sống”. Vì thế đấu tranh là ‘cha đẻ của tất cả, là ông hoàng của tất cả”. Trải qua hơn một ngàn năm đêm dài trung cổ, nền triết học thời kỳ này chủ yếu là triết học linh viện tập trung vào cái chung và cái riêng. Sang đến triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cùng với những thành tựu về khoa học tự nhiên thì sự đấu tranh giữa triết học duy tâm và duy vật cũng diễn ra hết sức gay gắt. Nhưng các quan điểm của thời kỳ này vẫn rơi nhiều vào siêu hình máy móc. Sang đến triết học cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư tưởng triết học tiến bộ, cách mạng và khoa học. Triết học cổ điển Đức đã đạt tới trình độ khái quát và tư duy trìu tượng rất cao với những hệ thống kết cấu chặt chẽ ao với những hệ thống kết cấu chặt chẽ, thể hiện một trình độ tư duy tài biện thâm cao vượt xa tính trực quan siêu hình của nền triết học Anh - Pháp ở thế kỷ XVII - XVIII, do vậy các tư tưởng triết học về mâu thuẫn đã có những bước tiến đáng kể. Đại biểu đặc trưng của triết học cổ điển Đức là Heghen. Mặc dù là nhà triết học duy tâm nhưng học thuyết về bản chất và tư tưởng của Heghen về mâu thuẫn lại hết sức biện chứng. Đây là một trong những học thuyết giá trị nhất của ông. Ông coi mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động, là nguyên lý của sự phát triển. Theo ông, lúc đầu bản chất là sự đồng nhất giữa những “tính quy định” rồi trong sụ đồng nhất ấy bộc lộ ra những khác biệt, rồi khác biệt lại chuyển thành những mặt đối lập và cuối cùng xuất hiện mâu thuẫn. Song theo ông mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn của “ý niệm tuyệt đối” chứ không phải của thế giới vật chất. Hêghen cũng đưa ra tư tưởng cho rằng hiện tượng và bản chất thống nhất với nhau, bản chất thể hiện ra trong hiện tượng và hiện tượng là thể hiện của bản chất. Hêghen cùng phân tích một cách biện chứng khái niệm hiện thực, coi hiện thực là thống nhất giữa bản chất với tồn tại. ông phê phán quan điểm siêu hình về tất nhiên và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực... Song song với những quan điểm biện chứng về mâu thuẫn, trong lịch sử triết học cũng xuất hiện sự đấu tranh gay gắt giữa các quan điểm này với các quan điểm siêu hình của những nhà siêu hình học, họ phủ nhận mâu thuẫn bên trong của các sự vật và hiện tượng. Theo họ sự vật là một cái gì đồng nhất, thuần tuý, không có mâu thuẫn trong bản thân nó. Tư duy của người ta về sự vật có thể còn mâu thuẫn, song như vậy thì tư duy đó sai lầm, không đáng tin cậy. Những người theo quan điểm siêu hình chỉ thừa nhận có những sự đối kháng, sự xung đột giữa các sự vật và hiện tượng với nhau, nhưng không cho đó là quy luật. 2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn. Triết học cổ điển Đức đã tạo tiêu đề cơ sở lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Nó là sự kết tinh những giá trị cao quý của tư duy triết học, văn hoá, lịch sử nhân loại. Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử, phù hợp với những tiền đề kinh tế - xã hội cũng như các tiền đề về lý luận và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Phương pháp tư duy siêu hình từng thống trị trong khoa học và trong triết học duy vật đã bị những phát minh mới nhất nửa đầu thế kỷ thứ XIX, giáng một đòn mạnh mẽ. Nhận thức duy vật biện chứng về mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác là nhận thức đúng đắn nhất nó đã phát triển thành một quy luật - Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - là một trong những hạt nhân của phép biện chứng. Lê Nin viết “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm” Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật và hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng lại liên hệ rằng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tượng khách quan mà còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi và sự vật hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy của con người. Chằng những mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật, hiện tượng mà còn tồn tại phổ biến trong suốt quá trình phát triển của chúng. Không có sự vật nào, hiện tượng nào lại không có mâu thuẫn và không có giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi, thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Để chứng minh tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn. Ăng-ghen chỉ ra rằng, ngay hình thức vận động đơn giản nhất của vật chất - vận động cơ học, đã là một mâu thuẫn. Sở dĩ sự di động một cách máy móc và đơn giản ấy có thể thực hiện được chỉ là vì một vật trong cùng một lúc vừa là ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa là ở trong cùng một chỗ duy nhất lại vừa không ở chỗ đó. Tất nhiên sự tồn tại của vật chất ở những hình thức vận động cao hơn lại càng bao hàm mâu thuẫn. Ăng-ghen viết “Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng những mâu thuẫn, như vậy... Sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại vừa là một cái khác. Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, tự đề ra và tự giải quyết không ngừng, và khi mâu thuẫn đã hết thì sự sống cũng không còn nữa vì cái chết đã xảy đến. Cũng như chúng ta đã thấy rằng trong lĩnh vực tư duy cũng vậy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng hạn như mỗi mâu thuẫn giữa năng khiếu nhận thực vô tận ở bên trong của con người với sự tồn tại thực tế của năng khiếu ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng khiếu nhận thức, mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chúng ta, thực tế cũng là vô tận, và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận. * Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Để hiểu được nội dung quy luật, trước hết cần nắm được khái niệm “mặt đối lập”. Không nên hiểu khái niệm này một cách thô sơ, đơn giản theo kiểu không có sống thì không có chết, chẳng có trên thì cũng chẳng có dưới, có thuận lợi mới có khó khăn... Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng... trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên một sự vật hiện tượng. Cũng không nên nhầm lẫn mặt đối lập với mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập, nhưng không phải bất kỳ mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ những mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó mặt đối lập vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau. Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau. Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có ý nghĩa là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau và quy định nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại của mình. Ví dụ: trong sinh vật, hai mặt đối lập đồng hoá và dị hoá thống nhất với nhau, nếu chỉ là một quá trình thì sinh vật sẽ chết. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách là một giai cấp bán sức lao động cho nhà tư bản, thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư... Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn còn gọi là “đồng nhất”. Vì vậy “đồng nhất” và “thống nhất” trong trường hợp này là đồng nghĩa với nhau. Lê Nin viết “sự đồng nhất của mặt đối lập (“sự thống nhất”của chúng, nói như vậy có lẽ đúng hơn, tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất không quan trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó, cả hai đều đúng), đó là sự thừa nhận (sự tìm ra) những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau, đối lập, trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên (kể cả tinh thần và xã hội) Song, khái niệm “đồng nhất” còn có một nghĩa khác dó là sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mâu thuẫn. Trong trường hợp này, ”đồng nhất” không đồng nghĩa với khái niệm thống nhất nói trên. Lê-nin viết: “Phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thường là trở thành) đồng nhất,- trong những điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hoá lẫn nhau - tại sao lý trí con người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là sinh động, có điều kiện, năng động, chuyển hoá lẫn nhau”. Như vậy, theo quan điểm của phép biện chứng, sự đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật vưa là bản thân nó, vừa là một cái khác với bản thân nó. Trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, sự đối lập. Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình. Những người theo quan điểm siêu hình hiểu sự đồng nhất một cách phiến diện, cứng đờ, sự vật là một cài gì đồng nhất thuần tuý, không có đối lập, không chuyển hoá. Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì, đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập này không nằm yên bên nhau, mà chúng luôn đấu tranh với nhau. Khái niệm “đấu tranh” trong quy luật mâu thuẫn, được Lê - Nin đặt trong dấu ngoặc kép, vì vậy không nên hiểu khái niệm “đấu tranh” theo một nghĩa đơn giản. Khái niệm “đấu tranh” giữa các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ nhau, phủ định nhau. Sự bài trừ nhau, phủ định nhau trong thế giới vật chất được thể hiện dưới các dạng rất khác nhau. Ví dụ: Sự đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản được diễn ra dưới dạng xung đột với nhau về mọi mặt rất gay gắt và quyết liệt chỉ có thể thông qua cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết được mâu thuẫn một cách cơ bản. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập đồng hoá và dị hoá, sức hút và sức đẩy, vi phân và tích phân... thì lại diễn ra dưới tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, vv Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra từng giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt. Song, không phải bất cứ sự khác nhau nào của các mặt cũng là mâu thuẫn. Chỉ có hai mặt khác nhau nào liên hệ hứu cơ với nhau trong một chỉnh thể và có khuynh hướng phát triển ngược nhau thì mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn sự khác nhau đó biến thành sự đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoà lẫn nhau, thì mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũng bị phá huỷ, sự thống nhất của hai mặt đối lập được hình thành cùng với mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn mới này lại triển khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện làm cho sự vật mới thay thế sự vật cũ. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập đã làm cho các sự vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc,là động lực bên trong của động lực và phát triển. Với ý nghĩa đó Lê Nin viết “ phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời, tương đối, nghĩa là tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của các sự vật và hiện tượng. Còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về vật chất của các sự vật và hiện tuợng. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với sự tự thân vận động, tự thân phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật và hiện tượng trong thế giới vật chất. Về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lê Nin viết “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”. * Sự chuyển hoá của các mặt đối lập: Về sự chuyển hoá của các mặt đối lập, Lê Nin viết “không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập mà còn là những chuyển hoá của mỗi quy định, chất, đặc trưng, mặt, thuộc tính sang mỗi cái khác (sang cái đối lập với nó)”. Do đó, ta không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập một cách đơn giản, máy móc, chỉ căn cứ vào hình thức bên ngoài, chỉ nói về sự chuyển hoá của chúng. Sự vật và hiện tượng trong thế giới là muôn hình muôn vẻ, nên sự chuyển hoá của các mặt đối lập là rất khác nhau. Ăngghen đã khái quát rằng, những mặt đối lập của mâu thuẫn “thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hoá cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, hoặc lên những hình thức cao hơn đã quy định sự sống của giới tụ nhiên” Như vậy, phải căn cứ vào từng sự vật mà phân tích sự chuyển hoá của các mặt đối lập. ý kiến của Ăng ghen có nghĩa là hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau hoặc cả hai chuyển thành những chất mới. Phần II Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 1. Thực chất của bước chuyển đổi cơ chế trong nền kinh tế ở Việt Nam. Trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ nền kinh tế nàyđã phát huy tác dụng bằng việc huy động sức người, sức của, toàn dân đồng lòng tập trung cho kháng chiến. Sau năm 1975 thống nhất đất nước, Việt Nam vẫn duy trì nền kinh tế chỉ huy trước đây. Do các quan hệ kinh tế lúc này đã thay đổi nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ đã làm xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Những hậu quả xấu như tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả do sự quản lý không có hiệu quả. Đến đầu và giữa những năm 80 thì những mâu thuẫn trong nền kinh tế này đã đi đến điểm đỉnh như sản xuất đình đốn, lạm phát tăng cao làm cho đời sống nhân dân giảm sút. Đó là do những đặc điểm cơ bản sau: Một là: Thực hiện chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: Công hữu và tập thể. Trên một quy mô lớn, trong điều kiện chưa cho phép nó dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực khan hiếm của đất nước. Hai là: Nền kinh tế theo kế hoạch hoá tập trung từ trên xuống theo pháp lệnh không gắn chặt người lao động với tư liệu sản xuất và sản phẩm mà họ làm ra. Việc sản suất tốt hay xấu không liên quan tới quyền lợi của người lao động. Bởi vậy họ không quan tâm đến sản xuất, không kích thích được tính sáng tạo của người lao động, không có động lực để sản xuất phát triển. Vì sản xuất và tiêu thụ theo mệnh lệnh của cấp trên nên các cơ sở kinh doanh, người lao động không tích cực nghiên cứu và áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật, công nghệ. Bởi vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế đã lạc hậu lại càng lạc hậu hơn. Ba là: Coi thường quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả quản lý kinh tế, quản lý kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp pháp và giao nộp sản phẩm quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới 2 hình thức: bao cấp qua giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. Bốn là: Bộ máy quản lý cồng kềnh có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ không có năng lực quản lý, không có nghiệp vụ kinh doanh nhưng có phong cách hống hách cửa quyền. Trước sự suy thái kinh tế nghiêm trọng và cùng với xu thế phát triển của thế giới không còn sự viện trợ của các nước Đông Âu và Liên Xô đã dẫn đến sự bức bách phải thay đổi nền kinh tế của nước ta. Lần lượt qua các đại hội Đảng VI và VII đã xác định dưới góc độ khoa học, việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta và xu thế chung của thời đại. Trước hết, ta có thể định nghĩa khái quát nền kinh tế thị trường là: tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động với sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. * Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường: Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn người bán. Nguời bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên. Ba là: Giá cả dược hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả, còn doanh lợi càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được cả lợi ích của người mua lẫn lợi ích của người bán. Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó muốn có nhiều lợi nhuận của các đơn vị sản xuất kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao dộng cá nhân để tăng lợi nhuận siêu ngạch. Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Trong cơ chế thị trường nhà nước tác động vào nền kinh tế không bằng hệ thống pháp lệnh mà bằng một hệ thống công cụ và luật pháp như - Kế hoạch hoá định hướng là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế (trong đó các quy luật của thị truờng để xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội. - Kế hoạch hoá không phải chỉ là giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án. Kế hoạch hoá là công cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung đường lối, chính sách. - Quảnl ý kinh tế vĩ mô bằng pháp luật: Pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng trong quản lý kinh tế, tạo ra hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế từ viêc xác lập quyền sở hữu tư liệu sản xuất, đến việc bỏ vốn đầu tư sản xuất - kinh doanh và điều tiết thu nhập. Nó thiết lập một trật tự quản lý đủ sức báo quá, điều chỉnh mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, thúc đẩy sản xuất, khắc phục mọi tình trạng lừa đảo, trốn thuế, chiếm dụng vốn, lạm dụng chức quyền... - Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế: giúp nhà nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp, có thể nói mỗi chính sách là một hành lang dẫn hoạt động đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, hướng dẫn các doanh nghiệp hành động một cách phù hợp với lợi ích toàn xã hội 2. Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới. Như ta đã biết nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang còn trong giai đoạn sơ khai, trình độ quản lý tiếp cận đối với nền kinh tế thị trường còn yếu, hệ thống các bộ chưa có kinh nghiệm về nền kinh tế thị trường, do vậy khó có thể tránh khỏi những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, thể hiện ở một số mâu thuẫn đặc trưng sau: a. Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới Trải qua một thời gian dài nền kinh tế được điều khiển bằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế hoạt động theo mệnh lệnh bắt buộc... đã tạo nên một phong cách làm việc trì trệ, thiếu trách nhiệm, sản xuất đình đốn. Chính vì vậy khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế mở đã khiến nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn. Các hoạt động kinh tế vẫn còn mang nặng tính tập trung quan liêu bao cấp. Các hoạt động thông qua các cơ quan trung gian nhà nước cón rất đẫy đà, thủ tục phiền hà gây tốn thời gian vô ích, cán bộ thì quan liêu cửa quyền dẫn đến hạn chế sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất của các cơ quan nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường không bắt kịp nhịp độ sản xuất do máy móc cũ kỹ lạc hậu, cán bộ thì trình độ quản lý kém quen với cơ chế giao nộp, không quan tâm đến chất lượng sản phẩm ị Sản phẩm kém cạnh tranh không so sánh được các hàng hoá nhập ngoại và các xí nghiệp liên doanh ị Sự sụp đổ, phá sản của các công ty này như nhà máy đệt Nam Định, niềm tự hào của ngành công nghiệp tiêu dùng nước ta thời bao cấp. Mặt khác nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã tạo nên cho con người một thói quen rề rà trong công việc, sản xuất kém nhạy bén năng động ị khi chuyển sang nền kinh tế thị trường những con người này vẫn giữ phong cách cũ ị cản trở sản xuất. Các chính sách của nhà nước vẫn chưa dựa hẳn trên các quy luật của thị trường. Chính vì vậy đã tạo nên những cản trợ cho nền kinh tế. Nhà nước vẫn giữ độc quyền trong một số ngành như điện, nước, bưu chính viễn thông... Chúng ta đang ở những bước đầu của quá trình quá độ lên nền kinh tế thị trường đây chính là lúc đấu tranh giữa các mặt đối lập để tạo sự phát triển vững mạnh cho nền kinh tế. b. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị, pháp lý quan điểm, tư tưởng. Ta có cơ sở hạ tầng là toàn bộ nhưng quan hệ sản xuất lập thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng nào thì sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Khi chuyển đổi nền kinh tế thì nước ta sang nền kinh tế thị trường có nghĩa là đã thay đổi cơ sỏ hạ tầng của nền kinh tế, nhưng kiến trúc thượng tầng chưa thay đổi kịp. Kinh tế thị trường với đầy sự khó khăn đặt ra phải đổi mới về chính trị, tìm ra đường lối mới, chính sách mới và ngay cả đối với các tổ chức chính trị, các quan điểm thường ngày. Trong các mối quan hệ quốc tế, đội ngũ lãnh đạo ta còn cứng nhắc. Mặt khác cạnh tranh trên thị trường vẫn chưa đảm bảo được khía cạnh tự do, hoàn hảo. Mâu thuẫn này đòi hỏi phải giải quyết một cách ổn thoả mới tạo được điều kiện cho nền kinh tế phát triển lành mạnh và vững chắc. c. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường vốn là cái nôi để nay sinh ra chủ nghĩa tư bản. Việc chạy theo lợi nhuận của các công ty gây ra những hậu quả nghiêm trọng, cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến sự thôn tính của các công ty lớn với các công ty nhỏ hơn với các thủ đoạn. Nó rất dễ làm thay đổi mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế. Quyền lực của nhà nước rất dễ bị lấn át, lũng đoạn bởi các tập đoàn tài chính, những công ty lớn hùng mạnh. Để giữ vững được việc kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa tức là xã hội không có sự bóc lột, không có sự phân hoá giàu nghèo và mọi người bình đẳng với nhau... đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý tích cực của Nhà nước, tính tự giác cao của các chủ thể trong nền kinh tế, khắc phục sự chênh lệch quá đáng giữa các tầng lớp dân cư, quá trình phân phối lần đầu. d. Mâu thuẫn giữa mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường có tính hai mặt của nó là tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực: Cơ chế thị trường có khả năng tự điều tiết sản xuất xã hội, tức là tự động phân bố các nguồn tài nguyên sản xuất vào các khu vực, các ngành kinh tế mà không có bất cứ sự điều tiết từ trung tâm nào. Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Trong giai đoạn đầu của sự phát trirển kinh tế thị trường đã phân hoá những ngưòi sản xuất thành những người sản xuất và nhứng người quản lý. Khi phát triển hơn, nền kinh tế thị trường tiếp tục phân hoá và chuyên môn hoá các nhà kinh doanh vào các ngành, các lĩnh vực cụ thể mà họ có ưu thế nhất. Người tiêu dùng quyết định việc sản xuất loại hàng hoá gì, khối lượng bao nhiêu. Sản xuất bằng phương thức nào được quyết định bởi sự cạnh tranh giữa những người sản xuất. Mặt tiêu cực: Bên cạnh những ưu điểm, nền kinh tế thị trường cũng chứa đựng rất nhiều khuyết tật, nó không phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Các khuyết tật của nó rất nhiều và đặc biệt có những mục tiêu xã hội mà cơ chế thị trường có hoạt động tốt nhất cũng không thể đạt được. Mục đích của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0155.doc
Tài liệu liên quan